Dai Chung la su suy ngam cua toi ve cuoc doi, xa hoi, nhan sinh
KÝ ỨC CHÓI LỌI 137/c - SỬ KÝ TRUYỀN HÌNH CHIẾN TRANH VIỆT NAM - Tập 3
Nhận đường liên kết
Facebook
X
Pinterest
Email
Ứng dụng khác
-
(ĐC sưu tầm trên NET)
SỬ KÝ TRUYỀN HÌNH CHIẾN TRANH VIỆT NAM - Tập 3
Đâu là nguyên nhân đế quốc Mỹ xâm lược Việt Nam?
Sau chiến tranh thế giới thứ II, khi mà phong trào đấu tranh
giải phóng dân tộc của Thế giới thứ ba diễn ra mạnh mẽ, ảnh hưởng “Cộng
sản” và “nguy cơ bành trướng” của Liên Xô, thì Mỹ cần phải xây dựng được
cho mình những “viên cảnh sát” khu vực đủ “mạnh” để đối phó. Ở châu Á,
theo giới lãnh đạo Mỹ, Trung Quốc có điều kiện về dân số, diện tích và
vị trí địa lý thuận lợi đủ khả năng xây dựng được một nền chính trị,
quân sự mạnh – đảm nhiệm được vai trò “cảnh sát”. Nhưng
trước sự lớn mạnh và thắng thế của Đảng Cộng sản, trước Quốc dân đảng,
Mỹ lại tính đến giải pháp về một chính quyền liên hiệp. Hi vọng không
thành, khi sau đó, Quốc Dân đảng tiếp tục bị tấn công, phải bỏ chạy ra
Đài Loan. Và ngày 1 tháng 10 năm 1949 nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa
ra đời. Từ thực tế trên, buộc các nhà chiến lược Mỹ phải tìm “ứng
viên” thay thế. Và Nhật Bản được chọn, mặc dầu trước đó nó bị lãng quên
do “đặc tính không đáng tin cậy hoặc không dễ dàng điều khiển được.” [1]
Để tái thiết công nghiệp cho Nhật, cần phải có thị trường giàu lợi
nhuận và nơi cung cấp nguồn nguyên liệu thô, rẻ. Ở vùng vành đai châu Á:
Triều Tiên, khu vực Mãn Châu – Trung Quốc… đáp ứng được yêu cầu này.
Vùng vành đai theo sự hoạch định của Mỹ, ngoài vai trò là
thị trường tiêu thụ, cung cấp nguồn nguyên liệu còn tham gia vào “…việc
sản xuất hàng hóa cơ bản như lương thực và nguyên liệu thô, những mặt
hàng mà nó lợi thế so sánh và Nhật Bản đang thiếu. Nhật sẽ chuyên môn
hóa vào các ngành sản xuất công nghiệp, tài chính đóng tàu và bảo hiểm.
Nó sẽ trở thành công xưởng của châu Á…” Thế nhưng, chiến tranh Triều Tiên (1950 –1953) đã làm mất đi phần nào những toan tính đó.
Cuộc chiến Triều Tiên nổ ra từ ngày 25 tháng 06 năm 1950, khi
binh lính bắc Triều Tiên vượt qua vĩ tuyến 38, đánh chiếm Seoul.
Mỹ lập tức can thiệp, tướng Mỹ Douglas MacArthur được bổ nhiệm
làm tổng chỉ huy lực lượng Liên Hiệp Quốc của 16 nước, ở Triều Tiên. Sau
đó, liên kết Nam Triều Tiên mở cuộc phản công, chiếm lại những vị trí
đã mất. Đồng thời còn vượt qua vĩ tuyến 38, tiến đến biên giới vùng Mãn
Châu, bắt được một số tù binh Trung Quốc [2]. Chiến lược này, đe dọa
nghiêm trọng đến an ninh Trung Quốc, thế là Trung Quốc tăng cường quân
đội, phối hợp với Bắc Triều Tiên, phản công chiến lược.
Ngày 27 tháng 7 năm 1953, tại Bàn Môn Điếm (P’anmunjŏm – Triều Tiên),
Hội nghị đình chiến quân sự giữa hai miền Nam – Bắc Triều Tiên được ký
kết và vĩ tuyến 38 vẫn là ranh giới chia cắt hai miền.
Kết quả cuộc chiến cho thấy, Mỹ vẫn không mở rộng được phạm vi chiếm
đóng. Kế hoạch xây dựng vùng ngoại vi Triều Tiên – Mãn Châu xem như thất
bại. Trong lúc này, “Dường như mục tiêu dễ đạt tới hơn
là Đông Nam Á, đặc biệt là hai quần đảo lớn là Philippin và Inđônêxia,
trong đó Inđônêxia có dân số hơn 100 triệu người và rất giàu nguồn tài
nguyên thiên nhiên như dầu mỏ, cao su, v.v…” Liệu, có ai
“chấp nhận một sự thịnh vượng chung mới của toàn Châu Á một lần nữa,
phải cam kết hỗ trợ cho sự hồi phục của kẻ thù và kẻ xâm lược họ trước
đây.” Phía Philippin phản ứng, theo tờ Times của
Manila::"Tại sao Cộng hòa Philippin lại phải nhất trí với một thỏa thuận
theo đó người Nhật sẽ được lợi và thịnh vượng, trong khi người
Philippin vẫn phải dựa trên cơ sở thực dân cũ là cung cấp các nguyên
liệu thô cơ bản cho kẻ thù cũ để đổi lấy những thứ không đáng giá như
chuỗi hạt thủy tinh, nhẫn đồng và gương soi cầm tay? Đặc biệt là khi
người Philippin có thể tự làm ra chúng." Inđônêxia, lại càng không có cơ sở để đồng ý.
Vừa giành được độc lập từ tay phát xít Nhật (17-8-1945),
Inđônêxia phải đấu tranh chống sự trở lại của thực dân Hà Lan. Mặc dầu,
đến tháng 11 năm 1949, Hội nghị La Hay, Hà Lan đã công nhận và trao trả
chủ quyền nhưng về nhiều mặt vẫn còn bị hạn chế. Inđônêxia buộc gia
nhập Liên minh Hà Lan – Inđônêxia, do nữ hoàng Hà Lan đứng đầu và lệ
thuộc hoàn toàn vào Hà Lan về thương mại, ngoại giao, đảm bảo tôn trọng
mọi quyền lợi, tài sản của người Hà Lan trên đất nước Inđônêxia, và buộc
phải trao trả các đồn điền xí nghiệp… cho tư bản nước ngoài. Chính
vì thế, Inđônêxia vẫn phải tiếp tục đấu tranh để giành độc lập hoàn
toàn. Và trong nhận thức của Inđônêxia thì Hà Lan hay Mỹ, Nhật không
khác nhau về bản chất. Những quốc gia “phi Cộng sản” mà lại không mấy thân thiện với Mỹ, nếu “bị ảnh hưởng của Cộng sản” thì sẽ ra sao...
Trong khi đó, một quốc gia Đông Nam Á khác là Việt Nam, ở đó một chính
quyền “Cộng sản” vừa mới được thành lập (8 năm 1945). Và tháng 1 năm
1950, Liên Xô, Trung Hoa đã công nhận nền độc lập đó, bắt đầu giúp đỡ.
Theo thuyết Domino [3] của chính giới Mỹ: “Cộng sản” đã từ
Liên Xô, Trung Quốc đang tràn xuống Việt Nam nếu không ngăn chặn kịp
thời, rồi sẽ từ Việt Nam lan ra khắp Đông Nam Á… Trở lại vấn đề Nhật
Bản… do về lâu dài, Nhật phụ thuộc rất lớn vào nguồn tài nguyên của
Đông Nam Á, cho nên có một sự thắng lợi nào của “Cộng sản” sẽ dẫn đến
tình trạng “Thân cộng” hoặc thậm chí ngã về “Phe cộng sản” của Nhật, thì
vai trò là một “viên cảnh sát” khu vực châu Á sẽ mất đi, lực lượng
“Cộng sản” sẽ lớn mạnh hơn... Việc đó, sẽ đưa đến nhiều
nguy cơ cho Mỹ. Trong báo cáo bí mật của Hội đồng An ninh Quốc gia Mỹ
vào tháng 6 năm 1952 viết: Sự lớn mạnh của Cộng sản trên toàn cõi
Đông Nam Á sẽ làm cho vị thế của Hoa Kỳ tại các căn cứ quân sự dọc theo
bờ biển Trung Quốc, Philippine, Đài Loan, Nhật Bản, Triều Tiên và ngoài
khơi Thái Bình Dương trở nên không ổn định và đe dọa nghiêm trọng đến
lợi ích an ninh của Hoa Kỳ tại vùng Viễn Đông. Tài liệu mật của Bộ
Quốc phòng Mỹ về chiến tranh xâm lược Việt Nam, viết thêm:"Ách thống trị
của Cộng sản, dù với biện pháp gì… trước mắt sẽ gây nguy hại nghiêm
trọng và về lâu về dài nguy hại một cách nguy kịch đến lợi ích an ninh
quốc gia Mỹ. " Nói theo cách khác, “Tiền đề căn bản của chủ
nghĩa quốc tế Mỹ là chủ nghĩa tư bản Mỹ chỉ có thể thịnh vượng nếu như
những đối tác thương mại chủ yếu của nó, Nhật Bản và các quốc gia nòng
cốt khác, cũng thịnh vượng.” . Chính vì thế, nên chính quyền Nhà Trắng
sẽ thực hiện mọi biện pháp, dưới nhiều hình thức để có thể hội nhập vùng
ngoại vi vào nền kinh tế trung tâm (Nhật Bản) một cách hiệu quả hơn.
Tình hình cụ thể ở Việt Nam, chứng minh rõ hơn cho vấn đề này …
Trước giai đoạn năm 1945 – 1950 [4], Mỹ đã có âm mưu “đặt ảnh hưởng” ở
Việt Nam. Tổng thống F.Rudơven tuyên bố: “Hơn một năm qua, tôi đã bày tỏ
ý kiến rằng, Đông Dương không thể trả lại cho Pháp mà cần được thác
quản quốc tế…”. Do vậy, nên Mỹ đã không “ủng hộ” việc trở lại của Pháp,
ngày 3-11-1944, tổng thống F.Rudơven ra chỉ thị: 1 (…)
2. Các nhân viên quân sự và dân sự Mỹ không được thảo luận và
đồng ý về bất cứ điều gì với Pháp liên quan tới Đông Dương.
3. Từ chối giúp Pháp về tất cả các trang thiết bị, vũ khí và phương tiện
chuyển quân sang Viễn Đông... Tháng 1 năm 1945, F.Rudơven đã có công
hàm chính thức từ chối yêu cầu khẩn thiết của Pháp về việc cung cấp tàu
chở quân Pháp sang Viễn Đông… Sự kiện khác, ngày 22 – 8 Tổng
thống Pháp De Gaulle bay sang Oasinhtơn hội đàm với Tổng thống Mỹ
Truman. De Gaulle tuyên bố sẽ thiết lập một chế độ mới ở Đông Dương,
chính phủ gồm người bản xứ và kiều dân Pháp do đại diện chính phủ Pháp
đứng đầu và quân Pháp sẽ vào Đông Dương tước vũ khí quân Nhật.
Kế hoạch này, không được Nhà Trắng chấp thuận. Vì Mỹ chỉ muốn quân
Tưởng làm nhiệm vụ này (giải giáp quân Nhật), muốn “nắm” Việt Nam thông
qua chính quyền Tưởng Giới Thạch… Nhưng sau đó, do có sự
tranh chấp giữa Mỹ và Anh, Mỹ buộc phải đi đến thỏa hiệp, lấy vĩ tuyến
16, phân chia vùng ảnh hưởng ở Việt Nam. Bắc vĩ tuyến 16 do lực lượng
thân Mỹ là quân Tưởng chiếm đóng; nam vĩ tuyến 16 do lực lượng thân Anh
[5] là Pháp tiếp quản. Một biến cố mới… Vì lúc này, Tưởng
phải tập trung lực lượng đối phó với Đảng Cộng sản Trung Quốc, đồng
thời Tưởng cũng được “nhiều lợi” từ Pháp [6] nên ngày 28 tháng 2 năm
1946, với Hiệp ước Hoa – Pháp, Tưởng đã nhượng bắc vĩ tuyến 16 cho Pháp. Thế nhưng, Mỹ vẫn chưa bỏ ý định về Việt Nam…
Từ ngày 1 tháng 5 năm 1950, lợi dụng sự suy yếu của Pháp trước
“sức mạnh của Cộng sản” Việt Nam, tổng thống Truman tuyên bố viện trợ
cho Pháp. Mục đích, để từng bước “nắm” lại Việt Nam từ tay Pháp.
Chủ trương của Mỹ là vừa đe dọa để mở rộng chiến tranh vừa tăng
cường nắm và củng cố ngụy quân ngụy quyền chuẩn bị điều kiện để Mỹ sớm
thay Pháp ở Đông Dương. Mỹ muốn kéo dài cuộc chiến tranh để Pháp và Việt
Nam cùng suy yếu, thuận lợi cho việc Mỹ vào Đông Dương. Sau
thắng lợi quyết chiến chiến lược ở Điện Biên Phủ của Việt Nam dẫn đến
việc Pháp phải ký Hiệp định đình chiến ở Genève... Cộng thêm,
từ sau hành động can thiệp quân sự, kéo dài chiến tranh ở Triều Tiên,
Mỹ “đã giành được thắng lợi từ thế bế tắc… cơ sở cần thiết để thúc đẩy
việc quân sự hóa chính sách đối ngoại của Mỹ” . Quốc hội Mỹ đã tăng
khoản chi cho các vấn đề quân sự nhiều hơn trước. Đồng thời, các
nước đồng minh trong hiệp ước: Mỹ - Nhật, ANZUS, NATO… sẽ “ủng hộ” mọi
hành động về Việt Nam của Mỹ, nhằm đảm bảo những cam kết “an ninh” của
Mỹ còn nguyên giá trị ban đầu. Ở thời điểm lúc đó, mọi vấn đề hình
như rất thuận lợi cho việc Mỹ thay Pháp… Vì thế, Mỹ thúc giục Pháp sớm
ký hiệp kết Hiệp định đình chiến với Việt Nam và Mỹ thực hiện ngay ý đồ
thay Pháp ở Việt Nam và cả Đông Dương. Trong lúc nền kinh tế
Pháp kiệt quệ, chính trị rối ren, nội bộ chia rẽ, lại phải đối phó với
cuộc chiến tranh giành độc lập của nhân dân Angiêri, Pháp đành phải
nhượng bộ Mỹ, rút khỏi Việt Nam. Vậy là, từ chỗ chỉ là một kẻ can
thiệp thông qua viện trợ quân sự cho Pháp, sau năm 1954, Mỹ chuyển sang,
đóng vai trò là kẻ xâm lược Việt Nam. Được bắt đầu một cách
thận trọng, thậm chí có phần nào ngờ vực, tới năm 1955, Hoa Kỳ đã dần
dần tăng cường nỗ lực của mình nhằm tạo ra một quốc gia nam Việt Nam từ
con số không. [17, tr. 261] …sử dụng họ như tấm gương cho phần còn lại
của khu vực ngoại vi thấy rằng, trên thực tế, việc chơi theo luật chơi
của chủ nghĩa quốc tế Mỹ sẽ được thưởng công. Nhìn lại toàn
cảnh về chính sách của Mỹ, ta thấy chính quyền Nhà Trắng đã lợi dụng
chiêu bài chống “Cộng sản” để “lôi kéo” người dân, Quốc hội “ủng hộ”
trong việc “chi tiền” và đồng thời làm nguyên cớ lãnh đạo các nước “đồng
minh” cho vấn đề mở rộng ảnh hưởng toàn cầu… Nên, dù có hay
không, một nhà nước “Cộng sản”, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời năm
1945; một sự thiết lập ngoại giao của các nước xã hội chủ nghĩa từ năm
1950 thì Mỹ vẫn xâm lược Việt Nam. Sẽ không có gì khác, nếu có khác chỉ là về hình thức mà thôi: có thể ràng buộc về kinh tế hoặc can thiệp quân sự…
Do vậy, chúng ta hiểu cuộc chiến tranh Đông Dương lần 2, Mỹ
tiến hành mục đích để chống sự bành trướng của “Cộng sản” và cốt yếu là
thực hiện giấc mơ bá quyền, cái đích mà giới cầm quyền Nhà Trắng hướng
tới.
Chú thích [1] Vì với bản chất quân phiệt hiếu
chiến, cộng thêm tư tưởng đế quốc, tư tưởng bành trướng… nên nếu được
tái công nghiệp, phát triển trở lại, không có đối trọng ở châu Á. Nhật
có nguy cơ mở rộng chiến tranh xâm lược, giành lại thị trường. Nhiệm vụ
của Mỹ, ở thời điểm hiện tại là phải loại bỏ được các tư tưởng này. [2] Quân tình nguyện Trung Quốc đến Triều Tiên từ trung tuần tháng 10 năm 1953, theo tinh thần “Kháng Mỹ Viện Triều”.
[3] Do tổng thống Mỹ Truman đề xuất năm 1946, là thuyết về phản
ứng dây chuyền của hệ thống các nước. Nếu một nước trong hệ thống đó bị
sụp đổ, thì các nước còn lại trong hệ thống cũng sụp đổ theo. [4] Cái móc thời gian mà Mỹ cho là “Cộng sản” từ Liên Xô đã tràn sang Trung Quốc, rồi đến Việt Nam.
[5] Việc Anh giúp Pháp trở lại xâm lược Đông Dương, không phải
vì “tình nghĩa” đồng minh. Mà xuất phát từ quyền lợi: Pháp nhượng bộ Anh
ở Xiri, nơi tranh chấp Pháp – Anh từ trước, đổi lại Anh ủng hộ Pháp tái
chiếm Đông Dương. [6] Pháp nhượng cho Tưởng một số quyền lợi
về kinh tế, chính trị: tự do thu thuế ở cảng Hải Phòng, trả lại đoạn
dường sắt Hồ Kiều – Côn Minh…
Dương Văn Triêm (Hội sử học Đồng Tháp)
BẢN CHẤT CỦA CUỘC CHIẾN TRANH 1954 - 1975 TẠI VIỆT NAM
Đi tìm cội nguồn của một chính thể
Ngày 20-7-1954, Hiệp định Genève về chiến tranh Đông Dương được ký kết.
Theo đó, Việt Nam sẽ tạm thời bị chia cắt bằng ranh giới là vĩ tuyến 17
để quân đội các bên tập kết. Quân đội Pháp sẽ rút khỏi Việt Nam và trao
quyền quyết định vận mệnh dân tộc mình cho người Việt Nam. Một năm sau
đó sẽ tiến hành hiệp thương và một năm sau nữa sẽ tiến hành tổng tuyển
cử để thống nhất đất nước. Tuy nhiên, thực tế đã không diễn ra như
vậy. Diễn văn trong buổi họp mừng Quốc khánh 2-9-1954, Phó Thủ tướng
Phạm Văn Đồng đã nêu: “Hiện nay, đình chiến đã ký kết, hòa bình đang trở
lại ở Đông Dương, thì chúng (đế quốc Mỹ) ra sức phá hoại việc thi hành
đình chiến, phá hoại việc lập lại hòa bình. Từ những việc như: tàu của
hải quân Mỹ đến chở dân miền Bắc Việt Nam bị bọn Ngô Đình Diệm ép đi vào
miền Nam; trù tính kế hoạch “viện trợ” cho bọn Ngô Đình Diệm; cho đến
âm mưu thành lập “khối phòng thủ Đông Nam Á”, mục đích của bọn can thiệp
Mỹ là phá hoại sự thực hiện hiệp định đình chiến ở Đông Dương…”[1].
Năm 1954, Ngô Đình Diệm được Mỹ đưa về miền Nam làm Thủ tướng của Quốc
trưởng Bảo Đại. Một năm sau đó, Diệm làm cái gọi là “trưng cầu dân ý” để
phế truất Bảo Đại và lập nên Việt Nam Cộng hòa. Ngày 26-10-1955 trở
thành “ngày Quốc khánh” của chế độ Diệm. Trong bộ Miền Nam giữ vững
Thành Đồng, GS. Trần Văn Giàu khẳng định: “Trên đường thiết lập nền độc
tài cá nhân của nó, từ năm 1955 đến năm 1956, Ngô Đình Diệm chẳng những
ra sức tiêu diệt các đảng phái và giáo phái đối lập, mà lại còn song
song ra sức tạo cho chính quyền độc tài cá nhân đó một cơ sở pháp lý,
một bề ngoài dân chủ”[2]. Thực tế cho thấy, đô la, vũ khí, cố vấn Mỹ
tung vào miền Nam là yếu tố nền tảng cho việc xây dựng và củng cố chính
quyền của Ngô Đình Diệm. Đó chính là nguồn sống của chính quyền Diệm,
không có những nguồn sống ấy, thì chính quyền này không thể đứng được.
Báo cáo tại kỳ họp thứ hai Quốc hội khóa II, ngày 12-4-1961, Thủ tướng
Phạm Văn Đồng khẳng định: “Chế độ Ngô Đình Diệm là con đẻ của đế quốc
Mỹ, tội ác của gia đình họ Ngô là tội ác của đế quốc Mỹ. Nhân dân ta ở
miền Nam chống Ngô Đình Diệm tức là chống đế quốc Mỹ…”[3].
Rõ ràng, cái được gọi là nền “đệ nhất cộng hòa”, một chính thể tự cho
là tự do, dân chủ, độc lập…, thực chất là một thứ tầm gửi. Tính chất tầm
gửi đó có thể được nhìn nhận qua hoạt động cưỡng ép di cư. “Mục đích
chính trị căn bản của cuộc cưỡng ép di cư này là: Thứ nhất, làm cho dư
luận ở xứ này và dư luận ở nước ngoài tưởng rằng đông đảo nhân dân miền
Bắc trốn tránh chế độ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đi theo chế độ miền Nam
tốt hơn, hấp dẫn hơn. Thứ hai, và điều này mới là chủ yếu, tạo cho
chính quyền miền Nam, chính quyền Ngô Đình Diệm, một chỗ dựa cần thiết,
một nguồn tuyển mộ quân lính, tay sai, bè đảng, để dùng vào việc thực
hiện kế hoạch xây dựng nền độc tài của Diệm, tức là chế độ thuộc địa
kiểu mới ở miền Nam”[4]. Cuộc cưỡng ép di cư này còn có một số mục
đích khác nữa. Đó là về kinh tế - xã hội, đối với miền Bắc, Mỹ - Diệm hi
vọng rút được một số lượng trí thức, công nhân kỹ thuật vào Nam, tạo ra
những xáo động lớn, phá hoại sản xuất, làm cho miền Bắc không ổn định
về kinh tế, khiến cho lòng người li tán, gây khó khăn cho ta trong cuộc
đấu tranh thống nhất nước nhà và hàn gắn vết thương sau chiến tranh. Đối
với miền Nam, vùng bị tạm chiếm, dân di cư sẽ là nguồn cung cấp nhân
công cho các đồn điền cao su, cà phê, cây ăn quả và một số cây công
nghiệp mới du nhập. Đồng thời, với số người di cư, Mỹ - Diệm nhằm “thăng
bằng sự chênh lệch giữa dân số miền Bắc 12 triệu và dân số miền Nam 11
triệu”. Điều này có nghĩa là “tăng thêm hi vọng của thắng lợi tổng tuyển
cử”. Đồng bào di cư còn là nguồn nhân lực quan trọng đáng kể để xây
dựng ngụy quân, củng cố ngụy quyền. Những thủ đoạn tàn bạo của đế quốc Mỹ và chính quyền tay sai
Trong những hoạt động nhằm củng cố quyền lực của mình, Ngô Đình Diệm,
được sự hậu thuẫn mạnh mẽ của quan thầy Mỹ, đã có nhiều thủ đoạn tàn
bạo. Đó là loại trừ tham mưu trưởng thân Pháp Nguyễn Văn Hinh (và thay
bằng Lê Văn Tỵ); tiêu diệt Đại Việt ở Quảng Trị, Phú Yên; tiêu diệt Quốc
dân đảng ở Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Kontum… Chủ trương tập
trung quyền lực của Diệm đã làm các thế lực quân sự cát cứ hoảng sợ.
Cao Đài, Hòa Hảo, Bình Xuyên bắt đầu liên kết để chống lại Diệm, thường
được gọi là “Tam liên”. Diệm đồng thời chia rẽ trong hàng ngũ Tam liên
và trong từng thế lực quân sự, tổ chức các chiến dịch quân sự và dụ dỗ,
mua chuộc. Kết quả là Bình Xuyên bị đánh bại hoàn toàn. Giáo phái Hòa
Hảo cũng nhanh chóng bị loại trừ, khi một số thủ lĩnh lớp bị giết (Ba
Cụt – Trần Quang Vinh), lớp bị mua chuộc (Hai Ngoán – Lâm Thành Nguyên,
Nguyễn Giác Ngộ), lớp bị đánh bại rồi chịu đầu hàng (Năm Lửa – Trần Văn
Soái)… Còn với Cao Đài, sau khi hai chỉ huy quân sự là Trịnh Minh Thế và
Nguyễn Thành Phương hợp tác với Diệm thì lực lượng còn lại dần yếu thế,
cuối cùng Hộ pháp Phạm Công Tắc phải bỏ chạy ra nước ngoài để tránh bị
Diệm làm hại. Như vậy, chỉ trong vòng hơn 1 năm, các thế lực quân sự cát
cứ gần như bị Diệm tiêu diệt hoàn toàn. Trong lúc vừa trấn áp các
giáo phái và thế lực đối lập, trong thời gian 300 ngày, chế độ Diệm đã
thi hành ngay chính sách trả thù những người kháng chiến. Thủ đoạn của
Diệm vô cùng phong phú và hậu quả thì vô cùng nặng nề. Các thủ đoạn đó
là: Thứ nhất, phân loại công dân và phân biệt đối xử. Chúng phân
thành 3 loại: loại A (công dân bất hợp pháp, là những người yêu nước,
yêu hòa bình, ủng hộ Hiệp định Genève, từng tham gia kháng chiến), loại B
(công dân bán hợp pháp, gồm họ hàng, bạn bè của loại A và họ hàng, bạn
bè những người đi tập kết ra Bắc), loại C (công dân hợp pháp, gồm những
người còn lại). Đường lối của Diệm là dựa vào loại A đánh vào loại C,
làm cho loại B khiếp sợ và khuất phục. Thứ hai, đàn áp các cuộc biểu
tình chống áp bức và đòi thi hành đúng các điều khoản của Hiệp định
Genève. Chẳng hạn, vụ Mỏ Cày (Bến Tre, tháng 9-1954), vụ Cây Cốc (Quảng
Nam, tháng 9-1954), vụ Trà Ôn (Vĩnh Long, tháng 10-1954)… Thứ ba, tổ
chức khủng bố những người từng tham gia kháng chiến. Một số vụ tàn sát
điển hình, như vụ triệt hạ Hướng Điền (Quảng Trị, tháng 7-1955, giết hại
3 lần với tổng cộng 91 người, trong đó có 15 phụ nữ và trẻ em gái bị
hãm hiếp), vụ Đại Lộc (Quảng Nam, cuối năm 1957, bắt và giết hại 5.000
người)… Diệm cũng cho xây dựng hệ thống nhà tù và trại tập trung dày
đặc. Nhà tù cỡ lớn giam từ ngàn người trở lên thì lúc này miền Nam có
khoảng 100 cái, như Chí Hòa (chứa 4.000 người), Phú Lợi (6.000 người),
Biên Hòa (3.000 người), Thủ Đức chứa (2.000 người)… Về quãng thời
gian khó khăn này, Đại tướng Văn Tiến Dũng nhận xét: “Trong 5 năm đấu
tranh chính trị gay go và quyết liệt, đồng bào miền Nam đã chịu đựng
nhiều đau thương và tổn thất, hàng ngàn xóm làng bị địch đốt phá, hàng
chục vạn cán bộ, đảng viên bị giam cầm, tra tấn và bắn giết”[5]. Tài
liệu của Đại tướng dẫn lại cho biết, tính đến cuối năm 1957, lực lượng
của Đảng ở các tỉnh đồng bằng khu 5 bị tổn thất nặng nề: 70% đảng ủy
viên xã, 60% huyện ủy viên, 40% tỉnh ủy viên bị bắt và bị giết. Tỉnh có
phong trào khá nhất, chỉ còn 10 chi bộ, mỗi chi bộ 3 đảng viên, tỉnh yếu
còn 2, 3 chi bộ, 12 huyện đồng bằng mất hết cơ sở đảng. Tại Nam bộ,
tính chung từ tháng 7-1955 đến tháng 2-1956, chúng đã giết hại, giam
cầm 93.362 cán bộ, đảng viên. Từ năm 1955 đến 1958, chúng giết hại
khoảng 68.000 cán bộ, đảng viên, bắt giam 446.000 người. Chưa hết, tháng
12-1958, chúng đầu độc hàng nghìn tù chính trị tại trại giam Phú Lợi.
Tháng 4-1959, Diệm tuyên bố “đặt miền Nam trong tình trạng khẩn cấp”[6]. Bắt đầu một cuộc chiến chính nghĩa
Sau khi hết 300 ngày chuyển quân, Mỹ và chính quyền Ngô Đình Diệm phớt
lờ và tiếp tục phủ nhận Hiệp định Genève. Trong khi đó, Chính phủ Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa đề nghị mở hội nghị hiệp thương thì Diệm từ chối.
Các luận điệu xuyên tạc (như Hiệp định Genève chỉ nói hiệp thương chứ
không nói hội nghị hiệp thương, chính quyền Việt Nam Cộng hòa không ký
Hiệp định Genève nên không cần phải thực hiện, miền Bắc không có dân chủ
nên không thể tổng tuyển cử tự do…) đều bị đánh tan. Hồi ức Đại
tướng Văn Tiến Dũng nêu rõ: “Đảng ta đã chỉ rõ rằng: đứng trước chính
sách cực kỳ phản động và tàn bạo của Mỹ - Diệm, nhân dân miền Nam không
có con đường nào khác là đứng lên làm cách mạng để cứu nước, cứu mình.
Do đó, mục đích cách mạng miền Nam là phải đánh đổ chính quyền độc tài
phát xít Ngô Đình Diệm và đánh đổ bằng con đường cách mạng”[7]. Nghị
quyết 15 được Ban Chấp hành Trung ương thông qua tháng 1-1959 đã chỉ
rõ: Phương pháp cách mạng và phương thức đấu tranh là dùng bạo lực cách
mạng từ đấu tranh chính trị tiến lên kết hợp đấu tranh chính trị và đấu
tranh vũ trang, con đường phát triển cơ bản của cách mạng Việt Nam ở
miền Nam là khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân. Ngày
17-1-1960, phong trào đồng khởi nổ ra ở Bến Tre sau đó lan rộng ra khắp
miền Nam. Cuộc chiến vũ trang chống Mỹ và tay sai bắt đầu từ đó. Rõ
ràng, chế độ Ngô Đình Diệm là sự khởi đầu của chế độ thực dân mới của đế
quốc Mỹ ở miền Nam nên cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước bắt đầu từ
cuộc đấu tranh chống chế độ Ngô Đình Diệm. Từ năm 1961, Mỹ thực hiện
chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” ở miền Nam, bằng cách xây dựng quân
đội Sài Gòn mạnh với vũ khí, trang bị và cố vấn Mỹ, tiến hành “bình
định” và lập “ấp chiến lược”, nhằm tiêu diệt các lực lượng vũ trang miền
Nam. Nhưng âm mưu bình định và dồn dân trong các chiến lược không đạt
kết quả, buộc Mỹ phải tăng dần lực lượng, từ 30.000 cố vấn năm 1964 lên
184.314 cố vấn và binh lính vào năm 1965. Cuối năm 1965, Mỹ chuyển
sang chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, trực tiếp đưa quân chiến đấu từ Mỹ
sang, “tìm và diệt” quân chủ lực miền Nam, đồng thời đẩy mạnh chiến
tranh phá hoại ở miền Bắc. Lực lượng Mỹ có mặt ở miền Nam đến cuối năm
1968 lên tới 545.000 tên; các nước như Thái Lan, Philippines, Úc, New
Zealand và Hàn Quốc huy động thêm 70.000 quân nữa. Số lính Việt Nam Cộng
hòa lúc này là 600.000 quân. Đây là những minh chứng thuyết phục cho
hành vi xâm lược của Mỹ tại Việt Nam. Thực tế Mỹ không chỉ xâm lược
miền Nam, chiếm đóng thông qua chính quyền tay sai, mà còn nhiều lần xâm
phạm miền Bắc bằng đường không (dùng máy bay oanh tạc), đường biển (thả
ngư lôi dọc theo bờ biển miền Bắc), đường bộ (dùng biệt kích xâm nhập
trực tiếp). Hoạt động chiến tranh của Mỹ tuy không xây dựng chính quyền
do người Mỹ đứng đầu như Pháp nhưng hòng biến miền Nam (nếu có thể thì
cả Việt Nam) thành vùng phụ thuộc Mỹ, làm tiền đồn chống lại sự phát
triển của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở châu Á – Thái Bình Dương, làm thị
trường tiêu thụ sản phẩm của Mỹ và cung cấp nguyên vật liệu cho Mỹ…
Nếu chỉ là cuộc chiến nội bộ của người Việt Nam (civil war) thì khắp
thế giới nói chung và nước Mỹ nói riêng đã không có hành động phản chiến
quyết liệt. Trong suốt cuộc chiến, có hơn 200 tổ chức, ủy ban, phong
trào đoàn kết ủng hộ Việt Nam, hơn 50 nước có phong trào quyên góp ủng
hộ Việt Nam, hơn 160 triệu người ở nhiều nước ghi tên tình nguyện sang
Việt Nam đánh Mỹ, 83 cơ quan đại diện Mỹ ở các nước bị nhân dân đập phá…
Tại Mỹ, có nhiều công dân Mỹ tự thiêu để phản đối cuộc chiến, trong đó
có nhân vật nổi tiếng là Norman Morison; hơn 200 tổ chức chống chiến
tranh xâm lược trên khắp các bang; 16/27 triệu thanh niên Mỹ tới tuổi
quân dịch đã chống lệnh quân dịch; 75.000 người Mỹ bỏ ra nước ngoài vì
không chịu nhập ngũ và đấu tranh phản chiến…[8] Cả cựu Tổng thống Mỹ
Bill Clinton (1993 – 2001) khi còn là sinh viên cũng từng đấu tranh phản
chiến. Do đó, cuộc chiến tranh tại Việt Nam là cuộc chiến tranh xâm
lược của Mỹ và chống xâm lược của nhân dân Việt Nam. Với nhân dân ta,
đó là cuộc chiến chống xâm lược vĩ đại của dân tộc Việt Nam trong thế kỷ
XX!
TRÚC GIANG Trích đăng từ trang thông tin điện tử codotphcm.com
Quân đội nhân dân Việt Nam qua đánh giá của đối phương
Ngày 22/12/1944, Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải
phóng quân - tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam ra đời.
Trong suốt 75 năm xây
dựng, chiến đấu và trưởng thành, đội quân cách mạng của dân,
do dân và vì dân do Đảng Cộng sản Việt Nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ
Chí Minh giáo dục và rèn luyện đã lập nên những chiến công
vang dội: đánh thắng phát xít Nhật trong Cách mạng tháng Tám, giành
độc lập dân tộc, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa; đánh thắng hai
cường quốc thế giới là thực dân Pháp và đế quốc Mỹ; làm tròn
nghĩa vụ quốc tế đối với cách mạng Lào và Campuchia, góp phần quan
trọng vào sự nghiệp đấu tranh vì hòa bình, độc lập, dân chủ và tiến bộ
nhân loại.
Chiều 7/5/1954, lá cờ "Quyết chiến - Quyết thắng" của quân đội ta tung bay trên nóc hầm tướng De Castries. Ảnh: TTXVN
Lý giải về thắng lợi vĩ đại của Quân đội nhân dân Việt Nam
trong 75 năm qua, đặc biệt là trong hai cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, bạn bè trên thế giới đều khẳng
định: Quân đội nhân dân Việt Nam là một quân đội kiểu mới, được
xây dựng trên nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh. Đó còn là một quân đội tuyệt đối trung thành với
Đảng, với Tổ quốc và nhân dân, anh dũng chiến đấu; đoàn kết quốc tế, chí
nghĩa, chí tình; cần, kiệm, liêm, chính trong xây dựng và chiến đấu;
đánh thắng mọi kẻ thù…
Không chỉ bạn bè quốc tế đánh giá cao về Quân đội nhân dân
Việt Nam, mà cả đối phương - những người trước đây ở bên kia
chiến tuyến cũng phải thừa nhận về phẩm giá của "Bộ đội Cụ
Hồ".
Nhân kỷ niệm 75 năm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam, 30 năm
Ngày Quốc phòng toàn dân, TTXVN trân trọng giới thiệu bài viết "Quân
đội nhân dân Việt Nam qua đánh giá của đối phương" của Đại tá, Tiến sĩ
Trương Mai Hương, Phó Viện trưởng Viện Lịch sử quân sự Việt Nam.
Tướng Raoul Salan - người trực tiếp cầm quân trên chiến trường Việt
Nam khi nói về lực lượng Việt Minh đã thừa nhận: "Quân đội Việt Minh
là một lực lượng bộ binh xuất sắc… Lính bộ binh chính quy Việt Minh theo
quan niệm của tôi, là địch thủ ghê gớm nhất mà Pháp đã gặp phải từ sau
trận Verdun (Vécđoong). Lính bộ binh Việt Nam còn mạnh hơn người lính
Đức vì với chất lượng đã có lại cộng thêm sức mạnh tập thể…". Và trong
cuốn sách của mình - "Đông Dương đỏ", Raoul Salan khẳng định: "Sau 30
năm chiến tranh, vừa kết hợp được khả năng chiến đấu của mình, với lòng
cuồng nhiệt và hăng say của quần chúng, người lính Việt Minh quả thực là
một địch thủ đáng sợ trong thời đại ngày nay" và "Quân đội của họ (Việt
Minh) - quân đội giỏi nhất trên thế giới hiện nay, đã chiến đấu kể từ
năm 1945. Được trưởng thành trong khói lửa, quân đội này đã đạt tới đỉnh
cao. Đó là một bộ máy chiến tranh không gì sánh kịp".
Khi đề cập đến các yếu tố khiến cho Việt Minh luôn giành
thắng lợi, nhà sử học người Pháp André Telière khẳng định: "Mặc dù
được trang bị thô sơ và kém hơn nhiều so với quân Pháp, nhưng
vũ khí lợi hại nhất mà Việt Minh thường sử dụng để chế áp
súng đạn của quân Pháp là dùng chiến lược đánh vào tinh thần đối
phương", "chiến lược chiến tranh nhân dân và chiến tranh lâu dài để
thắng địch". "Chiến lược phòng thủ của Việt Minh dựa vào các chiến khu,
căn cứ và tổ chức quấy rối rộng khắp, vì thế đã tỏ ra rất có lợi. Còn
chiến lược tiến công thì bao giờ họ cũng tìm cách đạt được tối đa khả
năng di động để điều quân và tiến công đối phương". Trong tác chiến,
Việt Minh thường vận dụng phương thức "hành quân ngắn và hành quân ban
đêm vì nó giúp đạt được yếu tố chủ yếu trong trận đánh, tức là sự bất
ngờ" và "Việt Minh được công nhận là bậc thầy trong loại chiến đấu
này".
Trong cuốn "Lịch sử chiến tranh Việt Nam 1946 - 1975" (Vietnam
at war, the history 1946 - 1975), Phillip B. Davidson đã phản ánh
nỗi thất vọng của những binh lính Pháp khi đối mặt với lực
lượng Việt Minh trong trận Điện Biên Phủ: "Chúng tôi chẳng biết
phải vào cuộc như thế nào vì biết mình khó giành thắng lợi.
Việt Minh là đội quân chân trần nhưng có ý chí thép. Họ thoắt
ẩn, thoắt hiện như những con sóc và chỉ chờ lúc chúng tôi sơ
hở là nổ súng... Việt Minh là những chiến binh rừng núi thực
thụ vì từ Chiến tranh thế giới thứ hai trở đi họ luôn phải chiến đấu
với người Nhật và sau đó là người Pháp để giải phóng Đông
Dương. Trên phương diện đó, họ là những cầu thủ của đội bóng
chuyên nghiệp, còn chúng tôi là những cầu thủ nghiệp dư".
Và các tù binh Pháp bị bắt trong chiến tranh đã nói lên tiếng nói
của sự thật - điều mà các Chính phủ của họ, bằng cách này hay cách khác,
đã che giấu: "Việt Minh và nhân dân Việt Nam giành thắng lợi vì
họ đã anh hùng đoàn kết vì một lý tưởng, đã chiến đấu bằng tất cả sức
mạnh của mình để chiến thắng quân đội viễn chinh Pháp được trang bị vũ
khí hiện đại và máy bay của Mỹ. Nguồn gốc thắng lợi của họ chính là sự
nghiệp đúng đắn vì nền độc lập dân tộc của mình, trong khi đó thì quân
đội viễn chinh Pháp chiến đấu chỉ vì mục đích kiếm tiền… Không chỉ có
mục tiêu và lý tưởng chiến đấu cao đẹp, Việt Minh và người dân
Việt Nam còn là những người có trái tim nồng hậu, bởi từ khi
bị bắt, chúng tôi đã luôn được cán bộ và chiến sĩ Việt Minh cũng như
nhân dân Việt Nam đối xử tốt. Nhờ vào lòng khoan hồng của họ, chúng tôi
còn sống và đã được hồi hương. Khi chuẩn bị về nước, tôi đã
khóc vì có một cụ già đến nắm vai tôi và chúc mừng tôi như một
người mẹ hiền nói với con trai mình".
Nhiều tài liệu Pháp cũng tập trung phân tích, mổ xẻ về nguyên nhân
dẫn đến thất bại của quân Pháp trong cuộc chiến tranh Đông Dương. Tướng
Cogny - Chỉ huy quân đội Pháp ở Bắc Bộ, đổ lỗi cho tướng Navarre. Về
phần tướng Navarre, sau cuốn "Đông Dương hấp hối" xuất bản năm 1956, đến
năm 1979, hơn hai mươi năm sau khi Điện Biên Phủ đi vào lịch sử, Nhà
xuất bản Plon (Paris) lại cho ra mắt bạn đọc cuốn Hồi ký nhan đề "Thời
điểm của những sự thật", phê phán sự chỉ đạo của Chính phủ Laniel không
tạo điều kiện cho ông ta thực hiện các chủ trương chiến lược. Ngược lại,
Lanien, trong cuốn "Thảm kịch Đông Dương", thì lại đổ lỗi cho Navarre,
cho rằng thất bại này chính là do chỉ huy tồi. Những nhận xét, đánh giá,
đổ lỗi cho nhau như trên không có gì làm chúng ta ngạc nhiên bởi bản
chất của chủ nghĩa đế quốc không bao giờ thay đổi khi chiến thắng không
thuộc về họ.
Khi nhận xét về đội ngũ cán bộ chỉ huy của Quân đội nhân dân Việt
Nam, trong cuốn Hồi ký "Chuyện một nền hòa bình bị bỏ lỡ", ông Saiteny -
một chính trị gia Pháp, người giữ vai trò quan trọng của Chính phủ Pháp
tại Đông Dương những năm 1945 - 1946 đã viết: "Quả thật đáng tiếc khi
nước Pháp đã không đánh giá đúng tầm cỡ ông Hồ Chí Minh, không hiểu nổi
vai trò của ông và sức mạnh mà ông có trong tay".
Tác giả Michael Maclear trong cuốn sách "Cuộc chiến tranh mười nghìn
ngày" đã phân tích sâu sắc yếu tố chiến thắng của Quân đội nhân dân Việt
Nam trong Chiến dịch Điện Biên Phủ và vai trò của vị Tổng Tư lệnh: "Đối
với ông Giáp, cảm giác khi gặp thì người ta thấy ông là một con người
giống Napoleon về dáng vóc và kiến thức. Ông ta là một chiến lược gia có
tài, với chủ trương chạy đua thời gian, trước mắt phải diệt tốt, đợi
thời cơ sẽ diệt xe… Ông thua nhiều trận nhưng ông ta lại chẳng bao giờ
thua một cuộc chiến tranh nào".
Không chỉ các tướng lĩnh, cựu binh Pháp mà giới chính trị, quân
sự, các nhà khoa học và cả binh lính Mỹ từng tham chiến tại
Việt Nam cũng đánh giá cao những giá trị được coi là phẩm giá
của Quân đội nhân dân Việt Nam - Quân đội anh hùng của dân tộc anh
hùng.
Trung tá thủy quân lục chiến Mỹ James G.Zumwalt, người từng tham
chiến tại Việt Nam, là con trai của Phó Đô đốc Elmo Russell Zumwalt, Tư
lệnh lực lượng Hải quân Mỹ tại Việt Nam trong giai đoạn 1968 - 1970
khẳng định: Muốn nhìn thấu bản lĩnh, ý chí và sức sáng tạo
của Quân Giải phóng, hãy nhìn vào Đường mòn Hồ Chí Minh và
Địa đạo Củ Chi. "Đường mòn Hồ Chí Minh và Địa đạo Củ Chi là nơi
hội tụ toàn bộ phẩm giá của bộ đội và nhân dân Việt Nam. Đây
cũng là nơi phản ánh rõ nét nhất ý chí thép giúp bộ đội Việt
thắng Mỹ. Đây là một ví dụ vô song về sự toàn thắng của trí tuệ con
người đối với máy móc".
Đánh giá về sự lớn mạnh của Quân đội nhân dân
Việt Nam, Neil Sheehan, cựu phóng viên tờ The New York Times, là tác giả
hai cuốn sách "A Bright Shining Lie: John Paul Vann and America in
Vietnam" (Tạm dịch: "Sự lừa dối hào nhoáng: John Paul Vann và người Mỹ
tại Việt Nam"), và "After The War Over: Hanoi and Saigon" (Tạm dịch:
"Sau chiến tranh: Hà Nội và Sài Gòn") đã khẳng định: "Quân chủ lực có
giác ngộ chính trị và kỹ năng chiến đấu cao nhất, được trang bị bằng
những vũ khí tốt nhất lấy được của đối phương", và bộ đội địa phương thì
"nhiều đơn vị tiểu đoàn độc lập của tỉnh đạt trình độ chiến đấu gần
ngang với những đơn vị chủ lực".
Vào thời điểm đầu năm 1974, quân đội Sài Gòn không còn sức chiếm lại
các vị trí đã mất, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương ta quyết định
hướng tiến công chính là vùng nông thôn, đồng bằng, nhằm đạt mục tiêu cơ
bản là tạo thế, tạo lực, tiến lên giải phóng hoàn toàn Trị - Thiên -
Huế. Kế hoạch là tiến công tiêu diệt một bộ phận lực lượng quân đội Sài
Gòn, giải phóng khu vực Thượng Đức (Quảng Nam), tạo thế uy hiếp thành
phố Đà Nẵng từ hướng Tây Nam, tạo thuận lợi chuẩn bị cho cuộc tổng tiến
công và nổi dậy Xuân 1975 ở địa bàn Quân khu 5. Bị thất bại ở mặt trận
Thượng Đức, đối phương đã chỉ ra nhiều nguyên nhân. Trong đó, nhiều bài
báo, tạp chí đã chỉ trích Mỹ và chính quyền Sài Gòn, ca ngợi trình độ
tác chiến, tinh thần chiến đấu kiên cường, bền bỉ của Quân đội nhân dân
Việt Nam.
Tập san "Quốc phòng" của quân đội Sài Gòn đã nhận xét: "Đây là trận
đánh hiệp đồng binh chủng cường tập rất mạnh của Trung đoàn 66 Cộng sản
Bắc Việt, sau nhiều đợt pháo bắn yểm trợ cho nhiều đợt bộ binh tấn
công". Còn tờ tin "Mỹ và Thế giới" cũng vạch rõ thất bại nặng nề và
khẳng định sức mạnh của Quân Giải phóng: "Tất cả các công sự phòng thủ
cũng như hệ thống giao thông hào đều sụp đổ dưới những đợt pháo kích
liên tục của quân Cộng sản Bắc Việt. Thất bại đối với Mỹ và quân đội Sài
Gòn là không thể tránh khỏi". Phó Tổng thống Mỹ Rokefeller thất vọng:
"Đã quá muộn để có thể làm bất cứ điều gì nhằm lật ngược tình thế tại
Việt Nam Cộng hòa".
Trong cuốn "Cuộc chiến tranh dài ngày nhất của nước Mỹ", tác giả
Herring nhấn mạnh: "Những dấu hiệu cho thấy về sự giảm sút trong mức độ
chi viện của Mỹ có tác động đến tinh thần của một đội quân đang tan tác
dưới những "cú đấm" của Bắc Việt Nam". Tạp chí "Lục quân Mỹ" (Armed
Forcer Journal), số tháng 6/1975 khẳng định: "Có thể thấy sự bi thảm
trong toàn bộ Quân đội Sài Gòn ở giờ phút cuối cùng này… sự thật chúng
ta nhận thấy sức mạnh vượt bậc của quân Cộng sản trên mọi mặt".
Ngày 10/10/1954, các cánh quân của Đại đoàn Quân Tiên phong -
Sư đoàn 308 từ các cửa ô tiến vào giải phóng Thủ đô - dấu mốc kết thúc
thắng lợi cuộc kháng chiến chống Pháp đầy hy sinh, gian khổ kéo dài suốt
9 năm. Ảnh: Tư liệu TTXVN
Với tinh thần quyết chiến quyết thắng, chủ động, sáng tạo và phương
châm "thần tốc, táo bạo", quân và dân ta đã tiến hành thắng lợi Chiến
dịch Hồ Chí Minh lịch sử (30/4/1975), kết thúc cuộc kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Thắng lợi lịch
sử này đã tạo nên "Hội chứng Việt Nam" trong lòng nước Mỹ và câu hỏi "Vì
sao Mỹ thất bại ở Việt Nam?" vẫn luôn được quan tâm và chưa có dấu hiệu
kết thúc.
Một số học giả đã khảo sát công phu để đưa ra những nhận định, đánh
giá và ca ngợi Quân đội nhân dân Việt Nam trên các mặt: Bản chất chính
trị, chiến thuật, chiến lược… qua đó giúp chúng ta có thêm những hiểu
biết về quan điểm của các tác giả nước ngoài, đặc biệt là phía đối
phương. Đây là điều cần thiết để chúng ta khách quan hơn khi nhận thức
về vai trò, vị trí và sứ mệnh của Quân đội nhân dân Việt Nam trong 75
năm xây dựng, chiến đấu, chiến thắng và trưởng thành.
MIỀN TÂY HOANG DẠI Ước gì một lần về thuở ấy miến Tây Sống lầy lội những tháng ngày hoang dại Súng cặp kè hông, nhong nhong lưng ngựa Phóng khoáng thảo nguyên, đạn nổ ì đùng Ta sẽ về, rủ em gái theo cùng Đem tình yêu vào vòng đấu súng Và ngã xuống trong một lần anh dũng Để mai này định nghĩa lại...thằng khùng! Đã khùng rồi thì xá chi anh hùng Của một thời tìm vàng sôi động Người người xô bồ tìm giàu sang cuộc sống Để lại điêu tàn, bắn giết mênh mông! Ta ước thế nghe có rùng rợn không? Trần Hạnh Thu NHẠC HUYỀN THOẠI CAO BỒI VIỄN TÂY
(ĐC sưu tầm trên NET) Bản tin 113 online cập nhật ngày 2/5: Truy tố 254 bị can bị trong đại án sai phạm lĩnh vực đăng kiểm 🔴 TRỰC TIẾP: Thời sự quốc tế 3/5 | Nga tuyên bố khai hỏa Iskander, hủy diệt hai pháo HIMARS Ukraine Tin tức thời sự mới nhất hôm nay | Bản tin sáng ngày 5-3-2024 MỘT CÕI ĐI VỀ (Sáng Tác: Trịnh Công Sơn) - KHÁNH LY OFFICIAL Miễn nhiệm chức vụ Chủ tịch Quốc hội đối với ông Vương Đình Huệ 9 giờ trước Khoảnh khắc tên lửa Nga công kích pháo HIMARS Ukraine 12 giờ trước Mong muốn Campuchia chia sẻ thông tin về Dự án kênh đào Funan Techo 10 giờ trước Gần 50 người chết trong vụ sập đường cao tốc ở Trung Quốc 10 giờ trước Lý do xuất khẩu của Trung Quốc sang Nga bất ngờ sụt giảm 8 giờ trước Ukraine nói Nga sản xuất tên lửa Zircon 'nhanh bất thường' 6 giờ trước Hàng chục nghìn người Gruzia tiến hành biểu tình lớn nhất từ trước tới nay 16 giờ trước Video 'rừng người' xem phương tiện chiến đấu bị Nga tịch thu ở chiến trường Ukraine 16 giờ trước U23 In...
I Only Want to Be with You - Dusty Springfield (Cover by Emily Linge) VẪN THẾ MÀ! Anh vẫn thế, trước sau vẫn thế mà Nhìn anh này, đừng nhìn phía trời xa Vẫn ngày ngày ra ngóng chờ trước của Đợi Nàng Thơ về tác hợp thi ca Tâm hồn anh có cửa đâu mà khóa Mà phải cùng em mở cánh cửa tâm hồn Anh tìm mãi nào thấy đâu ô cửa Toang hoác tứ bề, thông thống càn khôn* Còn trái tim anh vẫn êm đềm, yên ả Vẫn yêu quê hương, tổ quốc, con người Miền nhiệt đới khi thấy tim băng giá Chắc chắn là anh đã ngoẻo tự lâu rồi! Trần Hạnh Thu CT: * Trời đất
Nhận xét
Đăng nhận xét