CÂU CHUYỆN TÌNH BÁO 319
(ĐC sưu tầm trên NET)
Pham Xuan An - Mot nguoi yeu nuoc
William Fisher - Nhà tình báo “siêu đẳng”
Ninh Công Khoát |
Xây dựng được một mạng lưới tình báo rộng khắp, thu được hàng trăm tài liệu bí mật của CIA và những nghiên cứu về bom nguyên tử , tàu ngầm, máy bay phản lực của Mỹ - đây chỉ là một phần công trạng của điệp viên William Fisher, mà trong một thời gian dài ông đã ẩn náu dưới cái tên Rudolph Abel.
Người biến điệp viên Liên Xô thành công dân Mỹ Siêu điệp viên Liên Xô Gordon Lonsdale Điệp viên Liên Xô bị thất sủng
Vào giữa tháng 10 năm 1957, phiên tòa xét xử Rudolph Abel bắt đầu trong tòa nhà của Tòa án Liên bang Quận Đông New York. Ông bị buộc tội làm gián điệp cho Liên Xô (cũ). Người điệp viên có thể bị tử hình trên ghế điện hoặc tù chung thân. Nhưng ngay trước khi xử, các cơ quan tình báo Mỹ đã bỏ lọt bằng chứng chính.
Khi cảnh sát đột nhập vào khách sạn “Latam”, nơi điệp viên đang có trong tay bức điện mật vừa nhận được từ Liên Xô, điệp viên đã nhanh chóng tuyên bố rằng, anh đang chuẩn bị viết đơn khiếu nại cảnh sát về việc đối xử tệ bạc. Cảnh sát không tìm thấy lý do từ chối và thậm chí còn đưa cho điệp viên một cây bút chì. Anh lấy một con dao, bình tĩnh gọt bút chì trên bức điện mật, và vò nát tờ giấy trước mặt cảnh sát rồi ném nó vào sọt rác.
Người
Mỹ đã sớm nhận ra rằng người bị giam giữ là một sĩ quan tình báo chuyên
nghiệp hàng đầu. Bất chấp áp lực, ông phủ nhận mình thuộc về cơ quan
tình báo của Liên Xô. Ông từ chối cung cấp những chứng cứ và bác bỏ ý đồ
của các cơ quan tình báo Mỹ về việc tuyển lại chính mình. Điều duy nhất
bị cáo nói trong khi thẩm vấn về tên của mình là Rudolph Abel. Nhưng đó
là tên giả.
Trên thực tế, người đang ngồi trước cảnh sát Mỹ là William Fisher. Người Mỹ thậm chí không nhận ra một phần mười những gì mà người sĩ quan tình báo Liên Xô thực sự đã làm ngay trước mặt họ.
William Fisher sinh ngày 11 tháng 7 năm 1903 tại thành phố Newcastle trên sông Tyne của vương quốc Anh. Cha mẹ ông - ông Heinrich Fisher, gốc Đức và bà Lyubov Korneeva, gốc Nga - là những nhà cách mạng lão thành. Vào đầu thế kỷ 20, cặp vợ chồng Heinrich Fisher buộc phải rời khỏi nước Anh vì lý do chính trị. Họ được nước Nga đón nhận, nơi có cuộc cách mạng mà họ tham gia chuẩn bị.
Con đường hoạt động tình báo
Tại Moscow, William - người con trai của ông bà Heinrich Fisher khi phục vụ trong Hồng quân đã chuyên cần học tập và trở thành một hiệu thính viên vô tuyến điện loại giỏi. Khi William quyết định tiếp tục phục vụ trong Tổng cục Chính trị Quốc gia hợp nhất (Tổ chức tiền thân của Ủy ban ANQG Liên Xô), thì nghề hiệu thính viên đã trở thành chuyên môn chính của William Fisher.
Vào những năm 1930, William Fisher đã gặp Rudolf Abel, cũng là hiệu thính viên trong cơ quan An ninh Quốc gia. Họ đã trở thành những người bạn rất thân thiết. Trong một thời gian, cả hai sống trong căn hộ của William Fisher ở Moscow. Hai người giống nhau đến mức những người xung quanh khi chào hỏi họ, thường hay gọi nhầm tên giữa hai người.
Con đường của tình báo của William Fisher bắt đầu từ năm 1931. Anh được gửi về nước Anh với câu chuyện bịa đặt như sau: theo lệnh của người cha nghiêm khắc và chống lại ý chí của mình, một công dân nước Anh đang sống ở Liên Xô đã tìm được cơ hội để trở về quê hương.
William
Fisher và vợ định cư gần như ở trung tâm London. Trong vai một người
mới hồi hương, ông đã mở một xưởng vô tuyến điện, còn vợ bắt đầu dạy múa
ballet. Dưới vỏ bọc là một người đàn ông của gia đình, William Fisher
làm việc cho tình báo Liên Xô, không chỉ ở Anh, mà còn ở các nước châu
Âu khác.
Từ năm 1941, William Fischer đã đào tạo các hiệu thính viên vô tuyến điện cho các đội du kích và các nhóm tình báo. Tiến xa hơn là thẩm vấn các sĩ quan Đức bị bắt và thậm chí còn đích thân làm việc ở hậu phương của kẻ thù.
Tham gia cuộc Chiến tranh vệ quốc vĩ đại
Trong Chiến tranh Vệ quốc, William Fisher được giao phụ trách một đơn vị tình báo vô tuyến điện và đóng vai trò chủ chốt trong chiến dịch tình báo Berezino, một trong những chiến dịch tình báo hay nhất trong lịch sử chiến tranh.
Dưới sự chỉ huy của William Fisher, điệp viên hai mang Serhorn đánh điện báo cáo với cơ quan tình báo Đức Quốc xã rằng, một đơn vị Đức do Trung tá Heinrich Serhorn chỉ huy bị "mắc kẹt" trong khu vực hậu phương của Hồng quân. Mặc dù bị bao vây tứ phía nhưng vẫn tiếp tục chiến đấu chống lại các đơn vị quân đội Xôviết.
Trên thực tế, đội quân này không còn tồn tại. Trước đó, nó đã bị xóa sổ và hầu hết bị bắt làm tù binh, bản thân Serhorn bị chiêu mộ và cùng tham gia trò chơi điện đài dưới sự chỉ đạo của William Fisher.
Bị mắc mưu, phía Đức liên tục gửi các chuyên gia phá hoại, trang thiết bị và kể cả các điệp viên đến cho “đội quân ma”.
Tổng
cộng có 67 chuyến bay tiếp tế, 13 điện đài xách tay và khoảng 10 triệu
rouble tiền mặt được gửi cho Serhorn và tất cả đều lọt vào tay đội quân
phản gián Liên Xô. Một số máy bay do Đức gửi tới tiếp tế còn được phép
hạ cánh để chuyển hàng, sau đó cất cánh quay về để tiếp tục kéo dài trò
chơi.
Thậm chí, Hitler còn định gửi viên tùy tùng thân tín, Tướng Otto Scorzeny - chỉ huy nhóm hành động phá hoại đã từng cứu trùm phát xít Mussolini, đến tiếp viện cho “đội quân” của Serhorn. Cho đến tận ngày cuối cùng của chiến tranh, Bộ Tham mưu Đức vẫn tin có "đội quân" trong hậu phương của Hồng quân. Có thể coi đây là một trong những chiến dịch tình báo thành công bậc nhất bằng sóng vô tuyến điện mà tình báo Liên Xô đã thực hiện để lừa được phản gián Đức Quốc xã.
Nhiệm vụ sau Chiến tranh thế giới lần thứ II
Khi chiến tranh kết thúc, các đồng minh cũ của Liên Xô trong Liên minh chống Hitler như Mỹ và Anh đã trở thành đối thủ của Liên Xô và họ không che giấu kế hoạch của mình có thể tấn công Liên Xô.
Dã tâm đó làm cho Liên Xô phải lo lắng. Một đất nước kiệt sức vì chiến tranh, với nền kinh tế và công nghiệp bị phá hủy, không thể đưa ra phản ứng tương đương trong trường hợp bị tấn công hạt nhân. Và thế là Liên Xô đã chọn con đường răn đe chứ không phải xâm lược. Vì thế cần phải có thông tin toàn diện về những gì đang xảy ra ở phương Tây.
Thời
điểm này, hoạt động chính của William Fisher tập trung vào chương trình
hạt nhân của Mỹ. Lúc bấy giờ, Mỹ là quốc gia duy nhất trên thế giới có
bom nguyên tử và đã từng sử dụng bom nguyên tử. Sự độc quyền đó trở
thành mối đe dọa đối với hoà bình thế giới, vì thế Liên Xô rất quan tâm
đến điều này.
William Fisher đã tiếp cận với một số nhà khoa học hàng đầu của Mỹ, thuyết phục họ hợp tác với Liên Xô nhằm loại trừ sự độc quyền của Mỹ đối với thứ vũ khí nguy hiểm này. Nhờ những thông tin mà nhóm của William Fisher thu thập được mà Liên Xô đã rút ngắn đáng kể thời gian để chế tạo thành công bom nguyên tử.
Năm 1948, William Fisher đến Hoa Kỳ. Ở một quốc gia mới, ông trong vai một kiều dân gốc Đức, mang tên Emil Goldfus. William Fisher đã mở một hiệu ảnh và nhanh chóng bước vào môi trường sáng tạo của New York. William Fisher rất thành thạo trong nghệ thuật và có một bút pháp tốt. Sau này, William Fisher thừa nhận, không nơi nào khác và không bao giờ ông có thể sống tự do và thực hiện các hoạt động tình báo như ở giữa nước Mỹ.
Vào thời điểm đó, các đặc vụ Liên Xô đã hoạt động trong hàng ngũ cộng sản Mỹ, không ai có thể biết rằng tại bàn ăn trong một nhà hàng Soho, một điệp viên bí mật của Liên Xô với một ly rượu sâm banh và một điếu xì gà trong tay đang nói chuyện rất hay với các chính trị gia, các doanh nhân và các nhạc sĩ.
Năm 1952, William Fisher đổi bí danh thành Mark. Ông đã đạt được một chiến công cực kỳ vang dội. Đó là, từ con số “không”, ông đã xây dựng một mạng lưới tình báo ở Bờ Tây Hoa Kỳ. Mạng lưới tình báo này đã cung cấp cho Liên Xô những thông tin tình báo có giá trị.
Từ một sơ suất trong khâu liên lạc và do sự phản bội của điệp viên Haihanen, đêm 20 tháng 5 năm 1957, William Fisher bị FBI bắt trong phòng nghỉ của khách sạn “Latam”. Khi báo chí đăng tải về việc “bắt giữ Rudolph Abel”, Moscow hiểu ngay người đó là sĩ quan tình báo Ủy ban ANQG Liên Xô, Đại tá William Fisher.
Ngày 25/10/1957, ông bị tuyên phạt 45 năm tù, song ông chỉ ở trong tù có 5 năm. Ngày 10/2/1962, trên cây cầu Glienicker tại biên giới Đông và Tây Berlin, Rudolph Abel (chính là William Fisher) được trả tự do để phía Mỹ nhận lại viên phi công gián điệp Francis Powers lái máy bay trinh sát U-2 bị bắn rơi trên bầu trời thành phố Sverdlovsk Liên Xô ngày 01 tháng 5 năm 1960.
Những đánh giá về công trạng của William Fisher
William Fisher sau đó tiếp tục công tác tại Ủy ban An ninh Quốc gia Liên Xô. Ông tham gia vào việc đào tạo các chuyên gia trẻ, những người sẽ thực hiện nhiệm vụ của tình báo Đối ngoại Liên Xô.
Đại tá William Fisher được Chính phủ Liên Xô tặng 3 Huân chương Sao Đỏ, Huân chương Lenin, Huân chương Chiến tranh Vệ quốc hạng Nhất cùng nhiều huân, huy chương khác.
Có tài liệu giải thích rằng, vì không muốn những thông tin tuyệt mật cấp quốc gia bị các phương tiện thông tin đại chúng lan truyền, nên Nhà nước Liên Xô không phong danh hiệu “Anh hùng Liên Xô” cho các điệp viên hoạt động ở nước ngoài dưới dạng bất hợp pháp.
Trong
những bài hồi ký được viết trong cuốn sách “Những bài viết của Trưởng
phòng Tình báo bất hợp pháp”, cựu Cục trưởng Cục C (Cục Tình báo bất hợp
pháp) thuộc Tổng cục Tình báo Ủy ban ANQG Liên Xô, Thiếu tướng Yuri
Drozdov, đã kể lại một số chi tiết về việc trao đổi tù binh.
Ông viết: “Powers – phi công máy bay trinh sát U-2 được trao lại cho người Mỹ ở tư thế được mặc một chiếc áo khoác tốt, mũ màu vàng mùa đông, thể chất mạnh mẽ, khỏe mạnh. Còn Abel (William Fisher) của chúng ta trong chiếc áo khoác của tù nhân màu xám xanh và một chiếc mũ nhỏ khó có thể vừa trên đầu. Cùng ngày, chúng tôi đã dành một vài giờ với Abel để tìm mua cho anh ấy một số thứ cần thiết trong các cửa hàng ở Berlin”.
Tướng Drozdov còn nhớ lại: “Một lần vào cuối năm của thập niên 60, khi tôi từ Trung Quốc về nước, tôi bất ngờ gặp Abel (William Fisher) trong phòng ăn của tòa nhà chúng tôi ở Lubyanka (trụ sở của ngành Tình báo Đối ngoại Liên Xô - NCK). Abel nhận ra tôi. Anh bắt tay, cám ơn tôi và nói rằng chúng tôi cần nói chuyện với nhau. Tôi không thể, vì tối ngày hôm đó tôi đã phải lên máy bay trở lại Trung Quốc. Số phận đã sắp đặt cho chúng tôi: tôi chỉ đến thăm nơi ở của Abel vào năm 1972, nhưng vào ngày giỗ của anh. Anh mất vào ngày 15/11/1971”.
Cựu Phó tổng Cục trưởng Tổng cục Tình báo Ủy ban ANQG Liên Xô, Trung tướng Vadim Kirpichenko, trong một cuộc trả lời phỏng vấn, đã nhấn mạnh rằng cho đến nay, các nguồn công khai mới được nêu lên những chiến công nổi tiếng nhất của Abel (William Fisher). Những chiến công của William Fisher đã trở thành cảm hứng để điện ảnh Xôviết xây dựng nên bộ phim tình báo nổi tiếng “Thanh kiếm và lá chắn”.
Vào giữa tháng 10 năm 1957, phiên tòa xét xử Rudolph Abel bắt đầu trong tòa nhà của Tòa án Liên bang Quận Đông New York. Ông bị buộc tội làm gián điệp cho Liên Xô (cũ). Người điệp viên có thể bị tử hình trên ghế điện hoặc tù chung thân. Nhưng ngay trước khi xử, các cơ quan tình báo Mỹ đã bỏ lọt bằng chứng chính.
Khi cảnh sát đột nhập vào khách sạn “Latam”, nơi điệp viên đang có trong tay bức điện mật vừa nhận được từ Liên Xô, điệp viên đã nhanh chóng tuyên bố rằng, anh đang chuẩn bị viết đơn khiếu nại cảnh sát về việc đối xử tệ bạc. Cảnh sát không tìm thấy lý do từ chối và thậm chí còn đưa cho điệp viên một cây bút chì. Anh lấy một con dao, bình tĩnh gọt bút chì trên bức điện mật, và vò nát tờ giấy trước mặt cảnh sát rồi ném nó vào sọt rác.
Trên thực tế, người đang ngồi trước cảnh sát Mỹ là William Fisher. Người Mỹ thậm chí không nhận ra một phần mười những gì mà người sĩ quan tình báo Liên Xô thực sự đã làm ngay trước mặt họ.
William Fisher sinh ngày 11 tháng 7 năm 1903 tại thành phố Newcastle trên sông Tyne của vương quốc Anh. Cha mẹ ông - ông Heinrich Fisher, gốc Đức và bà Lyubov Korneeva, gốc Nga - là những nhà cách mạng lão thành. Vào đầu thế kỷ 20, cặp vợ chồng Heinrich Fisher buộc phải rời khỏi nước Anh vì lý do chính trị. Họ được nước Nga đón nhận, nơi có cuộc cách mạng mà họ tham gia chuẩn bị.
Con đường hoạt động tình báo
Tại Moscow, William - người con trai của ông bà Heinrich Fisher khi phục vụ trong Hồng quân đã chuyên cần học tập và trở thành một hiệu thính viên vô tuyến điện loại giỏi. Khi William quyết định tiếp tục phục vụ trong Tổng cục Chính trị Quốc gia hợp nhất (Tổ chức tiền thân của Ủy ban ANQG Liên Xô), thì nghề hiệu thính viên đã trở thành chuyên môn chính của William Fisher.
Vào những năm 1930, William Fisher đã gặp Rudolf Abel, cũng là hiệu thính viên trong cơ quan An ninh Quốc gia. Họ đã trở thành những người bạn rất thân thiết. Trong một thời gian, cả hai sống trong căn hộ của William Fisher ở Moscow. Hai người giống nhau đến mức những người xung quanh khi chào hỏi họ, thường hay gọi nhầm tên giữa hai người.
Con đường của tình báo của William Fisher bắt đầu từ năm 1931. Anh được gửi về nước Anh với câu chuyện bịa đặt như sau: theo lệnh của người cha nghiêm khắc và chống lại ý chí của mình, một công dân nước Anh đang sống ở Liên Xô đã tìm được cơ hội để trở về quê hương.
Từ năm 1941, William Fischer đã đào tạo các hiệu thính viên vô tuyến điện cho các đội du kích và các nhóm tình báo. Tiến xa hơn là thẩm vấn các sĩ quan Đức bị bắt và thậm chí còn đích thân làm việc ở hậu phương của kẻ thù.
Tham gia cuộc Chiến tranh vệ quốc vĩ đại
Trong Chiến tranh Vệ quốc, William Fisher được giao phụ trách một đơn vị tình báo vô tuyến điện và đóng vai trò chủ chốt trong chiến dịch tình báo Berezino, một trong những chiến dịch tình báo hay nhất trong lịch sử chiến tranh.
Dưới sự chỉ huy của William Fisher, điệp viên hai mang Serhorn đánh điện báo cáo với cơ quan tình báo Đức Quốc xã rằng, một đơn vị Đức do Trung tá Heinrich Serhorn chỉ huy bị "mắc kẹt" trong khu vực hậu phương của Hồng quân. Mặc dù bị bao vây tứ phía nhưng vẫn tiếp tục chiến đấu chống lại các đơn vị quân đội Xôviết.
Trên thực tế, đội quân này không còn tồn tại. Trước đó, nó đã bị xóa sổ và hầu hết bị bắt làm tù binh, bản thân Serhorn bị chiêu mộ và cùng tham gia trò chơi điện đài dưới sự chỉ đạo của William Fisher.
Bị mắc mưu, phía Đức liên tục gửi các chuyên gia phá hoại, trang thiết bị và kể cả các điệp viên đến cho “đội quân ma”.
Thậm chí, Hitler còn định gửi viên tùy tùng thân tín, Tướng Otto Scorzeny - chỉ huy nhóm hành động phá hoại đã từng cứu trùm phát xít Mussolini, đến tiếp viện cho “đội quân” của Serhorn. Cho đến tận ngày cuối cùng của chiến tranh, Bộ Tham mưu Đức vẫn tin có "đội quân" trong hậu phương của Hồng quân. Có thể coi đây là một trong những chiến dịch tình báo thành công bậc nhất bằng sóng vô tuyến điện mà tình báo Liên Xô đã thực hiện để lừa được phản gián Đức Quốc xã.
Nhiệm vụ sau Chiến tranh thế giới lần thứ II
Khi chiến tranh kết thúc, các đồng minh cũ của Liên Xô trong Liên minh chống Hitler như Mỹ và Anh đã trở thành đối thủ của Liên Xô và họ không che giấu kế hoạch của mình có thể tấn công Liên Xô.
Dã tâm đó làm cho Liên Xô phải lo lắng. Một đất nước kiệt sức vì chiến tranh, với nền kinh tế và công nghiệp bị phá hủy, không thể đưa ra phản ứng tương đương trong trường hợp bị tấn công hạt nhân. Và thế là Liên Xô đã chọn con đường răn đe chứ không phải xâm lược. Vì thế cần phải có thông tin toàn diện về những gì đang xảy ra ở phương Tây.
William Fisher đã tiếp cận với một số nhà khoa học hàng đầu của Mỹ, thuyết phục họ hợp tác với Liên Xô nhằm loại trừ sự độc quyền của Mỹ đối với thứ vũ khí nguy hiểm này. Nhờ những thông tin mà nhóm của William Fisher thu thập được mà Liên Xô đã rút ngắn đáng kể thời gian để chế tạo thành công bom nguyên tử.
Năm 1948, William Fisher đến Hoa Kỳ. Ở một quốc gia mới, ông trong vai một kiều dân gốc Đức, mang tên Emil Goldfus. William Fisher đã mở một hiệu ảnh và nhanh chóng bước vào môi trường sáng tạo của New York. William Fisher rất thành thạo trong nghệ thuật và có một bút pháp tốt. Sau này, William Fisher thừa nhận, không nơi nào khác và không bao giờ ông có thể sống tự do và thực hiện các hoạt động tình báo như ở giữa nước Mỹ.
Vào thời điểm đó, các đặc vụ Liên Xô đã hoạt động trong hàng ngũ cộng sản Mỹ, không ai có thể biết rằng tại bàn ăn trong một nhà hàng Soho, một điệp viên bí mật của Liên Xô với một ly rượu sâm banh và một điếu xì gà trong tay đang nói chuyện rất hay với các chính trị gia, các doanh nhân và các nhạc sĩ.
Năm 1952, William Fisher đổi bí danh thành Mark. Ông đã đạt được một chiến công cực kỳ vang dội. Đó là, từ con số “không”, ông đã xây dựng một mạng lưới tình báo ở Bờ Tây Hoa Kỳ. Mạng lưới tình báo này đã cung cấp cho Liên Xô những thông tin tình báo có giá trị.
Từ một sơ suất trong khâu liên lạc và do sự phản bội của điệp viên Haihanen, đêm 20 tháng 5 năm 1957, William Fisher bị FBI bắt trong phòng nghỉ của khách sạn “Latam”. Khi báo chí đăng tải về việc “bắt giữ Rudolph Abel”, Moscow hiểu ngay người đó là sĩ quan tình báo Ủy ban ANQG Liên Xô, Đại tá William Fisher.
Ngày 25/10/1957, ông bị tuyên phạt 45 năm tù, song ông chỉ ở trong tù có 5 năm. Ngày 10/2/1962, trên cây cầu Glienicker tại biên giới Đông và Tây Berlin, Rudolph Abel (chính là William Fisher) được trả tự do để phía Mỹ nhận lại viên phi công gián điệp Francis Powers lái máy bay trinh sát U-2 bị bắn rơi trên bầu trời thành phố Sverdlovsk Liên Xô ngày 01 tháng 5 năm 1960.
Những đánh giá về công trạng của William Fisher
William Fisher sau đó tiếp tục công tác tại Ủy ban An ninh Quốc gia Liên Xô. Ông tham gia vào việc đào tạo các chuyên gia trẻ, những người sẽ thực hiện nhiệm vụ của tình báo Đối ngoại Liên Xô.
Đại tá William Fisher được Chính phủ Liên Xô tặng 3 Huân chương Sao Đỏ, Huân chương Lenin, Huân chương Chiến tranh Vệ quốc hạng Nhất cùng nhiều huân, huy chương khác.
Có tài liệu giải thích rằng, vì không muốn những thông tin tuyệt mật cấp quốc gia bị các phương tiện thông tin đại chúng lan truyền, nên Nhà nước Liên Xô không phong danh hiệu “Anh hùng Liên Xô” cho các điệp viên hoạt động ở nước ngoài dưới dạng bất hợp pháp.
Ông viết: “Powers – phi công máy bay trinh sát U-2 được trao lại cho người Mỹ ở tư thế được mặc một chiếc áo khoác tốt, mũ màu vàng mùa đông, thể chất mạnh mẽ, khỏe mạnh. Còn Abel (William Fisher) của chúng ta trong chiếc áo khoác của tù nhân màu xám xanh và một chiếc mũ nhỏ khó có thể vừa trên đầu. Cùng ngày, chúng tôi đã dành một vài giờ với Abel để tìm mua cho anh ấy một số thứ cần thiết trong các cửa hàng ở Berlin”.
Tướng Drozdov còn nhớ lại: “Một lần vào cuối năm của thập niên 60, khi tôi từ Trung Quốc về nước, tôi bất ngờ gặp Abel (William Fisher) trong phòng ăn của tòa nhà chúng tôi ở Lubyanka (trụ sở của ngành Tình báo Đối ngoại Liên Xô - NCK). Abel nhận ra tôi. Anh bắt tay, cám ơn tôi và nói rằng chúng tôi cần nói chuyện với nhau. Tôi không thể, vì tối ngày hôm đó tôi đã phải lên máy bay trở lại Trung Quốc. Số phận đã sắp đặt cho chúng tôi: tôi chỉ đến thăm nơi ở của Abel vào năm 1972, nhưng vào ngày giỗ của anh. Anh mất vào ngày 15/11/1971”.
Cựu Phó tổng Cục trưởng Tổng cục Tình báo Ủy ban ANQG Liên Xô, Trung tướng Vadim Kirpichenko, trong một cuộc trả lời phỏng vấn, đã nhấn mạnh rằng cho đến nay, các nguồn công khai mới được nêu lên những chiến công nổi tiếng nhất của Abel (William Fisher). Những chiến công của William Fisher đã trở thành cảm hứng để điện ảnh Xôviết xây dựng nên bộ phim tình báo nổi tiếng “Thanh kiếm và lá chắn”.
Theo Công an nhân dân
Dịch Covid-19 biến đổi thế giới như thế nào?
Sau lệnh cách ly ở Italy, những con kênh Venice trở nên trong vắt và
thơ mộng hơn. Các điểm nóng du lịch tại Pháp bị bỏ hoang vì dịch
Covid-19.
Tình báo Mỹ cảnh báo về nguy cơ đại dịch từ tháng 1 nhưng bị bỏ qua
Giới chức tình báo liên tục
cảnh báo về nguy cơ bùng phát đại dịch từ tháng 1, tuy nhiên cả Nhà
Trắng và quốc hội Mỹ đã không phản ứng kịp thời.
Washington Post cho biết các cơ quan tình báo Mỹ đã đưa ra cảnh báo bí mật đáng quan ngại vào từ tháng 1 và tháng 2 về mối nguy hiểm mà virus corona có thể gây ra trên phạm vi toàn cầu, theo một nguồn tin từ chính phủ Mỹ.
Báo cáo của giới chức tình báo không đưa ra dự đoán về thời gian virus corona xâm nhập vào đại lục nước Mỹ hay đưa ra khuyến nghị về những bước đi cụ thể cơ quan y tế Mỹ nên thực hiện, ngoại trừ các khuyến nghị thuần túy về mặt tình báo.
Các chuyên gia nhận định thời điểm vàng để ngăn chặn sự bùng phát đã bị bỏ qua.
Các báo cáo lần theo con đường virus lây lan tại Trung Quốc, sau đó tới các quốc gia khác. Trong báo cáo, giới chức tình báo Mỹ cảnh báo Bắc Kinh đã cố ý nói giảm mức độ nghiêm trọng của đợt bùng phát virus corona.
Trong cuộc họp báo hôm 20/3, Bộ trưởng Y tế và Dịch vụ dân sinh Alex Azar cho biết giới chức Mỹ đã được cảnh báo về virus corona sau cuộc thảo luận của Cơ quan Kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh Mỹ với đối tác Trung Quốc hôm 3/1.
Số
lượng cảnh báo mà các cơ quan tình báo Mỹ đưa ra tăng lên vào cuối
tháng 1 và đầu tháng 2. Vào thời điểm đó, các báo cáo của Văn phòng Giám
đốc Cơ quan tình báo quốc gia (NSA) và CIA phần lớn liên quan tới
Covid-19.
Các cảnh báo tăng lên trùng với thời điểm Thượng nghị sĩ Richard Burr bán hàng chục cổ phiếu trị giá từ 628.000 USD tới 1,72 triệu USD. Với cương vị chủ tịch Ủy ban Tình báo Thượng viện, ông Burr nắm giữ hầu như tất cả báo cáo mật về virus corona. Hôm 20/3, Thượng nghị sĩ Burr đã lên tiếng bào chữa khi cho biết ông bán các cổ phiếu thuần túy dựa trên thông tin công khai.
Giới chuyên gia tình báo nhận định các báo cáo vẽ bức tranh sớm về việc virus corona có những đặc điểm có thể trở thành đại dịch toàn cầu để từ đó chính phủ có thể chuẩn bị sẵn các biện pháp đối phó.
Một số ý kiến chỉ trích Nhà Trắng cũng như quốc hội Mỹ không kịp thời có biện pháp ứng phó, cho tới khi tình hình trở nên nghiêm trọng ở Mỹ.
Một quan chức Mỹ có cơ hội tiếp cận các báo cáo cho biết các tài liệu này đã được chuyển tới cả Nhà Trắng và quốc hội Mỹ.
"Tổng thống Trump có thể không lường trước được (đại dịch), nhưng nhiều người khác trong chính phủ thì có, họ chỉ không thể khiến ông ấy làm bất cứ điều gì để đối phó", quan chức giấu tên nói.
Trước thông tin về cáo báo cáo tình báo nêu trên, CIA và văn phòng giám đốc Cơ quan tình báo quốc gia đã từ chối bình luận. Tuy nhiên, phát ngôn viên Nhà Trắng đã bác bỏ các chỉ trích đối với phản ứng của chính quyền Tổng thống Trump.
"Tổng thống Trump đã thực hiện những biện pháp mạnh mẽ lịch sử để bảo vệ sức khỏe, sự thịnh vượng và an toàn của người dân Mỹ, ông ấy đã làm vậy, trong khi giới truyền thông và đảng Dân chủ lựa chọn chỉ tập trung vào cuộc luận tội phi pháp mang tính chính trị ngu ngốc", phát ngôn viên Nhà Trắng Hogan Gidley nói.
Tại Bộ Ngoại giao Mỹ, các quan chức lần theo các báo cáo về dịch bệnh trong lo âu. Một quan chức cho biết dấu hiệu về khủng hoảng y tế cộng đồng trở nên rõ rệt và được thảo luận trong một cuộc họp vào tuần thứ 3 của tháng 1, khi giới ngoại giao Mỹ được di tản khỏi Vũ Hán.
Tuy nhiên, tại Nhà Trắng, các cố vấn gặp nhiều khó khăn để thuyết phục Tổng thống Trump coi virus corona là vấn đề nghiêm trọng, theo miêu tả của nhiều quan chức tham gia các cuộc họp cùng giới cố vấn và Tổng thống Trump.
Hai quan chức cho biết Bộ trưởng Y tế và Dịch vụ dân sinh Azar không thể trao đổi trực tiếp với ông Trump để cảnh báo về virus corona mãi cho tới ngày 18/1. Tuy nhiên, khi trao đổi qua điện thoại, Tổng thống Trump đã ngắt lời ông Azar để hỏi về vấn đề thuốc lá điện tử.
Ngày
27/1, quyền Chánh văn phòng Nhà Trắng Mick Mulvaney cùng các cấp dưới
đã phải vất vả để các quan chức cấp cao dành sự chú ý đối với virus
corona. Joe Grogan, người đứng đầu Hội đồng chính sách đối nội Nhà
Trắng, khẳng định chính quyền cần quan tâm nghiêm túc hơn đối với virus
corona, hoặc vấn đề này sẽ khiến ông Trump thất bại trong cuộc tái tranh
cử.
Grogan khẳng định việc đối phó với virus corona sẽ chi phối đời sống người Mỹ trong nhiều tháng.
Ông Mulvaney sau đó bắt đầu triệu tập các cuộc họp thường xuyên hơn. Tuy nhiên, trong các cuộc họp ngắn, Tổng thống Trump bỏ qua các cảnh báo bởi không tin virus có thể lan rộng khắp nước Mỹ.
Đầu tháng 2, Grogan cùng nhiều quan chức lo ngại các cuộc xét nghiệm khi đó chưa được tiến hành đầy đủ để xác định tỷ lệ lây nhiễm thực sự của virus corona. Các quan chức khác, gồm Phó cố vấn an ninh quốc gia Matthew Pottinger, bắt đầu kêu gọi có các phản ứng mạnh mẽ hơn.
Tuy nhiên, Tổng thống Trump vẫn tỏ ra khó thuyết phục và khẳng định với người Mỹ rằng virus corona sẽ không thể tàn phá nước Mỹ như nó đã xảy ra tại các quốc gia khác.
"Tôi nghĩ mọi chuyện sẽ ổn thôi. Khi chúng ta bước vào tháng 4, thời tiết ấm áp hơn sẽ có tác động tiêu cực đối với virus corona. Virus corona được kiểm soát tốt ở Mỹ. Thị trường chứng khoán rất hứa hẹn đối với tôi", ông Trump nói hôm 19/2.
Nhưng trước đó, vào đầu tháng 2, Thứ trưởng Bộ Y tế và Dịch vụ dân sinh Mỹ Robert Kadlec đã gửi một thông điệp hoàn toàn khác tới Ủy ban Tình báo Thượng viện trong cuộc họp về virus corona và tác động y tế toàn cầu.
Ông Kadlec cảnh báo virus sẽ tạo ra mối đe dọa nghiêm trọng toàn cầu. Dù không đưa ra khuyến nghị cụ thể, Thứ trưởng Kadlec cảnh báo người Mỹ cần có các biện pháp phòng ngừa, có thể làm gián đoạn cuộc sống thường nhật, nhằm đi trước và giảm nhẹ tác động của virus.
"Tình hình rất đáng báo động", ông Kadlec nói.
Niềm tin này được cho là khó hiểu khi các báo cáo của giới chức tình báo Mỹ đề nhận định Trung Quốc không hoàn toàn minh bạch về mức độ khủng hoảng do virus corona gây ra.
Một số cố vấn đã cảnh báo Tổng thống Trump việc Bắc Kinh không cung cấp số liệu chính xác người nhiễm bệnh hoặc tử vong.
Các quan chức Mỹ cho rằng Nhà Trắng đáng lý cần thúc ép Bắc Kinh minh bạch hơn, thay vì tán dương công khai như cách Tổng thống Trump đã làm.
"Trung Quốc đã làm việc rất nỗ lực để kiểm soát virus corona. Nước Mỹ đánh giá cao nỗ lực và sự minh bạch của họ. Mọi việc sẽ tốt đẹp. Thay mặt người dân Mỹ, tôi xin cảm ơn Chủ tịch Tập", Tổng thống Trump viết trên Twitter hôm 24/1.
Một
số cố vấn khuyến nghị ông Trump cứng rắn hơn với Trung Quốc sau khi Bắc
Kinh từ chối cho phép chuyên gia của CDC Mỹ tới khảo sát tại nước này.
Trong một cuộc họp vào tháng 2, Tổng thống Trump cho biết không thể cứng rắn với Bắc Kinh bởi có nguy cơ Trung Quốc sẽ không chia sẻ thông tin và cách nước này đang xử lý dịch bệnh.
Sau đó, chính quyền Trump đã thay đổi cách tiếp cận và chính thức cấm người nước ngoài từng tới Trung Quốc trong vòng 14 ngày nhập cảnh vào Mỹ từ 3/2, bước đi mà ông tự tán dương là nhằm bảo vệ người Mỹ khỏi virus corona.
Ông Trump tuyên bố công khai Trung Quốc không thành thật về tác động của virus corona. Mặc dù vậy, lệnh cấm nhập cảnh không được thi hành đồng bộ với các bước đi cần thiết khác để chuẩn bị cho kịch bản virus corona lây nhiễm cho công dân Mỹ với số lượng lớn.
Khi dịch bệnh lan rộng ra ngoài Trung Quốc, các cơ quan tình báo Mỹ đã truy dấu các đợt bùng phát tại Iran, Hàn Quốc, Đài Loan, Italy và các nước khác ở châu Âu.
Thông tin chuyển tới Nhà Trắng và Quốc hội Mỹ gồm các thông tin công khai và cả các báo cáo mật.
Khi ca nhiễm virus corona đầu tiên được phát hiện tại Mỹ, Tổng thống Trump vẫn khẳng định virus corona chỉ là vấn đề nhỏ đối với nước này.
Tới ngày 25/2, quan chức cấp cao của CDC Mỹ lên tiếng cảnh báo virus corona dường như đã lây lan rộng trong cộng đồng tại Mỹ, đồng thời cho biết các biện pháp phản ứng sẽ gây gián đoạn "nghiêm trọng" cuộc sống thường nhật.
Ông Trump khi đó lập tức triệu hồi Bộ trưởng Y tế Azar khi đó đang thăm Ấn Độ, đồng thời phàn nàn quan chức CDC gây hoang mang cho thị trường chứng khoán.
Chỉ tới khi được chứng kiến các dữ liệu cụ thể về sự lây lan của virus corona tại các nước châu Âu và nghe báo cáo trực tiếp từ Deborah Birx, điều phối viên trưởng nhóm công tác về virus corona của Nhà Trắng, cũng như từ các quan chức cấp cao sau sự sụp đổ của thị trường chứng khoán, Tổng thống Trump mới thay đổi các phát biểu về đại dịch.
Nhưng ở thời điểm đó, dịch bệnh đã thực sự lan rộng khắp nước Mỹ.
Báo cáo của giới chức tình báo không đưa ra dự đoán về thời gian virus corona xâm nhập vào đại lục nước Mỹ hay đưa ra khuyến nghị về những bước đi cụ thể cơ quan y tế Mỹ nên thực hiện, ngoại trừ các khuyến nghị thuần túy về mặt tình báo.
Báo cáo nguy cơ đại dịch có từ lâu
Ngay từ giữa tháng 1, các chuyên gia y tế cộng đồng Mỹ đã chỉ trích Trung Quốc vì phản ứng quá chậm trễ trước sự bùng phát của virus corona, bắt nguồn từ thành phố Vũ Hán.Các chuyên gia nhận định thời điểm vàng để ngăn chặn sự bùng phát đã bị bỏ qua.
Các báo cáo lần theo con đường virus lây lan tại Trung Quốc, sau đó tới các quốc gia khác. Trong báo cáo, giới chức tình báo Mỹ cảnh báo Bắc Kinh đã cố ý nói giảm mức độ nghiêm trọng của đợt bùng phát virus corona.
Trong cuộc họp báo hôm 20/3, Bộ trưởng Y tế và Dịch vụ dân sinh Alex Azar cho biết giới chức Mỹ đã được cảnh báo về virus corona sau cuộc thảo luận của Cơ quan Kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh Mỹ với đối tác Trung Quốc hôm 3/1.
Bộ trưởng Bộ Y tế và dịch vụ dân sinh Mỹ Alex Azar. Ảnh: AFP. |
Các cảnh báo tăng lên trùng với thời điểm Thượng nghị sĩ Richard Burr bán hàng chục cổ phiếu trị giá từ 628.000 USD tới 1,72 triệu USD. Với cương vị chủ tịch Ủy ban Tình báo Thượng viện, ông Burr nắm giữ hầu như tất cả báo cáo mật về virus corona. Hôm 20/3, Thượng nghị sĩ Burr đã lên tiếng bào chữa khi cho biết ông bán các cổ phiếu thuần túy dựa trên thông tin công khai.
Giới chuyên gia tình báo nhận định các báo cáo vẽ bức tranh sớm về việc virus corona có những đặc điểm có thể trở thành đại dịch toàn cầu để từ đó chính phủ có thể chuẩn bị sẵn các biện pháp đối phó.
Một số ý kiến chỉ trích Nhà Trắng cũng như quốc hội Mỹ không kịp thời có biện pháp ứng phó, cho tới khi tình hình trở nên nghiêm trọng ở Mỹ.
Một quan chức Mỹ có cơ hội tiếp cận các báo cáo cho biết các tài liệu này đã được chuyển tới cả Nhà Trắng và quốc hội Mỹ.
"Tổng thống Trump có thể không lường trước được (đại dịch), nhưng nhiều người khác trong chính phủ thì có, họ chỉ không thể khiến ông ấy làm bất cứ điều gì để đối phó", quan chức giấu tên nói.
Trước thông tin về cáo báo cáo tình báo nêu trên, CIA và văn phòng giám đốc Cơ quan tình báo quốc gia đã từ chối bình luận. Tuy nhiên, phát ngôn viên Nhà Trắng đã bác bỏ các chỉ trích đối với phản ứng của chính quyền Tổng thống Trump.
"Tổng thống Trump đã thực hiện những biện pháp mạnh mẽ lịch sử để bảo vệ sức khỏe, sự thịnh vượng và an toàn của người dân Mỹ, ông ấy đã làm vậy, trong khi giới truyền thông và đảng Dân chủ lựa chọn chỉ tập trung vào cuộc luận tội phi pháp mang tính chính trị ngu ngốc", phát ngôn viên Nhà Trắng Hogan Gidley nói.
Các quan chức Mỹ lên tiếng cảnh báo
Một nhiệm vụ then chốt của các nhà phân tích trong thời gian dịch bệnh bùng phát là xác định khả năng cơ quan y tế các nước nói giảm tác động thực sự của sự bùng phát, hay thậm chí che giấu khủng hoảng y tế cộng đồng, theo đánh giá của một cựu quan chức tình báo.Tại Bộ Ngoại giao Mỹ, các quan chức lần theo các báo cáo về dịch bệnh trong lo âu. Một quan chức cho biết dấu hiệu về khủng hoảng y tế cộng đồng trở nên rõ rệt và được thảo luận trong một cuộc họp vào tuần thứ 3 của tháng 1, khi giới ngoại giao Mỹ được di tản khỏi Vũ Hán.
Tuy nhiên, tại Nhà Trắng, các cố vấn gặp nhiều khó khăn để thuyết phục Tổng thống Trump coi virus corona là vấn đề nghiêm trọng, theo miêu tả của nhiều quan chức tham gia các cuộc họp cùng giới cố vấn và Tổng thống Trump.
Hai quan chức cho biết Bộ trưởng Y tế và Dịch vụ dân sinh Azar không thể trao đổi trực tiếp với ông Trump để cảnh báo về virus corona mãi cho tới ngày 18/1. Tuy nhiên, khi trao đổi qua điện thoại, Tổng thống Trump đã ngắt lời ông Azar để hỏi về vấn đề thuốc lá điện tử.
Các báo cáo về nguy cơ bùng phát đại dịch đã được chuyển tới Nhà Trắng từ tháng 1. Ảnh: AP. |
Grogan khẳng định việc đối phó với virus corona sẽ chi phối đời sống người Mỹ trong nhiều tháng.
Ông Mulvaney sau đó bắt đầu triệu tập các cuộc họp thường xuyên hơn. Tuy nhiên, trong các cuộc họp ngắn, Tổng thống Trump bỏ qua các cảnh báo bởi không tin virus có thể lan rộng khắp nước Mỹ.
Đầu tháng 2, Grogan cùng nhiều quan chức lo ngại các cuộc xét nghiệm khi đó chưa được tiến hành đầy đủ để xác định tỷ lệ lây nhiễm thực sự của virus corona. Các quan chức khác, gồm Phó cố vấn an ninh quốc gia Matthew Pottinger, bắt đầu kêu gọi có các phản ứng mạnh mẽ hơn.
Tuy nhiên, Tổng thống Trump vẫn tỏ ra khó thuyết phục và khẳng định với người Mỹ rằng virus corona sẽ không thể tàn phá nước Mỹ như nó đã xảy ra tại các quốc gia khác.
"Tôi nghĩ mọi chuyện sẽ ổn thôi. Khi chúng ta bước vào tháng 4, thời tiết ấm áp hơn sẽ có tác động tiêu cực đối với virus corona. Virus corona được kiểm soát tốt ở Mỹ. Thị trường chứng khoán rất hứa hẹn đối với tôi", ông Trump nói hôm 19/2.
Nhưng trước đó, vào đầu tháng 2, Thứ trưởng Bộ Y tế và Dịch vụ dân sinh Mỹ Robert Kadlec đã gửi một thông điệp hoàn toàn khác tới Ủy ban Tình báo Thượng viện trong cuộc họp về virus corona và tác động y tế toàn cầu.
Ông Kadlec cảnh báo virus sẽ tạo ra mối đe dọa nghiêm trọng toàn cầu. Dù không đưa ra khuyến nghị cụ thể, Thứ trưởng Kadlec cảnh báo người Mỹ cần có các biện pháp phòng ngừa, có thể làm gián đoạn cuộc sống thường nhật, nhằm đi trước và giảm nhẹ tác động của virus.
"Tình hình rất đáng báo động", ông Kadlec nói.
Nhà Trắng hành động quá chậm
Phản ứng của Tổng thống Trump từ khi dịch bệnh xuất hiện thường xuyên đi ngược lại cảnh báo của Bộ Y tế Mỹ, dường như nhằm xoa dịu Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình, người mà ông Trump tin rằng đang cung cấp thông tin đáng tin cậy về tình hình dịch bệnh ở Trung Quốc.Niềm tin này được cho là khó hiểu khi các báo cáo của giới chức tình báo Mỹ đề nhận định Trung Quốc không hoàn toàn minh bạch về mức độ khủng hoảng do virus corona gây ra.
Một số cố vấn đã cảnh báo Tổng thống Trump việc Bắc Kinh không cung cấp số liệu chính xác người nhiễm bệnh hoặc tử vong.
Các quan chức Mỹ cho rằng Nhà Trắng đáng lý cần thúc ép Bắc Kinh minh bạch hơn, thay vì tán dương công khai như cách Tổng thống Trump đã làm.
"Trung Quốc đã làm việc rất nỗ lực để kiểm soát virus corona. Nước Mỹ đánh giá cao nỗ lực và sự minh bạch của họ. Mọi việc sẽ tốt đẹp. Thay mặt người dân Mỹ, tôi xin cảm ơn Chủ tịch Tập", Tổng thống Trump viết trên Twitter hôm 24/1.
Nhà Trắng bị chỉ trích phản ứng quá chậm trước sự bùng phát của virus corona. Ảnh: AP. |
Trong một cuộc họp vào tháng 2, Tổng thống Trump cho biết không thể cứng rắn với Bắc Kinh bởi có nguy cơ Trung Quốc sẽ không chia sẻ thông tin và cách nước này đang xử lý dịch bệnh.
Sau đó, chính quyền Trump đã thay đổi cách tiếp cận và chính thức cấm người nước ngoài từng tới Trung Quốc trong vòng 14 ngày nhập cảnh vào Mỹ từ 3/2, bước đi mà ông tự tán dương là nhằm bảo vệ người Mỹ khỏi virus corona.
Ông Trump tuyên bố công khai Trung Quốc không thành thật về tác động của virus corona. Mặc dù vậy, lệnh cấm nhập cảnh không được thi hành đồng bộ với các bước đi cần thiết khác để chuẩn bị cho kịch bản virus corona lây nhiễm cho công dân Mỹ với số lượng lớn.
Khi dịch bệnh lan rộng ra ngoài Trung Quốc, các cơ quan tình báo Mỹ đã truy dấu các đợt bùng phát tại Iran, Hàn Quốc, Đài Loan, Italy và các nước khác ở châu Âu.
Thông tin chuyển tới Nhà Trắng và Quốc hội Mỹ gồm các thông tin công khai và cả các báo cáo mật.
Khi ca nhiễm virus corona đầu tiên được phát hiện tại Mỹ, Tổng thống Trump vẫn khẳng định virus corona chỉ là vấn đề nhỏ đối với nước này.
Tới ngày 25/2, quan chức cấp cao của CDC Mỹ lên tiếng cảnh báo virus corona dường như đã lây lan rộng trong cộng đồng tại Mỹ, đồng thời cho biết các biện pháp phản ứng sẽ gây gián đoạn "nghiêm trọng" cuộc sống thường nhật.
Ông Trump khi đó lập tức triệu hồi Bộ trưởng Y tế Azar khi đó đang thăm Ấn Độ, đồng thời phàn nàn quan chức CDC gây hoang mang cho thị trường chứng khoán.
Chỉ tới khi được chứng kiến các dữ liệu cụ thể về sự lây lan của virus corona tại các nước châu Âu và nghe báo cáo trực tiếp từ Deborah Birx, điều phối viên trưởng nhóm công tác về virus corona của Nhà Trắng, cũng như từ các quan chức cấp cao sau sự sụp đổ của thị trường chứng khoán, Tổng thống Trump mới thay đổi các phát biểu về đại dịch.
Nhưng ở thời điểm đó, dịch bệnh đã thực sự lan rộng khắp nước Mỹ.
Nhận xét
Đăng nhận xét