CÒN ĐÓ TÌNH THƯƠNG 26
(ĐC sưu tầm trên NET)
“Trong chiến tranh thế giới thứ hai, 6
triệu người Do-thái đã bị phát xít giết hại tại châu Âu. Có một nước là
nơi cứu nạn của người Do-thái, và là một nước Hồi giáo, đó là Albania.
Albania là nơi người Hồi giáo và người Do-thái sống hàng thế kỷ cạnh nhau trong hòa bình. Năm 1943 phát xít Đức vào Albania và đòi người dân Albania phải nộp danh sách những người Do-thái, nhưng họ đã không nộp. Người Do-thái ở khắp nơi đã tìm đến Albania kiếm nơi ẩn náu. Người Albania có một nguyên tắc danh dự tên là ‘besa’, là ‘giữ lời’. Nguyên tắc này đã thúc đẩy người dân Albania giúp đỡ người gặp hoạn nạn.
Albania là nước duy nhất trong châu Âu mà sau chiến tranh thì số lượng người Do-thái tăng lên 10 lần.
Sau chiến tranh, khi được hỏi tại sao lại giúp đỡ những người Do-thái, thì người Albania trả lời rằng họ chỉ làm những gì mà họ cần phải làm.”
–– Bản dịch của chị Nguyễn Thanh Mai
CUỘC TRỐN CHẠY LỊCH SỬ!
78 năm trước, một nữ giáo sĩ người Anh đã dẫn hơn 100 trẻ mồ côi chạy trốn sự truy đuổi của quân Nhật suốt chặng đường dài. Đó là cuộc hành trình của nghị lực phi thường và tình yêu vô bờ của cô dành cho lũ trẻ.
Dưới sự che chở của cô, không một đứa trẻ nào bị bỏ lại trong suốt hành trình dài đầy hiểm nguy đó. Người phụ nữ tuyệt vời này là Gladys Aylward.
Irena Sendler - Người phụ nữ cứu sống 2.500 trẻ em Do Thái khỏi phát xít Đức
Quang Đào
22/07/2019 18:13
Bất chấp nguy hiểm, an toàn và tính mạng của bản thân, Irena Sendler - một phụ nữ Ba Lan đã liều mình đi sâu vào vòng vây của quân Phát xít Đức để cứu 2.500 trẻ em Do Thái bằng những cách vô cùng đặc biệt.
Mật vụ ngăn chặn Thế chiến II | |
Chiếc máy mã hóa từ Thế chiến II được bán với giá kỷ lục |
Sinh ra tại Ba Lan vào ngày 15/2/1910,
Irena Sendler, hay còn được biết đến là Irena Krzyżanowska lớn lên với
những lời dạy bảo của cha mình về giá trị của việc giúp đỡ mọi người,
bất kể tôn giáo và quốc tịch. Cha bà Irena là bác sĩ Stanisław
Krzyżanowski, từng điều hành một bệnh viện ở ngoại ô Otwock.
Irena Sendler - người hùng dân tộc của Ba Lan. (Nguồn: Getty Images) |
"Lí do tôi cứu những đứa trẻ vì chúng
gắn liền với gia đình tôi, với tuổi thơ tôi. Tôi được cha dạy rằng chỉ
cần ai đó cầu cứu sẽ có những cánh tay giúp đỡ họ, từ sâu thẳm trái tim,
không phân biệt tôn giáo hay quốc tịch" - bà Irena chia sẻ.
Vì vậy, bất chấp việc là một phụ nữ Công
giáo, bà đã tự lòng cam kết phải giúp đỡ các gia đình Do Thái bằng mọi
cách có thể, nhất là lúc mạng sống của họ bị đe dọa khi Đức quốc xã lập
nên Khu tập trung Do Thái Warsaw (Warsaw Ghetto)
Một trái tim nhân hậu
Là nhân viên của Sở Phúc lợi Warsaw (Ba
Lan) phụ trách các căng-tin của các quận trong thành phố, bà Irena
Sendler đã có điều kiện gần gũi những gia đình nghèo Do Thái. Trước
chiến tranh, các căng-tin này chuyên chu cấp bữa ăn, trợ giúp tài chính
và những dịch vụ khác cho trẻ mồ côi, người già và người nghèo khó.
Năm 1939, khi Đức quốc xã xâm chiếm Ba
Lan và bắt đầu sàng lọc người Do Thái, dù bị cấm nhưng Irena vẫn tổ chức
được các căng-tin quyên góp quần áo, thuốc men và tiền bạc cho người Do
Thái. Ba năm sau, quân phát xít Đức quyết định dồn 450.000 người Do
Thái ở Ba Lan vào 16 khu nhà tại Warsaw Ghetto.
Irena Sendler thời còn trẻ. (Nguồn: Wikimedia Commons) |
Cuối năm 1942, Irena Sendler tham gia
phong trào Zegota (Hội đồng trợ giúp người Do Thái) do chính phủ Ba Lan
lưu vong thành lập với mục đích giải cứu người Do Thái Ba Lan. Trong
những năm 1942 và 1943, bà Sendler và một nhóm nhỏ nhân viên xã hội khác
đã giúp trẻ em Do Thái trốn thoát.
Vượt qua lệnh cấm của Đức quốc xã, với
tư cách nhân viên xã hội, Irena được quyền đi lại tự do trong khu ghetto
và tiếp tục giúp đỡ những gia đình Do Thái ở đây theo nhiều cách khác
nhau, nhất là giúp đỡ các em bé, những người còn ngây thơ và không biết
gì đến hậu quả của chiến tranh. Nhớ lại thời kỳ này, Irena từng viết:
“Lúc đầu tôi chủ yếu hành động theo cảm tính: Nhận thức được sự khủng
khiếp của cuộc sống sau những bức tường, tôi cố giúp những người bạn
cũ”.
Một trong những nhiệm vụ hàng đầu của
Zegota là giải thoát những đứa trẻ trong ghetto trước khi phát xít Đức
đốt bỏ khu này, đồng nghĩa với việc chúng sẽ theo cha mẹ bị lùa lên các
toa tàu chở gia súc để đưa đi “lao động” ở miền Đông, nhưng thực ra là
đưa về Treblinka, một ngôi làng nhỏ ở Mazovia, nơi Đức quốc xã đã tổ
chức các trại tử thần như một phần của chiến dịch Reinhard Aktion - mật
mã của cuộc tàn sát người Do Thái ở Ba Lan.
Cuộc giải cứu bí mật
Để giải cứu những đứa trẻ Do Thái, Irena
cùng đồng đội đã sử dụng nhiều cách khác nhau để đưa các em ra ngoài.
Bà dặn lũ trẻ giả vờ bị bệnh và di chuyển chúng tới các bệnh viện ngoài
khu ghetto.
Tuy vậy, đầu năm 1943, Đức quốc xã bắt
đầu đóng cửa các ghetto và cấm luôn các nhân viên xã hội. Canh gác trở
nên nghiêm ngặt hơn. Irena Sendler liền xoay xở để trở thành nhân viên y
tế bằng giấy tờ giả của Sở Kiểm dịch Warsaw. Irena và cộng sự của mình
gần như được vào trại hợp pháp.
Bà Irena Sendler cùng với những "đứa trẻ" được bà cứu sống trong Thế chiến II. (Nguồn: Wikipedia) |
Đến lúc này, Irena đành phải sử dụng
tính sáng tạo của mình. Bà giấu lũ trẻ bên trong những chiếc xe cấp cứu,
trong những quan tài, vali, và cốp xe ô tô. Những đứa trẻ vài tháng
tuổi được cho uống thuốc ngủ và xách ra ngoài bằng những cái túi có đục
lỗ để tránh bị ngạt. Những đứa lớn hơn được dẫn ra qua đường cống ngầm,
nhiều đứa được ném qua hàng rào có người chờ đón sẵn.
Với Irena, khi đó là một bà mẹ trẻ, việc
thuyết phục các bậc cha mẹ chia ly con mình là một nhiệm vụ đau đớn và
nặng nề. Tìm được các gia đình sẵn lòng cưu mang các em và như thế, đặt
cả gia đình họ vào vòng mạo hiểm, cũng là một việc không đơn giản. Tuy
nhiên, bà đã làm được những điều tưởng như không thể.
Bằng những hành động có phần liều lĩnh
này, Irena Sendler đã cứu giúp được cho hơn 2.500 đứa trẻ Do Thái trốn
thoát khỏi khu Warsaw Ghetto. Sau đó, chúng được cấp giấy tờ giả, với
lai lịch mới là những đứa trẻ Kitô giáo và đưa tới những gia đình Ba
Lan, các cô nhi viện hay tu viện; nơi chúng sẽ được nhận quần áo và
những hỗ trợ vật chất từ Zegota.
Về tên và số liệu về tất cả trẻ em được
cứu, Irena ghi lại trong hai danh sách được viết trên những tờ giấy ăn
mỏng dính. Bà cho hai danh sách vào hai cái chai rồi chôn sâu trong một
khu vườn. Đó là niềm hi vọng của bà về sự đoàn tụ gia đình của những đứa
trẻ Do Thái.
Thế nhưng, không được bao lâu, ngày
20/10 năm 1943, hành động của bà Sendler đã bị phát hiện, bà bị Gestapo
bắt và giam giữ tại nhà tù Piawiak, được coi là chốn “tử vì đạo” của
hàng trăm người kháng chiến Ba Lan. Bà bị chúng tra hỏi và tra tấn dã
man, bị gãy cả hai cánh tay và chịu nhiều vết thương khác. Tuy vậy, bà
một mực không chịu hé răng về những hoạt động của mình hay của Zegota.
Không moi móc được thông tin, bà Sendler bị chúng kết tội tử hình.
May mắn thay, những người đồng đội của
bà đã kịp mua chuộc được tên đao phủ và giúp bà trốn thoát trên đường
đến địa điểm hành hình. Thoát chết, bà lui vào ẩn náu nhưng vẫn tiếp tục
cứu giúp những người Do Thái với một mật danh khác.
Sau khi chiến tranh kết thúc, Irena đã
cung cấp chiếc lọ đựng danh sách những đứa trẻ được giải cứu cho Ủy ban
cứu nạn người Do Thái để giúp họ đoàn tụ. Buồn thay, hầu hết những đứa
trẻ không được nhìn thấy cha mẹ mình một lần nữa...
Người hùng dân tộc
Không như nhà tư bản người Đức
O.Schindler, người cứu sống hơn 1.000 trẻ Do Thái bằng cách tuyển dụng
chúng vào nhà máy của mình ở Krakow và được mọi người biết đến nhờ vào
một bộ phim đoạt giải của đạo diễn lừng danh Steven Spielberg, chuyện
của bà Sendler vẫn “nằm im trong bóng tối”. Mãi đến năm 1999, khi một
nhóm học sinh ở trường Kansas (Mỹ) tình cờ phát hiện ra câu chuyện và
viết thành một vở kịch mang tên “Cuộc sống trong cái lọ”, câu chuyện anh
hùng của bà Irene Sendler mới được biết đến.
Năm 2003, bà Sendler được nhận giải
thưởng Jan Karski dành cho sự quả cảm (được đặt theo tên nhà hoạt động
kháng chiến người Ba Lan). Năm 2007, bà được Quốc hội Ba Lan vinh danh
là công dân danh dự, người hùng dân tộc. Cùng năm, bà cũng được trao
giải Nobel Hòa bình vì đã cứu sống 2.500 đứa trẻ Do Thái.
Poster bộ phim Hollywood về cuộc đời bà Irena Sendler. |
Tổng thống Lech Kaczynski gọi bà Sendler
là một nữ anh hùng tuyệt vời và xứng đáng được cả đất nước kính trọng.
Tuy nhiên, bà Sendler khẳng định rằng mình chẳng làm gì đặc biệt. “Tôi
không phải là một anh hùng. Ngược lại thì đúng hơn. Tôi đã có thể làm
hơn thế. Tôi luôn bị cắn rứt lương tâm vì đã cứu được quá ít người. Sự
nuối tiếc này sẽ theo tôi cho đến lúc chết”.
Trả lời phỏng vấn báo giới, bà nói:“Tôi
được dạy dỗ phải cứu sống một người nào đó khi họ sắp bị chết đuối cho
dù họ mang quốc tịch hoặc tôn giáo gì”. Bà cho rằng vinh dự này lẽ ra
phải dành cho toàn nhóm Zegota - những người đã không còn sống để chứng
kiến sự kết thúc của phát xít Đức. Họ đã trả giá cả cuộc đời mình cho
việc cứu người.
Vào ngày 12/5/2008, Irena Sendler đã
trút hơi thở cuối cùng ở tuổi 98 tại thành phố Warsaw. Người Mỹ đã vinh
danh bà bằng bộ phim “The Courageous Heart of Irena Sendler” (Trái tim
dũng cảm của Irena Sendler) nhưng tiếc thay bà đã không kịp xem.
Con tàu Mỹ thần kỳ cứu 14.000 người Bắc Hàn vào đêm Giáng sinh
Hơn 8.000 người Do Thái đã được bác sĩ Lazowski cứu sống như thế nào?
Cập nhật lúc 09:55, Thứ Tư, 26/10/2016 (GMT+7)
Nói
đến Chiến tranh thế giới thứ 2, người ta lại nhớ đến tội ác tày
trời của Đức quốc xã với vụ thảm sát kinh hoàng mang tên
Holocaust.
Cuộc diệt chủng ghê tởm
nhất trong lịch sử nhân loại khiến 6 triệu người Do Thái bị thiệt
mạng, chưa kể 5 triệu nạn nhân khác không phải người Do Thái. Nhưng
ít người biết rằng có một vị bác sĩ được xem như là một “Schindler của
Ba Lan” đã cùng đồng nghiệp tạo ra dịch sốt phát ban giả để đánh
lừa Đức quốc xã Đức và cứu sống hơn 8.000 người. Công lao ấy của ông
mãi mãi được hậu thế ghi nhớ…
Eugene Lazowski là ai?
Eugene Lazowski sinh năm 1913 tại
Czestochowa, một thành phố nhỏ trên bờ sông Warta ở miền nam Ba Lan.
Trước khi Thế chiến 2 diễn ra, Lazowski theo học và được cấp bằng
y khoa tại Đại học Jozef Pilsudski tại Warsaw, phục vụ trong quân đội
Ba Lan với hàm thiếu úy trong đơn vị huấn luyện của Hội Chữ thập
đỏ, sau đó trở thành bác sĩ quân y trong quân đội Ba Lan.
Sau khi Đức chiếm đóng Ba Lan, Lazowski
từng có thời gian sống trong trại tù binh trước khi được đoàn
tụ cùng vợ và con gái tại Rozwadow. Hành động anh hùng của
Lazowski bắt đầu từ khi ông giảng dạy trong trường y cùng với
đồng nghiệp, bác sĩ Stanislaw Matulewicz. Cả hai đã sử dụng ngay
phát minh của Matulewicz cho dự án táo bạo này. Theo đó, những
người khỏe mạnh được tiêm vắcxin, nhưng khi thử test lại bị dương
tính với sốt phát ban (nhưng thực tế không hề mang bệnh). Hành động
nói trên đã tạo ra một đợt bùng phát dịch sốt phát ban giả
(Ofepidemic typus) ngay bên trong và khu vực lân cận thị trấn
Rozwadow (nay là một quận của thành phố Stalowa Wola, thuộc tỉnh
Podkarpackie, miền đông nam Ba Lan), nơi Đức quốc xã từng kiểm
soát. Hành động này đã cứu sống hơn 8.000 người Do Thái gốc Ba Lan
thoát khỏi cái chết trong các trại tập trung Holocaust.
Những người được Lazowski cứu sống đang bị lính Đức xua tới nơi cách lý FLECKFIEBER. Ảnh: T. L |
Khi Chiến tranh thế giới thứ 2 kết
thúc, năm 1958 bác sĩ Lazowski di cư sang Mỹ theo học bổng của Quỹ
Rockefeller. Năm 1976, ông trở thành giáo sư nhi khoa của Đại học
Illinois. Cũng trong giai đoạn này, ông đã cho ra mắt hồi ký mang
tên Prywatna wojna (Cuộc chiến cá nhân), sách được tái bản nhiều
lần, được dựng thành phim. Cuối thập niên 80, Lazowski nghỉ hưu,
qua đời năm 2006 tại Eugene, Oregon, nơi ông đã sống những năm cuối
đời bình yên cùng con gái duy nhất của mình.
Bí quyết tạo dịch sốt phát ban giả của Lazowski
Bác sĩ Stanislaw Matulewicz phát hiện
thấy việc chủng ngừa cho một người khỏe mạnh một liều vắcxin vi
khuẩn chết, người đó sẽ có kết quả test dương tính sốt phát ban mà
không hề có triệu chứng. Từ phát hiện của đồng nghiệp, bác sĩ Lazowski
đã ấp ủ kế hoạch bí mật và lập phương án chi tiết để cứu người
dân của hàng chục ngôi làng gần thị trấn Rozwadow và Zbydniow
khỏi bị thiệt mạng, đồng thời sử dụng vũ khí này để tấn
công lại bọn phát xít Đức.
Chuyện bắt đầu từ khi một người đàn
ông đến gặp Lazowski cho hay, hàng nghìn người Ba Lan đang bị phát
xít Đức ép lao động khổ sai. Bản thân anh ta được phép nghỉ 14
ngày về thăm gia đình, thời gian nghỉ gần hết và thực sự tuyệt
vọng đến nỗi muốn tự tử, muốn bác sĩ xác nhận mắc bệnh nghiêm trọng để
không phải quay lại trại. Nhân sự kiện trên, hai bác sĩ Lazowski và
Matulewicz đã quyết định giúp đỡ người đàn ông thoát nạn bằng cách
tiêm loại vắcxin nói trên.
Sau đó, các bác sĩ Đức quốc xã đã
lấy mẫu máu của người đàn ông này và gửi cho một phòng thí nghiệm
của Đức để kiểm tra. Ngay lập tức, họ nhận được kết quả qua bức
điện "dương tính Weil-Felix", tức là tù nhân này bị nhiễm bệnh sốt
phát ban. Bức điện được lan truyền trong hàng ngũ chóp bu Đức quốc
xã. Chúng nghĩ rằng bệnh truyền nhiễm đã xuất hiện, trước sau
người đàn ông này sẽ là vật mang bệnh lan truyền cho các tù
nhân còn lại. Tuy dương tính với mầm bệnh nhưng tù nhân lại không đổ
bệnh hay bị ốm. Đây là điều không tưởng đối với chính người trong
cuộc, nó có tác dụng không khác gì giả dược, nếu có ốm cũng
chỉ là trạng thái "vờ" nhưng họ lại bị người thân xa lánh,
thậm chí còn bị ngược đãi nên cuối cùng "dịch giả" đã thành
công ngoài ý muốn.
Vào
thời gian này, thử nghiệm sốt phát ban phổ biến nhất vẫn là phép
thử có tên Weil-Felix. Dựa trên nghiên cứu từ năm 1916 cho biết, các
kháng thể được sản xuất bởi hệ thống miễn dịch có thể hưởng ứng với
nhiễm trùng sốt phát ban, đồng thời gây phản ứng với Proteus OX-19,
một chủng khuẩn thủ phạm gây nhiễm trùng đường tiết niệu. Sau khi có
được kết quả, Lazowski đã quyết định dùng vắcxin để tạo ra
trận dịch có quy mô rộng lớn. Ngay trong thời gian đang nghỉ phép,
Lazowski đã làm cho nhóm bệnh nhân không phải người Do Thái xuất
hiện các triệu chứng tương tự như giai đoạn đầu của bệnh sốt phát ban
như: sốt, ho, phát ban và đau… bằng cách tiêm cho họ vi khuẩn
Proteus OX-19, dưới tên gọi Chương trình thử nghiệm PST hay Liệu
pháp kích thích protein (Protein Stimulation Therapy).
Do dịch bệnh lan rộng, các bác sĩ cấp
cao của Đức đã tới thăm vùng dịch bệnh. Tại đây, Lazowski đã tập
hợp những bệnh nhân ốm yếu nhất, tất cả đã được tiêm vi khuẩn
Proteus OX-19. Sợ bị nhiễm trùng, các bác sĩ của Đức quốc xã đã
tiến hành một vài xét nghiệm chóng vánh và nhanh chóng rời khỏi
khu vực cách ly có tên FLECKFIEBER mà Lazowski và Matulewicz đã
thiết lập sẵn. Còn đối với những người Do Thái, FLECKFIEBER lại
là thiên đường, họ được Lazowski bảo trợ bằng công cụ dịch bệnh
giả mà không hề bị phát hiện, và quan trọng hơn, không phải quay
trở lại trại tập trung nữa. Tổng cộng có trên 8.000 người, trong
đó có 12 người da đen đã được Lazowski cứu thoát.
Khắc Nam
(Dịch từ Scribol/Atlasobscura-9/2016)
Trong Chiến tranh Thế giới II, có một nước đã cứu người Do-thái, mà lại là một nước Hồi giáo!
Albania là nơi người Hồi giáo và người Do-thái sống hàng thế kỷ cạnh nhau trong hòa bình. Năm 1943 phát xít Đức vào Albania và đòi người dân Albania phải nộp danh sách những người Do-thái, nhưng họ đã không nộp. Người Do-thái ở khắp nơi đã tìm đến Albania kiếm nơi ẩn náu. Người Albania có một nguyên tắc danh dự tên là ‘besa’, là ‘giữ lời’. Nguyên tắc này đã thúc đẩy người dân Albania giúp đỡ người gặp hoạn nạn.
Albania là nước duy nhất trong châu Âu mà sau chiến tranh thì số lượng người Do-thái tăng lên 10 lần.
Sau chiến tranh, khi được hỏi tại sao lại giúp đỡ những người Do-thái, thì người Albania trả lời rằng họ chỉ làm những gì mà họ cần phải làm.”
–– Bản dịch của chị Nguyễn Thanh Mai
Gương hy sinh cứu giúp người Do thái của gia đình Ulma
Ngày 24.03
vừa qua, Balan đã tổ chức kỷ niệm lần thứ nhất Ngày toàn quốc tưởng nhớ
các gia đình Balan đã giúp đỡ người Do thái trong cuộc bách hại của
quân phát xít Đức. Ngày 24.03 là ngày gia đình Ulma, gồm có cha mẹ và 7
đứa con, đã bị phát xít Đức tàn sát vào năm 1944, vì đã cho người Do
thái trú ẩn trong nhà của mình.
Hồng Thủy - Vatican
Năm 1939, Hitler đã khai mào chiến tranh thế giới thứ hai khi tấn công Balan. Năm 1941 quân Đức đã quyết định tiêu diệt người Do thái, và họ bắt đầu kế hoạch tàn sát 11 triệu người Do thái ở Chấu Âu. Khi đó tại Balan có 4 triệu người Do thái, chiếm 10% dân số cả nước. Vì thế quân Đức đã tổ chức những trại tập trung ngay trên đất Balan để tiêu diệt người Do thái, trong đó có trại tập trung Auschwitz.
Ngay cả khi chính họ là đối tượng bách hại của quân Đức, người Balan đã phát động một chiến dịch giúp đỡ người Do thái, do các tổ chức và hiệp hội bí mật của Balan hướng dẫn, trong đó có Hội đồng trợ giúp người Do thái, được gọi là “Zegota”, được thành lập năm 1942.
Giáo hội Balan cứu giúp người Do thái
Giáo hội Balan cũng dấn thân, tổ chức trợ giúp vật chất, che dấu người Do thái trong các tu viện và đan viên, kêu gọi giúp đỡ họ dưới mọi hình thức, trên hết là gương sáng của các Giám mục, linh mục và nữ tu, những người đã sống lý tưởng t yêu thương Ki-tô giáo dành cho tha nhân, trong thời khắc đen tối và vô nhân đạo.
Khi đó, quân Đức áp dụng một đạo luật ở Balan: những ai giúp đỡ người Do thái, dưới bất cứ hình thức nào, cũng phải nhận án tử hình. Nhưng dù cho nguy hiểm đến mạng sống, người Balan đã cứu sống rất nhiều người Do thái; người ta tính rằng khoảng 1 triệu người Balan bằng những cách thế khác nhau đã cứu được khoảng 300 ngàn người Do thái.
Danh sách những người Balan cứu giúp người Do thái cũng có tên của các Giám mục và linh mục. 11 trong số 13 Giám mục trong vùng vẫn ở lại Balan trong cuộc diệt chủng và đã tham gia cứu giúp người Do thái. Một giám mục di cư đến Anh quốc cũng đã lên tiếng trên Radio Luân đôn để tố cáo tội ác chống lại người Do thái của quân phát xít Đức.
Gia đình Ulma
Gia đình Ulma, một gia đình nông dân bình thường, làm nghề thuộc da ở làng Markowa, miền đông nam Balan, nơi bị quân Đức chiếm đóng, thuộc vào số những người Balan anh hùng đã giúp đỡ người Do thái. Đối với họ, không có so đo tính toán, hay sợ hãi, chỉ đơn giản là cứu giúp người khốn cùng, bị đối xử bất công, vô nhân đạo. Vào khoảng cuối năm 1942, dù cho sống trong hoàn cảnh nghèo khổ và biết rằng sẽ gặp nguy hiểm, gia đình Ulma đã cho 8 người Do thái ẩn trú trong gia đình họ. Một cảnh sát đã tố cáo với quân Đức việc gia đình Ulma đang che dấu người Do thái. Sáng ngày 24.03.1944, 5 tên lính Đức và một số cảnh sát đã đến trước nhà của gia đình Ulma. Những người lính Đức bắt đầu bắn những người Do thái, sau đó đến đôi vợ chồng trẻ nhà Ulma: Józef 44 tuổi và Wiktoria 32 tuổi, khi đó bà Wiktoria đang mang thai đứa con thứ 7.
Một nhân chứng kể lại: “Vào lúc quân Đức xử bắn tại gia đình Ulma, người ta nghe thấy những tiếng la hét than khóc khủng khiếp. Những đứa trẻ cầu cứu với cha mẹ các em khi họ đã bị giết chết . Đó là một cảnh thật đau lòng.” Vài phút sau đó, viên sĩ quan chỉ huy quyết định sát hại cả 6 đứa trẻ con cái của ông bà Ulma, để “cho cộng đồng không gặp rắc rối”. 6 đứa trẻ ở các độ tuổi: 8 tuổi, 6 tuổi, 5 tuổi, 4 tuổi, 3 tuổi và 1,5 tuổi. Thế là trong vòng vài phút, hơn một chục mạng người đã bị sát hại.
Trên đường hiển thánh
Năm 1995, ông bà Józef và Wiktoria Ulma được Ủy ban Do thái công nhận là “Người công chính giữa các dân nước”. Giáo hội Công giáo nhìn nhận lòng đạo đức nhiệt thành của họ cũng như hành động anh hùng được thúc đẩy bởi tình yêu Ki-tô giáo đối với tha nhân. Vào năm 2003, án phong chân phước cho gia đình Ulma bắt đầu được tiến hành tại giáo phận Przemyśl và đầu năm 2017, Vatican đã cho phép tách hồ sơ phong chân phước của gia đình Ulma khỏi hồ sơ chung của các vị tử đạo Balan. Như thế, tiến trình điều tra và hoàn tất hồ sơ phong chân phước cho gia đình này sẽ được tiến hành nhanh chóng hơn.
Để ghi nhớ sự hy sinh của gia đình Ulma, hồi tháng 11 vừa qua (2018), Đức tổng Giám mục giáo phận Przemyśl và Quỹ Gia đình Ulma đã tổ chức một cuộc triễn lãm tại đại học Giáo hoàng Urbaniana ở Roma để vinh danh họ.
Tháng 9/1939, không tuyên chiến, phát xít Đức tấn công nước láng giềng Ba Lan, mở màn cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai. Quân đội Ba Lan bị đánh bại sau một tháng giao chiến. Sau khi chiếm đóng Ba Lan, quân Đức dồn tất cả người Do Thái tại nước này vào các trại tập trung ở Krakow.
Trong không khí hoảng loạn thời chiến tranh, không ít doanh nhân lại tìm thấy cơ hội làm ăn. Một trong số đó là Oskar Schindler, một doanh nhân người Đức gốc Tiệp Khắc. Ông tới Ba Lan với ý định ban đầu là thành lập một nhà máy để tận dụng nguồn lao động nô lệ của hàng triệu người Do Thái trong các trại tập trung ở Krakow. Bằng những khoản tiền hậu hĩnh và những món quà đắt giá, Schindler đã tạo được mối quan hệ tốt với những quan chức hàng đầu của Đức tại Krakow. Thậm chí ông còn được kết nạp vào đảng Quốc xã và trở thành bạn thân của Julian Scherner, người đứng đầu lực lượng cảnh sát và SS (mật vụ) của lực lượng chiếm đóng. Với những lợi thế đó, Schindler nhanh chóng được cấp giấy phép thành lập một nhà máy sản xuất đồ nấu bếp cho quân đội.
Nhưng đến lúc xây dựng xong nhà máy thì Schindler chẳng còn tiền để mua máy móc, thiết bị. Thông qua một kế toán của đảng Quốc xã tên là Itzhak Stern, ông bí mật gặp một số doanh nhân gốc Do Thái để hợp tác làm ăn. Theo sáng kiến của Schindler thì họ sẽ cho ông vay tiền để sản xuất. Đổi lại, ông sẽ cung cấp cho họ một phần sản phẩm để bán ngoài chợ đen. Trong thời điểm đó, đây là một hành động mạo hiểm, vì chính quyền chiếm đóng cấm người Đức quan hệ làm ăn với người Do Thái.
Năm 1939, Hitler đã khai mào chiến tranh thế giới thứ hai khi tấn công Balan. Năm 1941 quân Đức đã quyết định tiêu diệt người Do thái, và họ bắt đầu kế hoạch tàn sát 11 triệu người Do thái ở Chấu Âu. Khi đó tại Balan có 4 triệu người Do thái, chiếm 10% dân số cả nước. Vì thế quân Đức đã tổ chức những trại tập trung ngay trên đất Balan để tiêu diệt người Do thái, trong đó có trại tập trung Auschwitz.
Ngay cả khi chính họ là đối tượng bách hại của quân Đức, người Balan đã phát động một chiến dịch giúp đỡ người Do thái, do các tổ chức và hiệp hội bí mật của Balan hướng dẫn, trong đó có Hội đồng trợ giúp người Do thái, được gọi là “Zegota”, được thành lập năm 1942.
Giáo hội Balan cứu giúp người Do thái
Giáo hội Balan cũng dấn thân, tổ chức trợ giúp vật chất, che dấu người Do thái trong các tu viện và đan viên, kêu gọi giúp đỡ họ dưới mọi hình thức, trên hết là gương sáng của các Giám mục, linh mục và nữ tu, những người đã sống lý tưởng t yêu thương Ki-tô giáo dành cho tha nhân, trong thời khắc đen tối và vô nhân đạo.
Khi đó, quân Đức áp dụng một đạo luật ở Balan: những ai giúp đỡ người Do thái, dưới bất cứ hình thức nào, cũng phải nhận án tử hình. Nhưng dù cho nguy hiểm đến mạng sống, người Balan đã cứu sống rất nhiều người Do thái; người ta tính rằng khoảng 1 triệu người Balan bằng những cách thế khác nhau đã cứu được khoảng 300 ngàn người Do thái.
Danh sách những người Balan cứu giúp người Do thái cũng có tên của các Giám mục và linh mục. 11 trong số 13 Giám mục trong vùng vẫn ở lại Balan trong cuộc diệt chủng và đã tham gia cứu giúp người Do thái. Một giám mục di cư đến Anh quốc cũng đã lên tiếng trên Radio Luân đôn để tố cáo tội ác chống lại người Do thái của quân phát xít Đức.
Gia đình Ulma
Gia đình Ulma, một gia đình nông dân bình thường, làm nghề thuộc da ở làng Markowa, miền đông nam Balan, nơi bị quân Đức chiếm đóng, thuộc vào số những người Balan anh hùng đã giúp đỡ người Do thái. Đối với họ, không có so đo tính toán, hay sợ hãi, chỉ đơn giản là cứu giúp người khốn cùng, bị đối xử bất công, vô nhân đạo. Vào khoảng cuối năm 1942, dù cho sống trong hoàn cảnh nghèo khổ và biết rằng sẽ gặp nguy hiểm, gia đình Ulma đã cho 8 người Do thái ẩn trú trong gia đình họ. Một cảnh sát đã tố cáo với quân Đức việc gia đình Ulma đang che dấu người Do thái. Sáng ngày 24.03.1944, 5 tên lính Đức và một số cảnh sát đã đến trước nhà của gia đình Ulma. Những người lính Đức bắt đầu bắn những người Do thái, sau đó đến đôi vợ chồng trẻ nhà Ulma: Józef 44 tuổi và Wiktoria 32 tuổi, khi đó bà Wiktoria đang mang thai đứa con thứ 7.
Một nhân chứng kể lại: “Vào lúc quân Đức xử bắn tại gia đình Ulma, người ta nghe thấy những tiếng la hét than khóc khủng khiếp. Những đứa trẻ cầu cứu với cha mẹ các em khi họ đã bị giết chết . Đó là một cảnh thật đau lòng.” Vài phút sau đó, viên sĩ quan chỉ huy quyết định sát hại cả 6 đứa trẻ con cái của ông bà Ulma, để “cho cộng đồng không gặp rắc rối”. 6 đứa trẻ ở các độ tuổi: 8 tuổi, 6 tuổi, 5 tuổi, 4 tuổi, 3 tuổi và 1,5 tuổi. Thế là trong vòng vài phút, hơn một chục mạng người đã bị sát hại.
Trên đường hiển thánh
Năm 1995, ông bà Józef và Wiktoria Ulma được Ủy ban Do thái công nhận là “Người công chính giữa các dân nước”. Giáo hội Công giáo nhìn nhận lòng đạo đức nhiệt thành của họ cũng như hành động anh hùng được thúc đẩy bởi tình yêu Ki-tô giáo đối với tha nhân. Vào năm 2003, án phong chân phước cho gia đình Ulma bắt đầu được tiến hành tại giáo phận Przemyśl và đầu năm 2017, Vatican đã cho phép tách hồ sơ phong chân phước của gia đình Ulma khỏi hồ sơ chung của các vị tử đạo Balan. Như thế, tiến trình điều tra và hoàn tất hồ sơ phong chân phước cho gia đình này sẽ được tiến hành nhanh chóng hơn.
Để ghi nhớ sự hy sinh của gia đình Ulma, hồi tháng 11 vừa qua (2018), Đức tổng Giám mục giáo phận Przemyśl và Quỹ Gia đình Ulma đã tổ chức một cuộc triễn lãm tại đại học Giáo hoàng Urbaniana ở Roma để vinh danh họ.
Người phụ nữ đã cứu mạng hàng ngàn trẻ em Do Thái khỏi bàn tay Đức Quốc xã
- Bạch Sơn
- •
- • 31.5k lượt xem
Người phụ nữ này chôn giấu bí mật mình đã cứu hơn 2.500 đứa trẻ Do Thái khỏi bàn tay Đức Quốc xã suốt 54 năm.
Bà
chỉ là một y tá bình thường nhưng đã cứu mạng hơn 2.500 đứa trẻ từ bàn
tay của Đức Quốc xã, khi còn sống bà luôn khiển trách bản thân: Những gì
tôi làm không hề đủ, bởi vì có lẽ tôi đã có thể cứu được nhiều người
hơn nữa.
Bà
Irena Sendler sinh ra tại Warsaw, Ba Lan vào năm 1910. Cha là bác sĩ
duy nhất ở một trấn nhỏ, đã qua đời năm bà 7 tuổi do bị nhiễm bệnh khi
chữa cho một người bị thương hàn. Sinh thời cha bà đã từng nói với bà:
Nếu như nhìn thấy người chết đuối, dù cho có không biết bơi thì con cũng
phải cố gắng cứu người đó.
Chính câu nói đơn giản này cùng tinh thần xả thân cứu người của cha đã ảnh hưởng đến bà Sendler cả một đời.
Tháng
9/1939, Đức Quốc xã tiến vào Warsaw, Ba Lan, 450.000 người Do Thái
chiếm hơn 1/3 người dân trong thành phố bị cách ly ở một nơi rất lớn
giống như công viên trung tâm New York. Khi đó Sendler là một y tá, bà
có thẻ thông hành được ra vào nơi cách ly người Do Thái, vì thế bà đã
dùng chức vụ làm bia đỡ, liên tục cung cấp quần áo, thức ăn và thuốc cho
người Do Thái.
Ba
năm sau, tình hình bỗng trở nên cực kỳ gay go, mỗi ngày có hàng ngàn
người Do Thái bị đưa vào các trại tập trung giết chóc, đối mặt với tình
thế gay gắt này, bà Sendler không thể ngồi yên được nữa, bà lập tức cùng
đồng nghiệp tạo ra “mạng lưới” giải thoát trẻ con Do Thái, đồng lời
dùng thân phận công tác xã hội của mình để vào trong khu vực người Do
Thái.
Liên tục 18 tháng, mỗi ngày bà phải mạo hiểm tính mạng, ra vào khu tập trung che chắn cho vài đứa trẻ trốn thoát.
Dù vậy, có rất nhiều gia đình Do Thái không dám để bà Sendler cùng đồng nghiệp đưa con mình đi.
Câu đầu tiên mà họ hỏi chính là: Có gì đảm bảo con họ sẽ được sống?
Bà
chỉ có thể trả lời thật lòng: Không có. Bởi vì đến cả chính bà cũng
không biết ngày hôm nay bà có còn sống mà rời khỏi nơi tập trung hay
không.
Trong
tình thế mạo hiểm tính mạng mà lại không có bất cứ sự bảo đảm nào như
vậy, bà Sendler đã giấu được hơn 2.500 em nhỏ người Do Thái dưới các
băng ca, vali xách tay, hòm, thậm chí bắt các em giả trang thành những
người bị bệnh truyền nhiễm, rồi âm thầm đưa ra khỏi khu tập trung đến
nhà thờ bằng những chiếc xe cứu thương.
60
năm sau, bà Sendler vẫn còn gặp ác mộng bởi những gì trải qua năm đó,
bà nhớ lại: Có gia đình để chúng tôi đưa con đi, có người lại bảo chúng
tôi vài ngày sau quay lại, nhưng khi quay lại thì rất nhiều gia đình đã
bị đưa đến trại tử hình rồi.
Những
đứa trẻ dù đã may mắn được cứu ra ngoài nhưng vẫn đối mặt với cái chết
bất cứ lúc nào, bởi vì những người trong thành phố Warsaw lúc bấy giờ ai
nấy cũng đều lo cho sự an toàn của mình, khắp nơi đều là những kẻ tố
giác lạnh lùng vô tình, mỗi ngày Gestapo đều lục soát khắp nơi để tìm
cho ra những người Do Thái bỏ trốn khỏi khu cách ly.
Để
bảo vệ các em nhỏ phải gian nan mới cứu ra được này, bà Sendler và đồng
nghiệp ngày đêm nhanh chóng làm ra hơn 3.000 giấy tờ giả, bao gồm giấy
khai sinh có chữ ký của mục sư và chứng minh thư có chữ ký của quan chức
cấp cao.
Dù
vậy thì chỉ có những giấy tờ này là hoàn toàn không đủ, bà bắt các em
nhỏ học thuộc tên mới của mình hàng trăm, thậm chí hàng nghìn lần, dạy
các em những câu cầu nguyện, để tránh bị lộ khi Gestapo kiểm tra. Mỗi
đứa trẻ đi trên đường đều có thể bị tra hỏi bất cứ lúc nào, nếu như
không biết cầu nguyện thì sẽ lập tức bị giết.
Người
Do Thái không theo đạo Thiên Chúa, vì vậy nên cũng không biết cầu
nguyện, đây cũng chính là cách để đoán ra được đó có phải là trẻ em Do
Thái hay không, bà Sendler dạy các em cầu nguyện là để bảo vệ chúng.
Ở
Warsaw lúc đó, che giấu người Do Thái là bị tội chết, cả người nhà cũng
sẽ bị giết, thậm chí còn nặng hơn cả tội danh in “báo phản động”, vận
chuyển vũ khí để lật đổ Đức Quốc xã.
Chính
trong hoàn cảnh vô cùng áp lực này, vào năm 1943, bà Sendler bị phát
hiện và bắt giữ, Gestapo tra tấn bà, đánh gãy chân bà, nhưng cũng không
hề moi được bất cứ tin tức nào giá trị từ bà.
Đức
Quốc xã cực kỳ tức giận đã quyết định xử tử bà, may mắn là tổ chức ngầm
ở Ba Lan đã chi nhiều tiền mua giấy thông hành quân đội nên mới cứu
được bà.
Dù
được cứu ra ngoài, bà Sendler không hề dừng lại, bà tiếp tục bí mật cứu
người Do Thái, còn ghi chép cẩn thận lại thông tin của các em nhỏ từng
được cứu, chôn những chiếc bình chứa bảng tên dưới gốc cây nhà hàng xóm
để sau chiến tranh các em nhỏ có thể đoàn tụ với gia đình.
Năm
1945, Đức Quốc xã rời khỏi Ba Lan, bà Sendler đào số bảng tên lên, trả
các em nhỏ về cho những phụ huynh còn sống, đáng tiếc là hầu như tất cả
đều đã bị sát hại hoặc mất tích, chỉ có vài đứa trẻ tìm lại được cha mẹ.
Từ đó trở đi, bà sống như một người bình thường suốt 54 năm, không hề nói về việc mình từng cứu hơn 2.500 đứa trẻ.
Cho
đến 54 năm sau, vào năm 1999, có bốn học sinh trung học ở Kansas, Mỹ đã
phát hiện ra cái tên Irena Sendler trong bài báo “Một Schindler khác”
khi làm đề tài lịch sử, trong đó chỉ có một câu đơn giản: Bà đã cứu hơn
2.500 đứa trẻ.
“Không
thể nào đâu? Schindler đã cứu 1.100 người Do Thái, nếu Sendler cứu
2.500 người, vậy sao chúng ta chưa từng được nghe qua tên của bà ấy? Hay
là in nhầm 250 thành 2.500 rồi?”
Họ
vội vàng lên mạng tìm tên Irena Sendler, chỉ có dòng chữ, toàn bộ là từ
cùng một trang mạng. Tổ chức gây quỹ Do Thái chính nghĩa đã gửi thư xác
nhận có phải in lầm số hay không, nhưng cũng không có bất cứ tin tức
nào của bà Sendler.
Mấy
tháng sau đó, vài học sinh trung học nhân kỳ nghỉ và cuối tuần chạy đến
thư viện và viện tư liệu tìm các tài liệu có liên quan đến Thế chiến
thứ II, thậm chí họ còn tìm xem tất cả các bảng tên ở tất cả các đài kỉ
niệm trong Thế chiến thứ II nhằm hy vọng tìm được nơi an nghỉ cuối cùng
của bà Sendler nhưng cũng không biết được gì.
Cuối
cùng, Hội gây quỹ Do Thái chính nghĩa đã gửi đến một tin tức khiến
người ta không thể tin nổi: Bà Sendler vẫn còn sống, hiện sinh sống ở
Warsaw, Ba Lan, bà đã 90 tuổi.
Nhờ vậy, với sự tìm kiếm của bốn bạn học sinh này mà câu chuyện năm xưa của bà Sendler mới được nhắc lại.
Sự
dũng cảm và trí tuệ của bà Sendler không chỉ khiến người Mỹ cảm động,
mà cũng giúp cho Warsaw phát hiện ra được người anh hùng của họ.
Tại
một viện dưỡng lão ở Warsaw, rất nhiều người cao tuổi ngồi xe lăn, đi
lại khó khăn, tổng thống Ba Lan và phu nhân đã đích thân đến viện dưỡng
lão thăm bà.
Vị anh hùng tuổi xế chiều cũng đã nhận được rất nhiều những lời vinh danh muộn màng.
Năm 2003, Đức Giáo hoàng Paul Đệ nhị đích thân viết thư cho bà Sendler, tán dương sự nỗ lực phi thường của bà trong thời chiến.
Tháng
10/2003, bà được trao tặng huy chương Đại Bàng Trắng (Order of the
White Eagle), hình ảnh của bà cũng được in trên đồng tiền kỷ niệm của Ba
Lan năm 2009.
Ngày
30/7/2006, bà Sendler 96 tuổi được nhận huy chương vinh dự tại Lễ tưởng
niệm được tổ chức ở Munich, Đức, rất nhiều người đến tham dự đều là
những trẻ em mà bà cứu năm đó.
Elzbieta Ficowska từng là một đứa bé sơ sinh được bà Sendler cứu, cô nói: “Bà Sendler chẳng những đã cứu chúng tôi mà còn cứu thế hệ con cháu của chúng tôi nữa”.
Tháng 10/2006, bà Sendler 96 tuổi đã được xướng tên trong lễ trao giải thưởng Nobel Hòa Bình.
Ngày 12/5/2008, bà Irena Sendler lặng lẽ trút hơi thở cuối cùng tại Ba Lan, hưởng thọ 98 tuổi.
Lời bà nói trước khi ra đi khiến nhiều người xúc động: “Tôi
chưa từng xem bản thân là anh hùng, những đứa trẻ Do Thái được cứu sống
đã chứng minh giá trị của tôi trên đời, thế nhưng đây hoàn toàn không
phải là lý do để xứng đáng được tán dương. Ngược lại, tôi luôn tự trách
mình, những gì tôi làm hoàn toàn không đủ, có lẽ tôi đã có thể cứu được
nhiều người hơn, sự tiếc nuối này sẽ theo tôi đến cuối đời”.
Theo SecretchinaThanh Tâm
Bản Danh Sách Của SchindlersSchindler's List (1993)
Nội dung phim
Bộ phim nói về hành động cứu hàng nghìn người Do Thái tại Ba Lan trong Đại chiến thế giới II đã được nhận các giải Oscar, Quả cầu vàng, BAFTA và Grammy dành cho Phim xuất sắc. Viện điện ảnh Mỹ xếp "Schindler's List" ở vị trí thứ 9 trong danh sách những bộ phim hay nhất mọi thời đại.Tháng 9/1939, không tuyên chiến, phát xít Đức tấn công nước láng giềng Ba Lan, mở màn cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai. Quân đội Ba Lan bị đánh bại sau một tháng giao chiến. Sau khi chiếm đóng Ba Lan, quân Đức dồn tất cả người Do Thái tại nước này vào các trại tập trung ở Krakow.
Trong không khí hoảng loạn thời chiến tranh, không ít doanh nhân lại tìm thấy cơ hội làm ăn. Một trong số đó là Oskar Schindler, một doanh nhân người Đức gốc Tiệp Khắc. Ông tới Ba Lan với ý định ban đầu là thành lập một nhà máy để tận dụng nguồn lao động nô lệ của hàng triệu người Do Thái trong các trại tập trung ở Krakow. Bằng những khoản tiền hậu hĩnh và những món quà đắt giá, Schindler đã tạo được mối quan hệ tốt với những quan chức hàng đầu của Đức tại Krakow. Thậm chí ông còn được kết nạp vào đảng Quốc xã và trở thành bạn thân của Julian Scherner, người đứng đầu lực lượng cảnh sát và SS (mật vụ) của lực lượng chiếm đóng. Với những lợi thế đó, Schindler nhanh chóng được cấp giấy phép thành lập một nhà máy sản xuất đồ nấu bếp cho quân đội.
Nhưng đến lúc xây dựng xong nhà máy thì Schindler chẳng còn tiền để mua máy móc, thiết bị. Thông qua một kế toán của đảng Quốc xã tên là Itzhak Stern, ông bí mật gặp một số doanh nhân gốc Do Thái để hợp tác làm ăn. Theo sáng kiến của Schindler thì họ sẽ cho ông vay tiền để sản xuất. Đổi lại, ông sẽ cung cấp cho họ một phần sản phẩm để bán ngoài chợ đen. Trong thời điểm đó, đây là một hành động mạo hiểm, vì chính quyền chiếm đóng cấm người Đức quan hệ làm ăn với người Do Thái.
Nhận xét
Đăng nhận xét