“Hai chiếc máy bay tiêm kích
Mỹ Lightning bay lượn rất lâu trên đoàn người dự mít tinh ở độ thấp”,
đại diện nước Pháp kể về ngày Độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa.
Trong cuốn hồi ký Câu chuyện về một nền hòa bình bị bỏ lỡ,
xuất bản năm 1954 (NXB Công an nhân dân in năm 2005 theo bản dịch của
Lê Kim), thiếu tá Jean Sainteny đã kể về Ngày Độc lập lịch sử của nước
ta mà ông là người được chứng kiến tận mắt.
Khi đó, Sainteny đã quan sát Lễ Độc lập ở khoảng cách rất gần: Ông
đang ở trong dinh Toàn quyền (Phủ Chủ tịch ngày nay), chỉ cách Quảng
trường Ba Đình có một hàng rào thép thưa.
Phái đoàn của Saintery đáp xuống sân bay Gia Lâm, Hà Nội từ ngày
22/8/1945, trên máy bay của Mỹ cất cánh từ sân bay Chengtu, cách Côn
Minh 25 km. Ngày hôm sau, ông ta cùng một toán sĩ quan Pháp đi theo
đường thủy từ Hải Phòng lên, gồm tất cả 11 người, đã tập kết ở dinh Toàn
quyền và đã bị giam lỏng tại đây, dưới sự canh gác của binh lính Nhật.
“Ngày 1/9, đội lính Nhật Bản canh gác dinh Toàn quyền cũ được thay
thế bằng một đội Cảnh vệ Việt Nam”, ông kể lại. “Ngày 2/9 là một trong
những sự kiện quan trọng nhất trong quá trình nắm chính quyền của Chính
phủ Cách mạng Việt Minh. Một lễ mít tinh khổng lồ trong “Ngày Độc lập”
được loan báo từ trước, coi như điểm chủ chốt trong hàng loạt sự kiện
tiếp theo”.
Các diễn biến của Lễ Độc lập lần lượt được Sainteny miêu tả: “Trên
bục gỗ cao dựng lên trong công viên Puginier (tên thời thực dân Pháp, đã
được đổi tên thành Vườn hoa Ba Đình), trước hàng vạn người, một loạt
diễn giả đã phát biểu bằng những lời lẽ mạnh mẽ theo các mức độ khác
nhau”.
Jean Sainteny đã chứng kiến Lễ Độc lập của nước Việt Nam từ ngay dinh Toàn quyền. Ảnh tư liệu.
“Lần lượt, Võ Nguyên Giáp, Trần Huy Liệu rồi Hồ Chí Minh mà ngay hôm
đó quần chúng nhân dân được biết đây chính là nhà cách mạng lão thành
Nguyễn Ái Quốc, long trọng tuyên bố nền Độc lập của Việt Nam”, vị thiếu
tá tình báo nhận xét.
Jean Sainteny cũng xác nhận trong bức điện báo cáo gửi về Côn Minh
ngay sau đó, ông ước tính có vài trăm nghìn người tham dự cuộc mít tinh
ngày 2/9. “Thực ra, khó ước lượng được con số chính xác. Nhiều tỉnh đã
cử đại diện về dự trong những bộ quần áo màu sắc các địa phương. Nhiều
linh mục đạo Gia-tô cũng tới dự, đứng ở vị trí cao. Trật tự trong buổi
diễu hành, và nhất là không thấy có những tiếng hò hét phản loạn, thù
địch là một trong những biểu hiện rất đáng ghi nhận”.
Đứng trong dinh Toàn quyền, Sainteny chứng kiến đoàn diễu hành của
nhân dân ở vị trí rất gần. “Những người diễu hành đi theo đại lộ Brière
de l’Isle (đại lộ Hùng Vương ngày nay) ngay trước cổng dinh Toàn quyền,
và chúng tôi không thấy có một cử chỉ thù địch nào hướng về chúng tôi,
cũng như về phía dinh là tòa nhà tượng trưng cho chủ quyền của Pháp ở
Đông Dương”.
Đặc biệt, những tường thuật của ông Sainteny có những chi tiết khá
thú vị: “Phái đoàn đại diện Mỹ cũng có mặt. Hai chiếc máy bay tiêm kích
Mỹ Lightning bay lượn rất lâu trên đoàn người dự mít tinh ở độ thấp. Sự
kiện này được cơ quan tuyên truyền của chính phủ mới cho rằng đây là
biểu hiện sự ủng hộ của Mỹ đối với Việt Minh”.
Sau Lễ Độc lập, ngày 3/9, một người trong nhóm của Sainteny là trung
úy Missoffe mới lần đầu ra khỏi dinh Toàn quyền để đến trụ sở chính phủ
mới của Việt Nam và có cuộc tiếp xúc đầu tiên với Đổng lý Văn phòng Bộ
Nội vụ Hoàng Minh Giám. Tiếp sau đó, mối quan hệ liên lạc đã được thiết
lập giữa phái đoàn của Saintany và Chính phủ Cách mạng Việt Minh.
Phái đoàn của Sainteny ở dinh Toàn quyền không lâu. Từ ngày 8/9, đã
có những sĩ quan của quân đội Trung Hoa dân quốc đến chiếm các phòng ở
trong dinh và đến ngày 10/9, các sĩ quan Pháp đã phải rời đi, nhường lại
tòa lâu đài cho lực lượng đại diện quân đội Đồng minh vào giải giáp
quân đội Nhật.
Jean Roger Sainteny (tên thật là Jean Roger) từng sang Việt Nam làm
việc tại Ngân hàng Đông Dương trong thời gian từ 1929-1932. Khi Đức xâm
chiếm Pháp năm 1940, ông gia nhập hàng ngũ kháng chiến Pháp, từng bị
bắt, sau đó trốn thoát để tham gia vào lực lượng kháng chiến của phái De
Gaulle. Năm 1944, Sainteny được cử sang Côn Minh, Trung Quốc làm Chỉ
huy phái đoàn 5, là mạng lưới tình báo, gián điệp, biệt kích hoạt động
tại khu vực biên giới Hoa - Việt và vùng Bắc bộ lúc đó đang bị quân đội
Nhật chiếm đóng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh (bên trái)
và ông Sainteny (đứng giữa) cùng đại diện các nước đồng minh nghe đọc
Hiệp định sơ bộ giữa Pháp và Việt Nam, trước khi ký kết ngày 6/3/1946.
Ảnh: Nguyễn Bá Khoản.
Thiếu tá Sainteny là đại diện của chính phủ Pháp trong cuộc đàm phán
Pháp - Việt và ngày 6/3/1946 đã cùng với Chủ tịch Hồ Chí Minh ký tên vào
bản Hiệp định Sơ bộ, mở đầu quan hệ giữa Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và
Cộng hòa Pháp. Sự tiếc nuối về những cuộc đàm phán thất bại dẫn đến cuộc
chiến tranh 9 năm và thất bại của quân đội Pháp tại Điện Biên Phủ đã
khiến ông viết cuốn hồi ký Câu chuyện về một nền hòa bình bị bỏ lỡ năm 1954.
Kết thúc chiến tranh Đông Dương, Jean Sainteny lại được chính phủ
Pháp cử làm Đại diện đầu tiên tại Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm 1954.
Ông có mối quan hệ gần gũi với Chủ tịch Hồ Chí Minh, Thủ tướng Phạm Văn
Đồng và là người đại diện cho Cộng hòa Pháp tham dự lễ tang chủ tịch Hồ
Chí Minh tháng 9/1969. Năm 1970, ông đã xuất bản cuốn sách thứ hai nhan
đề Đối diện với Hồ Chí Minh.
Nam Bộ Kháng Chiến | Nhạc Cách Mạng Hào Hùng
Vì sao Jean Sainteny dự đoán Pháp sẽ thất bại ở Việt Nam?
- Những
nỗ lực của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chính phủ Việt Nam và cá nhân Sainteny
đã không giúp ngăn được cuộc chiến giữa hai nước nổ ra ngày 19/12/1946
và kéo dài suốt 8 năm sau.
Jean Sainteny là người có mặt tại Hà Nội từ ngày 22/8/1945 và trực tiếp chứng kiến những ngày diễn ra cuộc
Cách mạng tháng Tám tại Hà Nội cũng như Lễ Độc lập thành lập nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa ngày 2/9/1945.Ông mô tả diễn biến của Lễ Độc
lập mà ông chứng kiến từ khoảng cách rất gần, ngay từ dinh Toàn quyền
cũ (nay là Phủ chủ tịch): “Trên bục gỗ cao dựng lên trong công viên
Puginier (tên thời thực dân Pháp, đã được đổi tên thành Vườn hoa Ba
Đình), trước hàng vạn người, một loạt diễn giả đã phát biểu bằng những
lời lẽ mạnh mẽ theo các mức độ khác nhau. Lần lượt, Võ Nguyên Giáp, Trần
Huy Liệu rồi Hồ Chí Minh mà ngay hôm đó quần chúng nhân dân được biết
đây chính là nhà cách mạng lão thành Nguyễn Ái Quốc, long trọng tuyên bố
nền Độc lập của Việt Nam”.
“Hồ Chí Minh có vẻ như mềm dẻo hơn
những đồng chí trẻ tuổi, ông đã dùng những từ ngữ có cân nhắc trong bài
nói”, Sainteny - lúc này giữ cương vị thiếu tá tình báo, Trưởng phái
đoàn 5, là mạng lưới tình báo, hoạt động tại Việt Nam đang bị quân đội
Nhật chiếm đóng nhận xét.
Ngay sau khi chính quyền mới ở Việt Nam
được thành lập, Sainteny là đại diện của nước Pháp tại Việt Nam, sau đó
được công nhận chính thức là Ủy viên Cộng hòa Pháp tại Việt Nam. Chính
ông đã cùng Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Hiệp định sơ bộ ngày 6/3/1946, mở
đầu quan hệ chính thức giữa Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa Pháp.
Ông cũng là người phụ trách giao tiếp với phái đoàn của Chủ tịch Hồ Chí
Minh khi sang thăm Pháp và dự Hội nghị Fontainebleau mùa hè năm 1946.
Những
nỗ lực của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Chính phủ Việt Nam và cá nhân Sainteny
đã không giúp ngăn được cuộc chiến giữa hai nước nổ ra ngày 19/12/1946
và kéo dài suốt 8 năm sau, để lại nhiều hậu quả nặng nề cho hai bên.
Ngày 19/8/1945, nhân dân giành chính quyền tại Bắc Bộ phủ (Hà Nội).
Với
phía Pháp, đó là nỗi ê chề của thất bại Điện Biên Phủ và việc phải ký
vào hiệp định Genève, từ bỏ hoàn toàn các thuộc địa tại Đông Dương. Thậm
chí, chính Sainteny còn bị thương ngay trong đêm nổ ra cuộc chiến, khi
chiếc xe bọc thép chở ông ta dính mìn trên phố Tràng Thi, và ông đã được
đưa về Pháp chữa trị.
Sự tiếc nuối về những cuộc đàm phán thất
bại đã khiến ông viết cuốn hồi ký "Câu chuyện về một nền hòa bình bị bỏ
lỡ" (Histoire d’une paix manquée, Fayard xuất bản năm 1967).
Trong
quyển sách của mình, Sainteny nêu ý nghĩ xuyên suốt rằng, nước Pháp đã
thất bại tại Việt Nam vì chính phủ Pháp đã không chịu trao trả độc lập
cho người Việt Nam, như người Anh đã làm với Ấn Độ năm 1948.
“Đáng
lẽ, chúng ta đã tiết kiệm được cuộc chiến tranh này, đã có thể không
phải phơi bày và làm thoái hóa tinh thần quân đội, và có thể chúng ta
vẫn giữ được một vị trí nào đó ở Việt Nam, nếu không phải là kinh tế thì
ít nhất cũng trong lĩnh vực văn hóa và tinh thần”, ông tiếc nuối viết.
Saintery
day dứt nhớ lại những trục trặc xảy ra trong giai đoạn căng thẳng nhất
của quan hệ giữa hai bên, khi thùng thuốc súng của chiến tranh đang nóng
dần. Điển hình như việc ngày 12/12/1946, khi ông Léon Blum thuộc Đảng
Xã hội lên nắm quyền ở Pháp và ngay ngày 15/12, chủ tịch Hồ Chí Minh đã
gửi cho ông Blum một công hàm, nhưng Sài Gòn đã chậm trễ trong việc
“chuyển thư” và mãi tới ngày 26/12, Paris mới nhận được bức công hàm
này.
Ông Sainteny phân tích, trên thực tế, lúc bấy giờ, Pháp đã
không có một chính sách về Đông Dương. Và Pháp cũng không thể có một hệ
thống chính sách như vậy, vì trung bình cứ ba tháng một lần, nước Pháp
lại thay đổi chính phủ!
Trong khi đó, nước Pháp lại quá hiểu mong
muốn độc lập của người Việt Nam. “Từ lâu lắm, nước Pháp, qua những đại
diện sáng suốt nhất của mình đã hiểu rõ đòi hỏi của người Việt Nam. Nước
Pháp biết rõ, người Việt Nam không bao giờ từ bỏ việc đòi độc lập”, ông
khẳng định. “Nước Pháp còn biết rõ, những khát vọng của người Việt Nam
có cơ sở vững chắc. Dân tộc này đã trưởng thành, họ dễ dàng hấp thụ ngôn
ngữ và văn hóa Pháp một cách đáng ngạc nhiên. Sự hấp thụ nhanh chóng
này làm họ trở thành những người có khả năng nhất so với các dân tộc
đang được Pháp “bảo hộ”, có thể tự đảm đương vận mệnh của mình”.
Ông
cũng cho rằng Hồ Chí Minh cũng theo chủ nghĩa dân tộc như theo chủ
nghĩa cộng sản và nước Pháp đáng ra phải tận dụng sự may mắn đó. “Trong
mọi trường hợp, hồi chúng ta đã có thể, thay sự loại trừ Nam kỳ ra khỏi
Việt Nam, bằng việc để cho Nam kỳ quyết định vận mệnh qua trưng cầu dân ý
như đã dự tính. Kết quả trưng cầu dân ý có thể khác với việc tuyên bố
Nam Kỳ tự trị, hoặc cũng có thể diễn biến theo những điều kiện đáng hài
lòng hơn”, ông nhắc lại việc hội nghị Fontainebleau đổ vỡ khi Đô đốc
d'Argenlieu ở Việt Nam công bố ra mắt “Cộng hòa Nam kỳ tự trị”.
Là
người theo sát các cuộc đàm phái, Sainteny hiểu rõ mâu thuẫn khiến hai
bên không thể nhất trí với nhau là phía Việt Nam muốt đạt được tất cả
những đặc quyền của một nhà nước độc lập, nhưng phía Pháp chỉ muốn thừa
nhận Việt Nam là một nhà nước tự trị nằm trong Liên bang Đông Dương và
Khối Liên hiệp Pháp.
Sainteny tin tưởng rằng, về phía Việt Nam,
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng như chính phủ và nhân dân Việt Nam hoàn toàn
mong muốn hòa bình. Ông nhắc lại bức thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi
ông, ký ngày 24 tháng 2 năm 1947, tức là khi chiến tranh đã lan rộng và
chính phủ Việt Nam đã di tản lên chiến khu. Bức thư này, phải sau khi
Sainteny đã điều trị xong vết thương ở Pháp để trở về Bắc bộ, ông mới
nhận được. Ông thắc mắc ai đã giữ lại lá thư này.
Trong thư, Chủ
tịch Hồ Chí Minh viết: “Đã xảy ra khá nhiều chết chóc và tàn phá. Ông và
tôi, chúng ta phải làm gì bây giờ? Chỉ cần nước Pháp công nhận nền độc
lập và thống nhất của Việt Nam, lập tức những cuộc xung đột sẽ ngừng,
hòa bình và niềm tin cậy lẫn nhau sẽ trở lại, chúng ta lại có thể bắt
tay vào công việc xây dựng lại vì lợi ích chung của hai nước chúng ta”.
Ông
tiếp tục thắc mắc: Nếu chúng tôi công nhận “độc lập và thống nhất” của
Việt Nam, liệu có đủ để chấm dứt xung đột, thiết lập một sự hợp tác được
không?
Kết thúc chiến tranh Đông Dương, Jean Sainteny lại được
chính phủ Pháp cử làm Đại diện đầu tiên tại Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ
tháng 8 năm 1954. Ông có mối quan hệ gần gũi với Chủ tịch Hồ Chí Minh,
Thủ tướng Phạm Văn Đồng và là người đại diện cho Cộng hòa Pháp tham dự
lễ tang chủ tịch Hồ Chí Minh tháng 9/1969. Sau khi dự lễ tang trở về,
năm 1970, ông đã xuất bản cuốn sách thứ hai nhan đề "Đối diện với Hồ Chí
Minh" (Face à Ho Chi Minh, Éditions Seghers, Paris). Lê Tiên Long
Những Người Lính Thiên Hoàng Của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa - Ẩn Số Những Năm Kháng Chiến Từ Nhật Bản
Việt Nam trong hơn một năm đầu sau cách mạng tháng Tám
I- Tình hình Việt Nam sau Chiến tranh thế giới thứ hai và Cách mạng tháng Tám 1945.
Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, một loạt nước ở Trung, Đông Âu được
giải phóng, lập nên chế độ dân chủ nhân dân và từng bước tiến lên chủ
nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội từ một nước là Liên Xô đã trở thành hệ
thống thế giới gồm nhiều nước và là chỗ dựa vững chắc cho phong trào đấu
tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Cùng với sự ra đời của hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở nhiều nước châu Á, châu Phi
cũng ngày một dâng cao. Nhân dân các nước Lào, Campuchia, Mianma,
Inđônêxia, Philíppin, Malaixia... đứng lên đấu tranh chống thực dân Anh,
Pháp, Mĩ, Hà Lan. . . giành độc lập. Lực lượng cách mạng Trung Quốc do
Đảng Cộng sản lãnh đạo đã giải phóng được một phần lục địa phía Bắc với
gần 100 triệu dân (trong tổng số 450 triệu), nhưng lực lượng phản cách
mạng Quốc Dân đảng do Tưởng Giới Thạch cầm đầu vẫn còn khá mạnh (1,6
triệu quân) và cuộc nội chiến giữa hai lực lượng bắt đầu diễn ra quyết
liệt.
Ở châu Âu,
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản ở một số nước, như Pháp, Ý. . . ,
giai cấp công nhân và các tầng lớp nhân dân lao động đấu tranh đời các
quyền dân sinh, dân chủ, đòi tăng lương, giảm giờ làm, ủng hộ phong trào
đấu tranh của nhân dân các nước thuộc địa. Sau Chiến tranh, trong khi
nền kinh tế của các nước tư bản châu Âu
bị tàn phá nặng nề, thì Mĩ trở thành một nước mạnh nhất về kinh tế
(chiếm 52% tổng sản phẩm xã hội của thế giới) và nắm độc quyền vũ khí
hạt nhân.
Với sức mạnh về kinh tế, khoa học - kĩ thuật và quân sự đế quốc Mĩ
ráo riết thực hiện âm mưu làm bá chủ thế giới. Cùng với việc tăng cường
chạy đua vũ trang, cuộc "chiến tranh lạnh" do Mĩ gây ra nhằm chống lại
Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa diễn ra ngày càng quyết liệt.
Như vậy, sau Chiến tranh thế giới thứ hai, mâu thuẫn chủ yếu giữa một
bên là hệ thống xã hội chủ nghĩa cùng các lực lượng đấu tranh cho độc
lập dân tộc dân chủ, hoà bình và tiến bộ xã hội với một bên là phe đế
quốc do Mĩ cầm đầu nổi lên ngày càng sâu sắc. Tất cả tình hình trên đã
tác động trực tiếp đến cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập của nhân dân Việt
Nam.
Sau thắng lợi Cách mạng tháng Tám 1945, dân tộc Việt Nam bước vào kỉ
nguyên mới - kỉ nguyên độc lập tự do. Nhân dân Việt Nam trở thành người
làm chủ đất nước, làm chủ xã hội và 6 bước đầu được hưởng những quyền
lợi do cách mạng đem lại.
Họ hiểu rõ giá trị thiêng liêng của những quyền lợi ấy, một lòng gắn
bó và quyết tâm bảo vệ chính quyền cách mạng. Đây chính là nguồn sức
mạnh vô tận giúp cho Nhà nước cách mạng còn đang trong thời kì trứng
nước vượt qua mọi khó khăn, thử thách.
Sau Cách mạng tháng Tám, Mặt trận Việt Minh phát triển rất nhanh
chóng. Các Hội Cứu quốc trong công nhân, nông dân, thanh niên, phụ nữ
được tổ chức thống nhất trong cả nước.
Nhiều Hội Cứu quốc mới ra đời, tập hợp thêm những tầng lớp yêu nước
còn đứng ngoài Mặt trận, như Công thương Cứu quốc, Phật giáo Cứu quốc,
Đoàn Hướng đạo Cứu quốc, Đoàn sinh viên Cứu quốc... Mặt trận Việt Minh
thực sự trở thành ngọn cờ đoàn kết toàn dân rộng rãi, giữ vai trò rất
quan trọng trong cuộc đấu tranh bảo vệ chính quyền dân chủ nhân dân.
Thực hiện chủ trương vũ trang toàn dân, nhân dân ta tích cực xây dựng
lực lượng. Chỉ trong thời gian ngắn, lực lượng vũ trang bao gồm các đơn
vị Giải phóng quân và các đội tự vệ chiến đấu phát triển nhanh chóng.
Dù trang bị vũ khí còn rất thô sơ và thiếu thốn, lại chưa có nhiều kinh
nghiệm tác chiến, nhưng cán bộ và chiến sĩ trong các đơn vị vũ trang đều
có tinh thần chiến đấu dũng cảm, là lực lượng chủ chốt trong cuộc đấu
tranh bảo vệ chính quyền cách mạng.
Trải qua 15 năm đấu tranh cách mạng do Đảng lãnh đạo (1930 - 1945),
truyền thống đoàn kết, bất khuất của dân tộc ta càng được phát huy cao
độ; Đảng ta ngày càng trưởng thành, bắt rễ sâu vào quần chúng và thêm
dày dạn kinh nghiệm lãnh đạo.
Sau khi đất nước được độc lập, Đảng kịp thời mở rộng đội ngũ, đạo tạo
cán bộ, tăng cường sự lãnh đạo trên mọi mặt hoạt động, chuẩn bị tổ chức
cho toàn dân bước vào cuộc đấu tranh mới.
Đứng đầu Đảng và Nhà nước cách mạng là vị lãnh tụ thiên tài, có uy tín tuyệt đối trong toàn dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh
tượng trưng cho linh hoa của dân tộc, cho ý chí kiên cường, bất khuất
của nhân dân Việt Nam. Cuộc đời hoạt động cách mạng phong phú cùng với
uy tín rộng lớn của Người là ngọn cờ tập hợp các tầng lớp nhân dân xung
quanh Đảng và Chính phủ.
Bên cạnh những thuận lợi cơ bản nêu trên, Nhà nước cách mạng Việt
Nam, ngay sau khi ra đời, đã phải đứng trước một tình thế hết sức hiểm
nghèo.
Nền kinh tế nước ta chủ yếu là nông nghiệp với trình độ lạc hậu, bị
chiến tranh tàn phá rất nặng nề, thiên tai thường xuyên xảy ra. Trận lụt
lớn hồi tháng 8 - 1945 làm vỡ đê ở 9 tỉnh Bắc Bộ, khiến 1/3 diện tích
canh tác bị hư hại nặng. Sự thiệt hại do trận lụt này gây ra ước tính
khoảng 2.000 triệu đồng, tương đương khoảng 3 triệu tạ gạo (theo giá lúc
đó). Ba tỉnh vùng Bắc Trung Bộ là Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh cũng bị
mất mùa trên khoảng một nửa diện tích. Sau lụt là hạn hán kéo dài làm
cho 50% diện tích ruộng đất ở Bắc Bộ không cày cấy được. Các ngành kinh
tế bị đình đốn nghiêm trọng. Nhiều cơ sở công nghiệp chưa đi vào hoạt
động. Hàng vạn công nhân thất nghiệp.
Riêng ngành khai mỏ than, năm 1940 có 39.500 công nhân, khai thác
được 2.500.000 tấn; đến năm 1945 chỉ còn lại 4.000 công nhân với sản
lượng khai thác là 231.000 tấn1. Việc buôn bán với nước ngoài hầu như bị
đình trệ. Hàng hoá trên thị trường khan hiếm. Nguy cơ nạn đói mới xuất
hiện trong khi hậu quả nạn đói lớn do Nhật - Pháp gây ra từ cuối năm
1944 đầu năm 1945 vẫn chưa được khắc phục. Đời sống nhân dân bị đe doạ
nghiêm trọng.
Nền tài chính của Nhà nước cách mạng trong buổi đấu hết sức kiệt quệ.
Ngân sách quốc gia lúc đó chỉ có 1.230.000 đồng, trong đó quá nửa là
tiền rách. Các khoản thu từ thuế giảm sút.
Thuế quan là một nguồn thu chính, chiếm 3/4 ngân sách Đông Dương, giờ
đây sụt hẳn xuống. Một số chính sách thuế mới do Chính phủ ban hành
nhằm giảm nhẹ sự đóng góp của nhân dân (bãi bỏ thuế thân, thuế môn bài,
thuế xe tay, xe đạp, miễn thuế điền thổ cho những vùng bị ngập lụt và
giảm 20% trong toàn quốc...) cũng làm cho nguồn thu ngân sách giảm xuống
rất nhiều. Trong khi nguồn thu quá ít ỏi không thể đáp ứng được nhu cầu
chi lớn thì Nhà nước lại chưa nắm được Ngân hàng Đông Dương. Bên cạnh
đó, khi kéo vào nước ta, quân Tưởng lại tung ra trên thị trường giấy bạc
"Quan kim" và "Quốc tệ" đã mất giá trị, càng làm cho tình hình tài
chính và thương mại thêm phức tạp.
Cùng với khó khăn về kinh tế, tài chính, chế độ thực dân - phong kiến
để lại một di sản văn hoá hết sức lạc hậu. Thực dân Pháp chăm lo xây
dựng nhà tù hơn là trường học. Vì thế, hơn 90% dân số nước ta mù chữ.
Trước năm 1945, cả nước ta chỉ có 737 trường tiểu học với khoảng 623.000
học sinh, 65 trường cao đẳng tiểu học với 16.700 học sinh và chỉ có 3
trường phổ thông trung học với 652 học sinh. Bên cạnh nạn thất học là
các tệ nạn xã hội như cờ bạc, nghiện hút... tồn tại rất phổ biến. Bệnh
dịch hoành hành ở nhiều nơi...
Trong khi đó, chính quyền cách mạng mới ra đời, chưa có kinh nghiệm
quản lí. Ở một số nơi, chính quyền chưa nằm trong tay những người cách
mạng. Quân đội thường trực đang trong quá trình xây dựng, chưa được huấn
luyện bao nhiêu. Phần lớn cán bộ chỉ huy chưa có hiểu biết về quân sự
và kinh nghiệm chiến đấu. Trang bị vũ khí rất thô sơ và thiếu thốn, chủ
yếu là giáo mác, dao găm, mã tấu, một ít súng trường, súng máy.
Mặt trận dân tộc thống nhất tuy phát triển rộng rãi, nhưng chưa được
củng cố vững chắc; kẻ thù lại đang ra sức thực hiện âm mưu chia rẽ, lôi
kéo... Do đó, vấn đề đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo đang là những
vấn đề lớn được đặt ra rất bức thiết lúc đó.
Nguy cơ lớn nhất đối với Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà lúc mới
thành lập là nạn ngoại xâm. Ở phía Bắc vĩ tuyến 160, hơn 20 vạn quân
Tưởng đã ồ ạt kéo vào nước ta. Núp dưới danh nghĩa đại diện lực lượng
Đồng minh vào làm nhiệm vụ giải giáp quân đội Nhật, quân Tưởng nuôi dã
tâm: tiêu diệt Đảng Cộng sản Đông Dương, phá tan Việt Minh, lật đổ Chính
phủ Hồ Chí Minh
và dựng lên một chính quyền tay sai. Bởi vậy, khi vào nước ta, quân
Tưởng kéo theo các tổ chức phản cách mạng như Việt Nam Quốc Dân đảng
(Việt Quốc) do Nguyễn Tường Tam, Vũ Hồng Khanh cầm đầu và Việt Nam cách mạng đồng minh hội (Việt Cách) do Nguyễn Hải Thần
cầm đầu. Quân Tưởng buộc Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà thực hiện
chế độ trưng thu lương thực để mỗi tháng phải cung cấp cho chúng 10.000
tấn gạo, trong khi nhân dân Bắc Bộ đang phải chịu hậu quả nạn đói khủng
khiếp chưa từng có trong lịch sử đất nước.
Dựa vào quân Tưởng, các tổ chức Việt Quốc, Việt Cách ra sức chống phá
chính quyền cách mạng. Chúng tiến hành nhiều hoạt động vu cáo, nói xấu
Việt Minh, ngang nhiên đòi gạt các bộ trưởng là đảng viên cộng sản ra
khỏi Chính phủ. Chúng còn gây ra các vụ giết người, cướp của, bắt cóc
cán bộ, cướp chính quyền ở một số địa phương (Yên Bái, Vĩnh Yên, Móng
Cái...).
Ở phía Nam vĩ tuyến 16, tình hình còn nghiêm trọng hơn.Thực dân Pháp ngày càng lộ rõ ý đồ trở lại xâm chiếm Việt Nam.
Ngày 17-8-1945, Uỷ ban Quốc phòng Pháp quyết định thành lập lực lượng
viễn chinh Pháp ở Viễn Đông (sau đổi là đạo quân viễn chinh Pháp ở Viễn
Đông) đưa sang Đông Dương. Tướng Lơclec (Leclerc) được cử làm Tổng chỉ
huy lực lượng lục quân Pháp ở Viễn Đông. Đô đốc Đácgiăngliơ (D'
Argenlieu) được cử làm Cao uỷ kiêm Tổng Tư lệnh Hải quân Pháp ở Viễn
Đông. Uỷ ban hành động giải phóng Đông Dương được cải tổ thành Uỷ ban
Đông Dương do Đờ Gôn (De Gaulle) làm Chủ tịch.
Sau thắng lợi của Cách mạng tháng Tám 1945 nhân dân Việt Nam trở
thành người làm chủ đất nước. Thực dân Pháp không còn chỗ đứng ở Đông
Dương nhưng vẫn không chịu từ bỏ âm mưu đặt lại ách thống trị thực dân
kiểu cũ trên bán đảo này.
Lơclec đã vạch ra kế hoạch chiếm lại Đông Dương gồm 5 điểm như sau:
1- Dựa vào quân Anh để làm chủ phía Nam vĩ tuyến 16;
2- Thả dù nhân viên dân sự và lực lượng quân sự xuống miền Bắc Việt Nam;
3- Xác nhận với Đồng minh việc duy trì chủ quyền của Pháp ở Đông Dương;
4- Từng bước giành lại những vùng do Trung Quốc kiểm soát;
5- Tiến hành các cuộc thương thuyết với người bản xứ.
Thực hiện kế hoạch trên, từ ngày 13 đến ngày 22-8-1945, một số tên
quan thuộc địa cũ, trong đó có Métxme (Messmer) mang danh nghĩa Uỷ viên
Cộng hoà Pháp tại Bắc Kì, đã nhảy dù xuống miền Bắc nước ta, liên lạc
với tàn binh, tù binh, Pháp kiều và bọn tay sai nhằm lập lại bộ máy cai
trị. Ngày 22-8-1945, Xanhtơni (Sainteny) cùng với một số sĩ quan Pháp từ
Côn Minh (Vân Nam) theo phái đoàn đầu tiên của cơ quan tình báo chiến
lược (OSS) của Mĩ (do Trung uý Patti cầm đầu) đến Hà Nội.
Cao uỷ Đácgiăngliơ và Tư lệnh tối cao các lực lượng Pháp Lơclec đã
được lệnh của Đờ Gôn phải tìm cách khôi phục lại chủ quyền của Pháp trên
các lãnh thổ liên bang Đông Dương mà không được cam kết bất cứ điều gì
đối với phía Việt Minh. Vào thời điểm này, khu vực Bắc Đông Dương kể từ
vĩ tuyến 16 trở ra có gần 30.000 người Pháp, trong đó có 20.000 người đã
bị quân Nhật bắt tập trung tại Hà Nội từ ngày 9-3-1945. Xêđi (Cédille),
Uỷ viên Cộng hoà Pháp tại Nam Đông Dương, nhảy dù xuống Hớn Quản, được
quân Nhật đưa về Sài Gòn. Hai chiếc tàu Pháp chạy trốn Nhật sau cuộc đảo
chính 9-3-1945, từ vùng biển Quảng Đông trở lại Đông Bắc Việt Nam, đổ
quân lên đảo Cô Tô và đảo Vạn Hoa. Những toán tàn binh Pháp ở Trung Lào,
Hạ Lào được tập hợp lại, chiếm đóng một số cao điểm trên các trục đường
số 7, 8, 9, 12 và dọc biên giới Việt - Lào, làm bàn đạp chuẩn bị tiến
sang các tỉnh Bắc Trung Bộ Việt Nam.
Thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng và Chính phủ, Mặt trận Việt
Minh cùng chính quyền các cấp lãnh đạo nhân dân và lực lượng vũ trang đề
cao cảnh giác, tích cực đánh địch, bảo vệ quê hương. Ở miền Bắc, cuối
tháng 8-1945, những tên Pháp nhảy dù xuống các nơi đều bị quân và dân ta
chặn đánh.
Các đơn vị Giải phóng quân Hải Phòng, Quảng Yên chặn đánh các tàu
Crayxắc (Crayssac) và Phơrênôn (Frénohls), tiêu diệt địch ở Vạn Hoa và
Cô Tô. Ở Bắc Trung Bộ, Giải phóng quân Nghệ An và Hà Tĩnh chặn đánh địch
trên biên giới Việt - Lào tại các vị trí: Mường Xén (Đường số 7), Napê
(Đường số 8), Banaphào (Đường số 12). Trên Đường số 9, Giải phóng quân
Quảng Trị, Thừa Thiên phối hợp với bộ đội Lào đánh địch ở Pha Lan, Mường
Phin, Đồng Hến, không cho chúng tiến sang các tỉnh Bắc Trung Bộ. Tại
miền Nam, Xêđi nhân danh uỷ viên Cộng hoà Pháp ở miền Nam Đông Dương đã
đàm phán với Uỷ ban nhân dân Nam Bộ trên cơ sở nội dung bản Tuyên bố
ngày 24-3-1945 về vấn đề Đông Dương của Đờ Gôn, mà không đề cập đến nền
độc lập của Việt Nam, nên đã không đạt được kết quả.
Như vậy, âm mưu của thực dân Pháp muốn nhanh chóng thiết lập lại nền
thống trị ở Đông Dương đã không thực hiện được. Đầu tháng 9-1945,
Đácgiăngliơ và Lơclec phải điều chỉnh kế hoạch: Dựa vào quân Anh gấp rút
chiếm Nam Bộ, lấy đó làm bàn đạp đánh chiếm phần còn lại của Đông
Dương, lập chính phủ "Nam Kì tự trị", thành lập Liên bang Đông Dương.
Chúng vừa ráo riết chuẩn bị lực lượng, vừa khiêu khích ta để tạo cớ cho
quân Đồng minh can thiệp.
Ngày 2-9-1945, trong lúc nhân dân Sài Gòn mít tinh mừng ngày Độc lập
một số lính Pháp núp trong Nhà thờ Đức Bà bắn lén vào đám đông, làm 47
người chết, nhiều người bị thương.
Ngày 4-9-1945, Grêxi (Gracey), Tư lệnh sư đoàn 20 quân đội Hoàng gia
Anh, trưởng phái bộ Đồng minh, lấy cớ trật tự Sài Gòn không đảm bảo, đã
hạ lệnh cho tư lệnh quân đội Nhật Bản ở Đông Nam Á đưa 7 tiểu đoàn từ
các tỉnh Nam Bộ về Sài Gòn.
Hành động khiêu khích của quân Pháp đã gây nên làn sóng công phẫn
trong các tầng lớp nhân dân. Đêm 4-9, vào lúc 22 giờ, công nhân Sài Gòn
tổ chức cuộc mít tinh trước trụ sở Tổng Công đoàn Nam Bộ, tuyên thệ
trước bàn thờ Tổ quốc: "Quyết cùng anh em lao động không nản chí trước
khó khăn, không lùi bước trước nguy hiểm để cùng đồng bào bảo vệ Tổ
quốc, giữ gìn non sông".
Ngày 6-9-1945, phái bộ Anh gồm 30 sĩ quan, do một đại tá cầm đầu vừa
đến Sài Gòn đã ra lệnh cho quân Nhật làm nhiệm vụ cảnh sát trong thành
phố, đòi các lực lượng vũ trang cách mạng nộp vũ khí. Ngày 12-9, một lữ
đoàn thuộc Sư đoàn 20 quân đội Hoang gia Anh đến nước ta với nhiệm vụ
giải giáp quân Nhật và kéo theo sau là một đại đội thuộc Trung đoàn bộ
binh thuộc địa số 5 của Pháp.
Tại Sài Gòn, quân Anh ngang nhiên tước vũ khí của quân Nhật trang bị
cho tù binh Pháp (bị Nhật bắt giam từ sau ngày 9- 3-1945), dùng quân
Pháp thay quân Nhật canh gác một số vị trí.
Những đơn vị nhỏ bộ binh và xe bọc thép của Pháp được tăng thêm 1.400
lính do Nhật giam giữ được Anh thả ra và trang bị lại. Ngày 14-9, Grêxi
ra thông cáo cấm nhân dân ta mang vũ khí và biểu tình. Ngày 15-9, y ra
lệnh tước vũ khí của lực lượng vũ trang Việt Nam. Ngày 17-9, Grêxi lại
ra lệnh giới nghiêm, đình bản tất cả báo chí ở Nam Bộ. Ngày 19-9, Xem tổ
chức họp báo, tuyên bố: "Việt Minh không đại diện cho nhân dân Việt Nam
và bất lực trong việc giữ gìn trật tự. Pháp có nhiệm vụ lập lại trật
tự, sau đó sẽ thành lập chính phủ phù hợp với tuyên bố 24-3"2.
Ngày 20-9, phái bộ Anh tuyên bố giữ quyền kiểm soát Sài Gòn, đòi thả
những người Pháp đang bị giam giữ, đòi đặt công an của Việt Nam dưới
quyền chỉ huy của họ và buộc Việt Nam Dân chủ Cộng hoà rút hết lực lượng
vũ trang ra khỏi thành phố.
Như vậy, có thể thấy với danh nghĩa đại diện lực lượng Đồng minh làm
nhiệm vụ giải giáp quân Nhật ở phía Nam vĩ tuyến 16, quân Anh đã dọn
đường cho thực dân Pháp trở lại xâm lược nước ta. Vào thời điểm này,
trên đất nước ta đã có hơn 30 vạn quân các nước Anh,
Pháp, Tưởng, Nhật cùng nhiều đảng phái phản động lăm le lật đổ Chính
phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Chưa bao giờ trên đất nước ta cùng một
lúc có nhiều kẻ thù xâm lược như vậy.
Lợi dụng tình hình trên, các thế lực phản động ở trong nước bắt đầu nổi dậy hoạt động chống phá chính quyền cách mạng.
Các phần tử tay sai của thực dân Pháp như Nguyễn Văn Xuân, Lê Văn Hoạch, Nguyễn Văn Thinh, Nguyễn Văn Tâm...
mưu toan ngóc đầu dậy, chuẩn bị đón chủ cũ trở lại. Nguyễn Tấn Cường -
một tên mật thám cũ, đứng ra lập "Đảng Nam Kì"; Nguyễn Văn Tị lập "Đảng
Đông Dương tự trị ", thực hiện âm mưu của thực dân Pháp chia cắt Nam Bộ
ra khỏi nước Việt Nam thống nhất, thành lập "Nam Kì quốc". Các tổ chức
chính trị phản động thân Nhật, như Đại Việt cách mạng đảng, Đại Việt
quốc dân đảng, Đại Việt duy dân đảng... do Trần Trọng Kạn, Trần Văn An, Nguyễn Văn Sâm, Ngô Đình Diệm...
cầm đầu, cũng ráo riết hoạt động. Một số phần tử phản động trong các
đạo nhau (Nam Kì, Trung Kì, Bắc Kì, Cao Miên, Ai Lao). Liên bang Đông
Dương sẽ cùng với nước Pháp xây dựng thành khối liên hiệp Pháp mà quyền đối ngoại sẽ do Pháp đại diện.
Đông Dương sẽ có một chính phủ liên bang đứng đầu là một viên toàn
quyền và gồm những bộ trưởng chịu trách nhiệm trước viên toàn quyền đó.
Chính phủ liên bang sẽ là người trọng tài gồm năm xứ. Bên cạnh viên toàn
quyền có một hội đồng nhà nước trong đó người Đông Dương chiếm nhiều
nhất là 50% số ghế...".
Thiên Chúa, Cao Đài, Hoà Hảo... lợi dụng thần quyền và lòng sùng đạo của tín đồ để hoạt động chia rẽ, chống phá cách mạng.
Bọn Tơrốtxkít - dưới chiêu bài cách mạng triệt để - tung ra những
khẩu hiệu quá khích: đòi tăng lương ngay cho công nhân; đòi tịch thu
ruộng đất của địa chủ chia cho nông dân; đòi đánh đổ tất cả các đế quốc
cùng một lúc... Chúng hô hào liên kết thợ thuyền và dân cày, đấu tranh
chống tư sản và địa chủ, nhằm phá hoại mặt trận đoàn kết dân tộc v.v.. .
Tất cả những khó khăn kể trên trực tiếp đe dọa đến sự tồn tại của Nhà
nước cộng hoà non trẻ. Vận mệnh Tổ quốc lúc này như ngàn cân treo sợi
tóc. Nhiệm vụ cấp bách đặt ra cho toàn dân ta là phải xây dựng và củng
cố bộ máy chính quyền cách mạng.
II- Bước đầu công cuộc xây dựng và củng cố chính quyền cách mạng .
Ngay sau khi trở về thủ đô Hà Nội, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã
đề ra phương hướng, biện pháp xây dựng chế độ mới và đối phó các lực
lượng ngoại xâm. Ngày 28-8-1945, Uỷ ban Dân tộc giải phóng Việt Nam tự
cải tổ thành Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Một số
đảng viên cộng sản, kể cả Tổng Bí thư Trường Chinh trong Uỷ ban Dân tộc
giải phóng đã tình nguyện rút lui, nhường chỗ cho một số nhân sĩ yêu
nước, tiến bộ tham gia Chính phủ. Thành phần Chính phủ lâm thời gồm có
13 Bộ và 15 vị Bộ trưởng, do Hồ Chí Minh
làm Chủ tịch kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao. Về nguyên tắc, Chính phủ lâm
thời tiếp thu bộ máy nhà nước cũ, đổi mới một số bộ phận, còn lại thì
chuyển sang phục vụ chính quyền mới. Chính quyền các cấp từ Trung ương
xuống đến huyện, xã, quân đội và cảnh sát được thay đổi cho phù hợp với
chính thể mới là nền dân chủ cộng hoà. Nhà nước ban bố Sắc lệnh (số
41/SL ngày 3- l0-1945) bãi bỏ tất cả các cơ quan thuộc phủ Toàn quyền
Đông Dương và sáp nhập vào các Bộ của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng
hoà. Bộ máy các ngành được sắp xếp lại, nhưng hầu
hết các nhân viên
vẫn tiếp tục công việc như trước. Ở các địa phương, bộ máy chính quyền
cũ bị xoá bỏ, Uỷ ban nhân dân cách mạng là bộ máy chính quyền mới với
lãnh đạo mới. Hầu hết các cơ quan, các ngành đều giữ nguyên, hoạt động
dưới sự điều hành của Uỷ ban nhân dân cách mạng.
Ngoài những cơ sở đã có sẵn của hệ thống nhà nước cũ, sau Cách mạng
tháng Tám, yêu cầu xây dựng chế độ mới đòi hỏi phải có những tổ chức
mới. Ở Trung ương có các Uỷ ban Quỹ Độc lập, Tuần lễ vàng giải quyết vấn
đề tài chính; Tiểu ban Canh nông lo việc khai hoang, phục hoá; Uỷ ban
Mùa đông binh sĩ lo giải quyết vấn đề quân nhu cho bộ đội; Uỷ ban nghiên
cứu kế hoạch kiến thiết có nhiệm vụ xây dựng kế hoạch phát triển đất
nước . . .
Để bảo vệ và phát huy thành quả của Cách mạng tháng Tám, một trong
những nhiệm vụ đầu tiên mà Chính phủ xác định là mở cuộc Tổng tuyển cử,
thành lập Chính phủ chính thức, xây dựng hệ thống chính quyền hợp pháp
từ Trung ương đến địa phương. Trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng
Chính phủ (3- 9-1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã đề.nghị Chính phủ tổ chức cuộc Tổng tuyển cử theo chế độ phổ thông
đầu phiếu. Người nói: "Chúng ta phải có một hiến pháp dân chủ. Tôi đề
nghị Chính phủ tổ chức càng sớm càng hay cuộc Tổng tuyển cử với chế độ
phổ thông đầu phiếu. Tất cả công dân gái trai mười tám tuổi đều có quyền
ứng cử và bầu cử, không phân biệt giàu nghèo, tôn giáo, dòng giống...".
Chỉ thị "Kháng chiến kiến quốc" (25-11-1945) của Ban Chấp hành Trung
ương Đảng cũng đề ra 4 nhiệm vụ chủ yếu trước mắt của cách mạng là củng
cố chính quyền, chống thực dân Pháp xâm lược, bài trừ nội phản, cải
thiện đời sống cho nhân dân. Trong bốn nhiệm vụ ấy, nhiệm vụ bao trùm là
củng cố chính quyền dân chủ nhân dân.
1- Về chính trị - quân sự
Ngày 8-9-1945, Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra
Sắc lệnh số 14 về cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội: "Tất cả công dân Việt
Nam, cả trai và gái, từ 18 tuổi trở lên, đều có quyền tuyển cử và ứng
cử, trừ những người đã bị tước công quyền và những người trí óc không
bình thường"1. Mọi công việc chuẩn bị cho Tổng tuyển cử diễn ra trong
điều kiện hết sức khó khăn, phức tạp do các lực lượng đế quốc và phản
động trong nước ráo riết hoạt động chống phá. Các tổ chức Việt Quốc,
Việt Cách đòi phải lập lại Chính phủ, đòi xoá bỏ chế độ Uỷ ban nhân
dân... Những kẻ cầm đầu Việt Quốc đòi giữ 1/3 số ghế trong Quốc hội và
đòi giữ các Bộ Nội vụ, Bộ Tài chính, Bộ Quốc phòng, Bộ Giáo dục, Bộ
Thanh niên. Họ yêu cầu Việt Minh cũng chỉ được giữ 1/3 số ghế trong Quốc
hội. Mặt trận Việt Minh và Chính phủ lâm thời một mặt kiên quyết bác bỏ
các yêu cầu phi lí của Việt Quốc, Việt Cách; mặt khác kiên trì và khôn
khéo tiến hành các cuộc hoà giải, thương lượng, nhân nhượng nhằm tạo bầu
không khí ổn định để tiến hành cuộc Tổng tuyển cử thành công.
Đại diện của Mặt trận Việt Minh tiến hành nhiều cuộc tiếp xúc với đại
diện của Việt Quốc, Việt Cách và đã đi tới những cam kết có tính nguyên
tắc trên tinh thần hợp tác, đoàn kết nhằm thực hiện quyền độc lập, ủng
hộ Tổng tuyển cử bầu Quốc hội. Các bên cũng thoả thuận chấm dứt sự công
kích lẫn nhau, mở rộng Chính phủ lâm thời, chấp nhận để 70 ghế trong
Quốc hội không qua bầu cử cho Việt Quốc, Việt Cách2.
Ngày 1-1-1946, Chính phủ lâm thời cải tổ thành Chính phủ liên hiệp
lâm thời, trong đó có thêm một số thành viên của Việt Quốc, Việt Cách.
Chính phủ liên hiệp lâm thời và Việt Minh tiếp tục triển khai công việc
chuẩn bị Tổng tuyển cử với phương châm thực hiện đại đoàn kết thống nhất
dân tộc.
Ngày 6-1-1946, toàn dân Việt Nam, trong tư thế người làm chủ, nô nức
tham gia cuộc Tổng tuyển cử. Trong điều kiện thù trong, giặc ngoài ra
sức chống phá, cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội thực sự là một cuộc đấu
tranh gay go, quyết liệt để xác lập quyền làm chủ của nhân dân.
Tại miền Nam, trừ tỉnh Tây Ninh
không tổ chức được bầu cử do chiến sự quá ác liệt, nhân dân ta phải
vượt qua bom đạn địch để đi bỏ phiếu. Nhiều cán bộ, chiến sĩ đã phải hi
sinh trong khi làm nhiệm vụ Tổng tuyển cử.
Tại miền Bắc, ở những nơi có quân Tưởng chiếm đóng, các đảng phái
phản động đe doạ, khủng bố những người đi bỏ phiếu; có nơi chúng xông
vào cướp hòm phiếu. Nhưng bất chấp sự đe doạ và hành động phá hoại của
địch, nhân dân ta vẫn hăng hái đi làm nghĩa vụ công dân.
Tính chung trong cả nước, 89% cử tri đi bỏ phiếu, bầu được 333 đại
biểu đại diện cho các tầng lớp nhân dân khắp ba miền Bắc - Trung - Nam
tham gia vào cơ quan quyền lực cao nhất của Nhà nước. Thắng lợi của cuộc
Tổng tuyển cử bầu Quốc hội là một đòn giáng mạnh vào âm mưu chia rẽ,
lật đổ và xâm lược của bọn đế quốc, tay sai. Thắng lợi này góp phần nâng
cao uy tín và địa vị của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà trên trường
quốc tế, khơi dậy và phát huy tinh thần yêu nước, ý thức làm chủ trong
mỗi người dân đối với Nhà nước cách mạng. Thắng lợi của cuộc bầu cử còn
tạo ra cơ sở pháp lí vững chắc cho Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
Trong bối cảnh đó, ngày 2-3-1946, gần 300 đại biểu Quốc hội đã họp kì
thứ nhất tại Nhà hát lớn Hà Nội. Do tình thế đặc biệt cần phải nhân
nhượng, Quốc hội biểu quyết tán thành đề nghị của Chủ tịch Hồ Chí Minh
là mở rộng thêm 70 đại biểu của Việt Quốc, Việt Cách không qua bầu cử,
theo như sự thoả thuận giữa Việt Minh, Việt Quốc và Việt Cách ngày
23-12-1945.
Quốc hội khẳng định thành tích của Chính phủ lâm thời trong thời gian đầu xây dựng nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
Đồng thời, Quốc hội quyết định thành lập Chính phủ liên hiệp kháng chiến gồm 10 Bộ, do lãnh tụ Hồ Chí Minh làm Chủ tịch và Nguyễn Hải Thần làm Phó Chủ tịch.
Kì họp thứ nhất Quốc hội khoá I đã bầu Ban Thường trực Quốc hội (gồm
15 uỷ viên chính thức và 3 uỷ viên dự khuyết), do Nguyễn Văn Tố làm
Trưởng ban, Phạm Văn Đồng và Cung Đình Quỳ (Việt Quốc) làm Phó ban; Cố vấn đoàn do cố vấn tối cao Nguyễn Vĩnh Thụy đứng đầu; Kháng chiến uỷ viên Hội do Võ Nguyên Giáp làm Chủ tịch, Vũ Hồng Khanh làm Phó Chủ tịch. Quốc hội cũng bầu ra Ban dự thảo Hiến pháp do Chủ tịch Hồ Chí Minh
làm Trưởng ban. Bộ máy Nhà nước ở Trung ương được hoàn thiện và củng cố
một bước, có đầy đủ uy tín hiệu lực để lãnh đạo nhân dân tham gia kháng
chiến, kiến quốc, thực hiện mọi chức năng đối nội và đối ngoại. Tại kì
họp đầu tiên (4-3-1946), Chính phủ liên hiệp kháng chiến đã quyết định
một số chính sách đối nội và đối ngoại: Về đối nội: 1- Các đảng phái
chặt chẽ đoàn kết, ngôn luận, hành động nhất trí để phụng sự quốc gia.
2- Sinh mệnh và tài sản của tất cả công dân Việt Nam và kiều dân ngoại quốc được hoàn toàn bảo đảm.
3- Hành chính và quân đội phải thống nhất về tài chính, kinh tế tập trung.
4- Mọi lực lượng của quốc dân được huy động để dùng trong việc kháng
chiến kiến quốc và toàn thể nhân dân, nhất là những người làm việc công
phải tuân theo kỉ luật.
Về đối ngoại: 1- Đối với các nước Đồng minh, nước Việt Nam bao giờ cũng chủ trương thân thiện, nhất là đối với Trung Hoa.
2- Đối với các quốc gia nhược tiểu đang đấu tranh giành độc lập thì dân tộc Việt Nam rất đồng tình.
3- Đối với nhân dân Pháp, dân Việt Nam không thù hằn, song cực lực
phản đối chế độ thực dân và cương quyết giữ quyền độc lập. Chính phủ
Việt Nam chỉ nhận điều đình với Chính phủ Pháp theo nguyên tắc "Dân tộc
tự quyết" của Hiến chương Đại Tây Dương1. Sau tám tháng hoạt động của
Quốc hội và Chính phủ liên hiệp kháng chiến, kể từ cuộc họp thứ nhất của
Quốc hội (3-1946), dưới sự chỉ đạo sáng suốt của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cách mạng Việt Nam đã vượt qua được nhiều khó khăn và tiến bước vững chắc.
Trong hoàn cảnh ấy, Quốc hội họp kì thứ hai tại thủ đô Hà Nội, từ
ngày 28-10 đến 9-11-1946. Tham dự cuộc họp có 290 đại biểu. Một số đại
biểu ở Nam Trung Bộ và Nam Bộ không ra họp được. Hầu hết các đại biểu
của Việt Quốc, Việt Cách đã chạy theo quân Tưởng hoặc bị cơ quan an ninh
quốc gia trừng trị vì tội phản bội Tổ quốc.
Quốc hội đã thảo luận các báo cáo của Chính phủ, thông qua các nghị
quyết về nội trị, ngoại giao; thông qua Dự án Luật Lao động, Hiến pháp,
lập Chính phủ mới và bầu Ban Thường trực Quốc hội.
Chủ tịch Hồ Chí Minh
được Quốc hội uỷ nhiệm đứng ra thành lập Chính phủ mới theo nguyên tắc
đoàn kết và tập hợp nhân tài, không phân biệt đảng phái. Người tuyên bố
trước Quốc hội: “Lần này là lần thứ hai mà Quốc hội giao phó cho tôi phụ
trách Chính phủ một lấn nữa. Việt Nam chưa được độc lập, chưa được
thống nhất thì bất kì Quốc hội uỷ cho tôi hay cho ai cũng phải gắng sức
mà làm. Tôi xin nhận"; "Chính phủ sau đây phải là một chính phủ toàn dân
đoàn kết và tập hợp nhân tài không đảng phái. Tôi xin tuyên bố trước
Quốc hội, trước Quốc dân, trước thế giới: Tôi chỉ có một đảng - Đảng
Việt Nam", "Chính phủ sau đây phải là một chính phủ liêm khiết,... một
chính phủ biết làm việc, có gan góc, quyết tâm để vào mục đích: Trong
thì kiến thiết, ngoài thì tranh thủ độc lập và thống nhất của nước
nhà"1.
Ngày 3-11-1946, Quốc hội biểu quyết tán thành chính phủ mới do Hồ Chí Minh thành lập, gồm có 14 thành viên. Hồ Chí Minh làm Chủ tịch kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao.
Ngày 9-11-1946, Quốc hội thông qua bản Hiến pháp nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hoà. Đó là "bản hiến pháp đầu tiên trong lịch sử nước nhà. Bản
Hiến pháp còn là một vết tích lịch sử đầu tiên trong cõi Á Đông... Bản
hiến pháp đó chưa hoàn toàn nhưng nó đã làm nên theo một hoàn cảnh thực
tế. Hiến pháp đó tuyên bố với thế giới nước Việt Nam đã độc lập, dân tộc
Việt Nam đã có đủ mọi quyền tự do..., phụ nữ Việt Nam đã được ngang
hàng với đàn ông để được hưởng chung mọi quyền tự do đó của một công
dân. Hiến pháp đó đã nêu một tinh thần đoàn kết chặt chẽ giữa các dân
tộc Việt Nam và một tinh thần liêm khiết, công bình của các giai cấp"1.
Hệ thống chính quyền dân chủ nhân dân ở các địa phương cũng được củng
cố và kiện toàn từng bước. Trong một thời gian ngắn sau ngày Tổng tuyển
cử, hầu hết các địa phương thuộc Bắc Bộ và Trung Bộ đều tổ chức bầu cử
Hội đồng nhân dân ở cấp xã và tỉnh. Uỷ ban hành chính các cấp cũng được
thành lập thay cho Uỷ ban nhân dân lâm thời.
Cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp là cuộc
vận động chính trị rộng lớn, cuộc biểu dương sức mạnh và ý chí sắt đá
của khối đoàn kết toàn dân, đã khơi dậy và phát huy tinh thần yêu nước, ý
thức làm chủ đất nước, nghĩa vụ đối với Tổ quốc của mỗi công dân và
toàn dân. Thắng lợi cuộc Tổng tuyển cử đã tạo cơ sở pháp lí vững chắc
cho Nhà nước cách mạng thực hiện nhiệm vụ đối nội, đối ngoại trong thời
kì mới, đồng thời góp phần nâng cao uy tín của nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà trên trường quốc tế.
Để tăng cường sức mạnh của Nhà nước cách mạng, vấn đề mở rộng khối
đoàn kết toàn dân được đặt ra cấp bách. Các tổ chức Cứu quốc trong Mặt
trận Việt Minh được xây dựng rộng khắp, tập hợp thêm nhiều tầng lớp xã
hội tham gia. Tuy nhiên, lúc này vẫn có một số tầng lớp và cá nhân yêu
nước còn đứng ngoài Mặt trận Việt Minh.
Theo sáng kiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh,
ngày 28-5-1946, Hội Liên hiệp Quốc dân Việt Nam (Liên Việt) được thành
lập. Hội chủ trương đoàn kết tất cả các đảng phái yêu nước, đồng bào yêu
nước, không phân biệt giai cấp, tôn giáo, xu hướng chính trị, chủng tộc
... để làm cho nước Việt Nam Độc lập - Thống nhất - Dân chủ - Phú
cường. Một số đoàn thể quần chúng lần lượt ra đời như: Tổng Liên đoàn
Lao động Việt Nam (27-5- 1946), Đảng Xã hội Việt Nam (22-7-1946), Hội
Liên hiệp phụ nữ Việt Nam (20-10-1946).
Đứng trước âm mưu và hành động xâm lược của bè lũ đế quốc, Đảng rất
coi trọng nhiệm vụ xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân và củng cố quốc
phòng. Khắp nơi trên đất nước ta, một phong trào luyện tập quân sự, tìm
sắm vũ khí diễn ra sôi nổi. Các đội tự vệ ra đời từ trong phong trào
toàn dân chuẩn bị khởi nghĩa và là lực lượng xung kích của toàn dân nổi
dậy giành chính quyền thời kì Tổng khởi nghĩa tháng Tám, nay được củng
cố và mở rộng, đã trở thành công cụ sắc bén để bảo vệ chính quyền cách
mạng ở cơ sở. Các đơn vị Việt Nam giải phóng quân thành lập trên cơ sở
thống nhất Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân và Cứu quốc quân
(5-1945), đã được chấn chỉnh, mở rộng và nay đổi thành Vệ quốc đoàn
(9-1945)1. Đây là đội quân chính quy của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hoà.
Các đơn vị bảo an binh bị giải thể. Ngày 15-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh
kí sắc lệnh thành lập Ngành Quân giới và tháng 10-1945, thành lập các
chiến khu IV, III2. Tháng 12-1945, Uỷ ban Kháng chiến miền Nam ra đời.
Tháng 1-1946, Quân uỷ Trung ương được thành lập để giúp Trung ương
Đảng lãnh đạo công tác quân sự. Tất cả các khu phố, thôn, xã đều thành
lập các đơn vị tự vệ và tự vệ chiến đấu.
Trên cơ sở đó, những chiến sĩ có giác ngộ chính trị, có tinh thần
chiến đấu được tuyển chọn để bổ sung cho các đơn vị bộ đội tập trung. Dù
vũ khí trang bị thô sơ và thiếu thốn, kinh nghiệm chiến đấu còn ít,
nhưng đây là đội quân cách mạng của công - nông, có sức chiến đấu rất
cao.
2- Về kinh tế - tài chính
Một trong những nhiệm vụ cấp bách trước mắt của chính quyền cách mạng
sau khi thành lập là phải nhanh chóng đẩy lùi nạn đói, từng bước ổn
định và cải thiện đời sống nhân dân. Giải quyết nạn đói không chỉ có ý
nghĩa về kinh tế, mà còn bao hàm ý nghĩa chính trị rất sâu sắc.
Trong phiên họp đầu tiên (3-9-1945), Hội đồng Chính phủ lãm thời đã bàn biện pháp chống đói. Chủ tịch Hồ Chí Minh
đề nghị nhiều biện pháp (tổ chức lạc quyên, lập hũ gạo cứu đói...) và
kêu gọi đồng bào cả nước nhường cơm sẻ áo. Người nói: "Lúc chúng ta nâng
bát cơm ăn, nghĩ đến kẻ đói khổ, chúng ta không khỏi động lòng. Vậy tôi
đề nghị với đồng bào cả nước và tôi xin thực hành trước, cứ mười ngày
nhịn ăn một bữa, mỗi tháng nhịn ăn ba bữa, đem gạo đó (mỗi bữa một bơ)
để cứu dân nghèo"1.
Hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh
và noi gương Người, khắp cả nước, nhân dân ta lập hũ gạo cứu đói, tổ
chức ngày đồng tâm để góp gạo cứu đói. Truyền thống đồng cam cộng khổ,
thương yêu đùm bọc lẫn nhau trong đồng bào được phát huy cao độ.
Để dồn lương thực cho việc cứu đói, Chính phủ ban hành các biện pháp
hành chính như cấm dùng lương thực vào việc nấu rượu, xoá bỏ mọi cản trở
trong lưu thông gạo giữa các vùng 1. Hồ Chí Minh: Toàn tập. Tập 4. NXB Chính trị quốc gia. Hà Nội, 1995, tr.
trong
nước, cấm đầu cơ tích trữ thóc gạo, thành lập Uỷ ban tối cao tiếp tế và
cứu tế của Chính phủ. Việc chuyên chở gạo từ các tỉnh ở Nam Bộ và Trung
Bộ ra Bắc Bộ được thực hiện khẩn trương. Chỉ tính trong 3 tháng cuối
năm 1945, đã có khoảng 700 tấn gạo được chuyển ra Bắc Bộ, kịp đem đến
các địa phương để cứu đói.
Biện pháp cơ bản để giải quyết tận gốc nạn đói là tăng gia sản xuất
Khẩu hiệu "Tăng gia sản xuất! Tăng gia sản xuất ngay! Tăng gia sản xuất
nữa!", "Không để một tấc đất bỏ hoang", "Tấc đất tấc vàng"... trở thành
hành động thực tế của toàn Đảng, toàn dân. Khắp nơi, từ đồng bằng đến
miền núi, đều dấy lên phong trào thi đua sản xuất Chính phủ đã lập ra Uỷ
ban Trung ương phụ trách vấn đề sản xuất Tờ báo Tấc đất ra đời nhằm
tuyên truyền, vận động và hướng dẫn nhân dân thực hiện tăng gia sản
xuất. Diện tích ruộng đất hoang, hoá được khai khẩn và nhanh chóng đưa
vào trồng trọt. Toàn bộ đê đập ở 9 tỉnh bị lụt phá vỡ (Sơn Tây, Hà Đông,
Hà Nam, Vĩnh Yên, Phúc Yên, Phú Thọ, Bắc Ninh, Hải Dương, Thái Bình)
được bồi đắp lại. Giai cấp công nhân, các đơn vị bộ đội, cán bộ, viên
chức Nhà nước, học sinh, trí thức, công, thương gia... tự nguyện tổ chức
thành từng đoàn, từng đội đi về nông thôn giúp nông dân đắp đê phòng
lụt, khai hoang, phục hoá.
Để tạo điều kiện cho nông dân đẩy mạnh sản xuất, chính quyền cách
mạng tịch thu ruộng đất của đế quốc và Việt gian chia cho nông dân
nghèo, chia lại ruộng công theo nguyên tắc công bằng và dân chủ; ra
thông tư giảm tô 25%; miễn thuế ruộng đất đối với các vùng bị lụt và
vùng có chiến sự ở Nam Bộ, Nam Trung Bộ cùng các loại ruộng đất hoang,
hoá mới được khai phá gieo trồng; ra sắc lệnh bãi bỏ thuế thân và các
thứ thuế vô lí khác. Ban Khuyến nông cũng được thành lập ở Trung ương và
địa phương để tổ chức giúp đỡ nông dân khắc phục khó khăn về giống,
vốn, nông cụ, sức kéo; hướng dẫn nông dân về kĩ thuật canh tác. Nhờ
những biện pháp tích cực trên đây, sản xuất nông nghiệp nhanh chóng được
khôi phục và có mặt phát triển hơn trước.
Năm 1945, dù bị trận lụt lớn, nhưng diện tích lúa mùa ở Bắc Bộ vẫn
đạt được 890.000 ha, sản lượng đạt 1.155.000 tấn (năm 1943 là 952.730
tấn và năm 1944 là 832.000 tấn). Diện tích trồng ngô năm 1946 là 212.850
ha, sản lượng đạt 217.020 tấn (năm 1939 là 119.000 ha và sản lượng đạt
140.000 tấn); diện tích trồng khoai lang là 90.000 ha, sản lượng đạt
330.000 tấn (năm 1939 mới có 68.000 ha và sản lượng là 156.000 tấn). Với
số lượng lương thực và hoa màu đó, nhân dân ta không những vượt qua
được nạn đói, mà còn duy trì được sức lao động để bảo đảm sản xuất vụ
chiêm năm 1946.
Chiến thắng giặc đói là một trong những thành tựu lớn đầu tiên của
Nhà nước cách mạng. Nó thể hiện tính ưu việt của chế độ mới, của chính
quyền nhân dân, góp phần củng cố khối liên minh công nông. Uy tín của
Đảng và Chính phủ ngày càng được nâng cao trong quần chúng. Nhân dân
càng thêm tin tưởng, gắn bó và quyết tâm bảo vệ chính quyền cách mạng.
Ngoài trọng tâm là sản xuất nông nghiệp để khắc phục nạn đói trước
mắt và giải quyết vấn đề lương thực một cách ổn định, Chính phủ chú
trọng khôi phục sản xuất, kinh doanh trong các ngành kinh tế công thương
nghiệp, giao thông vận tải... Một mặt, Nhà nước tạo mọi điều kiện thuận
lợi nhất để cho các thương gia người Việt phát triển sản xuất kinh
doanh. Mặt khác, Nhà nước vẫn để cho các nhà tư bản nước ngoài, trước
hết là tư bản Pháp tiếp tục hoạt động kinh doanh, tránh gây cho họ những
xáo trộn lớn trong công việc làm ăn ở nước ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã gửi thư cho giới công thương Việt Nam, kêu gọi họ nỗ lực và cùng góp
vốn xây dựng một nền kinh tế, tài chính vững vàng và thịnh vượng. Từ
ngày 2 - 10- 1945, Chính phủ cho phép tất cả các nhà tư sản Việt Nam
được quyền kinh doanh. cùng với quá trình xây dựng bộ máy chính quyền
mới, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà bắt tay vào việc xây dựng khu
vực kinh tế quốc doanh. Các nghị định của Toàn quyền Pháp về độc
quyền tìm kiếm và khai thác mỏ bị bãi bỏ và thay bằng các sắc lệnh của
Chính phủ về việc bảo đảm quyền tìm, kiếm và khai thác mỏ của Nhà nước
trên cơ sở tôn trọng những quyền sở hữu sẵn có và phù hợp với luật lệ
của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
Các mỏ than ở Hòn Gai (Quảng Ninh), Tân Trào (Tuyên Quang), Làng Cẩm
và Phấn Mễ (Thái Nguyên), Quyết Thắng (Ninh Bình) được phép mở lại. Mỏ
thiếc Tĩnh Túc (Cao Bằng) bị Nhật chiếm từ tháng 3-1945 và trước khi
rút, chúng đã phá hoại, nay tiếp tục được khai thác. Nhà máy sửa chữa
đầu máy và toa xe lửa Trường Thi (Vinh) bị thiệt hại nặng do bom từ
tháng 2-1944 đã được khôi phục.
Trên lĩnh vực thương nghiệp, Chính phủ Việt Nam hết sức quan tâm,
nghiêm cấm các hoạt động đầu cơ tích trữ, chợ đen, mở đường cho lưu
thông hàng hoá, kêu gọi các nhà buôn đứng ra kinh doanh; thành lập Phòng
Thương mại và Nha Thương vụ Việt Nam để giúp Chính phủ bước dầu nắm các
hoạt động thương nghiệp trên thị trường nội địa.
Về giao thông vận tải, Chính phủ từng bước quản lí và khai thác kinh
doanh hệ thống đường bộ, đường thủy, đường hàng không, thông tin liên
lạc.
Để bảo đảm một phần nhu cầu chi tiêu của Nhà nước và khắc phục khó
khăn trước mắt về tài chính, ngày 4-9-1945, Chính phủ ra Sắc lệnh số
4/SL về xây dựng Quỹ Độc lập và phát động Tuần lễ vàng (từ 17 đến
24-9-1945), kêu gọi toàn dân tự nguyện đóng góp ủng hộ nền độc lập của
Tổ quốc. Nhân dân ta tự nguyện ủng hộ cho Nhà nước 370 kg vàng, 20 triệu
đồng vào Quỹ Độc lập và 40 triệu đồng vào Quỹ đảm phụ quốc phòng.
Nhằm đảm bảo có nguồn thu ổn định và thu chi hợp lí, Chính phủ chủ
trương xây dựng từng bước nền tài chính quốc gia, trước mắt là cải cách
chế độ thuế khoá. Ngày 7-9-1945, Chính phủ ban hành Sắc lệnh số 11/SL về
việc sửa đổi chính sách thuế, bãi bỏ thuế thân. Ngày 10-9-1945, Chính
phủ ra Sắc lệnh số 27/SL quy định việc thành lập Sở thuế quan và thuế
gián thu.
Nha thuế trực thu, Nha thuế trước bạ, thuế điền thổ... cũng được thành lập.
Việc bán thuốc phiện và rượu cồn trước Cách mạng tháng Tám được coi
là một nguồn thu của ngân sách, thì nay bị Nhà nước nghiêm cấm. Chính
phủ còn đặt thêm một số thuế mới có tính chất gián thu đánh vào các mặt
hàng xa xỉ như rượu ngoại.
Ngoài các khoản thu từ thuế, do điều kiện chiến tranh, Chính phủ quy
định các chế độ trưng thu, trưng dụng, trưng tập sẽ được thực hiện trong
những trường hợp cần thiết.
Như vậy, chỉ trong một thời gian ngắn, Nhà nước cách mạng đã chấn
chỉnh và xây đựng được một hệ thống thuế khoá mới, nắm được các nguồn
thu cho ngân sách, có kế hoạch hơn trong việc thu và chi ngân sách.
Thực hiện chủ trương xây dựng nền tài chính độc lập, ngày 31-1-1946,
Chính phủ ta phát hành tiền Việt Nam ở phía nam vĩ tuyến 16.
Dù mới chỉ lưu hành thí điểm ở miền Nam Trung Bộ, nhưng trước sự đòi
hỏi của toàn dân, tiền Việt Nam nhanh chóng chiếm lĩnh thị trường Bắc Bộ
và Trung Bộ. Ngày 23-11-1946, Quốc hội quyết định cho lưu hành tiền
Việt Nam trong cả nước. Cho đến trước ngày toàn quốc kháng chiến bùng
nổ, tiền Việt Nam đã căn bản thay thế tiền ngân hàng Đông Dương trên thị
trường trong nước. Giành được chủ quyền về tiền tệ, chúng ta đã giải
quyết được một phần chi tiêu của Chính phủ, phục vụ sản xuất và đời
sống, bước đầu xây dựng nền tài chính độc lập của nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà.
3- Về văn hoá - giáo dục.
Trong phiên họp đầu tiên ngày 3-9-1945, ngoài việc bàn biện pháp
chống "giặc đói", Chính phủ lâm thời còn bàn biện pháp chống (giặc dốt).
Chống "giặc dốt", xoá nạn mù chữ là nhiệm vụ văn hoá - giáo dục, nhưng
có ý nghĩa chính trị sâu sắc, bảo đảm cho người lao động có điều kiện
phát huy được vai trò làm chủ, tham gia quản lí đất nước có hiệu quả.
Chủ tịch Hồ Chí Minh
chỉ rõ: "Muốn giữ vững nền độc lập, làm cho dân mạnh nước giàu, mọi
người Việt Nam phải hiểu biết quyền lợi của mình, bổn phận của mình,
phải có kiến thức mới để có thể tham gia vào công cuộc xây dựng nước
nhà, và trước hết phải biết đọc biết viết chữ quốc ngữ..."1.
Chỉ một tuần lễ sau khi tuyên bố nền độc lập của nước nhà, ngày 8-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh
kí sắc lệnh thành lập Nha Bình dân học vụ chuyên lo việc chống "giặc
dốt" và Người đứng ra phát động phong trào xoá nạn mù chữ trong toàn
quốc.
Hưởng ứng lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch, các lớp bình dân học vụ được
tổ chức ở khắp nơi, lôi cuốn từ em nhỏ đến các cụ già 70, 80 tuổi Truyền
thống hiếu học của dân tộc được phát huy.
Trong vòng một năm, từ ngày 8-9-1945 đến ngày 8-9-1946, trên toàn
quốc đã tổ chức được 75.805 lớp học với hơn 97.664 giáo viên và đã xoá
mù chữ cho 2.520.673 người. Các trường phổ thông và đại học cũng được
khai giảng nhằm đào tạo những công dân và cán bộ trung thành, có năng
lực phụng sự Tổ quốc, phục vụ kháng chiến - kiến quốc. Trong năm học
1945 - 1946, riêng Bắc Bộ và Trung Bộ đã mở được 5.654 trường tiểu học. Ở
bậc đại học và cao đẳng, cùng với các trường Đại học Y khoa, Dược khoa,
Cao đẳng Kĩ thuật, Cao đẳng Công chính, Cao đẳng Canh nông - Thú y, Bộ
Giáo dục cho mở thêm Trường Đại học Văn khoa và Lớp Chính trị xã hội
thay cho Trường Luật của chế độ cũ Nội đung và phương pháp giáo dục bước
đầu được đổi mới theo tinh thần dân tộc và dân chủ.
Báo chí cách mạng và công tác xuất bản sớm trở thành vũ khí sắc bén
chống ngoại xâm, nội phản, góp phần giáo dục lòng yêu nước, chí căm thù
giặc, tinh thần cách mạng cho đông đảo quần chúng nhân dân. Báo Cờ giải
phóng, tiếp đến là các báo Sự thật, Cứu quốc, là những tờ báo được quần
chúng tín nhiệm và có tác động lớn trong việc tuyên truyền, phổ biến chủ
trương, đường lối của Đảng và của Mặt trận Việt Minh.
Văn học, nghệ thuật cũng có những bước chuyển biến mạnh mẽ. Các văn
nghệ sĩ đã hướng hoạt động vào thực tế cuộc sống xây dựng và chiến đấu
của dân tộc. Tháng 11-1946, Hội nghị văn hoá toàn quốc lần thứ nhất tổ
chức tại Hà Nội. Chủ tịch Hồ Chí Minh
đến dự khai mạc Hội nghị và vạch rõ phương hướng nền văn hoá mới của
Việt Nam là phải lấy hạnh phúc của nhân dân, của văn hoá nước ngoài, tạo
ra nền văn hoá Việt Nam, sao cho văn hoá mới sửa được tham nhũng, lười
biếng, phù hoa, xa xỉ; phải làm cho ai cũng có lí tưởng tự chủ, độc lập.
Người kêu gọi các nhà hoạt động văn hoá phải chú ý đến nhi đồng, lãnh
đạo quốc dân thực hiện độc lập, tự cường và tự chủ. Một số nhà văn, nhà
báo theo chân các đoàn quân Nam tiến đến tận các chiến trường miền Nam
để góp sức mình vào cuộc chiến đấu bảo vệ nền độc lập vừa mới giành
được. Phong trào văn hoá, văn nghệ quần chúng ngày càng phát triển mạnh
mẽ và rộng lớn.
Cuộc vận động Đời sống mới do Chủ tịch Hồ Chí Minh
đề xướng, được đông đảo nhân dân cả nước hưởng ứng, nhằm xây dựng đạo
đức mới với nội dung Cần - Kiệm - Liêm - Chính; bài trừ các tệ nạn của
xã hội cũ (rượu, chè, cờ, bạc, mại dâm...), những hủ tục (cúng lễ, ma
chay, cưới xin linh đình...) ra khỏi đời sống xã hội.
Những thành quả bước đầu trong một năm kiến quốc, xây dựng chế độ mới
đã đặt nền móng vững chắc cho Nhà nước cách mạng vượt qua tình thế hiểm
nghèo.
III- Đấu tranh chống ngoại xâm và nội phản, bảo vệ chính quyền cách mạng
Trong hoàn cảnh đất nước gặp muôn vàn khó khăn, lại phải đứng trước
nhiều thế lực đế quốc và phản động nham hiểm, để bảo vệ chính quyền non
trẻ, Đảng ta chủ trương tránh trường hợp một mình đương đầu với nhiều kẻ
thù cùng một lúc; hết sức lợi dụng mâu thuẫn giữa Anh - Pháp và Mĩ -
Tưởng.
Với chủ trương ấy, Đảng và Nhà nước ta do Chủ tịch Hồ Chí Minh
đứng đầu, đã thực hiện một đường lối chính trị nhạy bén và sáng suốt,
vừa cứng rắn về nguyên tắc, vừa mềm dẻo, linh hoạt về sách lược.
1- Kháng chiến chống thực dân Pháp ở miền Nam, hoà hoãn với quân Tưởng ở miền Bắc (trước ngày 6-3-1946)
a) Kháng chiến chống thực dân Pháp ở miền Nam
Đúng như dự đoán của Đảng tại Hội nghị Tân Trào (từ ngày 14 đến ngày
15-8-1945), âm mưu trở lại xâm lược của thực dân Pháp dần dần trở thành
một thực tế ở miền Nam nước ta.
Sau vụ khiêu khích của quân Pháp ngày 2-9-1945, Xứ uỷ và Uỷ ban nhân
dân lâm thời Nam Bộ nhận định: âm mưu xâm lược của Pháp đã rõ ràng.
Những biện pháp đối phó trước mắt và chuẩn bị kháng chiến được xúc tiến
khẩn trương: cải tổ Uỷ ban nhân dân lâm thời, thành lập Uỷ ban kháng
chiến Nam Bộ, tổ chức hơn 300 đội xung phong công đoàn, đưa phần lớn lực
lượng vũ trang ra ngoài thành phố, tổ chức hàng chục vị trí chiến dấu ở
các điểm xung yếu nội thành; tháo gỡ và di chuyển máy móc, phương tiện
vật chất lên các chiến khu...
Đêm 22 rạng 23-9-1945, được sự giúp đỡ của quận Anh, thực dân Pháp
cho quân đánh úp trụ sở Uỷ ban nhân dân Nam Bộ và cơ quan tự vệ thành
phố Sài Gòn, mở đầu cuộc chiến tranh xâm
lược nước ta lần thứ hai.
Trước tình hình đó, sáng 23-9, Xứ ủy và Uỷ ban nhân dân Nam Bộ họp
tại đường Cây Mai - Chợ Lớn1 quyết định phát động nhân dân Nam Bộ đứng
lên kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
Quyết định của Xứ uỷ và Uỷ ban nhân dân Nam Bộ đã được Trung ương Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh tán thành và quyết tâm lãnh đạo, tổ chức lực lượng cả nước chi viện mọi mặt cho cuộc kháng chiến.
Giữ vững lời Thề Độc lập, nhân dân Sài Gòn - Chợ Lớn, với vũ khí chủ
yếu là gậy tầm vông, cùng nhân dân Nam bộ đã anh dũng đứng lên chiến đấu
bảo vệ Tổ quốc. Các chiến sĩ lực lượng vũ trang của ta đột nhập sân bay
Tân Sơn Nhất, đốt cháy tàu Pháp vừa cập bến Sài Gòn, đánh kho tàng, phá
nhà giam...
Suốt hạ tuần tháng 9-1945, các trận đánh liên tiếp diễn ra ở khu Tân
Định, Cầu Muối, Cầu Lái Thiêu... Phối hợp chặt chẽ với các cuộc chiến
đấu của lực lượng vũ trang, nhân dân Sài Gòn đã triệt nguồn tiếp tế của
địch, dựng chướng ngại vật và chiến luỹ trên đường phố. Giường, tủ, bàn,
ghế và tất cả những thứ gì có thể ngăn cản được bước tiến của quân thù
đều được ném ra mặt đường. Nhiều cây to trên dọc các đường phố được đốn
chặt, hình thành những vật chướng ngại.
Chỉ trong vòng một tuần lễ, cuộc chiến đấu cửa quân và dân Sài Gòn -
Chợ Lớn đã đẩy địch vào tình trạng khó khăn: 138 xí nghiệp và công sở
lớn, 22 kho tàng, 4 chợ, 30 tàu lớn, 51 tàu nhỏ, 200 xe hơi và một số
cầu bị đốt phá. Gần 300 tên giặc bị tiêu diệt2. Sau 8 ngày gây hấn, thực
dân Pháp chỉ chiếm đóng được các vị trí, công sở then chết ở khu vực
trung tâm thành phố. Phạm. vi kiểm soát của địch bị thu hẹp. Cả thành
phố không còn điện, nước; chợ không họp, các cửa hàng đóng cửa, lương
thực, thực phẩm cạn dần; lực lượng bị dàn mỏng; viện binh chưa tới kịp.
Bọn Việt gian ra mặt hoạt động đã bị thanh niên ta truy bắt, nghiêm
trị... Trước tình hình đó, thực dân Pháp nhờ Grêxi làm trung gian, xin
thương lượng với Uỷ ban nhân dân Nam Bộ.
Mặc dù biết âm mưu của thực dân Pháp là hoà hoãn để chờ viện binh,
nhưng phía ta cũng cần có thời gian chuẩn bị lực lượng để đối phó với
các đợt tấn công mới của địch. Do vậy, chúng ta chấp nhận ngừng bắn một
tuần để thương lượng. Cuộc thương lượng bắt đầu từ ngày 2-10-1945, với
sự có mặt của Grêxi. Lập trường hai bên trái ngược nhau: Phía ta đòi
Pháp công nhận nền độc lập của Việt Nam, công nhận Chính phủ Việt Nam
Dân chủ Cộng hoà do Chủ tịch Hồ Chí Minh
đứng đầu; đình chỉ xung đột và rút quân về các vị trí trước ngày 23-9-
1945. Phía Pháp đòi ta chấp nhận bản Tuyên bố ngày 24-3-1945 của Đờ Gôn.
Cuộc đàm phán tạm dừng và sau đó tiếp tục diễn ra trong ngày 6 và 8-10,
nhưng vẫn không đi đến kết quả. Pháp đề nghị kéo dài thời gian ngừng
bắn thêm hai ngày nữa.
Tranh thủ thời gian ngừng bắn, chúng ta tiếp tục tổ chức di chuyển
nhân dân cùng các cơ quan, kho tàng, xưởng máy ra ngoài, bổ sung và điều
chỉnh lực lượng. Các mặt trận ở Sài Gòn được củng cố. Các Uỷ ban kháng
chiến miền Đông, miền Trung và miền Tây Nam Bộ được thành lập. Đặc biệt,
lực lượng lãnh đạo Nam Bộ được bổ sung hàng trăm cán bộ cách mạng mới
thoát khỏi ngục tù Côn Đảo, trong số đó có Tôn Đức Thắng, Lê Duẩn, Phạm Hùng...
Ngày 10-10-1945, chấm dứt thời gian ngừng bắn, quân Pháp đã được tăng
thêm viện binh ra sức phá vây, mở rộng phạm vi chiếm đóng. Quân Anh lấy
danh nghĩa Đồng minh đi tước vũ khí quân Nhật ở các thị xã miền Đông
Nam Bộ (Biên Hoà, Thủ Dầu Một, Tây Ninh) nhằm giúp Pháp mở rộng khu vực
chiếm đóng các ,tỉnh xung quanh Sài Gòn. Quân ta tiếp tục đánh địch ở
nhiều nơi trong thành phố Sài Gòn, nổi bật là trận đánh chặn địch ở cầu Thị Nghè
(17-10-1945). Từ ngày 23-10, địch được tăng thêm quân tiếp viện, trong
đó có binh đoàn thiết giáp, nên chúng phá vỡ được vòng vây xung quanh
Sài Gòn, đánh chiếm một số thị xã miền Trung Nam Bộ, nhằm tiêu diệt cơ
quan đầu não kháng chiến của ta. Trong điều kiện chiến đấu không cân
sức, để bảo toàn lực lượng chuẩn bị cho kháng chiến lâu dài, phần lớn
lực lượng vũ trang của ta rút ra khỏi thành phố, chỉ để một số đơn vị
nhỏ tiếp tục ở lại bám trụ, thường xuyên ra vào thành phố tiến công
địch.
Trải qua một tháng bao vây, chặn đánh địch trong thành phố, chiến đấu
trong điều kiện không cân sức, lực lượng vũ trang thành phố Sài Gòn -
Chợ Lớn - Gia Định đã tỏ rõ tinh thần quyết chiến quyết thắng của dân
tộc Việt Nam. Cuộc kháng chiến của quân và dân Sài Gòn đã kiềm chế quân
địch dài ngày, làm thất bại âm mưu đánh nhanh thắng nhanh của thực dân
Pháp, tạo điều kiện cho các tỉnh Nam Bộ có thêm thời gian chuẩn bị kháng
chiến.
Để lãnh đạo kịp thời cuộc kháng chiến đang lan rộng, ngày 25-10-1945, Hội nghị Xứ uỷ mở rộng Nam Bộ họp ở Thiên Hộ (huyện Cái Bè, Mĩ Tho). Tham dự Hội nghị, ngoài đại biểu của Nam Bộ, còn có Hoàng Quốc Việt,
uỷ viên Ban Thường vụ Trung ương Đảng. Hội nghị kiểm điểm tình hình,
rút kinh nghiệm chỉ đạo cuộc kháng chiến Nam Bộ, biểu dương tinh thần
chiến đấu anh dũng của quân và dân Nam Bộ. Trên cơ sở đó, Hội nghị quyết
định những vấn đề quan trọng nhằm đẩy mạnh cuộc kháng chiến ở Nam Bộ,
như tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng vũ trang, củng cố
các đơn vị vũ trang hiện có, xây dựng thêm nhiều đơn vị vũ trang mới, tổ
chức các quân khu, khôi phục lại chính quyền cách mạng ở những nơi tan
rã, thành lập Uỷ ban kháng chiến miền Nam, phát triển công tác ở các đô
thị... Hội nghị đã cử Tôn Đức Thắng
phụ trách Uỷ ban kháng chiến và chỉ đạo các lực lượng vũ trang Nam Bộ.
Hội nghị Thiên Hộ có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển đi lên của
cuộc kháng chiến ở Nam Bộ.
Thực hiện Nghị quyết của Hội nghị, các cán bộ, đảng viên trung kiên
đã vượt mọi khó khăn, đi sâu, bám sát quần chúng; gây dựng lại phong
trào, phát triển cơ sở cách mạng.
Tiếp theo Hội nghị Xứ uỷ mở rộng, ngày 20-11, Hội nghị quân sự được
triệu tập ở An Phú (Gia Định) để bàn công tác chỉ đạo tác chiến. Hội
nghị quyết định chia Nam Bộ thành các chiến khu 7, 8, 91 và bàn biện
pháp củng cố lực lượng vũ trang tỉnh, thành phố, các chi đội Vệ quốc
đoàn.
Từ sau Hội nghị Thiên Hộ và An Phú, những thiếu sót về lãnh đạo và
chỉ huy từng bước được khắc phục. Công tác lãnh đạo kháng chiến ở Nam Bộ
đi dần vào nền nếp. Cùng thời gian đó, quân Pháp cũng được quân Anh lần
lượt bàn giao những vùng chúng kiểm soát ở Nam Bộ.
Cuộc kháng chiến của nhân dân ta ở miền Nam được Trung ương trực tiếp chỉ đạo và được cả nước chi viện về mọi mặt.
Hưởng ứng chủ trương của Trung ương Đảng, với ý thức bảo vệ độc lập
tự do của Tổ quốc nhân dân ta ở miền Bắc, đi đầu là thanh niên, có hàng
vạn người hăng hái gia nhập quân đội, xung vào các đoàn quân Nam tiến,
nhanh chóng lên đường vào Nam chiến đấu. Chỉ một thời gian ngắn sau khi
tiếng súng kháng chiến bùng nổ, tại tiền tuyến miền Nam đã có mặt những
đơn vị Giải phóng quân từ hậu phương miền Bắc mới vào. Các đoàn quân Nam
tiến từ thủ đô Hà Nội, căn cứ địa Việt Bắc, các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ,
Bắc Trung Bộ tấp nập lên đường vào Nam chiến đấu chống Pháp, thể hiện ý
chí đoàn kết thống nhất của dân tộc Việt Nam.
Hầu hết các tỉnh ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ đều thành lập từ 1 đến 2
chi đội Nam tiến. Những cán bộ và chiến sĩ hăng hái, có nhiều kinh
nghiệm chiến đấu, những vũ khí và trang bị tốt nhất của ta lúc đó đều
dành cho bộ đội Nam tiến. Nhân dân Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ còn tổ chức
quyên góp tiền bạc, quần áo, thuốc men, đạn dược... ủng hộ đồng bào Nam
Bộ.
Về phía thực dân Pháp, sau khi nhận thêm quân tiếp viện, đồng thời
tiếp tục dựa vào quân Anh và Nhật, chúng vừa mở rộng phạm vi chiếm đóng ở
Nam Bộ, vừa từng bước thực hiện kế hoạch đánh ra Nam Trung Bộ. Tuy
nhiên, đến cuối tháng 1- 1946, quân Pháp mới chiếm được các tỉnh miền
Tây Nam Bộ (Sa Đéc, Long Xuyên, Châu Đốc, Rạch Giá, Trà Vinh, Hà Tiên,
Sóc Trăng, Bạc Liêu), chưa ổn định được tình hình ở Sài Gòn - Chợ Lớn và
một số thành phố, thị xã. Lực lượng kháng chiến của ta vẫn làm chủ một
số vùng nông thôn Nam Bộ. Các tỉnh Nam Bộ củng cố lại lực lượng vũ
trang, tăng cường trang bị vũ khí, xây dựng căn cứ để kháng chiến lâu
dài.
Đầu tháng 2-1946, sau khi được tăng viện binh, thực dân Pháp gấp rút
chiếm đóng vùng nông thôn Nam Bộ. Chúng mở hàng loạt cuộc hành quân
"bình định" trên các khắp các tỉnh Nam Bộ. Lực lượng của ta bị tổn thất
nhiều, chính quyền và đoàn thể Cứu quốc ở nhiều nơi bị tan vỡ. Trên các
vùng chiếm được, quân địch chia thành các chiến khu, đóng đồn bốt, khống
chế hoạt động chống đối của nhân dân. Vừa hành quân chiếm đóng các vùng
đất của ta, thực dân Pháp vừa ráo riết xúc tiến thành lập chính phủ bù
nhìn. Ngay từ tháng 10-1945, Xêđi âm mưu lập một hội đồng tư vấn gồm 80
người và giao cho Nguyễn Văn Thinh vận động các nhà trí thức tham gia, nhưng không thành công. Phần đông trí thức tỏ thái độ bất hợp tác với Pháp.
Đến tháng 2-1946, Xêđi mới lập được hội đồng tư vấn gồm 12 thành viên là người Pháp và người Việt mang quốc tịch Pháp.
Ngoài ra, thực dân Pháp còn tiến hành tuyển quân, tập hợp bọn tay sai để thành lập chính quyền bù nhìn ở các thị trấn, thị xã.
Chúng tìm cách lôi kéo một số người trong các đạo Cao Đài, Hoà Hảo,
Thiên Chúa và cả lực lượng Bình Xuyên... để chống lực lượng kháng chiến.
Ngày 5-3-1946, quân Anh bàn giao lại toàn bộ địa bàn và vũ khí, trang bị cho quân Pháp, rút khỏi miền Nam.
Trong lúc nhân dân Nam Bộ kháng chiến thì tại Nam Trung Bộ, mọi công
việc chuẩn bị để kháng chiến cũng được xúc tiến rất khẩn trương Theo
quyết định của Hội nghị quân sự do Xứ uỷ và Uỷ ban nhân dân Trung Bộ
triệu tập cuối tháng 9-1945, Uỷ ban quân chính Nam phần Trung Bộ được
thành lập để chỉ huy 7 tỉnh mặt trận phía nam. Lực lượng quân sự các
tỉnh từ Quảng Ngãi trở ra được điều động vào Nam Trung Bộ. Các cơ sở
kinh tế, quốc phòng quan trọng ở các tỉnh cực Nam Trung Bộ được di
chuyển đến những nơi an toàn. Các xưởng sửa chữa và sản xuất vũ khí từng
bước được xây dựng. Đến cuối năm 1945, đã có 10 xưởng đặt ở Quảng Nam,
Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hoà, với trên 1.000 công nhân.
Từ hạ tuần tháng 10-1945, chiến sự bắt đầu lan tới các tỉnh Nam Trung
Bộ. Khi địch đổ bộ lên Nha Trang (22-10), chúng đã vấp phải sức chiến
đấu của bộ đội ở khu nhà ga, nhà máy điện, Viện Paxtơ... Sau đó, quân ta
hình thành thế bao vây nhằm tiêu hao và giam chân địch trong thành phố.
Với tinh thần tích cực tiến công địch, với cách đánh mưu trí, táo bạo,
được sự giúp đỡ tận tình của nhân dân, lực lượng vũ trang mặt trận Nha
Trang đã bao vây kìm chân địch trong thành phố hơn ba tháng, góp phần
làm thất bại kế hoạch của quân Pháp dùng Nha Trang làm bàn đạp mở rộng
đánh chiếm các tỉnh cực Nam Trung Bộ và Tây Nguyên.
Cuối tháng 12- 1945 , đầu tháng 1-1946, địch tập trung quân giải vây
cho Nha Trang và đánh chiếm tỉnh Khánh Hoà, đồng thời đánh chiếm thị xã
Buôn Ma Thuột, tỉnh lị của Đắc Lắc.
Cuối tháng 1-1946 , sau khi chiếm được Buôn Ma Thuột, đồng thời với
các cuộc hành quân đánh chiếm các tỉnh còn lại của miền Tây Nam Bộ, địch
tập trung 10.000 quân, mở chiến dịch Gô (Gaur) từ phía nam đánh ra, Tây
Nguyên đánh xuống và từ biển đánh vào các tỉnh Nam Trung Bộ. Lượng vũ
trang của ta chặn đánh nhưng cuối cùng phải rút lui. Sau khi chiếm Phan
Rang, quân Pháp đánh ra Nha Trang, đánh vào Phan Thiết.
Trong điều kiện chiến đấu không cân sức, sau một số trận đánh trả,
quân ta phải rút khỏi Nha Trang, để lại một bộ phận lập tuyến chặn địch ở
Đèo Cả.
Sau 4 tháng chiến đấu anh dũng, với sự chi viện của nhiều đơn vị Nam
tiến, bộ đội Nam Trung Bộ đã hoàn thành nhiệm vụ trong thời kì đầu của
cuộc kháng chiến, tiêu diệt được hàng ngàn tên địch, thu nhiều vũ khí.
Tuy nhiên, trước sự tấn công mạnh gấp nhiều lần của địch, để bảo toàn
lực lượng, các đơn vị bộ đội các tỉnh cực Nam Trung Bộ đã phải tạm thời
rút ra khỏi các thị xã, thị trấn và một số trục đường giao thông lớn.
Tại các vùng nông thôn ở Khánh Hoà, Ninh Thuận, Bình Thuận, chính quyền
cách mạng, các đoàn thể Cứu quốc và lực lượng vũ trang của ta vẫn làm
chủ.
Như vậy, 5 tháng kháng chiến (từ tháng 9-1945 đến tháng 2- 1946) là 5
tháng đầy thử thách gian khổ đối với quân và dân ta ở miền Nam, đối với
cả dân tộc và chế độ mới. Cuộc chiến đấu anh dũng của quân và dân ta ở
miền Nam tuy phải trải qua gian lao và tổn thất, nhưng đã tích luỹ được
nhiều kinh nghiệm chiến đấu, gây dựng được phong trào chiến tranh du
kích, xây dựng lực lượng, góp phần bảo vệ và củng cố chính quyền cách
mạng, tạo điều kiện cho cả nước chuẩn bị bước vào cuộc kháng chiến lâu
dài.
b) Hoà hoãn, nhân nhượng với quân Tưởng ở miền Bắc
Trong hoàn cảnh phải đối phó với cuộc chiến tranh xâm lược của thực
dân Pháp ở miền Nam, sự uy hiếp lật đổ chính quyền của quân Tưởng và tay
sai ở miền Bắc và trên cơ sở khẳng định thực dân Pháp là kẻ thù chính,
Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã vạch rõ: "Phải tránh các trường hợp một mình đối phó với nhiều lực
lượng Đồng minh tràn vào nước ta". Mũi nhọn của cách mạng lúc này là tập
trung đối phó với thực dân Pháp ở miền Nam, do đó chúng ta phải tạm
thời hoà hoãn, tránh xung đột với quân Tưởng. Chủ tịch Hồ Chí Minh
nêu rõ: "Đứng trước tình hình gay go và cấp bách ấy, Đảng phải dùng mọi
cách để sống còn, hoạt động và phát triển... Đảng không thể do dự.
Do dự là hỏng hết. Đảng phải quyết đoán mau chóng, phải dùng những
phương pháp - dù là những phương pháp đau đớn - để cứu vãn tình hình"1.
chúng ta tiến hành đấu tranh chính trị với quân Tưởng một cách khôn
khéo, nhưng kiên quyết, nhằm hạn chế sự phá hoại của chúng. Tháng
10-1945, khi Hà Ứng Khâm (Tổng tư lệnh lục quân quân đội Tưởng Giới
Thạch) đến Hà Nội, Chính phủ cách mạng đã tổ chức một cuộc biểu tình có
300.000 người tham gia, hình thức là để "đón tiếp", nhưng thực chất là
nhằm biểu dương lực lượng của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Quần chúng diễu
qua Phủ Toàn quyền và hô vang khẩu hiệu: "Nước việt Nam của người Việt
Nam", "Hoa - Việt thân thiện", "ủng hộ Chính phủ lâm thời nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hoà", "ủng hộ Chủ tịch Hồ Chí Minh",
"ủng hộ Việt Nam độc lập đồng minh", "Việt Nam độc lập muôn năm". Trước
khí thế và sức mạnh của quần chúng, Hà Ứng Khâm không thể tự mình thực
hiện ý định lật đổ Chính phủ cách mạng, mà dùng bọn tay sai (Việt Quốc
và Việt Cách) phá hoại từ bên trong.
Được sự ủng hộ của Tưởng, bọn tay sai đòi ta thay đổi Quốc kì, Quốc
ca, đòi ta phải cải tổ Chính phủ, để cho chúng một số ghế trong Quốc hội
không phải thông qua bầu cử, đòi Hồ Chí Minh từ chức Chủ tịch, đòi những người cộng sản rút khỏi Chính phủ.
Chúng còn tổ chức ám sát, bắt cóc nhân viên Chính phủ. Để giảm bớt
sức ép công kích của kẻ thù, tránh những hiểu lầm trong nước và ngoài
nước có thể trở ngại đến tiền đồ, sự nghiệp giải phóng dân tộc, đồng
thời xuất phát từ lợi ích tối cao của dân tộc, Đảng Cộng sản Đông Dương
tuyên bố "tự giải tán" (11-11- 1945), nhưng sự thật là tạm thời rút vào
hoạt động bí mật, tiếp tục lãnh đạo đất nước, lãnh đạo chính quyền cách
mạng.
Nhằm hạn chế sự phá hoại của quân Tưởng và tay sai, tại phiên họp đầu
tiên (2-3-1946), Quốc hội khoá I đồng ý cho bọn tay sai của Tưởng 70
ghế trong Quốc hội, cho Nguyễn Hải Thần
(lãnh tụ Việt Cách) giữ chức Phó Chủ tịch nước cùng 4 ghế Bộ trưởng
trong Chính phủ liên hiệp chính thức (phụ trách các lĩnh vực ngoại giao,
kinh tế, canh nông, xã hội). Đồng thời nhân nhượng cho Tưởng một số
quyền lợi kinh tế, như cung cấp một phần lương thực, thực phẩm, phương
tiện giao thông vận tải, nhận tiêu tiền Quan Kạn, Quốc tệ ở Việt Nam.
Sự nhân nhượng về chính trị trên đây thể hiện một yêu cầu cơ bản là
giữ vững sự tồn tại của một chính quyền của dân, do dân và vì dân, một
chính quyền của sự hoà giải, đoàn kết thống nhất quốc gia dân tộc thực
hiện tư tưởng độc lập tự do của Chủ tịch Hồ Chí Minh
với khẩu hiệu hành động cấp bách là Dân tộc trên hết, Tổ quốc trên hết.
Sự nhân nhượng đó là cần thiết, nhằm hạn chế đến mức thấp nhất những
hoạt động chống phá cách mạng của quân Tưởng và tay sai. Trong khi thực
hiện hoà giải, nhân nhượng, thông qua công cụ báo chí, thông tin tuyên
truyền, dựa vào sức mạnh quần chúng, chúng ta kiên quyết vạch trần và
ngăn chặn những hành động chia rẽ, phản dân hại nước của các lực lượng
tay sai của Tưởng. Những kẻ phá hoại (có đủ bằng chứng) thì bị trừng trị
theo pháp luật. Chính phủ còn ban hành một số sắc lệnh nhằm trấn áp bọn
phản cách mạng: Sắc lệnh ngày 5-9-1945 giải tán Đại Việt quốc gia xã
hội đảng và Đại Việt quốc dân đảng (là những đảng phản động, tay sai của
phát xít Nhật); Sắc lệnh ngày 12-9-1945 cho an trí những người nguy
hiểm đối với nền Cộng hoà dân chủ Việt Nam; Sắc lệnh lập toà án quân sự
trừng trị bọn phản cách mạng.
Thực hiện những biện pháp sách lược nhân nhượng trên đây đã hạn chế
và vô hiệu hoá đến mức thấp nhất các hoạt động chống phá của quân Tưởng
và tay sai, làm thất bại âm mưu lật đổ chính quyền cách mạng của chúng.
Cũng nhờ đó, chúng ta mới có điều kiện tập trung lực lượng kháng chiến
chống thực dân Pháp xâm lược ở miền Nam.
2- Hoà hoãn với thực dân Pháp nhằm gạt quân Tưởng ra khỏi nước ta, chuẩn bị kháng chiến chống Pháp (từ 6-3 đến 19-12-1946)
a) Pháp và Tưởng cấu kết với nhau chống lại cách mạng Việt Nam.
Đầu năm 1946, về cơ bản, thực dân Pháp đã chiếm được các đô thị, các
đường giao thông chiến lược quan trọng ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ, chiếm
hầu hết Campuchia và khống chế vùng nông thôn ở Lào. Pháp lại được Anh
và Mĩ thoả thuận: Ngày 29-1-1946, quân Anh rút khỏi Sài Gòn và đến ngày
5-3- 1946, rút khỏi Nam Đông Dương, nhường cho Pháp quyền chiếm đóng từ
vĩ tuyến 16 trở vào. Công việc tiếp theo của thực dân Pháp là chuẩn bị
tiến quân ra miền Bắc, thực hiện ý đồ thôn tính cả nước ta. Nhưng do lực
lượng hiện tại có hạn (hơn 65.000 quân), lại chưa bình định xong miền
Nam, nếu thực hiện ngay ý đồ này bằng biện pháp quân sự, Pháp sẽ gặp khó
khăn. Hơn nữa, đưa quân ra miền Bắc lúc này, chúng sẽ gặp hai trở lực
lớn: một là lực lượng kháng chiến của nhân dân ta, hai là sự có mặt của
quân Tưởng và bọn tay sai ở miền Bắc. Tình hình đó buộc thực dân Pháp
phải dùng đến thủ đoạn chính trị: một mặt, điều đình với Chính phủ Tưởng
Giới Thạch ở Trùng Khánh, mặt khác điều đình với Chính phủ Hồ Chí Minh để được đưa quân đội ra miền Bắc Việt Nam một cách "hợp pháp".
Trong khi đó, Tưởng Giới Thạch cũng đứng trước một khó khăn lớn:
Phong trào cách mạng do Đảng Cộng sản Trung Quốc lãnh đạo đang phát
triển mạnh mẽ, cần phải tập trung lực lượng để đối phó. Tình hình này
cũng buộc Tưởng đi đến thoả hiệp với Pháp.
Đúng như dự đoán của Ban Thường vụ Trung ương Đảng: "Trước sau Trùng
Khánh sẽ bằng lòng cho Đông Dương trở về tay Pháp miễn là Pháp nhượng
cho Tưởng nhiều quyền lợi quan trọng"1, ngày 28-2-1946, Hiệp ước Hoa -
Pháp được kí kết ở Trùng Khánh. Theo Hiệp ước này, Pháp được quyền thay
quân đội Tưởng vào miền Bắc Đông Dương để giải giáp quân đội Nhật. Ngược
lại Pháp nhường cho Tưởng một số quyền lợi về kinh tế, chính trị, như
trả lại các tô giới và nhượng địa của Pháp trên đất Trung Quốc, nhượng
cho Tưởng một "khu đặc biệt" để tự do buôn bán và có quyền kiểm soát
thuế quan ở cảng Hải Phòng, bán cho Tưởng đoạn đường sắt từ Hồ Kiều đến
Côn Minh (thuộc tuyến đường sắt Hà Nội - Vân Nam), những kiều dân Trung
Quốc ở Đông Dương được hưởng nhiều quyền lợi đặc biệt.
Cùng thời gian trên, từ cuối năm 1945 đến đầu năm 1946, giữa đại diện
Chính phủ Pháp và Việt Nam đã có những cuộc gặp gỡ. Tháng 11-1945, đại
diện Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà Hoàng Minh Giám
đã tiếp xúc với phía Pháp và lập trường của Chính phủ Việt Nam được xác
định qua bức giác thư ngày 12-11 như sau: l- Nước Pháp sẽ thừa nhận
không chậm trễ nền độc lập toàn vẹn của Việt Nam; 2- Chính phủ Việt Nam
sẽ thực thi những biện pháp bảo vệ uy tín nước Pháp
và sẽ có những nhượng bộ với Pháp về phương diện kinh tế và văn hoá; 3-
Nhằm tạo ra được một không khí thuận lợi cho việc đàm phán, các nhà
chức trách Pháp sẽ cho chấm dứt ngay những chiến sự ở Nam Bộ và trong
suốt thời gian của cuộc đàm phán, ngưng vận chuyển đến Đông Dương quân
đội và vũ khí"1.
Trong cuộc gặp Giăng Xanhtơni (Jean Sainteny) ngày 25-2- 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định rõ lập trường của Việt Nam trong quan hệ Việt - Pháp là độc lập và hợp tác.
Xanhtơni nêu rõ quan điểm của Pháp là công nhận Việt Nam có chính
phủ, nghị viện, quân đội và tài chính riêng nhưng là một nước tự trị
trong khối Liên hiệp Pháp. Đây là lập trường đối lập cơ bản giữa Chính
phủ ta và Chính phủ Pháp.
b) Hoà hoãn, nhân nhượng với thực dân Pháp nhằm gạt quân Tưởng ra khỏi nước ta
Hiệp ước Hoa - Pháp đã đặt nhân dân ta trước sự lựa chọn một trong
hai con đường: Hoặc là cầm vũ khí chiến đấu chống thực dân Pháp, không
cho chúng đổ bộ lên miền Bắc; hoặc là hoà hoãn, nhân nhượng pháp để
tránh tình trạng phải đối phó một lúc với nhiều kẻ thù, đẩy 20 vạn quân
Tưởng ra khỏi miền Bắc, tranh thủ thời gian hoà hoãn, tiếp tục củng cố
và phát triển lực lượng cách mạng, chuẩn bị mọi mặt bước vào cuộc chiến
đấu về sau khi tình thế bắt buộc. Ngày 3-3-1946, Ban Thường vụ Trung
ương Đảng ra Chỉ thị Tình hình và chủ trương. Bản Chỉ thị nhận định:
"... Hiệp ước Hoa - Pháp không phải là chuyện riêng của Tưởng Giới Thạch
và Pháp. Nó là chuyện chung của phe đế quốc và bọn tay sai của chúng ở
thuộc địa..."2.
Phân tích về chủ trương đánh hay hoà lúc này, Chỉ thị chỉ rõ: "Nếu
Pháp công nhận Đông Dương tự chủ thì có thể hoà, hoà để phá tan âm mưu
thâm độc của bọn Tưởng Giới Thạch, bọn phản động Việt Nam và bọn phát
xít Pháp còn sót lại, chúng định hãm ta vào tình thế cô độc, buộc ta
phải đánh nhiều kẻ thù một lúc..."1. Bản Chỉ thị nhấn mạnh: "Vấn đề lúc
này không phải là muốn hay không muốn đánh Vấn đề là biết mình biết
người, nhận định một cách khách quan những điều kiện lợi hại trong nước
và ngoài nước mà chủ trương cho đúng..."2.
Nếu chấp nhận cuộc chiến đấu với Pháp lúc này, chúng ta sẽ gặp nhiều
bất lợi lớn. Về chính trị, ta có khó khăn vì hoạt động chia rẽ của bọn
phản động. Về quân sự, Pháp có thêm lực lượng và chiếm được nhiều nơi;
cuộc kháng chiến ở Nam Bộ gặp khó khăn. Về kinh tế, vấn đề tiếp tế lương
thực không bảo đảm. Về quốc tế, Liên Xô và các lực lượng dân chủ chưa
có điều kiện trực tiếp giúp ta ...
Chấp nhận hoà hoãn, nhân nhượng với Pháp cũng có những bất lợi khác:
Thực dân Pháp lợi dụng hoà hoãn để phát triển lực lượng và sau đó bội
ước đánh ta. Bọn phản động lợi dụng việc kí kết mà vu cáo ta là "bán
nước". Nhưng thực hiện giải pháp này, ta sẽ phá tan được âm mưu của
Tưởng và tay sai đẩy ta vào thế bị cô lập; đồng thời giành được thời
gian chuẩn bị cho cuộc chiến đấu mới.
Ngày 5-3-1946, Hội nghị mở rộng của Ban Chấp hành Trung ương Đảng
(tại làng Canh, Hà Đông) nhất trí tán thành chủ trương Hoà để tiến của
Ban Thường vụ Trung ương Đảng.
Chiều 6-3-1946, sau nhiều lần thương lượng, tại ngôi nhà 38 Lý Thái Tổ (Hà Nội), Chủ tịch Hồ Chí Minh
thay mặt Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà kí với G. Xanhtơni
(J.sainteny) - đại diện Chính phủ Cộng hoà Pháp bản Hiệp định Sơ bộ, đặt
cơ sở cho cuộc đàm phán giữa hai bên để đi đến một hiệp định chính
thức.
Theo Hiệp định Sơ bộ: Chính phủ Pháp công nhận nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà là một quốc gia tự do trong khối Liên hiệp Pháp; có chính phủ,
nghị viện, quân đội và tài chính riêng. Sự thống nhất đất nước sẽ do
trưng cầu dân ý quyết định.
Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đồng ý cho 15.000 quân Pháp vào
thay thế Tưởng. Số quân này phải đóng ở những nơi do hai bên thống nhất
quy định và sẽ rút khỏi Việt Nam trong 5 năm, mỗi năm rút 1/5 số quân.
- Quân đội hai bên ngừng bắn và ở nguyên vị trí. Các cuộc đàm phán
tiếp theo sẽ được tiến hành tại một trong ba nơi: Hà Nội, Sài Gòn hoặc
Pari.
Kí Hiệp định Sơ bộ 6-3-1946, tạm thời hoà hoãn với Pháp, ta đã tránh
được một cuộc chiến đấu bất lợi phải chống lại nhiều kẻ thù cùng một
lúc; tạo thêm một cơ sở pháp lí buộc quân Tưởng phải nhanh chóng rút
khỏi miền Bắc nước ta; bọn tay sai Việt Quốc, Việt Cách vì mất chỗ dựa
nên phần lớn bị tan rã hoặc chạy theo quân Tưởng; chúng ta có thêm thời
gian hoà bình cần thiết để củng cố chính quyền cách mạng, mở rộng mặt
trận dân tộc thống nhất, phát triển lực lượng vũ trang nhằm chuẩn bị lực
lượng mọi mặt cho cuộc kháng chiến lâu dài chống thực dân Pháp về sau.
Đặc biệt, đối với miền Nam - nơi mà cuộc kháng chiến đang đứng trước
những thử thách gay gắt - Hiệp định Sơ bộ tạo điều kiện cho lực lượng
kháng chiến trở lại bám trụ thôn, xã, tạo thế và lực để cùng cả nước
bước vào cuộc kháng chiến lâu dài. Thực tế lịch sử đã chứng tỏ, việc kí
Hiệp định Sơ bộ - trong hoàn cảnh lúc đó - là một chủ trương cứu nước
duy nhất đúng, "một mẫu mực tuyệt vời của sách lược Lêninít về lợi dụng
mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ địch và về sự nhân nhượng có nguyên tắc"1.
Sau khi kí Hiệp định Sơ bộ 6-3-1946, Chính phủ và nhân dân Việt Nam thi hành nghiêm chỉnh mọi điều khoản đã kí kết.
Ngày 8-3- 1946, Chính phủ ban hành Nghiêm lệnh: "Chính phủ hạ lệnh
cho toàn thể nhân dân và bộ đội phải giúp đỡ cho quân đội Trung Hoa,
trong lúc quân đội Trung Hoa thoái triệt. Ai xâm phạm đến tính mạng, tài
sản của quân đội Trung Hoa sẽ bị nghiêm trị"1. Ngày 9-3-1946, Ban
Thường vụ Trung ương Đảng ra bản Chỉ thị Hoà để tiến, vạch rõ lí do vì
sao ta kí với Pháp Hiệp định Sơ bộ và đề ra những việc cần làm sau khi
Hiệp định được kí kết:
1- Giải thích ý nghĩa Hiệp định, chống mọi nhận thức và tư tưởng sai lệch đối với việc kí kết.
2- Chuẩn bị kháng chiến lâu dài, đề phòng Pháp bội ước.
3- Đấu tranh với Tưởng, đề phòng chúng cố tình kéo dài thời hạn đóng quân trên miền Bắc.
4- Đề phòng các đảng phái phản động xuyên tạc và phá hoại.
5- Chỉ đạo miền Nam gây dựng lại cơ sở đã mất và cổ động phong trào đòi thống nhất Bắc - Trung - Nam.
Trong khi đó, thực dân Pháp sớm lộ rõ dã tâm phá hoại Hiệp định. Ngày
9-3-1946, quân Pháp đổ bộ lên Hải Phòng và đóng trái phép ở Bến Bính.
Ngày 27-3-1946, quân Pháp ngang nhiên chiếm đóng trụ sở Bộ Tài chính của
Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ở Hà Nội; đồng thời cho xe chạy khắp các phố,
gây xô xát và cướp bóc tài sản của nhân dân... Ở miền Nam, thực dân
Pháp không những không ngừng bắn, mà còn tiếp tục cho quân càn quét,
đánh úp nhiều vị trí của bộ đội Việt Nam ở Đồng Tháp Mười, Bình Thuận,
Phan Rang... Tháng 6-1946, chúng huy động 5.000 quân có xe tăng và máy
bay yểm trợ đánh chiếm Tây Nguyên. Với ý đồ tách Nam Bộ ra khỏi Việt
Nam, thực dân Pháp thành lập Chính phủ Nam Kì tự trị (l-6-1946) do Nguyễn Văn Thinh cầm đầu.
Một trong những nội dung quan trọng đấu tranh buộc Pháp phải tôn
trọng Hiệp định Sơ bộ là đòi họ mở cuộc đàm phán chính thức tại Pari.
Ngược lại, thực dân Pháp tìm mọi cách trì hoãn. Ta càng thấy rõ lập
trường thực dân xâm lược của giới phản động Pháp, nhưng vẫn kiên trì đấu
tranh tiến tới cuộc đàm phán chính thức.
Ngày 24-3-1946, trên tàu chân Êmin Béctanh (Emile Bertin) neo tại vịnh Hạ Long đã diễn ra cuộc hội đàm giữa Chủ tịch Hồ Chí Minh với Đô đốc Đácgiăngliơ. Cùng dự hội đàm, về phía Việt Nam còn có Hoàng Minh Giám và Nguyễn Tường Tam;
về phía Pháp có Tướng Lơclec, Xanhtơni và một số trợ lí của
Đácgiăngliơ. Sau nhiều lần trao đổi, hai bên đã thoả thuận công bố một
bản thông cáo gồm ba điểm chủ yếu: 1- Vào thột thời điểm càng gần mà các
điều kiện quá cảnh cho phép, nghĩa là trong nửa đầu tháng tư, một phái
đoàn hữu nghị gồm 10 nghị sĩ Việt Nam đi Pari mang tới Quốc hội lập hiến
Pháp lời chào anh em của Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà; 2-
Cũng vào thời điểm đó sẽ tiến hành tại Đà Lạt một hội nghị trù bị giữa
một bên là một đoàn đại biểu Pháp gồm 12 thành viên dưới sự chủ trì của
cao uỷ Pháp tại Đông Dương và một bên là một đoàn đại biểu gồm 12 thành
viên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà dưới sự chủ trì của Thủ tướng
Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà hoặc người đại diện; 3- Cuộc
hội nghị trù bị đó sẽ hoàn thành công việc của mình để một đoàn đại biểu
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà có thể lên đường trong thời hạn ngắn
nhất, nghĩa là trong nửa cuối tháng năm để các cuộc thương lượng cuối
cùng chính thức có thể tiến hành tại Pari.
Ngày 16-4-1946, phái đoàn Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà do Phạm Văn Đồng dẫn đầu lên đường sang thăm nước Pháp theo tinh thần của thông cáo về nội dung cuộc hội đàm giữa Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đô đốc Đácgiăngliơ.
Ngày 19-4-1946, Hội nghị trù bị Đà Lạt khai mạc1. Hội nghị thành lập 4
uỷ ban. Trong mỗi uỷ ban, mỗi bên đặt một số người, phái biện và cố
vấn; mỗi bên cử một chủ tịch để lần lượt chủ toạ các buổi thảo luận. Uỷ
ban Chính trị, do Hoàng Xuân Hãn,
Métxme (Messmer) làm Chủ tịch; Uỷ ban Kinh tế - Tài chính, do Trịnh Văn
Bính và Buốcgoanh (Bourgoin) làm Chủ tịch; Uỷ ban Quân sự, do Võ Nguyên Giáp và Mác ăngđrê (Max André) làm Chủ tịch; Uỷ ban Văn hoá, do Nguyễn Mạnh Tường, Guru (Gourou) làm Chủ tịch.
Hội nghị đã tiến hành khẩn trương. Ngoài những phiên họp toàn thể,
những phiên họp ở các uỷ ban, còn có nhiều cuộc trao đổi ngoài hành
lang... Tuy vậy, trên tất cả các vấn đề được đặt ra, cuộc đàm phán hầu
như không tiến triển. Ngoài những cuộc tranh luận gay gắt tại Uỷ ban
Chính trị, ở tất cả các Uỷ ban Quân sự, Kinh tế, Văn hoá đều có những
cuộc tranh cãi giằng co.
Về kinh tế, ta chủ trương giữ vững những quyền lợi kinh tế cơ bản của
ta, bảo đảm điều kiện cho kinh tế Việt Nam phát triển, đồng thời có
những nhân nhượng nhất định đối với quyền lợi kinh tế Pháp ở Đông Dương.
Những vấn đề được đặt ra trong
Tiểu ban này thuộc về tiền tệ, thuế
quan, những doanh nghiệp hiện tại của Pháp ở Việt Nam; trong đó những
bất đồng lớn xoay quanh vấn đề tiền tệ và việc kinh doanh của người Pháp
tại Việt Nam.
Về văn hoá, hai bên đã đạt được một số thoả thuận. Ta chỉ không đồng ý
về việc Pháp đòi đặt một số cơ quan văn hoá ở Đông Dương trực thuộc với
liên bang và đề nghị dùng tiếng Pháp làm thứ tiếng chính thức thứ hai
sau tiếng Việt.
Trong hai Tiểu ban Chính trị và Quân sự, các vấn đề đặt ra đều là
những vấn đề chủ yếu mà quan điểm hai bên hoàn toàn đối lập nhau. Lập
trường có tính nguyên tắc của ta là: Nước Việt Nam phải là một nước tự
do. Liên bang Đông Dương chỉ mang tính chất kinh tế không được phương
hại đến những quyền cơ bản của Việt Nam. Về mối quan hệ giữa các nước
trong Liên bang Đông Dương với Pháp, phái đoàn ta tuyên bố chấm dứt chế
độ toàn quyền. Ta chủ trương tổ chức một liên bang thực tế chỉ có tính
chất kinh tế. Đại diện của Pháp ở liên bang chỉ có tính cách một nhân
viên ngoại giao. Liên bang Đông Dương sẽ phối hợp về chính sách thuế
quan và tiền tệ, về việc đặt kế hoạch kiến thiết cho các nước trong liên
bang theo nguyên tắc không làm phương hại đến chủ quyền của ba nước
này.
Phía Pháp chủ trương viên cao uỷ vừa là đại diện cho Liên hiệp Pháp
vừa là Chủ tịch liên bang Đông Dương. Họ đòi các ngành tư pháp, ngoại
thương, tài chính, hối đoái, vận tải, y tế, các cơ quan nghiên cứu và
phát minh về văn hoá, khoa học, kinh tế, viện thống kê, nhà bưu điện và
vô tuyến điện, cơ quan phụ.
trách di dân đều phải thuộc về liên bang. Với chủ trương này, phía Pháp muốn khôi phục lại chế độ toàn quyền trước đây.
Về ngoại giao, lập trường của phái đoàn Việt Nam là nước Việt Nam sẽ
có đại sứ ở Pháp và viên cao uỷ Pháp là đại diện ngoại giao của Pháp ở
Việt Nam. Nước Việt Nam tự do phải có quyền đặt đại sứ ở các nước trong
Liên hiệp Pháp và ở các nước ngoài. Pháp chủ trương người đại diện Pháp ở
Việt Nam là một viên chức Pháp do viên cao uỷ Pháp cử ra và nước Việt
Nam chỉ có đại diện ngoại giao với các nước khác thông qua Liên hiệp
Pháp...
Sau 3 tuần lễ (từ ngày 19-4 đến 11-5-1946) nhằm trao đổi những vấn đề
sẽ được đưa ra tại cuộc đàm phán chính thức nhưng không đi đến thoả
thuận nào, Hội nghị trù bị Đà Lạt kết thúc thất bại do âm mưu phá hoại
của thực dân Pháp.
Ngày 31-5-1946, phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hoà do Phạm Văn Đồng dẫn đầu lên đường sang Pháp đàm phán. Cùng ngày, nhận lời mời của Chính phủ Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh lên đường sang thăm nước Pháp với tư cách là thượng khách.
Trước khi lên đường, Người gửi thư cho đồng bào Nam Bộ nêu rõ: "Đồng
bào Nam Bộ là dân nước Việt Nam. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song
chân lí đó không bao giờ thay đổi".
Chủ tịch Hồ Chí Minh
cùng phái đoàn Việt Nam đến Biarritz (Pháp) ngày 12-6, nhưng phải dừng ở
đó gần hai tuần lễ do phía Pháp đang chuẩn bị thay đổi nội các. Ngày
19-6-1946, Gioócgiơ Biđôn (Georges Bidault), một lãnh tụ của Phong trào
bình dân, được bầu làm Thủ tướng Chính phủ lâm thời Cộng hoà Pháp.
Từ đây, phía Pháp mới có thể bắt đầu cuộc đàm phán đã dự định trước với Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng phái đoàn rời Biarritz để đến Pari vào ngày 22-6. vừa đặt chân tới thủ đô nước Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh
và phái đoàn Việt Nam đã nhận được những thông tin bất lợi: Từ ngày
21-6, trong một chiến dịch "chớp nhoáng", quân đội Pháp theo lệnh của Đô
đốc Đácgiăngliơ và Tướng Lơclec đã chiếm đóng cả vùng Tây Nguyên, đặc
biệt là Pleicu và Kon Tum; ngày 23-6, tại Hà Nội quân Pháp chiếm đóng
Phủ Toàn quyền.
Ngày 6-7-1946, cuộc đàm phán chính thức giữa hai bên Chính phủ Việt
Nam và Pháp bắt đầu khai mạc, không phải ở Pari như chính phủ Việt Nam
Dân chủ Cộng hoà đề nghị, mà là Phôngtenrlơblô (Fontaínebleau), cách
Pari 60 km, "để lẩn tránh những áp lực của dư luận báo chí và của những
giới khác mà Sài Gòn, các cơ quan dân sự và bạn bè của họ hết sức kinh
sợ”
Đoàn Việt Nam gồm có: Phạm Văn Đồng (Trưởng đoàn) và các thành viên: Phan Anh, Trịnh Văn Bính, Tạ Quang Bửu, Nguyễn Mạnh Hà, Nguyễn Văn Huyên, Bưu Hội, Huỳnh Thiện Lộc, Dương Bạch Mai, Chu Bá Phượng, Đặng Phúc Thông, Phạm Khắc Hoè, Hoàng Minh Giám. Ngoài ra là các chuyên viên: Nguyễn Đệ, Hoàng Văn Đức, Vũ Trọng Khánh, Hồ Đắc Liên, Nguyễn Văn Luyện, Nguyễn Văn Tình, Nguyễn Đắc Khê.
Đoàn Pháp gồm có: Mác Ăngđrê (Trưởng đoàn), Giuygla (Juglas), Lôdơrây
(Lozeray), Bôđê (Baudet), Xalăng, Bácgio (Barjot), Pinhông, Tôren
(Torel), Rivê (Rivet), Métxme, Gônông (Gonon), Buốcgoanh, Đacxy
(D'Arcy), Gaê (Gayet), Buxkê (Bousquet).
Ngay trong phiên khai mạc (6-7), Trưởng phái đoàn Việt Nam Phạm Văn Đồng
đã kịch liệt phản đối việc thành lập chính phủ Nam Kì tự trị và các
hoạt động vi phạm Hiệp định sơ bộ của quân Pháp ở Việt Nam, đặc biệt là
việc chiếm vùng Tây Nguyên và việc quân Pháp ngang nhiên chiếm đóng ngôi
nhà nguyên là Phủ Toàn quyền, nơi viên Tổng chỉ huy quân Tưởng vừa rút
đi ngay giữa thủ đô Hà Nội.
Ngày 7-7-1946, Hội nghị đưa ra một chương trình nghị sự gồm 5 điểm:
- Sự gia nhập của Việt Nam vào khối Liên hiệp Pháp và những mối quan hệ ngoại giao của nó với nước ngoài;
- Dự thảo thành lập Liên bang Đông Dương;
- Vấn đề thống nhất ba kì và trung cầu dân ý tại Nam Kì;
- Những vấn đề kinh tế,
- Soạn thảo dự án hiệp ước.
Về tất cả những vấn đề trên, quan điểm của hai bên hoàn toàn khác
nhau. Quan điểm của Pháp về "khối Liên hiệp Pháp không phải là quan niệm
về một đồng minh mà là quan niệm về những quốc gia đoàn kết chặt chẽ
với nhau bởi những cơ quan chung" (trong đó dĩ nhiên các cơ quan của
Pháp chiếm ưu thế) 1.
Trái lại, quan điểm của phái đoàn Việt Nam căn cứ trên ý niệm đồng
minh, hoà hợp quyền lợi; quan hệ song phương giữa các quốc gia độc lập,
được nêu rõ trong bức công hàm trao cho phái đoàn Pháp ngày 12-7: "Những
mối quan hệ giữa nước Pháp
và nước Việt Nam trong khuôn khổ Liên hiệp Pháp là những quan hệ hợp
đồng được xác định qua con đường hiệp ước. Những quan hệ ấy được thiết
lập trên những nền tảng sau đây:
- Tự do gia nhập,
- Quy chế bình đẳng,
- Đoàn kết bảo vệ quyền lợi chung"2 Quan điểm trên của chủ tịch Hồ Chí Minh bổ sung trong kì họp báo ngày 12-7-1946: "Trên phương diện chính trị, những mối quan hệ giữa nước Pháp
và nước Việt Nam phải xuất phát từ một hiệp ước. Hiệp ước này phải dựa
trên nguyên tắc cơ bản: cái quyền của mỗi dân tộc được tự mình quyết
định lấy số phận của mình. Trên phương diện kinh tế và văn hoá, chúng
tôi tán thành hợp tác với nước Pháp trong khuôn khổ Liên hiệp Pháp...
Sự tồn tại của Liên bang Đông Dương được xác nhận bởi sự cần thiết
phải phối hợp các hoạt động của Việt Nam, Lào và Campuchia. Căn bản nó
phải mang nội dung kinh tế. Về phần mình, nước Việt Nam được thiên nhiên
ưu đãi hơn hai nước láng giềng, sẵn sàng giúp đỡ họ nếu họ yêu cầu.
Nhưng Việt Nam kiên quyết ngăn chặn không cho Liên bang trở thành một
thứ Chính phủ Toàn quyền giả hiệu...".
Từ ngày 13 đến ngày 30-7, các tiểu ban họp, đề cập lại các vấn đề đã
nêu ở Hội nghị trù bị Đà Lạt. Hai phái đoàn thảo luận các vấn đề về thuế
quan, tiền tệ, quân đội, ngoại giao... và hầu như vấn đề nào cũng có
những bất đồng.
Về vấn đề quân đội, phái đoàn Việt Nam dứt khoát bác bỏ nguyên tắc
một bộ chỉ huy duy nhất trong thời bình và mọi ý đồ "tập thể hoá" tiềm
năng quân sự.
Về vấn đề ngoại giao, cũng như ở Hội nghị Đà Lạt, phái đoàn Việt Nam
yêu cầu có một nền ngoại giao riêng, có quyền trao đổi đại diện ngoại
giao với nước ngoài, có quyền cử đại diện riêng ở Liên hiệp quốc. Phái
đoàn Pháp vẫn giữ quan niệm của mình về một nền ngoại giao duy nhất luôn
luôn chỉ chấp nhận sự tham gia của người Việt Nam vào các chức vụ ngoại
giao của Liên hiệp Pháp. Nhưng giờ đây, họ chấp nhận nguyên tắc tự
quyết về mặt đại diện ngoại giao cấp lãnh sự.
Cũng như ở Hội nghị trù bị Đà Lạt, vấn đề Nam Kì là vấn đề gay cấn
nhất, trở thành hòn đá cản của Hội nghị. Ngay từ ngày 12-7, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã tuyên bố rõ trong cuộc họp báo: "Nam Bộ là đất Việt Nam. Nó là thịt
của thịt chúng tới, là máu của máu chúng tôi... Trước khi đảo Corse trở
thành đất của Pháp, thì Nam Bộ đã là đất Việt Nam..."2. Tại phiên họp
toàn thể ngày 26-7, Dương Bạch Mai
- một thành viên trong phái đoàn Việt Nam - công khai phát biểu: "Số
phận của Hội nghị này phụ thuộc chặt chẽ vào vấn đề ba kì. Chừng nào mà
Nam Kì, bằng cách này hay cách khác, còn bị tách ra khỏi Việt Nam, thì
việc thoả thuận giữa nước Pháp
và nước Việt Nam sẽ không bao giờ có được. Mọi sự đều tuỳ thuộc vấn đề
Nam Kì: tình hữu nghị Pháp - Việt, hoà bình cũng như trật tự ở Việt Nam,
tương lai những quan hệ của chúng ta. Phải giải quyết vấn đề này càng
sớm càng hay".
Cuộc đàm phán kéo dài hơn hai tháng (từ 6-7 đến 10-9-1946), cuối cùng
đã không đi đến một thoả thuận nào do lập trường hai bên khác xa nhau.
Ngày 14-9-1946, phái đoàn Việt Nam lên tàu tại cảng Mácxây (Marseille)
trở về Tổ quốc. Chủ tịch Hồ Chí Minh ở lại Pari với hi vọng cứu vãn tình hình.
Trong khi đó, tại Việt Nam, thực dân Pháp tăng cường các hoạt động
khiêu khích. Quan hệ Việt - Pháp ngày càng căng thẳng. Nguy cơ một cuộc
chiến tranh đến gần. Cần có một quyết định nhanh chóng nhằm kéo dài thời
gian hoà hoãn để xây dựng, củng cố thêm lực lượng cách mạng; đồng thời
làm cho nhân dân Pháp, nhân dân thế giới thấy rõ thiện chí hoà bình của
Việt Nam và dã tâm xâm lược của thực dân Pháp. Chính vì lẽ đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh kí với đại diện Chính phủ Pháp là Mutê (Moutet) - Bộ trưởng Bộ Pháp quốc hải ngoại, bản Tạm ước ngày 14-9-1946.
Nội dung bản Tạm ước gồm những điểm chủ yếu như sau: Chính phủ Việt
Nam và Chính phủ Pháp cam kết tiếp tục chính sách hợp tác như Hiệp định
Sơ bộ đã nêu, tiếp tục cuộc đàm phán sẽ được triển khai chậm nhất vào
tháng Giêng 1947.
- Chính phủ Việt Nam bảo đảm các quyền tự do dân chủ, quyền lợi kinh tế - văn hoá của người Pháp ở Việt Nam.
- Chính phủ Pháp sẽ đình chỉ xung đột ở Nam Bộ, Nam Trung Bộ, bảo đảm các quyền tự do dân chủ cho nhân dân.
- Việt Nam và Pháp thả hết tù chính trị, chấm dứt tuyên phản đối việc
Pháp tổ chức trái phép Hội nghị Liên bang Đông Dương (ngày l/8/1946)
tại Đà Lạt, gồm bọn bù nhìn Nam Kì, Nam Trung Kì, Ai Lao và Cao Miên.
truyền không thân thiện.
- Việc trưng cầu dân ý ở Nam Bộ do hai bên quy định thời gian và cách thức.
Tạm ước 14-9-1946 là sự nhân nhượng cuối cùng của ta nhằm cứu vãn
tình thế hết sức khó khăn của đất nước lúc bấy giờ. Ngày 20-10-1946, Chủ
tịch Hồ Chí Minh về đến Tổ quốc trong sự chờ đón đầy tin tưởng của toàn dân ta. Cuộc hành trình ngoại giao của Chủ tịch Hồ Chí Minh
và phái đoàn Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà trên đất Pháp tuy chưa
giải quyết được mục tiêu cơ bản của cuộc đàm phán, nhưng đã làm cho
nhân dân Pháp và nhân dân thế giới hiểu rõ hơn vấn đề Việt Nam, biểu thị
sự đồng tình ủng hộ nền độc lập của Việt Nam.
c) Tận dụng khả năng hoà hoãn chuẩn bị cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
Sau ngày kí kết Hiệp định Sơ bộ và Tạm ước Việt - Pháp, tranh thủ
thời gian hoà hoãn, Chính phủ và nhân dân ta ra sức củng cố, xây dựng
lực lượng, chuẩn bị cho cuộc kháng chiến sắp tới.
Ở miền Nam, cán bộ, bộ đội tiến mạnh vào các vùng tạm bị địch chiếm,
tổ chức phát triển lực lượng vũ trang địa phương và chiến tranh du kích.
Cùng với các cuộc bãi công, bãi thị, biểu tình, đòi tổ chức trưng cầu
dân ý thống nhất đất nước, phản đối càn quét bình định, bắt lính, những
cuộc nổi dậy diệt tề, trừ gian cũng diễn ra mạnh mẽ nhằm khôi phục chính
quyền nhân dân và các đoàn thể quần chúng. Phong trào đấu tranh của
nhân dân Nam Bộ và Nam Trung Bộ từ sau ngày 6-3-1946 đến cuối năm phát
triển mạnh mẽ, liên tục, toàn diện và giành được nhiều thắng lợi to lớn.
Tại Nam Bộ, chính quyền cách mạng được xây dựng và củng cố trên 1.000
xã trong tổng số 1 . 234 xã. Vùng giải phóng ở nông thôn được mở rộng
gấp nhiều lần so với trước ngày 6-3-1946. Hệ thống căn cứ địa kháng
chiến được hình thành, nối liền từ Xứ uỷ xuống khu, tỉnh huyện, nhất là ở
Đông Nam Bộ. Lực lượng vũ trang ba thứ quân cũng phát triển. Ở các vùng
nông thôn, hầu hết các xã đều thành lập tự vệ và du kích.
Ở các đô thị, lực lượng tự vệ cũng được củng cố và hoạt động có hiệu
quả, nhất là lực lượng tự vệ thành phố Sài Gòn. Các đơn vị bộ đội tập
trung - các chi đội Vệ quốc đoàn, đã được xây dựng từ cấp tỉnh đến cấp
khu. Toàn Nam Bộ đã xây dựng được 25 chi đội, tăng 25% so với lúc mới
hình thành.
Ở Nam Trung Bộ và Tây Nguyên, nhiều căn cứ du kích hình thành. Ngoài
các đơn vị bộ đội tập trung ở vùng tự do Khu V, đến tháng 7-1946, ở cực
Nam Trung Bộ đã xây dựng được 4 trung đoàn chủ lực và 1 tiểu đoàn ở Tây
Nguyên - Tiểu đoàn N’ Tranglơn, gồm hầu hết các chiến sĩ là người dân
tộc thiểu số.
Ở miền Bắc, quân và dân ta ra sức xây dựng và phát triển lực lượng
mọi mặt. Khối đoàn kết toàn dân không ngừng mở rộng, nhất là từ sau khi
thành lập Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam (29-5-1946). Vệ quốc đoàn
chính thức trở thành Quân đội quốc gia của nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hoà (22-5-1946). Bên cạnh lực lượng vũ trang thường trực Chính phủ còn
quan tâm xây dựng lực lượng bán vũ trang. Đến cuối năm 1946, Việt Nam có
trên 8 vạn bộ đội thường trực và gần 1 triệu dân quân, tự vệ ở hầu khắp
các địa phương, từ thành thị đến nông thôn. Các trường đào tạo cán bộ
chính trị, quân sự được thành lập: Tháng 3-1946, mở Trường Quân chính
Bắc Sơn; tháng 5-1946, mở Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn;
tháng 6-1946, mở Trường Lục quân Quảng Ngài. Đến cuối năm 1946, trước
khi cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ, các trường quân sự đã đào tạo
được hàng vạn cán bộ, bổ sung cho các đơn vị cơ sở.
Trải qua hơn một năm đấu tranh bảo vệ và củng cố chính quyền dân chủ
nhân dân, những khó khăn ban đầu đã được đẩy lùi. Tiềm lực của Nhà nước
cách mạng được tăng cường một bước, tạo nên thế và lực mới cho toàn dân
ta bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp trong cả nước.
Có được những thắng lợi đó là do toàn dân ta đoàn kết chặt chẽ, thực
hiện sự nghiệp vẻ vang "vừa kháng chiến, vừa kiến quốc" dưới sự lãnh đạo
của Đảng. "Đảng ta, đứng đầu là Hồ Chủ tịch, với đường lối chính trị vô
cùng sáng suất, vừa cứng rắn về nguyên tắc, đã đưa nước nhà vượt qua
muôn vàn khó khăn tưởng như không sao vượt qua nổi. Lúc thì hoà hoãn với
Tưởng để rảnh tay đối phó với thực dân Pháp, lúc thì tạm thời hoà hoãn
với Pháp để đuổi cổ quân Tưởng và quét sạch bọn phản động tay sai của
Tưởng, giành thời gian củng cố lực lượng, chuẩn bị toàn quốc chống thực
dân Pháp xâm lược, điều mà Đảng ta đã biết chắc là không thể nào tránh
khỏi"
(Nguồn:Lịch sử Việt Nam 1945 - 2000 - TS. Nguyễn Xuân Minh)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét