Chuyển đến nội dung chính

LẨU "LỪA" (ĐL)



 
                         Hoàng Thuỳ Linh - Để Mị Nói Cho Mà Nghe | Official Music Video

Câu chuyện cảm động về tình bạn của chú dê và lừa bị bỏ rơi

Kết quả hình ảnh cho hình ảnh lẩu dê
LẨU "LỪA"
"Khôn ăn cái dại ăn nước"
Thành ngữ

Mua cái lẩu dê ngót trăm ngàn
Tiếc gì có dịp đãi bạn vàng
Hương lên nghi ngút, thơm đáo để
Cuộc rượu đêm nay chắc nồng nàn!

Xì xụp mời nhau nếm "mùi" trần
Khoắng hoài chỉ thấy mấy hòn gân
Tóp mỡ lều bều đôi ba miếng
Quan tham đâu cả, nước toàn dân?

Bạn lỡm: - Món này lạ mà ngon
Xương tan, thịt nát, chỉ gân còn!
Chua cay cũng đủ xoay vần rượu
Húp dại, răng già đỡ nhai khôn...

Ngượng ngịu rằng: - Đây, lẩu thiếu "dương"
Vượng khí, hóa thần, chẳng sợ cương!...
Mua bán thời nay ưa "lừa" nhỉ
May đời, bạn chỉ khoái "nước non"!

Cười qua cợt lại, đèn kéo quân
Khề khà khen nàng rượu hiền ngoan
Chê cô bán lẩu xinh mà hiểm
Làm cuộc nhậu vui đượm vị buồn!  

Trần Hạnh Thu                                             
 
Đồng Đội - Tốp Ca Nam



Quê hương anh nước mặn, đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau.
Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ
Đồng chí!

Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh,
Sốt run người, vừng trán ướt mồ hôi.

Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay!

Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo.

2-1948

Bài thơ Đồng chí được sáng tác vào đầu năm 1948, sau khi tác giả đã cùng đồng đội tham gia chiến đấu trong chiến dịch Việt Bắc (thu đông 1947) đánh bại cuộc tiến công quy mô lớn của giặc Pháp lên chiến khu Việt Bắc. Bài thơ là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất viết về người lính Cách mạng của văn học thời kháng chiến chống Pháp (1946-1954).

Bài thơ đã được nhạc sĩ Minh Quốc phổ nhạc thành bài hát Tình đồng chí.

Nguồn:
1. Chính Hữu, Đầu súng trăng treo, NXB Văn học, Hà Nội, 1972
2. Ngữ văn 9, NXB Giáo dục, 2009
 
Đồng chí- giọng ngâm Nguyễn Ngọc

Cảm nhận về bài thơ " Đồng Chí " - Chính Hữu.

Trong dòng thơ ca về anh bộ đội cụ Hồ, Đồng chí của Chính Hữu ghi nhận một thành công xuất sắc. Giữa lúc chưa phải mọi nhà thơ đã bắt trúng ngay mạch đập của cuộc sống kháng chiến ở những năm đầu, Đồng chí (1948) đã cất lên một tiếng nói mới, chân thực về vẻ đẹp của người Vệ quốc quân, đã góp phần làm sáng tỏ bản chất và sức mạnh của những người cầm súng.

  Trong dòng thơ ca về anh bộ đội cụ Hồ, Đồng chí của Chính Hữu ghi nhận một thành công xuất sắc. Giữa lúc chưa phải mọi nhà thơ đã bắt trúng ngay mạch đập của cuộc sống kháng chiến ở những năm đầu, Đồng chí (1948) đã cất lên một tiếng nói mới, chân thực về vẻ đẹp của người Vệ quốc quân, đã góp phần làm sáng tỏ bản chất và sức mạnh của những người cầm súng.
Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau
Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn, thành đôi tri kỉ
Đồng chí!
Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay.

Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo
(1948)
Đồng chí là một bài thơ cô đúc, “tiết kiệm” trong từng hình ảnh, từng câu chữ. Bằng những chi tiết, những hình ảnh hết sức chân thật, cụ thể mà đầy tính chắt lọc, khái quát, bài thơ đã thể hiện một cách cảm động tình đồng chí gắn bó giữa những người nông dân mặc áo lính, cùng chiến đấu giữ gìn độc lập tự do của Tổ quốc.

Toàn bộ tứ thơ của Đồng chí phát triển xoay quanh mối quan hệ giữa các nhân vật tôi và anh. Ở đây, nhà thơ đã hóa thân vào các nhân vật trữ tình – cũng là những đồng đội thân thiết với mình – để nói lên những hoàn cảnh, biểu hiện những tâm trạng, tình cảm của họ.
Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
Mối quan hệ anh – tôi được giới thiệu ngay từ lúc mở đầu. Họ đều là những người nông dân mặc áo lính ra đi từ các làng quê nghèo, làm ăn vất vả, gian nan. Những con người khổ nghèo ấy vừa được Cách mạng giải phóng và giờ đây gắn bó thắm thiết vì mục đích của cuộc chiến đấu. Sự gắn bó trong quân đội cách mạng giữa những người nông dân “tứ xứ” này cũng được Hồng Nguyên thể hiện một cách hồn nhiên trong phần mở đầu bài Nhớ:
Lũ chúng tôi
Bọn người tứ xứ
Gặp nhau hồi chưa biết chữ
Quen nhau từ buổi một, hai
Súng bắn chưa quen
Quân sự mươi bài
Lòng vẫn cười vui kháng chiến
Từ “đôi người xa lạ” đến “thành đôi tri kỉ”, từ “chẳng hẹn quen nhau” đến “đêm rét chung chăn”- đó dường như là sự gặp gỡ, gắn bó tình cờ nhưng thực lại rất tự nhiên và tất nhiên bởi những con người này cùng chiến đấu, hi sinh vì một lí tưởng cao cả. Hai câu thơ mà chứa đựng, liên kết được nhiều hình ảnh sinh động:
Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn, thành đôi tri kỉ
Chính Hữu đã dùng một từ “cũ”, từ Hán Việt để diễn tả một tình cảm rất mới. Chữ “tri kỉ” đã tô đậm thêm sự sâu đằm, bền chặt của tình cảm ở đây. Thực chất của mối tri kỉ này là tình đồng chí. Chính vì thế, từ “đồng chí” được tác giả được tác giả tách riêng thành một dòng thơ. Đây là chi tiết nghệ thuật quan trọng. Nó chính là cái bản lề khép mở, nối kết hai phần của bài thơ.
Có thể xem dòng thơ hết sức ngắn này là một tiếng gọi tha thiết, trang nghiêm từ đáy lòng những người nông dân mặc áo lính vừa được gắn bó với nhau trong một quan hệ mới (Sau chữ “đồng chí” có dấu cảm thán). Muốn hiểu hết ý nghĩa của tiếng gọi đó, cần trả nó về hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Trước Cách mạng thành công – ở thời kì giác ngộ lí tưởng cộng sản, theo Đảng đoàn kết hi sinh giành quyền độc lập tự do; trong những năm đầu kháng chiến gian nan – khi toàn dân đang nhất tề đứng lên theo lời kêu gọi thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh “thà quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” – ở những năm tháng, những thời đIểm ấy, nghĩa đồng bào, đồng chí thật thiêng liêng và hết sức được trân trọng (Chữ “đồng chí” chúng ta dùng bây giờ hẳn khác). Tính chất thiêng liêng, niềm trân trọng này lại càng được nhân lên gấp bội đối với những người nông dân – vốn là những con người lam lũ, làm ăn cá thể, nay được Cách mạng giải phóng và cuộc đời được rọi chiếu trong ánh sáng thời đại mới. Vì thế, chúng ta thêm hiểu vì sao Chính Hữu lại đặt tên bài thơ của mình là Đồng chí mà không lấy một cái tên khác, chẳng hạn “đồng đội”. Quả thật, chữ “đồng chí” hàm nghĩa cao rộng hơn, mà cũng sâu hơn. Nghĩa đồng chí, một mặt, là cơ sở, là nền tảng; mặt khác, cũng là cốt lõi, là bản chất của tình đồng đội. Về cuối cuộc kháng chiến chín năm, khi chứng kiến chủ nghĩa anh hùng cao cả của quân đội ta trong chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử, Chính Hữu như nhận thức được rõ thêm, cụ thể thêm tình đồng đội:
Năm mươi sáu ngày đêm bom gầm pháo dội
Ta mới hiểu thế nào là đồng đội
Đồng đội ta
Là hớp nước uống chung
Nắm cơm bẻ nửa
Là chia nhau một trưa nắng, một chiều mưa
Chia khắp anh em một mẩu tin nhà
Chia nhau đứng trong chiến hào chật hẹp
Chia nhau cuộc đời, chia nhau cái chết
(Giá từng thước đất)
Đó là một bước cụ thể hóa tình đồng chí. Còn lúc này (1948) – ở buổi đầu kháng chiến – cái cần nhấn mạnh là sự tập hợp, là sự cùng chí hướng trong thử thách gian nan. Cái tên của bài thơ, sự tách riêng thành một dòng thơ của từ “đồng chí” mang ý nghĩa ấy.
Vừa dồn tụ cảm xúc ở sáu dòng thơ trước, dòng thơ chỉ một từ này đồng thời đóng vai trò mở chuyển cho cả phần sau. Đối với các nhân vật trữ tình (tôi và anh) từ “đồng chí” còn như khắc ấn một khái niệm mới mẻ mà cả phần sau của bài thơ là sự vỡ lẽ, sự nhận thức nhau rõ hơn để cảm thông, gắn bó với nhau máu thịt hơn. Đồng chí – ấy là gửi lại ruộng nương, từ biệt giếng nước gốc đa để cùng “ra lính” giữ gìn độc lập tự do của đất nước. Đồng chí– ấy là chịu chung “từng cơn ớn lạnh”, từng trận “sốt run người vừng trán ướt mồ hôi”. Đồng chí – ấy là sự sẻ chia và động viên nhau trong thiếu thốn của cuộc sống kháng chiến:
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay
Tình đồng chí thắm thiết khiến cho các anh nhìn thấu và thương nhau từ những chi tiết nhỏ nhất của đời sống. Điều đáng chú ý là bao giờ họ cũng nhìn bạn, nghĩ về bạn trước rồi sau dó mới nhìn mình, nghĩ về mình. Từ đầu đến cuối bài Đồng chí, trong cặp nhân vật trữ tình, bao giờ anh cũng xuất hiện trước, cũng đứng trước tôi (Lần 1: “Quê hương anh… Làng tôi”. Lần 2: “Anh với tôi đôi người xa lạ”. Lần 3: “Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh…”. Lần 4: “áo anh… Quần tôi…”). Cái “qui luật” trên bề mặt ngôn ngữ ấy phải chăng phản ánh một nét đẹp trong chiều sâu tình cảm: thương người như thể thương thân, trọng người hơn trọng mình. Nó trái hẳn với lối sống “tự kỉ trung tâm” của con người tư sản. Nó chứng tỏ niềm đồng cảm sâu sắc giữa những người cùng cảnh ngộ, cùng nghĩa vụ.
Nếu đầy đủ thương nhau đã quí. Nhưng càng gian khổ, càng thiếu thốn lại càng thương nhau, ấy mới là điều đáng quí hơn ở những người chiến sĩ cách mạng. Nhịp ngắt của đoạn thơ trên ngắn, chậm. Từng câu thơ gọn. Mỗi câu nêu một chi tiết hết sức cụ thể. Từng chi tiết cô gọn ấy cứ lần lượt khắc sâu vào lòng người đọc. Khắc sâu ấn tượng rồi để mở ra – mở ra biết mấy tâm tình, xúc cảm ở câu thơ cuối đoạn được trải dài hơn:
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay
Dường như đây là cao trào của cảm xúc yêu thương trong người chiến sĩ. Thương nhau vô cùng trong cử chỉ “tay nắm lấy bàn tay”. Nhưng cũng cứng rắn, nghị lực vô cùng bởi cử chỉ ấy chỉ có khi những người chiến sĩ đã ý thức đầy đủ về hoàn cảnh của đất nước kháng chiến, về nghĩa vụ cao cả của mình. Cử chỉ ấy dường như chứa đựng sự tự ý thức, tự nhận thức, bao hàm lời tự dặn mình và dặn dò nhau. Tình cảm không bồng bột mà đằm sâu.
Chính quá trình nhận thức rõ về tình đồng chí, chính bước phát triển cao của tình yêu thương lẫn nhau như trên đã dẫn đến đoạn kết thúc độc đáo:
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo
Ba câu thơ mà nói được rất nhiều điều. Đó là hoàn cảnh chuẩn bị chiến đấu – đặc điểm không gian và thời gian: đêm nay– rừng hoang – sương muối. Đó là tình đồng chí keo sơn trong gian khổ, là tinh thần sẵn sàng vào trận: “đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới”. Đó là tâm hồn đầy chất thơ của anh Vệ quốc quân và ý nghĩa cao đẹp của cuộc chiến đấu của chúng ta: “đầu súng trăng treo”.
Không phải ngẫu nhiên mà sau này Chính Hữu đặt tên cho một tập thơ của mình là Đầu súng trăng treo. Cũng không phải tự nhiên mà trên nhiều bìa sách, nhiều bức họa sách của Nhà xuất bản Quân đội nhân dân thường xuất hiện hình ảnh này. Nhà thơ đã sáng tạo được một hình ảnh thật độc đáo, giàu sức khái quát. Đầu súng – thể hiện của chiến tranh, của khói lửa; trăng treo – hình ảnh của thiên nhiên trong mát, của cuộc sống thanh bình. Sự kết hợp tự nhiên giữa đầu súng và trăng treo làm toát lên tâm hồn trong sáng,bay bổng của người chiến sĩ, làm toát lên ý nghĩa chân chính, cao cả của cuộc chiến tranh yêu nước. Chúng ta bền gan chiến đấu, gian khổ hi sinh chính vì vầng trăng ấy, vì cuộc sống thanh bình. Hình ảnh và nhịp điệu thơ này lơ lửng, sóng sánh, vừa tạo hình vừa thật gợi cảm. “Đầu súng trăng treo” có gian khổ nhưng cũng có niềm vui, vừa là thực vừa mang tính biểu tượng. Nó toát lên chất lãng mạn cách mạng đậm đà thật khó phân tích hết bằng lời.
Nhanh chóng vượt ra khỏi những cảm xúc lạc lõng buổi đầu, đến Đồng chí, Chính Hữu đã đóng góp cho nền thơ kháng chiến chống Pháp một bài thơ xuất sắc về người chiến sĩ quân đội nhân dân Việt Nam. Nếu như trước đó chưa đầy một năm, anh bộ đội kháng chiến còn bước vào thơ Chính Hữu với “đôi giầy vạn dặm”, chiếc “áo hào hoa” thì giờ đây anh xuất hiện trong Đồng chí với chiếc áo rách vai, chiếc quần có vài mảnh vá, với đôi chân không giày và với tâm hồn mộc mạc, đằm thắm, đầy mến thương trong gian khổ. Đồng chí cũng thể hiện rõ phong cách thơ độc đáo của Chính Hữu: ít lời để gợi nhiều ý, ngòi bút biết tinh lọc, cô đúc trong từng chi tiết, từng hình ảnh để vừa cụ thể, vừa giàu tính khái quát, câu thơ chắc gọn bên ngoài lại ẩn chứa một tâm hồn thiết tha, da diết tự bên trong.
 
Tình Đồng Chí _CAO MINH

Chính Hữu và bài thơ “Đồng chí”

01/05/2007 15:42

Chính Hữu tên là Trần Đình Đắc quê ở Can Lộc- Nghệ Tĩnh. Ông sáng tác ít nhưng để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng bạn đọc. Bất kể ai trong chúng ta đều rất quen thuộc với những vần thơ mộc mạc giản dị ở bài “Đồng chí”.
Chính Hữu tên là Trần Đình Đắc quê ở Can Lộc- Nghệ Tĩnh. Ông sáng tác ít nhưng để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng bạn đọc. Bất kể ai trong chúng ta đều rất quen thuộc với những vần thơ mộc mạc giản dị ở bài “Đồng chí”.

Vậy bài thơ “Đồng chí” ấy được ra đời trong hoàn cảnh nào? Đó là câu hỏi không ít người đặt ra khi đọc bài thơ này. Sau đây chúng ta hãy cùng lắng nghe tâm sự của Chính Hữu qua từng vần thơ.
Vào quân đội, ông làm chính trị viên đại đội, đơn vị toàn là dân Hà Nội, học sinh sinh viên thành thị, mãi tới khi lên Việt Bắc mới thực sự tiếp xúc với nông dân, lắng nghe tâm sự của họ và dần dần ông đã tìm cho mình một cách nhìn khác trung thực hơn. Đó là cơ sở để ông có thể cất lên những vần thơ mộc mạc về những con người nơi “nước mặn đồng chua” và “đất cày lên sỏi đá”. Chính Hữu trực tiếp tham gia chiến dịch ở Thái Nguyên. Đơn vị của ông có nhiệm vụ bảo vệ cơ quan đầu não kháng chiến bám sát địch không cho chúng tiến sâu vào căn cứ của ta. Vì truy kích địch thường phải cắt rừng đi tắt nên cấp dưỡng theo không kịp, nhiều khi phải nhịn đói, ăn quả, củ rừng. Ông bị sốt rét ác tính nhưng không có thuốc men gì cả. Đơn vị vẫn hành quân và để lại một đồng chí chăm sóc. Sự ân cần của đồng chí đó khiến ông nhớ đến những lần đau ốm được mẹ được chị chăm sóc. Đấy là những gợi ý đầu tiên cho bài thơ “Đồng chí”. Tất cả những gian khổ thiếu thốn mà người lính phải chịu đựng trong bài đều xuất phát từ chính cuộc đời thực.
Kết thúc bài thơ là hình ảnh đẹp và lãng mạn “đầu súng trăng treo”. Buổi đêm rừng núi Việt Bắc rét mướt, sương muối thấm lạnh tê tái, còn chưa kể đến các loài thú độc, hổ báo rắn rết. Đơn vị phải phân công nhau canh suốt đêm ở các vị trí khác nhau. Bầu trời miền rừng núi bao giờ cũng có cảm giác trong hơn, rộng hơn và thấp hơn so với bầu trời các miền khác. Lúc ấy ánh trăng thật trong và thật sáng. Người lính canh giữa ánh trăng bao giờ nòng súng cũng hướng lên chuẩn bị sẵn sàng. Họ thường đứng hai người cạnh nhau. Khi đó người đồng chí sẽ có ba người bạn: Người đồng chí đứng bên cạnh khẩu súng và ánh trăng. Ba hình ảnh đó tạo nên cái khung của hình ảnh “đầu súng trăng treo”.
Nhà thơ hoàn toàn không có ý tưởng từ trước, câu thơ viết ra một cách tự nhiên. Ông thường hay đi kiểm tra và thấy hình như luôn luôn có mảnh trăng treo trên đầu ngọn súng. Hình ảnh ấy tạo một cảm giác kì lạ, như mảnh trăng luôn đung đưa trên ngọn súng. Không phải là đầu súng rung rung mà chính là cái cảm giác mảnh trăng đung đưa như quả lắc trên bầu trời. Khi viết, trong ông sống lại hình ảnh ấy và câu thơ năm chữ hiện ra tức thì “đầu súng mảnh trăng treo” nhưng sau này bỏ chữ “mảnh” đi để tạo ra câu thơ bốn chữ “đầu súng trăng treo” như nhịp một, hai vừa cân đối giữa hai hình ảnh vừa là nhịp lắc của đồng hồ. Mặt khác nhà thơ muốn dùng hỉnh ảnh này để nói lên nhịp đập “trái tim đồng chí”. Trong đêm thanh vắng người nọ sẽ nghe rõ tiếng trái tim người kia đập… Nhịp một, hai của mặt trăng “lắc” trên đầu súng cũng là nhịp tim chan chứa của hai người lính cảm nhận được nơi nhau. Nhịp tim đó gắn với họ làm một, làm nên “con người đồng chí” với nhịp đập nhanh hơn, nồng nàn hơn. Nhịp “một, hai” của ánh trăng cũng chính là nhịp đập vĩnh cửu của tình đồng chí.
Đó cũng là ý nghĩa mà ông muốn gửi gắm xuyên suốt cả bài thơ.
TÙY ANH

Tóm tắt Tiểu sử nhà thơ Chính Hữu

Dưới đây là đoạn tài liệu được trích trong BST Tiểu sử nhà thơ Chính Hữu:
 Chính Hữu (15 tháng 12 năm 1926[1] - 27 tháng 11 năm 2007[2]), tên thật là Trần Đình Đắc, là một nhà thơ Việt Nam, nguyên Đại tá, Phó cục trưởng cục Tuyên huấn thuộc Tổng cục chính trị, Quân đội Nhân dân Việt Nam, nguyên Phó tổng thư ký Hội Nhà văn Việt Nam. Ông được Nhà nước Việt Nam trao tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học vànghệ thuật đợt hai (năm 2000).
Ông sinh tại Vinh (Nghệ An), tuy nhiên, quê của ông lại là huyện Can Lộc nay là huyện Lộc Hà, tỉnh Hà Tĩnh.Ông mất năm 2007 Ông học tú tài (triết học) ở Hà Nội trước cách mạng tháng tám. Năm 1946, ông gia nhập Trung đoàn Thủ Đô và hoạt động trong quân đội suốt hai cuộc kháng chiến chống Pháp và kháng chiến chống Mỹ. Ông còn làm chính trị viên đại hội (chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954). Ông làm thơ từ năm 1947 và hầu như chỉ viết về người lính và chiến tranh. Tập thơ Đầu súng trăng treo (1966) là tác phẩm chính của ông. Bài thơ "Đồng chí" được in vào tháng 2-1948. Thơ ông không nhiều nhưng lại có nhiều bài đặc sắc, cảm xúc dồn nén, ngôn ngữ và hình ảnh chọn lọc, hàm súc. Ông đã sáng tác bài thơ "Đồng chí" mà sau này đã được phổ nhạc cho bài hát "Tình đồng chí". Bài hát đã khơi dậy những xúc động mãnh mẽ trong lòng nhiều thế hệ. Ông mất ngày 27/11/2007 tại Bệnh viện Hữu Nghị - Hà Nội..
• Đầu súng trăng treo (tập thơ, Nhà xuất bản Văn học, 1966)
• Thơ Chính Hữu (tập thơ, Nhà xuất bản Hội nhà văn, 1997)
• Tuyển tập Chính Hữu (Nhà xuất bản Văn học, 1998)
Ngoài bài thơ Đồng chí được nhạc sỹ Minh Quốc phổ nhạc, một số bài thơ khác của ông cũng là nguồn cảm hứng cho các nhạc sỹ khác sáng tác các bài hát nổi tiếng như bài "Ngọn đèn đứng gác" (nhạc sỹ Hoàng Hiệp), "Bắc cầu" (nhạc sỹ Quốc Anh), "Có những ngày vui sao" (nhạc sỹ Huy Du) [3].
Một số trích đoạn nổi tiếng:
Bài Ngày về:
...
Nhớ đêm ra đi, đất trời bốc lửa
Cả kinh thành nghi ngút cháy sau lưng
Những chàng trai chưa trắng nợ anh hùng
Hồn mười phương phất phơ cờ đỏ thắm
Rách tả tơi rồi đôi giày vạn dặm
Bụi trường chinh phai bạc áo hào hoa...
Bài Đồng chí:
...
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay...
Mời quý thầy cô giáo và các em học sinh xem tiếp nội dung tài liệu này trong bộ sưu tập Tiểu sử nhà thơ Chính Hữu. Ngoài ra, có thể tham khảo thêm nhiều tài liệu khác cùng chủ đề trong bộ sưu tập hoặc download về làm tài liệu tham khảo bằng cách đăng nhập vào hệ thống eLib.vn của chúng tôi.
Kết quả hình ảnh cho hình ảnh chính hữu

Vĩnh biệt tác giả bài thơ “Đồng chí”

11:01 28/11/2007
Nhà thơ Chính Hữu đã lặng lẽ ra đi tại Bệnh viện Hữu nghị Hà Nội chiều 27/11/2007. Từ lâu ông không xuất hiện trên văn đàn, nhưng tên tuổi ông - chỉ với hai tập thơ: Đầu súng trăng treo và Thơ Chính Hữu - đã đi vào lịch sử văn học Việt Nam.
Sinh năm 1926 tại Vinh, Chính Hữu - tên thật là Trần Đình Đắc - tham gia quân đội từ ngày đầu kháng chiến.
Những bài thơ hay nhất của ông cũng là những bài thơ ca ngợi người lính vào loại hào hùng nhất trong thơ ca VN hiện đại. Từ "Những chàng trai chưa trắng nợ anh hùng - Hồn mười phương phất phơ cờ đỏ thắm - Rách tả tơi rồi đôi hài vạn dặm - Bụi trường chinh phai bạc áo hào hoa" (Ngày về) đến "Đêm nay rừng hoang sương muối - Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới - Đầu súng trăng treo" (Đồng chí).
Ông được Nhà nước tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt 2 về văn học nghệ thuật.
Lễ truy điệu và an táng ông sẽ diễn ra ngày 30/11
Theo Việt Hoài (Tuổi trẻ Online)

Thương tiếc Chính Hữu, nhà thơ - chiến sĩ

Thứ Sáu, 17/09/2010, 13:00:00
Nói đến thơ ca kháng chiến và cách mạng, không thể không nhắc đến Chính Hữu với những bài thơ nổi tiếng như Ðồng chí, Giá từng thước đất, Thư nhà, Ngọn đèn đứng gác...
Ông là một trong những gương mặt tiêu biểu của thế hệ nhà thơ trưởng thành sau Cách mạng Tháng Tám nói chung và lớp nhà văn - chiến sĩ nói riêng, góp phần làm nên thành tựu của nền thơ ca Việt Nam hiện đại.
Nhà thơ Chính Hữu tên thật là Trần Ðình Ðắc, sinh ngày 15-12-1926, tại thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An. Quê gốc ông ở huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh. Trước Cách mạng Tháng Tám, ông học tú tài (triết học) ở Hà Nội. Ông từng tham gia Trung đoàn Thủ đô vào tháng 12-1946, làm chính trị viên đại đội trong chiến dịch Ðiện Biên Phủ năm 1954. Bắt đầu sáng tác từ thời kỳ đầu kháng chiến, cái tên Chính Hữu được bạn đọc biết đến lần đầu khi ông cho in bài thơ Ðồng chí vào năm 1948, trên tờ  Sự thật - cơ quan ngôn luận của Ðảng Cộng sản Việt Nam.
Thơ Chính Hữu, cũng như cuộc đời ông, hình thành hai giai đoạn ghi dấu của hai chặng đường lớn của lịch sử dân tộc: trong chiến tranh và khi hòa bình lập lại. Ở chặng đường đầu, thơ ông là bài ca chân chất tuyệt đẹp về người lính. Họ là những anh vệ quốc đoàn, những chiến sĩ Ðiện Biên... Những con người vừa rời cuốc cày bước vào chiến trận được nhà thơ khắc họa ở nét đời thường, đời sống tình cảm mộc mạc mà chân thành, sâu lắng với đồng đội, với quê hương:
Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau
Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Ðêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ...

... Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Nụ cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay...

                  (Ðồng chí)
Một lá thư nhà hôm nay ta đọc
Trong chiến hào chuẩn bị tiến công
Ta mới hiểu thêm từng chữ, từng dòng...
... Hai tiếng quê hương bỗng sao thắm thiết...

                  (Thư nhà)
Có thể nói, Chính Hữu là một trong số ít nhà thơ xây dựng thành công chân dung anh Bộ đội Cụ Hồ trong kháng chiến. Thơ ông mang vẻ đẹp ở sự chân thực, giản dị của hình ảnh, nội tâm nhân vật lẫn sự tiết chế, kiệm lời của ý tứ, ngôn từ nhưng lại có sức khái quát, ngân rung lay động lòng người. Ðiều đó, có lẽ cũng là bởi ông mang tâm thế của người trong cuộc, với hạnh phúc lớn lao được hòa đồng:
Sung sướng bao nhiêu
Tôi là đồng đội
Của những người đi vô tận hôm nay

               (Ðường ra trận)
Một số bài thơ nổi tiếng của ông từng được phổ nhạc, trở thành bài hát quen thuộc một thời như: Ðầu súng trăng treo, Ngày về, Ngọn đèn đứng gác.
Sau chiến tranh, viết về cuộc sống đời thường, thơ Chính Hữu vẫn ắp đầy hoài niệm. Ông nhớ về thời niên thiếu đã qua, nhớ về những đồng đội đã nằm lại trên chiến trường lửa đạn, những cô gái công binh Trường Sơn... Nhưng, hồi tưởng quá khứ đồng thời cũng là để nghĩ suy, chiêm nghiệm. Thơ ông vì thế thiên về khái quát, mang tính triết lý, tổng kết. Những ngày niên thiếu, Lá rụng về cội, Tiếng ngân... và đặc biệt Người bộ hành lặng lẽ ông viết khi ở tuổi 70 là bài thơ tiêu biểu cho phong cách ấy, như một sự đúc kết sâu sắc của cuộc đời một con người hơn nửa thế kỷ cầm súng và cầm bút muốn gửi gắm lại cho thế hệ con cháu, mai sau: đi bộ, để nghĩ được nhiều hơn, để đếm được thời gian đang bước, "thấy được sự khác nhau giữa các mùa hạ", "thấy được sự khác nhau giữa các mùa đông"...
Chính Hữu từng quan niệm: "Thơ phải ngắn ở câu chữ, nhưng phải dài ở sự ngân vang". Thơ của ông thể hiện điều đó. Và sự "xuất hiện" của con người thi nhân ở ông cũng lặng lẽ, khiêm nhường, bởi tính từ khi bài thơ  Ðồng chí nổi tiếng đầu tiên ra đời (1948), đến tập thơ cuối cùng Tuyển tập Chính Hữu  (NXB Văn học 1998) xuất bản, tất cả chỉ có ba tập thơ với khoảng hơn 50 bài được công bố. Ðó là con số không lớn của cả cuộc đời hơn 50 năm cầm bút. "Quý hồ tinh bất quý hồ đa", sự nghiệp sáng tác của Chính Hữu đã chứng minh điều đó, khi tên tuổi ông trở thành không thể thiếu trong đội ngũ nhà văn - chiến sĩ với một phong cách riêng không trộn lẫn. Với những đóng góp quan trọng cho thơ ca cách mạng Việt Nam, ông vinh dự được nhận Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học - nghệ thuật lần thứ 2 (năm 2000) do Ðảng và Nhà nước trao tặng.
Ngày 27-11 vừa qua, nhà thơ Chính Hữu đã qua đời trong niềm tiếc thương vô hạn của gia đình, bạn bè, đồng nghiệp và người đọc nhiều thế hệ. Một "cây lớn" của nền văn học kháng chiến đã ra đi, nhưng những vần thơ sáng đẹp của ông vẫn luôn là bài ca bất hủ về hình ảnh người chiến sĩ, hình ảnh một dân tộc, một thời đại gian khổ,  hào hùng và lãng mạn còn mãi với thời gian:
Ðêm nay rừng hoang sương muối
Ðứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Ðầu súng trăng treo...
PHƯƠNG NGUYỄN
Theo

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

TT&HĐ I - 9/d

MUÔN MẶT ĐỜI THƯỜNG III/104

MỌC CÁNH