-Không biết tin ai bây giờ? -Khoa học và sự kỳ diệu là hai người bạn lúc cãi cọ chống đối nhau dữ dội, lúc âm thầm làm cứu cánh cho nhau một cách không ngờ. -Vì khoa học là sự kỳ diệu đã biết và sự kỳ diệu là khoa học chưa biết! -Khi bệnh viện đã bó tay, hết cách, trả về để chờ chết, thì chỉ còn sự kỳ diệu là cứu cánh. -Chết no hay chết đói thì cũng vậy thôi. Nhưng...biết đâu!!!
---------------------------------------------------------------------------
(ĐC sưu tầm trên NET)
Nhịn ăn “bỏ đói tế bào ung thư”: Quan niệm chữa bệnh sai lầm
Thực Dưỡng | Ngô Đức Vượng Tự Chữa Bệnh Ung Thư Bằng Nhịn Ăn 2 Tuần | Phóng Vấn Ngô Đức Vượng
10 năm ròng nhịn ăn để tuyên chiến với ung thư phổi
Ông
Vũ Văn Đãng (Khu 8, thị xã Thanh Thủy, tỉnh Phú Thơ), 2005, bị ung thư
phổi. ông đã tuyệt vọng và rất sợ hãi khi các bệnh nhân ở cùng phòng tại
bệnh viện chết hết người này đến người khác. Một số người có thể sống
sót trong 1 tháng; một số người có thể trụ được 2 hoặc 3 tháng; không ai
kéo dài hơn 1 năm. Ông rất chán nản và không thiết ăn uống, nằm trên
giường bệnh chờ đợi cái chết đến đón ông.
Tuy nhiên, vào thời điểm đó, ông phát hiện ra cách điều trị ung thư thông qua chế độ ăn uống.
Ông
đã kiên trì áp dụng nó trong 10 năm và phương pháp đó đã giúp ông tồn
tại cho đến bây giờ (2015). Thông qua VTC News, ông Vũ Văn Đãng muốn
nhiều người biết về phương pháp chữa bệnh này.
Ông nói với phóng viên VTC News:
“Trong
suốt một ngày xét nghiệm tại bệnh viện K (bệnh viện ung thư), tôi nhận
được tin xấu nhất là bị ung thư phổi giai đoạn 3. Trong phổi của tôi, có
một khối u lớn. Lúc đó, tôi cảm thấy như bầu trời sụp đổ! "
Bác
sĩ bệnh viện K cho biết nếu ông Đãng được phẫu thuật, ông sẽ chết ngay
lập tức, vì vậy cách tốt nhất là xạ trị. Tuy nhiên, sau một vài lần xạ
trị, các bác sĩ nói rằng nó "không tác dụng", vì vậy họ đã cho ông về
nhà chờ chết và "sống được ngày nào, biết ngày đó". Bác sĩ đã cho ông 10
liều Morphine, một loại thuốc giảm đau, bảo ông sử dụng khi bị đau. Nếu
ông dùng hết, đến bệnh viện để lấy thêm và nếu quá đau, ông phải nhập
viện.
Trong
những ngày ở nhà, đôi khi ông nhận được tin các bệnh nhân, những người
đã ở cùng phòng trong bệnh viện với ông, lần lượt chết khiến ông ngày
càng bị trầm cảm.
Cho
đến một ngày, ông Đãng nhận được tin người bạn thân nhất của mình đã
chết, điều này khiến ông hoàn toàn tuyệt vọng. Cơn đau luôn hành hạ ông,
khiến ông nghĩ mình cũng sắp chết như vậy, vì vậy ông không ăn uống gì,
bất chấp sự khích lệ của con cháu.
Tuy
nhiên, sau 3 ngày như vậy cho đến khi ông cảm thấy rất đói. Ông ngồi
dậy, nhận ra mình vẫn còn sống và cảm thấy tỉnh táo hơn. Ông ngạc nhiên
khi thấy cơn đau dịu dần, mà không hành hạ ông như trước.
Người
nhà rất vui mừng, cho ông ăn cháo. Ông ăn hết 2 bát, uống thêm một cốc
sữa và cảm thấy vô cùng sảng khoái. Ông bảo con trai đưa ông ra cửa để
ngắm bình minh.
Tuy
nhiên, sau hơn một giờ, ông cảm thấy cơn đau ùa về khiến đầu óc choáng
váng. Ông quằn quại, nôn ra tất cả những gì ông vừa ăn. Lần này, cơn đau
gấp bội, nên đến tận chiều, ông mới dám uống một ngụm nước nhỏ để làm
dịu cơn khát đang cháy trong cổ họng, rồi kiệt sức, ngất đi.
Gần
sáng hôm sau, khi mọi người trong nhà quá mệt mỏi và ngủ thiếp đi, ông
lại tỉnh dậy. Tự nhiên, đầu óc ông linh hoạt khi nghĩ về trạng thái mình
vừa trải qua. Ông chợt nhớ ra, một bác sĩ từng khuyên ông nên điều trị
bằng phương pháp nhịn ăn, nhịn ăn trong thời gian tối đa mà cơ thể có
thể chịu được. Lúc đó, ông thấy điều đó thật hài hước, vì làm sao mọi
người có thể sống nếu họ không ăn? Làm thế nào cơ thể có thể có sức để
chống lại bệnh tật?
Nhưng
sau một vài lần trải qua trạng thái chết đi sống lại, ông Đãng thấy
dường như khi không ăn, mặc dù rất đói, cơ thể ông lại bớt đau và khỏe
mạnh hơn.
Rạng sáng, cô con dâu mang bát cháo cho ông, tuy nhiên, vừa ăn chưa đầy nửa bát, ông cảm thấy khó chịu trong bụng.
“Tôi
rất sợ, không dám ăn nữa, chỉ dám uống một lượng nước lọc nhỏ để sống
sót. Tôi cảm thấy hơi nóng lan tỏa khắp cơ thể, nước mũi chảy tràn lan,
hơi thở hôi thối, nổi mẩn ngứa trên da, đau nhức xương khớp, luôn cảm
thấy buồn nôn ...
Tuy
nhiên, sau 4 ngày, cơ thể tôi đột nhiên cảm thấy thoải mái. Sau này,
cho đến khi tôi đọc một cuốn sách, tôi mới hiểu rằng đó là quá trình
loại bỏ độc tố trong cơ thể khi mọi người nhịn ăn,” ông Đãng kể lại.
Sau
đó, ông ăn một nhúm cơm nhỏ rồi tiếp tục nhịn ăn. Trong 3 ngày tới, ông
cũng ăn một chút như thế. Ông cứ tiếp tục làm như vậy, mặc dù cơ thể
ông rất đói và gầy hơn.
Ông
bảo các con đi khắp nơi để tìm cho ông những tài liệu viết về cách nhịn
ăn. Càng đọc, ông càng cảm thấy nội dung và lập luận của phương pháp
này hoàn toàn phù hợp với tình hình hiện tại của mình. Và ông bắt đầu
tin rằng mình sẽ vượt qua được ung thư phổi.
Phương pháp ông Đãng thực hành như một hình thức phẫu thuật không cần dao mổ, nhưng ông phải nhịn ăn.
“Để theo đuổi phương pháp này, người ta cần có sự tin tưởng tuyệt đối và hiểu cơ chế khoa học của nó.
Qua
sách báo, tôi đọc được rằng nhiều người trên thế giới đã thực hiện
thành công phương pháp nhịn ăn, chữa khỏi những căn bệnh nan y mà không
cần dùng thuốc.
Nếu bạn không có niềm tin, tốt nhất không nên thử thực hành nhịn ăn vì vô ích và không mang lại kết quả,” ông Đãng khẳng định.
Khoảng
2 tháng sau, khi cơ thể đã quen với cơn đói liên tục, đó là lúc ông
Đãng có thể đi lại. Ông cân và thấy mình chỉ nặng 39kg, cơ thể dường như
bị gió thổi bay. Đổi lại, nỗi đau gần như biến mất hoàn toàn, tinh thần
sảng khoái hơn nhiều.
Làm
theo hướng dẫn của tài liệu, ông bắt đầu ăn chay, nhưng cũng ăn rất ít,
mỗi ngày chỉ có khoảng 2 nhúm cơm. Mỗi tháng, ông dành vài ngày để nhịn
ăn. Trong 10 năm, ông chưa bao giờ biết đến thịt, cá và sữa.
Ông
Đãng cho biết, chính nhờ chế độ ăn uống và tinh thần lạc quan mà sau
thời gian bệnh viện K cho ông về nhà chờ chết, ông vẫn sống sót cho đến
ngày nay.
Năm
2014, tức là sau 9 năm, ông Đãng quay lại Bệnh viện K, Hà Nội để kiểm
tra lại. Kết quả cho thấy khối u phổi nhỏ hơn 50%. Nó không phát triển
cũng không lan sang các bộ phận khác của cơ thể.
-
Người phụ nữ mắc ung thư đại tràng di căn quyết định nhịn ăn để tế bào
ngừng phát triển. Sau 40 ngày, người bệnh xỉu đi vì kiệt sức, cơ thể chỉ
còn da bọc xương.
Nhịn ăn, thực dưỡng để trị ung thư
Bên
lề buổi giao lưu Sống chung, sống khoẻ với bệnh ung thư, PGS. TS Vũ
Hồng Thăng, Phó Trưởng khoa Nội 4, BV K cho biết, hiện vẫn có rất nhiều
quan niệm sai lầm trong điều trị ung thư. Thay vì tin vào khoa học,
nhiều người truyền nhau các phương pháp chữa ung thư tại nhà như đắp lá,
nhịn ăn...
PGS Thăng chia sẻ, cách đây vài năm, anh đã phải đến
tận nhà thăm khám cho một nữ bệnh nhân ở Hà Nội mắc ung thư đại tràng
xích ma, di căn ổ bụng. Bệnh nhân phát hiện bệnh ở giai đoạn muộn, đã
được điều trị hoá chất tại BV K, nhưng sau đó tin bạn bè, bỏ điều trị,
nhịn ăn tại nhà với hy vọng tế bào ung thư ngừng phát triển.
Bệnh nhân người Hà Nội chỉ uống nước lọc cầm hơi suốt hơn 40 ngày. Ảnh minh hoạ
Theo
đó, hàng ngày người phụ nữ này chỉ uống nước, hoàn toàn không ăn uống
bất cứ thứ gì khiến cơ thể chỉ còn da bọc xương. Được hơn 40 ngày, không
thể chịu đựng thêm, người phụ nữ xỉu đi vì kiệt sức.
Sau đó, bệnh nhân được khuyên áp dụng trở lại chế độ ăn uống, sinh hoạt bình thường nhưng cũng không qua khỏi.
Trước
đó PGS Thăng cũng gặp trường hợp nữ bệnh nhân hơn 40 tuổi, quyết định
nhịn ăn để chữa ung thư. Đến ngày thứ 30, xỉu đi, gia đình phải đưa vào
BV cấp cứu.
Theo PGS Thăng, những trường hợp nhịn ăn quá lâu,
ngoài suy kiệt cơ thể còn gây rối loạn chuyển hoá như hạ đường huyết, hạ
điện giải trong máu, nguy cơ tử vong cao.
Hiện nay, phương pháp
điều trị ung thư bằng thực dưỡng cũng được nhiều người lan truyền. Tuy
nhiên GS Lê Thị Hương, Trưởng khoa Dinh dưỡng, BV K khẳng định, thực
dưỡng để điều trị ung thư là hết sức sai lầm.
Đến nay cũng chưa có
nghiên cứu nào chứng minh rằng thực dưỡng áp dụng được cho người ung
thư. Chế độ ăn thiếu hụt dưỡng chất sẽ khiến bệnh nhân bị rối loạn
chuyển hoá nghiêm trọng.
“Nhiều người tranh luận rằng tại sao nhà
sư họ ăn chay vẫn khỏe? Tôi đã tìm hiểu và được biết họ phải ăn nhiều
cơm lên, ăn với rau, muối vừng… Các nhà sư cũng phải tới bệnh viện khám
vì có dấu hiệu về cơ xương khớp, răng môi lưỡi do thiếu vitamin”, GS
Hương thông tin.
GS Hương khuyến cáo, với người bệnh ung thư,
không nên theo phương pháp thực dưỡng mà nên ăn đầy đủ dinh dưỡng, ăn đa
dạng các thực phẩm gồm thịt, cá, trứng, sữa, tăng cường ra quả để cung
cấp vitamin, tăng cường sức đề kháng cho cơ thể. Bệnh nhân ung thư nên hạn chế ăn thịt đỏ
Dù
được khuyên ăn đầy đủ dinh dưỡng, song GS Hương cho biết, với những
bệnh nhân ung thư, bác sĩ luôn khuyên không nên ăn quá nhiều thịt đỏ từ
các loài 4 chân như bò, cừu, lợn...
Thay vì ăn nhiều thịt đỏ,
người bệnh nên ăn nhiều thịt gia cầm, thịt gà, thịt vịt. Trong trường
hợp người bệnh thèm ăn thì vẫn có thể ăn thịt đỏ theo khuyến cáo của bác
sĩ.
Bên cạnh đó, người dân nên ăn thêm các loại thịt cá, tôm, hải
sản vì chúng cung cấp nhiều chất dinh dưỡng như omega 3, omega 6, các
chất khoáng, vitamin, kẽm, sắt… Đồng thời hạn chế các thực phẩm lên men
như dưa muối, cà muối và các thực phẩm như xúc xích, lạp xưởng vì chúng
rất mặn, không tốt cho cơ thể.
BS khuyến cáo, bệnh nhân ung thư không nên ăn quá nhiều thịt đỏ
Giải pháp tốt nhất cho người bệnh là ăn cân đối dinh dưỡng, bổ sung tinh bột từ các loại hạt nguyên sẽ tốt hơn là hạt tinh chế.
Về
quan điểm cho rằng, càng ăn uống đầy đủ, khối u càng phát triển, PGS.TS
Dương Trọng Nghĩa, Trưởng khoa châm cứu dưỡng sinh của BV Y học cổ
truyền TƯ giải thích, đây là quan suy nghĩ hết sức sai lầm.
“Khi
cơ thể dinh dưỡng kém, mô ung thư vẫn phát triển và lấy dưỡng chất trong
cơ thể, thậm chí còn lấy nhiều dinh dưỡng từ cơ thể hơn các mô tế bào
bình thường khác khiến người bệnh nhanh chóng bị suy kiệt, suy tạng”,
PGS Nghĩa phân tích.
Do đó, những người bệnh đang điều trị ung thư
cần hạn chế nguyên nhân gây ung thư đồng thời tăng cường tập thể dục
chứ không nên hạn chế cực đoan về dinh dưỡng. Mặt khác, người bệnh nên
có thực đơn cân đối, không nên quá thừa chất. Thúy Hạnh
Có nhiều cách được người dân truyền tay nhau nhằm chữa trị và
giảm thiểu tối đa căn bệnh ung thư đang làm “náo loạn” cuộc sống đô thị
hiện nay, và nhịn ăn là một trong những phương thức đó.
Nhịn
ăn để điều trị bệnh đang là vấn đề được thảo luận tại một số nước như
Nhật Bản, Pháp hay là Mỹ, thậm chí đã nổi lên một số trường hợp tự nhận
mình đang hồi phục bệnh ung thư nhờ áp dụng phương pháp chậm ăn.
Nhịn ăn có thể chữa được ung thư không?
Theo
đó, phương pháp nhịn ăn được áp dụng bằng cách người bệnh ung thư tuyệt
đối không được ăn thịt, cá, đường.. mà chỉ được ăn rau củ, uống nước
từ các loại trái cây, rau xanh.
Nhịn ăn để tế bào ung thư tự chết
Những
người thiên về phương pháp nhịn ăn lý giải rằng:”Tế bào ung thư nếu
không được nuôi dưỡng bằng thịt, cá thì sẽ tự chết đi, rồi cơ thể sẽ tự
đào thải nó”.
Cơ sở lý thuyết của nhịn ăn để chữa bệnh là khi
nhịn ăn cơ thể sẽ phải tự tiêu hao phần thịt của mình để duy trì sự tồn
tại, do đó một số khối u, tổ chức viêm… sẽ tiêu đi và thay vào đó là các
tế bào lành lặn.
Cơ thể con người vốn bao gồm rất nhiều cơ
quan, mỗi cơ quan có chức năng riêng và luôn cần được cung cấp năng
lượng để tồn tại và hoạt động. Nhịn ăn kéo dài có thể khiens nguồn năng
lượng cạn kiệt, các chất dinh dưỡng thiếu hụt ảnh hưởng không tốt tới
hàng loạt chức phận bên trong cơ thể, đặc biệt là não.
Nhịn ăn thì các tế bào ung thư tự chết?
Não
là bộ phận tiêu thụ lớn nhất nguồn năng lượng của cơ thể. Nếu tế bào
não bị đói sẽ dẫn đến rối loạn hệ thống thần kinh trung ương là nơi điều
hành mọi hoạt động chức năng của cơ thể.
Ngoài ra lượng đường
huyết trong máu giảm thấp dưới 80mg/ dl thì cơ thể đã có biểu hiện mệt
mỏi, bủn rủn chân tay đầu óc kém minh mẫn, hạ huyết áp, tim loạn nhịp,
toàn thân vã mồ hôi. Nếu đường huyết giảm nhiều hơn sẽ dẫn đến hôn mê,
nguy kịch. Việc duy trì mức đường huyết ổn định bình thường là nhờ được
cung cấp các thức ăn tạo năng lượng gồm chất bột, béo, đạm.
Nhịn ăn để chữa ung thư?
Theo
PGS.TS Nguyễn Thị Lâm, Phó Viện trưởng Viện Dinh dưỡng Quốc gia, nhịn
ăn không phải là phương pháp chữa trị ung thư mà ngược lại, nó còn giảm
thiểu khả năng điều trị và gây hại cho cơ thể.
“Đừng nghĩ rằng
không ăn thì khối u không phát triển, đây là một điều hoàn toàn sai
lầm, khối u vẫn phát triển và lấy các chất của cơ thể bạn dù bạn có ăn
hay không. Nếu bệnh nhân không ăn uống sẽ dễ suy kiệt, suy mòn do ung
thư, không đủ sức khỏe để theo các liệu trình điều trị tiếp theo để giảm
nguy cơ tái phát của bệnh ung thư, phòng ngừa tình trạng di căn sau
này.”
Thậm chí khi nhịn đói, thiếu dinh dưỡng dẫn đến sức đề
kháng giảm sút và kéo theo nhiều hệ lụy, khiến các tế bào ung thư phát
triển nhan hơn. Tế bào ung thư có phát triển được hay không phụ thuộc
rất nhiều vào sức đề kháng của cơ thể. Người có sức đề kháng tốt, hệ
thống miễn dịch hơn.. sẽ kìm hãm sự phát triển của tế bào ung thư và
ngược lại, đối với bệnh nhân suy kiệt, tế bào ung thư nhiều khả năng
phát triển nhanh hơn. Do đó, nếu đói, bệnh nhân ung thư sẽ chết vì suy
kiệt trước khi chết vì bệnh.
Dinh dưỡng cho người bệnh ung thư.
Chế
độ ăn tốt có thể giúp người bệnh có đủ sức đương đầu và chống chọi với
căn bệnh ung thư. Chế độ ăn tốt là ăn nhiều cá, rau, ít thịt, thêm dầu
thực vật, uống nhiều nước và vận động, tập thể dục thể thao... Thực hiện
những điều nói trên, sẽ giúp cơ thể người bệnh đủ chất dinh dưỡng và
sức khoẻ để chống lại ung thư chứ không phải là "cung cấp thêm chất đạm
cho khối u" như nhiều người vẫn lầm tưởng.
Các bác sỹ chuyên
khoa ở các bệnh viện ung bướu hàng đầu như bệnh viện K, 108 hay Bạch
Mai thường khuyên bệnh nhân trước, trong và sau quá trình điều trị tích
cực ung thư sử dụng King Fucoidan & Aquaricus. Sản phẩm này chứa
hoạt chất Fucoidan hỗ trợ điều trị ung thư, tăng cường sức đề kháng cơ
thể và ngăn ngừa ung thư tái phát.
Bài 1: Nam bác sĩ bị khối u di căn toàn thân được chữa khỏi hoàn toàn
VietTimes - Ung thư
không còn là dấu chấm hết'' khi 70% bệnh nhân sẽ được chữa khỏi nếu
phát hiện sớm. Đây là thông điệp mà VietTimes gửi đến bạn đọc trong loạt
bài về căn bệnh hiểm nghèo này, để nếu chẳng may mắc ung thư, hãy lạc
quan để vững vàng vượt qua!
Tiễn 2 bệnh nhân tiền liệt tuyến điều trị bằng cấy phóng xạ ra viện
LTS: Tổ chức Ung thư toàn cầu
(GLOBOCAN) vừa công bố những con số đáng giật mình: Năm 2018 Việt Nam có
164.671 ca mắc ung thư, 114.871 người tử vong và hiện đang có trên
300.000 người mắc. Để chiến đấu với căn bệnh đang khiến nhiều người
khiếp sợ này, Việt Nam không chỉ cập nhật các công nghệ hiện đại trong
chẩn đoán và điều trị ung thư của thế giới, mà còn có nhiều công trình
khoa học ứng dụng vào thực tiễn. Cuộc tái sinh kỳ diệu
Bác sĩ Nguyễn Q. H. (Viện Tim mạch Việt Nam) bị ung thư phổi giai
đoạn cuối. Khối u di căn lên não, phổi, gan, hạch, cột sống, xương
sườn... Không ai nghĩ rằng ông sẽ qua khỏi, vậy mà như một phép màu ...
GS. Mai Trọng Khoa- nguyên Phó Giám đốc Bệnh viện (BV) Bạch Mai,
nguyên Giám đốc Trung tâm Y học hạt nhân và Ung bướu kể với tôi rằng,
những bệnh nhân ung thư đã di căn giai đoạn muộn như thế, việc điều trị
rất khó khăn, cơ hội thành công thấp và thời gian sống thêm ngắn. Vì
vậy, thường chỉ được điều trị triệu chứng, chăm sóc giảm nhẹ, nâng cao
thể trạng và chờ đợi tình huống xấu nhất xảy ra...
Nhưng GS. Mai Trọng Khoa và các bác sĩ BV Bạch Mai đã không vội buông
tay. Họ mạnh dạn áp dụng những kỹ thuật mới nghiên cứu và ứng dụng vào
việc chẩn đoán, điều trị cho đồng nghiệp: Chụp PET/CT để vừa chẩn đoán,
vừa mô phỏng lập kế hoạch xạ trị, rồi xạ phẫu bằng dao gamma quay, điều
trị toàn thân bằng hóa chất, thuốc điều trị đích.
Bên cạnh đó, với sự hợp tác, tuân thủ điều trị nghiêm túc của bệnh
nhân, cùng chế độ dinh dưỡng hợp lý, sinh hoạt khoa học, sau đó, bác sĩ
H. hoàn toàn khỏe mạnh, còn đủ sức khỏe để đi đến nhiều tỉnh ở biên giới
phía Bắc làm từ thiện.
GS. TS Mai Trọng Khoa kiểm tra sức khỏe cho bệnh nhân ung thư được điều trị bằng cấy hạt phóng xạ
Trường hợp vượt qua bạo bệnh của bệnh nhân H. thực sự là một kỳ tích
trong y học Việt Nam. Bởi đây là kết quả của việc ứng dụng những thành
quả từ cụm công trình “Nghiên cứu ứng dụng kỹ thuật hiện đại về bức xạ
ion hóa trong chẩn đoán, điều trị ung thư và một số bệnh lý khác” do GS.
Mai Trọng Khoa và các cộng sự nghiên cứu trong suốt 2 thập kỷ. Với giá
trị đặc biệt to lớn trong góp phần nâng cao chất lượng chẩn đoán và điều
trị ung thư ở Việt Nam, cụm công trình này đã được nhận Giải thưởng Hồ
Chí Minh năm 2017.
Hiện, Việt Nam là một trong ít nước ứng dụng thành công các kỹ thuật
hiện đại có sử dụng bức xạ ion hóa trong chẩn đoán và điều trị ung thư.
Bứt phá trong chẩn đoán
GS. Mai Trọng Khoa chia sẻ: Có nhiều nguyên nhân làm tăng tỷ lệ mắc
và tử vong do ung thư ở nước ta, trong đó yếu tố rất quan trọng là chẩn
đoán và điều trị. Hầu hết bệnh nhân ung thư đến BV khi đã ở giai đoạn
muộn, nên hiệu quả điều trị thấp, chi phí điều trị cao, tỷ lệ tái phát
và tử vong cũng cao so với các nước.
Với những nghiên cứu khoa học, từ hơn 10 năm trước, GS. Khoa đã mạnh
dạn áp dụng kỹ thuật chụp PET/CT để chẩn đoán một số bệnh ung thư, tim
mạch, thần kinh.
Theo GS. Mai Trọng Khoa, PET/CT được ứng dụng để chẩn đoán u nguyên
phát, di căn, tái phát, đánh giá giai đoạn, giúp lựa chọn phương pháp
điều trị tối ưu nhất cho người bệnh và đánh giá đáp ứng sau điều trị...
Đến nay đã có hơn 14.500 bệnh nhân ung thư ung thư phổi, hạ họng thanh
quản, ung thư não di căn, thực quản, vú, đại trực tràng, dạ dày, Non
Hodgkin lymphoma, Hodgkin… và 30 bệnh nhân sa sút trí tuệ do bệnh
Alzheimer, đã được chụp PET/CT.
Đặc biệt, lần đầu tiên ở Việt Nam, PET/CT được ứng dụng để mô phỏng
lập kế hoạch xạ trị ung thư với các kỹ thuật xạ trị 3D, IMRT… Hiện đã có
hơn 1.500 bệnh nhân ung thư (phổi, đầu mặt cổ, thực quản, trực
tràng...) được ứng dụng thành công kỹ thuật PET/CT mô phỏng để lập kế
hoạch xạ trị.
Chuẩn bị một ca chụp PETCT để mô phỏng lập kế hoạch xạ trị
GS. Khoa còn cho biết, BV Bạch Mai đã đưa kỹ thuật SPECT vào chẩn
đoán ung thư và các bệnh nội tiết, gan, thận, não, phổi, tim mạch. Tính
đến 6/2019, đã có hơn 72.366 bệnh nhân ung thư và một số bệnh khác được
sử dụng kỹ thuật chụp SPECT để chẩn đoán và theo dõi, đánh giá sau điều
trị 24.000 trường hợp.
BV Bạch Mai cũng ứng dụng CT 128 dãy để mô phỏng lập kế hoạch xạ trị
và đã có 6.000 bệnh nhân ung thư đã được sử dụng CT 128 dãy để mô phỏng
lập kế hoạch xạ trị ung thư. Hàng loạt phương pháp điều trị hiện đại
Hàng loạt biện pháp điều trị ung thư tiên tiến nhất được các bác sĩ ở BV Bạch Maiứng dụng thành công.
Trước hết phải kể đến kỹ thuật chụp PET/CT mô phỏng để lập kế hoạch
xạ trị với kỹ thuật 3D và IMRT cho hơn 1.500 bệnh nhân ung thư (phổi,
đầu mặt cổ, thực quản, trực tràng…) có hiệu quả điều trị cao, an toàn,
giảm rõ rệt biến chứng, nâng cao chất lượng cuộc sống cho bệnh nhân ung
thư.
BV Bạch Mai đã trở thành BV đầu tiên ở Việt Nam ứng dụng kỹ thuật
hiện đại xạ phẫu bằng dao gamma quay để điều trị u não và một số bệnh về
sọ não.
GS. Mai Trọng Khoa cho biết, đến nay, đã có gần 6.000 bệnh nhân u não
và một số bệnh lý sọ não đã được điều bằng dao gamma quay. Kết quả c ho
thấy tỉ lệ tái phát thấp, ít biến chứng, an toàn và không có trường hợp
nào tử vong trong quá trình xạ phẫu.
Điều trị cho bệnh nhân ung thư bằng kỹ thuật hiện đại tại BV Bạch Mai
Kết quả sau hơn 10 năm điều trị đã chứng minh đây là phương pháp điều
trị không xâm lấn, chính xác, an toàn, hiệu quả, ít biến chứng, thời
gian nằm viện ngắn, đặc biệt thích hợp với các khối u sâu trong não, ở
vị trí khó hoặc không thể phẫu thuật được như vùng thân não, hoặc khối u
đã mổ nhưng tái phát, với các bệnh nhân nhỏ tuổi hoặc lớn tuổi. Kỹ
thuật xạ phẫu bằng dao gamma quay đã góp phần giải quyết được những tổn
thương ác tính ở sọ não, di căn vào não mà trước đây, hầu như bệnh nhân
đều tử vong.
GS. Mai Trọng Khoa và các đồng nghiệp còn mạnh dạn ứng dụng các kỹ
thuật hiện đại nhất của thế giới trong sử dụng bức xạ ion hóa để chẩn
đoán và điều trị ung thư và một số bệnh khác. Đến nay, các bác sĩ đã
điều trị cho hơn 90 bệnh nhân ung thư gan nguyên phát và ung thư di căn
vào gan bằng kỹ thuật xạ trị trong chọn lọc và điều trị cho 8 bệnh ung
thư tuyến tiền liệt bằng kỹ thuật cấy hạt phóng xạ.
Kỹ thuật xạ trị trong chọn và cấy hạt phóng xạ ở BV Bạch Mai cũng lần
đầu tiên được ứng dụng thành công tại Việt Nam cho hiệu quả điều trị
cao, an toàn, nâng cao chất lượng cuộc sống cho bệnh nhân.
Theo GS. Mai Trọng Khoa, điều trị bệnh ung thư tuyến tiền liệt bằng
phương pháp cấy hạt phóng xạ giúp kiểm soát được bệnh mà không phải mổ,
khi diệt được tế bào ác tính, bảo vệ được tế bào lành, không ảnh hưởng
đến đời sống sinh lý của người bệnh.
“Đây là sự kỳ diệu so với trước, khi người bị ung thư tuyến tiền liệt
thường phải mổ, hay dùng các phương pháp xạ trị nên chức năng sinh lý
của đa số bệnh nhân không đảm bảo”- GS. Khoa chia sẻ.
BV Bạch Mai còn ứng dụng thành công điều trị đích bệnh ung thư bằng
phương pháp miễn dịch phóng xạ cho bệnh nhân u lympho ác tính không
Hodgkin đã tái phát dai dẳng. Hiện BV đã hoàn chỉnh quy trình quy trình
để đưa vào điều trị rộng rãi.
Bên cạnh đó, các chuyên gia còn nghiên cứu ứng dụng kỹ thuật miễn
dịch phóng xạ và thuốc phóng xạ để chẩn đoán, điều trị ung thư biểu mô
tuyến giáp thể biệt hóa, bệnh bướu tuyến giáp lan tỏa nhiễm độc ; điều
trị ung thư di căn xương, bệnh đa hồng cầu nguyên phát bằng iốt phóng
xạ.
Đến tháng 6-2019, BV Bạch Mai đã có hơn 90.000 mẫu xét nghiệm được
định lượng bằng phương pháp định lượng miễn dịch phóng xạ với độ chính
xác cao; hơn 3.600 bệnh nhân ung thư tuyến giáp thể biệt hóa và hơn
2.500 bệnh nhân bệnh bướu tuyến giáp lan tỏa nhiễm độc (Basedow) được
điều trị thành công và hàng nghìn bệnh nhân đã được chữa khỏi bằng các
đồng vị phóng xạ; hơn 1.000 bệnh nhân ung thư di căn xương đã được điều
trị giảm đau bằng P-32 với hiệu quả cao, an toàn, kinh tế.
BV Bạch Mai đã trở thành nơi dẫn đầu cả nước về phát hiện sớm u tuyến
giáp bằng thuốc phóng xạ, giúp cho việc chẩn đoán chính xác, kịp thời
các trường hợp tái phát, di căn, cũng như đánh giá chính xác giai đoạn
bệnh và điều trị hiệu quả nhiều loại bệnh ung thư mà các phương pháp
điều trị trước đó “bó tay”. Từ đó, các bác sĩ đưa ra các phương pháp
điều trị phù hợp, hiệu quả và an toàn cho bệnh nhân, làm tăng rõ rệt tỷ
lệ điều trị khỏi bệnh và giảm đáng kể tỷ lệ bệnh nhân tử vong.
Hiện có gần 20 BV trong cả nước được BV Bạch Mai chuyển giao công
nghệ nên số bệnh nhân được chẩn đoán và điều trị thành công đã tăng đáng
kể.
Thành công của hàng loạt kỹ thuật điều trị ung thư ở Bệnh viện Bạch
Mai đã giúp cho nhiều bệnh nhân được điều trị khỏi ngay tại Việt Nam mà
không phải ra nước ngoài. Nhiều bệnh nhân đến đây khi không còn phương
pháp nào điều trị hiệu quả, đã được duy trì cuộc sống. Nhiều trường hợp
được phát hiên sớm chỉ cần điều trị một lần là xong.
Với những kỹ thuật này, bệnh nhân được tiếp cận điều trị nhiều hơn vì
không phải chi trả cao, chất lượng lại đảm bảo. Một lần xạ phẫu bằng
dao gramma ở Mỹ là 25.000 USD, nhưng ở BV Bạch Mai chỉ 2.000 USD và được
BHYT thanh toán một phần. Một lần chụp PET/CT ở Việt Nam rẻ rất hơn
nhiều lần ở nước ngoài. Vì thế, nhiều bệnh nhân người nước ngoài bị mắc
bệnh ung thư đã tìm đến BV Bạch Mai để điều trị.
Bài 2: Bí ẩn phụ nữ miền Nam bị ung thư cổ tử cung nhiều hơn miền Bắc?
VietTimes
– Mỗi ngày, có tới 7 phụ nữ tử vong vì ung thư cổ tử cung (CTC). Mỗi năm,
có thêm hơn trên 5.100 người mắc và khoảng 2.500 trường hợp tử vong vì bệnh này.
Cứ 100.000 phụ nữ thì có 20 trường hợp mắc ung thư CTC, trong đó, 11 người chết.
Đây là thực trạng rất đáng lo về bệnh ung thư CTC ở phụ nữ Việt Nam.
Có thể tăng 25% số người mắc và chết
Mới đây, một bé gái mới 14 tuổi ở Bình Dương có kinh nguyệt lần đầu
song kéo dài nhiều ngày và ngày càng xanh xao, đau bụng, mệt mỏi nhiều
hơn. Khi được đưa đến Bệnh viện Ung bướu TP.HCM, các bác sĩ phát hiện em
bị ung thư CTC giai đoạn cuối. Mặc dù được phẫu thuật cấp cứu, nhưng do
bệnh phát hiện quá muộn nên ca mổ thất bại.
Theo Bộ Y tế, ung thư CTC là bệnh ác tính, thường gặp từ độ tuổi 30
trở đi. Ở Việt Nam, ung thư CTC là nguyên nhân chính gây tử vong do ung
thư và là loại ung thư phổ biến thứ 4 ở phụ nữ, phổ biến thứ 2 ở phụ nữ
trong độ tuổi sinh sản.
Ở Hà Nội, tỷ lệ mắc ung thư CTC là 6,5/ 100.000 phụ nữ, trong khi đó
tỷ lệ mắc ở TP. Hồ Chí Minh là 26/100.000 phụ nữ. Tỷ lệ mắc mới ung thư
CTC tại Việt Nam chiếm 13,6/100.000 phụ nữ. Con số này đang có xu hướng
tăng, đặc biệt tại Cần Thơ vv…
Các chuyên gia hiện không thể giải đáp được vì sao số phụ nữ bị ung thư CTC ở miền Nam cao hơn miền Bắc.
Theo đại diện Vụ Sức khỏe Bà mẹ và Trẻ em (Bộ Y tế), tỉ lệ mắc ung
thư CTC ở Việt Nam liên quan chặt chẽ với tỉ lệ mắc HPV và tỉ lệ này ở
miền Nam cũng cao hơn miền Bắc.
Một nghiên cứu cho thấy, tỉ lệ hiện mắc HPV ở TP. Hồ Chí Minh cao cấp
4-5 lần tại Hà Nội. Các nghiên cứu đều chỉ ra nhiễm HPV liên quan đến
lượng bạn tình và quan hệ tình dục sớm. Thế nhưng, mặc dù ở TP. Hồ Chí
Minh có nhiều typ HPV hơn Hà Nội, nhưng typ HPV gây nguy cơ ung thư ở Hà
Nội lại nhiều hơn TP. Hồ Chí Minh.
Thứ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Viết Tiến cho rằng tỷ lệ phụ nữ mắc ung thư
CTC cao là do chưa được khám sàng lọc định kỳ và chưa có hệ thống phát
hiện sớm ung thư qua các xét nghiệm dễ tiếp cận. Đã vậy, khi được phát
hiện các dấu hiệu ung thư CTC, họ cũng không được điều trị kịp thời.
“Nếu không được sàng lọc, điều trị kịp thời, 10 năm nữa, tỉ lệ mắc
mới và chết do ung thư CTC sẽ tăng thêm 25%” - Thứ trưởng Nguyễn Viết
Tiến lo ngại.
Phẫu thuật ung thư cổ tử cung tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội
Phụ nữ trình độ cao mắc ung thư nhiều hơn
Một nghiên cứu trên hơn 2.200 phụ nữ của BS Phạm Kỳ Sơn - Giám đốc
Bệnh viện Đa khoa Hòa Bình – chỉ ra ung thư CTC có liên quan đến trình
độ học vấn, nghề nghiệp: Nhóm phụ nữ có trình độ đại học có tỷ lệ có tế
bào ung thư, tiền ung thư cao nhất với 11,9%, cao hơn hẳn nhóm phụ nữ có
trình độ thấp hơn và mù chữ.
Ngoài ra, những phụ nữ sử dụng thuốc tránh thai có tỷ lệ tế bào tiền
ung thư, ung thư CTC cao hơn phụ nữ không dùng thuốc tránh thai (7,29%
so với 4,17%). Số phụ nữ có tiền sử mắc bệnh phụ khoa cũng có tế bào
tiền ung thư và ung thư CTC cao hơn so với phụ nữ không có tiền sử mắc
bệnh phụ khoa. Phụ nữ là công chức, viên chức cũng có tế bào tiền ung
thư, ung thư CTC cao hơn nông dân.
Theo các chuyên gia, các yếu tố nguy cơ của ung thư
CTC là hút thuốc lá, quan hệ tình dục với nhiều người, quan hệ tình dục
sớm, sử dụng thuốc tránh thai kéo dài và mắc các bệnh lây qua đường
tình dục.
PGS.TS Nguyễn Thị Hoài Đức, nguyên Viện Trưởng Viện Sức khỏe sinh sản và
Gia đình, cho biết, kết quả dự án sàng lọc ung thư CTC ở 5 tỉnh, với
các phụ nữ từ 30-50 tuổi, cho thấy đa số đều bị viêm đường sinh dục. Tại
Thái Bình và Cần Thơ, tỉ lệ phụ nữ bị viêm nhiễm phụ khoa, chủ yếu là
viêm âm đạo và viêm cổ tử cung bất thường lên tới trên 70%.
Tỉ lệ sống 100% nếu phát hiện sớm
Ung thư CTC đang là vấn đề nóng, khi đã cướp đi tính mạng của nhiều
phụ nữ Việt Nam và là một trong những căn bệnh có tỷ lệ gia tăng hàng
đầu ở nước ta. Tuy nhiên, ung thư CTC có thể chữa khỏi hoàn toàn nếu
được phát hiện sớm.
Những dấu hiệu ung thư CTC: - Chảy máu bất thường sau giao hợp, giữa các kì kinh hoặc sau mãn kinh. - Âm đạo tăng tiết dịch bất thường, hoặc có mùi khó chịu. - Đau vùng chậu không liên quan tới kinh nguyệt. - Đau khi giao hợp. - Tăng số lần đi tiểu. - Đau khi đi tiểu.
Theo PGS.TS. Trịnh Hữu Vách - Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Môi
trường và Sức khỏe, ung thư CTC gây tử vong cao, song nếu phát hiện sớm
thì điều trị hiệu quả cao: Phát hiện ở giai đoạn 0 và điều trị thì tỉ lệ
sống 5 năm đến 100%. Nếu phát hiện muộn giai đoạn 4 thì điều trị tỉ lệ
sống 5 năm chỉ có 5%. Nếu phụ nữ có tầm soát thì mức độ phát triển ung
thư là 0,7% và nếu không tầm soát sẽ là 2,5%. Hơn 10 năm không tầm soát
thì nguy cơ ung thư CTC tăng 12 lần.
PGS.TS. Lê Trung Thọ (Đại học Y Hà Nội) cho biết: Một nghịch lý là
trong khi ung thư CTC gần như có thể dự phòng được, thì bệnh này là loại
ung thư phổ biến nhất mà phụ nữ Việt Nam phải chịu. Tại Mỹ, nhờ chương
trình sàng lọc trên diện rộng nên tỉ lệ mắc bệnh đã giảm mạnh. Ở Anh, tỉ
lệ mắc ung thư CTC cũng đã giảm nhờ sàng lọc để phát hiện sớm.
Vì thế, PGS.TS. Lê Trung Thọ đề nghị nên triển khai khám phụ khoa,
xét nghiệm tế bào CTC cho toàn bộ phụ nữ, ưu tiên cho nhóm tuổi 30-50 để
có thể phát hiện sớm và điều trị kịp thời, nhằm giảm tỷ lệ ung thư CTC.
WHO đánh giá ung thư CTC là một vấn đề y tế công cộng toàn cầu và
khuyến nghị đưa vaccine HPV vào chương trình tiêm chủng quốc gia.
Bài 3: Đột phá trong điều trị ung thư: Không phẫu thuật, không đau, không nằm viện, an toàn và hiệu quả
VietTimes - Con số
hơn 100.000 người Việt Nam chết vì ung thư mỗi năm thực sự trở thành nỗi
khiếp đảm với mọi người. Vì thế, công trình nghiên cứu liệu pháp miễn
dịch trong điều trị ung thư của các nhà khoa học tại Trường Đại học Y Hà
Nội với những kết quả bước đầu được coi là một cứu cánh cho bệnh nhân
ung thư. Đặc biệt, đây là một phương pháp điều trị mang tính đột phá:
Không phẫu thuật, không đau, an toàn và hiệu quả cao.
Liệu pháp miễn dịch là một cách tiếp cận mới trong điều trị ung thư
hiện đại với việc kích hoạt chính các tế bào của hệ thống miễn dịch
trong cơ thể để nhận diện, tấn công và tiêu diệt các tế bào ung thư.
Không chỉ có độ an toàn cao, liệu pháp miễn dịch còn giúp các bệnh nhân
nhanh chóng cải thiện sức khỏe, nâng cao chất lượng cuộc sống.
Miễn dịch trị liệu là giải pháp đã được các nhà khoa học trên thế
giới công nhận mang tính đột phá trong ngành ung thư và miễn dịch. Đây
được đánh giá là một phát minh làm thay đổi hiệu quả trong điều trị ung
thư. Tại Việt Nam, Trường Đại học Y Hà Nội và Bệnh viện Đại học Y Hà Nội
đang thử nghiệm lâm sàng một trong những phương pháp này.
GS.TS. Tạ Thành Văn - Hiệu trưởng Trường Đại học Y Hà Nội trao đổi với PGS.TS Trần Huy Thịnh.
Trao đổi với VietTimes, PGS.TS. Trần Huy Thịnh - Đơn vị tế bào trị
liệu, Đại học Y Hà Nội - một thành viên chủ chốt trong nhóm nghiên cứu
cho biết: Miễn dịch trong điều trị ung thư có nhiều phương pháp điều
trị, nhiều cách tiếp cận khác nhau như sử dụng cytokin, vaccine ung thư,
thuốc ức chế điểm kiểm soát miễn dịch và liệu pháp tế bào miễn dịch.
Tại Đại học Y Hà Nội, các bác sĩ đi theo hướng sử dụng công nghệ hoạt
hóa, tăng sinh tế bào miễn dịch tự thân, sau đó đưa các tế bào đã hoạt
hóa này quay trở lại cơ thể người bệnh để điều trị ung thư. Như vậy,
“thuốc” để điều trị ung thư bằng phương pháp này là tế bào miễn dịch của
chính người bệnh.
Tuy liệu pháp miễn dịch trong điều trị ung thư được thử nghiệm tại
Đại học Y Hà Nội không phải là phương pháp mới trên thế giới, nhưng đáp
ứng được tiêu chí đảm bảo an toàn cho người bệnh và điều trị ung thư
hiệu quả.
Ưu thế của phương pháp này là có thể điều trị cho hầu hết các loại
ung thư mô đặc như ung thư phổi, ung thư vú, ung thư dạ dày, ung thư đại
trực tràng, ung thư gan... Bên cạnh đó, bệnh nhân không cần phải nằm
viện, không ảnh hưởng đến cuộc sống cũng như sinh hoạt hàng ngày của họ.
Liệu pháp miễn dịch trong điều trị ung thư có rất nhiều hướng tiếp
cận, trong đó, nhóm nghiên cứu của Trường Đại học Y Hà Nội đã áp dụng
phương pháp hoạt hóa tế bào miễn dịch tự thân để tế bào này tự tìm, diệt
các tế bào ung thư.
PGS.TS Trần Huy Thịnh cho biết, đến nay đã có hơn 60 bệnh nhân được
điều trị bằng phương pháp này, thử nghiệm tại cả Bệnh viện Đại học Y Hà
Nội và Bệnh viện K Trung ương. Trong đó, có khoảng hơn 30 bệnh nhân đã
kết thúc một liệu trình điều trị, mỗi liệu trình kéo dài trong 3 tháng
với 6 lần truyền, nhóm bệnh nhân đầu tiên đã kết thúc toàn bộ chu kỳ
điều trị cách đây gần 1 năm.
PGS. TS. Trần Huy Thịnh trong chuyến công tác tại Nhật Bản
Nhận lại “vốn quý nhất của một con người”
“Mặc dù thời gian 1 năm sau khi điều trị chưa đủ dài để đánh giá
chính xác kết quả điều trị, song hầu hết các bệnh nhân đều có kết quả
kiểm soát bệnh tốt. Bệnh không tiến triển, các biểu hiện, triệu chứng
của bệnh được cải thiện rõ rệt” - PGS.TS. Trần Huy Thịnh chia sẻ.
Không chỉ giúp cải thiện tình trạng bệnh, sức khỏe của các bệnh nhân
cũng được nâng cao rõ rệt. Nhờ phương pháp điều trị này, bệnh nhân có
thể ăn uống, ngủ tốt hơn, giảm các triệu chứng của bệnh và đặc biệt có
tác dụng giảm đau rõ rệt, một trong những triệu chứng thường gặp ở bệnh
nhân ung thư, từ khi tham gia điều trị, các bệnh nhân ung thư thường
không cần hoặc ít phải sử dụng thuốc giảm đau để cắt các cơn đau liên
quan đến bệnh.
“Điều này thấy rõ nhất ở các bệnh nhân phải điều trị bằng hóa chất
trước khi sử dụng liệu pháp miễn dịch. Các bệnh nhân đó thường bị suy
kiệt cơ thể. Nhưng nay, nhiều bệnh nhân tăng cân trở lại và khoảng trên
10% bệnh nhân giảm kích thước khối u rõ rệt. Hầu hết các bệnh nhân đều
rất hài lòng với kết quả mà họ nhận được sau khi điều trị bệnh bằng liệu
pháp này” – PGS.TS. Trần Huy Thịnh cho hay.
Tuy nhiên, liệu pháp miễn dịch trong điều trị ung thư cũng sẽ có
những hạn chế riêng. Phương pháp này không sử dụng cho các bệnh nhân ung
thư máu. Bên cạnh đó, khi bệnh nhân bước vào giai đoạn toàn phát, bệnh
di căn tới nhiều bộ phận trong cơ thể, liệu pháp miễn dịch sẽ không phát
huy tác dụng và không đem lại kết quả mà người bệnh mong muốn.
Vì vậy, để liệu pháp miễn dịch đạt hiệu quả tốt nhất, bệnh ung thư
cần được phát hiện và điều trị ở những giai đoạn sớm, đặc biệt là phối
hợp liệu pháp miễn dịch với các phương pháp điều trị ung thư khác để
nâng cao hiệu quả điều trị.
Hiện nay, liệu pháp miễn dịch trong điều trị ung thư đang được thử
nghiệm tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội và Bệnh viện K Trung ương, trong
số các bệnh nhân tham gia thử nghiệm, trên 65% bệnh nhân mắc ung thư
giai đoạn cuối, 30% bệnh nhân ung thư giai đoạn 3 và một số ít bệnh nhân
ở giai đoạn 2.
Phương pháp này chỉ có chi phí chỉ bằng 1/5 chi phí điều trị bệnh tại
Nhật Bản, bệnh nhân được miễn phí toàn bộ các hoạt động hoạt hóa tế bào
miễn dịch và chỉ phải chi trả các vật tư, hóa chất, thuốc, chất hoạt
hóa tăng sinh tế bào…
Cuối năm 2019, Trường Đại học Y Hà Nội, Bệnh viện Đại học Y Hà Nội và
Bệnh viện K Trung ương sẽ báo cáo tổng kết sơ bộ về giai đoạn điều trị
thử nghiệm trong 2 năm với Bộ Y tế, sau đó xem xét các giai đoạn triển
khai tiếp theo.
“Với kết quả ban đầu như trên, mong rằng trong tương lai liệu pháp
miễn dịch trong điều trị ung thư sẽ được nhân rộng, cung cấp thêm sự lựa
chọn, 1 biện pháp điều trị cho bệnh nhân ung thư” – PGS.TS. Trần Huy
Thịnh tâm sự. : Công trình liệu pháp miễn dịch trị liệu trong ung thư là phát minh có tính đột phá của GS. Tasuku Honjo (Nhật Bản), đã được trao Giải thưởng Nobel 2018. Người học trò Việt Nam xuất sắc của GS.
Tasuku Honjo là GS. Tạ Thành Văn – Hiệu trưởng Trường Đại học Y Hà Nội -
đã tiếp nối công trình của người thầy vĩ đại một cách sáng tạo sau khi
trở về Việt Nam, bằng công trình nghiên cứu ứng dụng liệu pháp này vào
thực tế. Năm 2015, công trình của GS. Văn đã được Bộ Y tế phê
duyệt và từ năm 2017 được thử nghiệm trên người tại Bệnh viện Đại học Y
Hà Nội và Bệnh viện K.
GS. Tạ Thành Văn thăm GS. Tasuku Honjo sau khi thầy giáo của mình được Giải Nobel
Theo GS. Tạ Thành Văn, liệu pháp miễn dịch trị liệu
ung thư có 2 hướng: Một là kích hoạt các hệ thống tế bào có thẩm quyền
miễn dịch hoạt động mạnh hơn ngay tại khối u, để các tế bào có khả năng
nhận diện và tiêu diệt chính xác tế bào ung thư. Hai là lấy tế bào miễn
dịch của bệnh nhân ra ngoài cơ thể để nhân lên, biệt hóa trong điều kiện
đặc biệt, rồi truyền lại cho bệnh nhân, để tiêu diệt tế bào ung thư. Hai hướng này có chung cơ sở khoa học là tăng cường
chức năng của các tế bào có thẩm quyền miễn dịch, nhưng cách tiếp cận
hơi khác nhau. GS. Honjo đi theo hướng thứ nhất, còn nhóm nghiên cứu
của GS. Tạ Thành Văn và các cộng sự tại Trường Đại học Y Hà Nội đi theo
hướng thứ hai. Sau khi thử nghiệm lâm sàng trong 3 năm, các nhà khoa
học Việt Nam sẽ tổng kết để Hội đồng chuyên môn của Bộ Y tế đánh giá,
kết luận trước khi áp dụng rộng rãi. Công trình khoaa học này được hy vọng sẽ đưa thêm một
giải pháp để điều trị căn bệnh hiểm nghèo đang khiến gần 100.000 người
tử vong mỗi năm ở Việt Nam.
Bài 4: Hoàn toàn có thể thoát “án tử” ung thư một cách kỳ diệu
VietTimes – Ung thư trở thành nỗi ám ảnh khiến rất nhiều
người dân không dám đi khám vì sợ phát hiện bệnh. Nhưng thực tế là đã rất nhiều
ca khỏi hẳn ung thư một cách kỳ diệu.
PET-CT tại Bệnh viện 175 hỗ trợ phát hiện ung thư từ rất sớm
BS Lê Hồng Minh, Phó Chủ nhiệm khoa Ung bướu – Bệnh viện Quân y 175 (TP.HCM) đã dành cho VietTimes một cuộc trao đổi, nhằm đưa đến bạn đọc những thông tin quan trọng về căn bệnh này. Điều kỳ diệu có thật PV: Thưa bác sĩ, trong quá trình điều trị, ông đã từng gặp những trường hợp thoát “án tử” ung thư một cách lạ lùng? BS Lê Hồng Minh: Bắt đầu từ năm 1994 tôi đã điều
trị bệnh nhân ung thư. Có rất nhiều trường hợp tưởng chừng cận kề cái
chết nhưng vẫn được trả lại sự sống một cách diệu kỳ.
Nhưng nói gì thì nói, mắc bệnh ung thư giống như một thử thách khắc
nghiệt nhất. Chỉ khi biết tin bệnh ung thư mới biết ai còn ở lại bên
mình, mới hiểu giá trị tình người.
Có những người thân đi chăm bệnh tận tình khiến tôi thực sự cảm động.
Trong khi đó, cũng nhiều cảnh éo le, chạy trốn thực tại, bỏ mặc người
thân đau ốm, tội nghiệp vô cùng.
Những trường hợp ung thư được điều trị khỏi hẳn như một phép màu
trong suốt 25 năm chữa bệnh tôi đã gặp rất nhiều. Nhiều trường hợp ung
thư phổi, ung thư vòm họng, ung thư vú, cổ tử cung, đại tràng… sau khi
được điều trị đã hồi phục sức khỏe sinh hoạt lao động bình thường nhiều
năm nay không thấy tái phát.
Trường hợp ung thư máu mà tôi gặp năm 1996 thực sự là kỳ diệu. Năm
đó, tôi điều trị một ca bệnh nhân bị bệnh bạch cầu tủy cấp, là một loại
bệnh ung thư của hệ tạo máu. Đây là loại bệnh ung thư diễn biến nhanh,
rất khó điều trị do các tế bào ung thư không khu trú tại một vị trí, mà
lan tràn trong máu và tủy xương người bệnh.
Biện pháp điều trị tối ưu nhất với trường hợp này là điều trị hóa
chất mạnh, sau đó ghép tủy xương. Tuy vậy chi phí của một trường hợp
ghép tủy rất cao, mà điều kiện kinh tế của bệnh nhân không cho phép.
Trong tình thế đó, chúng tôi buộc phải lựa chọn biện pháp hóa trị. Bệnh
nhân đã phải trải qua nhiều đợt điều trị hóa chất nặng nề.
Bác sĩ Lê Hồng Minh - Phó chủ nhiệm Khoa Ung bướu, bệnh viện 175
Vì không thể khoanh vùng tế bào giống như các loại ung thư khác, nên
rất khó có thể nói rằng đã diệt hết tế bào ung thư trong người bệnh
nhân. Mà cách đây hơn hai chục năm, các loại hóa chất lúc đó không thể
tốt như bây giờ. Vậy mà anh ấy đã thoát “án tử”, từ năm 1996 đến giờ
không hề có biểu hiện tái phát. Hiện nay, cựu bệnh nhân này vẫn đang
sống khỏe mạnh. PV: Thưa bác sĩ, những bệnh ung thư thường gặp nhất hiện nay là gì? BS Lê Hồng Minh: Theo GLOBOCAN 2018, ở Việt Nam 2018
có 164.671 ca ung thư mới và 114.871 ca tử vong vì ung thư và hơn
300.000 bệnh nhân đang sống chung với ung thư.
Năm loại ung thư hàng đầu ở nam giới Việt Nam là ung thư gan (21,5%),
phổi (18,4%), dạ dày (12,3%), đại trực tràng (8,4%) và vòm họng (5,0%)
và ở phụ nữ là ung thư vú (20,6%), đại trực tràng (9,6%), phổi (9,4%),
dạ dày (8,6%) ) và gan (7,8%).
Một vài số liệu thống kê cho thấy phụ nữ lao động trí thức mắc ung
thư cao hơn phụ nữ lao động tay chân, tôi thì khẳng định không phải là
như thế. Tỷ lệ đó có thể được hiểu là do phụ nữ trí thức chịu đi khám,
phát hiện bệnh và điều trị nhiều hơn. Hơn nữa, số liệu cũng chỉ khoanh
vùng trong một khu vực hoặc một vài bệnh viện.
Phụ nữ trí thức có điều kiện tiếp cận các phương pháp tầm soát nhiều
hơn, chăm sóc cơ thể kỹ lưỡng hơn, hiểu biết về các yếu tố nguy cơ tốt
hơn nên nguy cơ ung thư thường là không cao. Phụ nữ nông thôn có nhiều
trường hợp khi đến viện gặp bác sĩ thì vú đã bị thối rồi nhưng do nghèo
và mắc cỡ nên không khám chữa.
Những khối u kỳ lạ được chữa trị tại bệnh viện 175
Ung thư không phải bệnh nan y PV: Các giai đoạn hình thành bệnh ung thư như thế nào thưa bác sĩ? BS Lê Hồng Minh: Các tế bào sinh ra là tế bào non,
trưởng thành, làm nhiệm vụ, rồi già và chết. Tế bào ung thư là tế bào
đột biến, không tuân theo quy luật của chu trình sinh sản tế bào, nó đẻ
rất nhiều và không chết mà không thực hiện các chức năng của một tế bào
bình thường, di căn đến đâu tạo khối u đến đó.
Một khối u đã có thể phát hiện bằng mắt thì rất nhiều tế bào, nghĩa
là không thể một sớm một chiều mà đã có quá trình. Ung thư có thể được
phát hiện từ giai đoạn rất sớm, khi còn chưa hình thành khối u mà có thể
phát hiện được bằng các phương tiện chẩn đoán hình ảnh; nhưng ở ta việc
phát hiện bệnh ở giai đoạn này còn rất hiếm do việc tầm soát sàng lọc
để phát hiện sớm ung thư còn chưa được quan tâm một cách thích đáng.
Sự phát triển của khối u không như mọi người thường hình dung. Thường
thì khi khối u lớn lên sẽ gây tác động tại chỗ, ví dụ như chèn ép, gây
áp lực lên các bộ phận; sau đó sẽ di căn.
Nhưng cũng nhiều khối u chưa có kích cỡ lớn đủ để phát hiện được mà
đã di căn. Chẳng hạn như có trường hợp ung thư phổi nhưng sau khi phẫu
thuật thì mới phát hiện gốc của khối u xuất phát ở đại tràng. Khối u đến
giai đoạn di căn thì khó chữa trị hơn nhiều. PV: Mặc dù đã có những tiến bộ y học to lớn trong phương pháp điều
trị ung thư, nhưng nhiều người vẫn có các quan niệm sai lầm trong điều
trị căn bệnh này? Phải hiểu đúng về điều trị bệnh ung thư như thế nào
thưa bác sĩ? BS Lê Hồng Minh: Tầm soát ung thư cổ tử cung và ung
thư vú rất dễ dàng. Nếu phụ nữ hiện đại chịu quan tâm đến hai bệnh này,
phát hiện sớm thì có khả năng điều trị triệt để. Một số ca ung thư cổ tử
cung phát hiện sớm có thể phẫu thuật cắt trọn vẹn cả vùng nhiễm bệnh.
Ung thư gan, ung thư vòm họng nếu phát hiện sớm cũng có khả năng điều
trị triệt để. Ngày nay, với sự phát triển của các phương pháp điều trị
của y học thì một số loại ung thư dù phát hiện ở giai đoạn muộn vẫn có
khả năng điều trị tốt như ung thư đại tràng, ung thư phổi, ung thư buồng
trứng… Nhiều đột phá trong điều trị ung thư PV: Tại Bệnh viện 175 có những phương pháp chuẩn đoán ung thư nào thưa bác sĩ? BS Lê Hồng Minh: Bệnh viện 175 có đầy đủ các phương
tiện kỹ thuật để chẩn đoán bệnh ung thư. Các kỹ thuật của khoa sinh hóa
có thể xét nghiệm được gần như hầu hết các chất chỉ điểm của các bệnh
ung thư. Khoa giải phẫu bệnh lý với đội ngũ bác sĩ có kỹ thuật cao và
kinh nghiệm, có khả năng chẩn đoán mô học, xác định các bệnh lý ung
thư.
Bệnh nhân bị K phổi giai đoạn cuối nhưng đã được điều trị khỏi và sắp được xuất viện
Khoa chẩn đoán hình ảnh với các phương tiện hiện đại như hệ thống máy
siêu âm X Quang, MSCT 64 lát cắt, máy MRI 3.0 có độ phân giải cao, có
khả năng phát hiện những khối u có kích thước nhỏ. Tại Trung tâm Ung
bướu (do Cộng hòa Áo hỗ trợ xây dựng) có máy PET-CT có thể phát hiện ung
thư từ giai đoạn rất sớm.
Tại TP.HCM chỉ có Bệnh viện 175, Bệnh viện Chợ Rẫy có máy PET-CT. Còn ở Hà Nội thì có Bệnh viện Bạch Mai, 103, 108. PV: Thưa bác sĩ, hiện nay có những kỹ thuật điều trị ung thư nào hiện đại nhất? BS Lê Hồng Minh: Phẫu thuật là biện pháp đầu tiên,
ngày càng chính xác hơn, triệt để hơn. Xạ trị dùng các tia phóng xạ để
hỗ trợ điều trị. Máy thế hệ cũ thì khả năng lựa chọn vị trí điều trị
theo khối u là khó còn ngày nay máy hiện đại thế hệ mới có khả năng
thiết kế kích thước, hình dạng của khối u để tập trung năng lượng của
tia phóng xạ vào đúng khối u, giảm tác động lên các cơ quan lành.
Hóa trị dùng hóa chất gây độc để làm chết tế bào ung thư. Ngày càng
có nhiều loại hóa chất ra đời, hiệu quả điều trị cao, ít tác dụng phụ.
Các biện pháp điều trị trúng đích dựa vào các đích sinh học phân tử
trên bề mặt tế bào hoặc trong quá trình sinh sản của tế bào; kháng đích
phân tử nhỏ bám đúng vào tế bào ung thư và tiêu diệt tế bào ung thư này
chứ không làm ảnh hưởng đến các tế bào lành khác.
Liệu pháp điều trị miễn dịch giúp hệ miễn dịch của cơ thể có thể nhận
biết và tiêu diệt các tế bào ung thư một cách tự nhiên, chứ không can
thiệp bằng thuốc và các giải pháp từ bên ngoài.
Năm 2018, công trình liệu pháp miễn dịch trị liệu trong ung thư -
phát minh có tính đột phá của GS. Tasuku Honjo (Nhật Bản) đã được trao
Giải thưởng Nobel 2018. Một số bệnh viện ở Việt Nam hiện nay cũng đã
bước đầu ứng dụng liệu pháp này vào thực tế.
Tuy nhiên, cần hiểu rằng nếu phát hiện sớm thì có thể điều trị triệt để với khả năng khỏi bệnh cao, chi phí thấp.
Cho nên tầm soát phát hiện ung thư là cực kỳ quan trọng. Để đến lúc đau mới đi gặp bác sĩ thì đã muộn rồi.
Nhưng thực trạng đáng buồn là ở VN mình tỷ lệ phát hiện sớm khá hiếm. Đa phần bệnh nhân để đến giai đoạn 3, 4 mới đi khám.
Đã để đến các giai đoạn muộn, khả năng khỏi bệnh không những thấp mà
buộc phải lựa chọn các liệu pháp hiện đại, đồng nghĩa với chi phí rất
cao mà hiệu quả thấp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét