Trần Bá Di. Ảnh tư liệu
QĐND - Trong số các viên tướng của Quân đội Việt Nam Cộng hòa, Trần Bá Di không phải là một tên tuổi nổi bật bởi trước khi chế độ Sài Gòn sụp đổ, Di đang là Chỉ huy trưởng Trung tâm huấn luyện Quang Trung. Song trong những ngày ở lớp cải huấn dành cho sĩ quan cấp tướng, viên tướng 2 sao này lại gây chú ý cho các cán bộ ở lớp cải huấn bởi một “bài thu hoạch” dài tới 15 trang viết tay. Trong bản “tổng kết chiến tranh” ấy, Di đã rút ra một số “kinh nghiệm” và không ít những bài học đắt giá trong quãng đời binh nghiệp của mình...
Hồ sơ “Khai thác sĩ quan Quân đội Sài Gòn” của Cục Địch vận (tháng 11-1973) có ghi: Trần Bá Di sinh năm 1931, quê ở tỉnh Định Tường (nay là tỉnh Tiền Giang). Tháng 8-1951, Di đi lính cho Pháp và sau đó theo học Trường Võ bị Quốc gia Đà Lạt. Năm 1957, Di được cử làm Tiểu khu trưởng Gò Công rồi leo lên chức Trưởng phòng 3 Quân khu Thủ Đức. Các năm 1958-1961, Di lần lượt được cử làm Phó tỉnh trưởng, rồi Tỉnh trưởng tỉnh Phong Dinh (nay là tỉnh Hậu Giang). Năm 1966, Di được cử đi học Tham mưu cao cấp ở Mỹ, hai năm sau về làm Tham mưu trưởng Quân đoàn 4; đến tháng 7-1968, là Đại tá, Tư lệnh Sư đoàn 9 bộ binh (thế chỗ của Lâm Quang Thơ được cử về làm Chỉ huy trưởng Trường Sĩ quan Đà Lạt). Tháng 4-1970, Trần Bá Di được thăng cấp chuẩn tướng, một năm sau được điều về làm Phó tư lệnh Quân đoàn 4 và nhận lon thiếu tướng.
 Trần Bá Di luôn ra vẻ là một viên tướng có tác phong giao tiếp đàng hoàng, đứng đắn. Nhưng theo thông tin của binh lính dưới quyền và qua khai thác tù binh, được biết: Trong cuộc hành quân sang Cam-pu-chia năm 1970, Di đã tranh thủ vơ vét nhiều tài sản của nhân dân Cam-pu-chia về để làm giàu.
Trong nỗ lực thay tướng nhằm “đổi vận”, ít tháng trước khi chế độ Sài Gòn sụp đổ, chính quyền Sài Gòn đã đưa Trần Bá Di về Trung tâm huấn luyện Quang Trung làm Chỉ huy trưởng, để rồi sau ngày 30-4-1975, viên tướng hai sao này đã trở thành học viên trong các lớp cải huấn của chính quyền cách mạng... Giống như các học viên cấp tướng khác, trong lớp cải huấn, Trần Bá Di đã có nhiều thời gian “nghiền ngẫm” để viết ra những bản đánh giá, tổng kết chiến tranh theo yêu cầu của lớp học.
“Kinh nghiệm” từ Sư đoàn 9
Những năm nắm quyền chỉ huy Sư đoàn 9 bộ binh là thời gian mà Trần Bá Di có nhiều va chạm với thực tế, vì thế Di đã rút ra một số “kinh nghiệm” nhằm “nâng cao tinh thần chiến đấu” cho binh sĩ của mình.
Di sớm nhận rõ điểm mạnh, điểm yếu của hai loại binh sĩ dưới quyền, đó là lính quân dịch và lính tình nguyện. Số lính quân dịch được viên Tư lệnh Sư đoàn chia ra thành hai loại: Quân dịch loại A là những thanh niên tự ý trình diện để thi hành nghĩa vụ, số này thường cam chịu số phận, ít đào ngũ, nhưng lại tham chiến rất chiếu lệ, chỉ mong được sống sót chờ ngày giải ngũ; quân dịch loại B là số bị bắt trong các cuộc hành quân, các đợt kiểm soát đột xuất của cảnh sát trên các trục lộ giao thông, số này do sợ hoặc không thích đi lính nhưng do bị cưỡng ép nên thường tìm đủ mọi cách để tự hủy hoại thân thể hoặc trốn tránh. Trần Bá Di đã không lạ lẫm với việc binh sĩ dưới trướng từng tìm cách hủy hoại thân thể bằng cách tự bắn vào chân, vào lòng bàn tay; cho lựu đạn nổ giữa hai ngón chân; buộc dây cao su ở ngón chân để ngón chân bị hoại tử, phải cắt bỏ hoặc bày trò lấy mủ cây xương rồng chà vào mắt để gây hỏng một mắt...
Khi phần đông binh sĩ trong Sư đoàn chủ yếu là lính quân dịch (chiếm 60%-70% quân số tác chiến), Di đã hạn chế tình trạng đào ngũ bằng cách cho kiểm soát chặt chẽ số lính quân dịch thông qua các tổ “đồng tâm”, tức tổ ba người, gồm: Một lính tình nguyện, hai lính quân dịch. Trong các đơn vị trực thuộc, Di còn thường xuyên “hâm nóng” các sắc luật trừng phạt tội đào ngũ và chỉ cho số binh sĩ của mình những “tấm gương” là các “lao công chiến trường” đang bị kỷ luật ngay tại đơn vị để họ từ bỏ ý định đào ngũ. Ngoài ra, Di còn xây dựng một đội ngũ hạ sĩ quan nòng cốt và bắt buộc các cấp chỉ huy từ Tư lệnh sư đoàn cho tới chỉ huy trung đội đều phải quan tâm, đảm bảo từ quân trang cho tới thực phẩm hằng ngày, tìm cách để các binh sĩ có gia đình riêng được vào hết trong trại gia binh... bởi theo Trần Bá Di, cách làm hiệu quả nhằm nâng cao tinh thần binh sĩ chính là dùng quyền lợi vật chất để lôi kéo và đề cao cá nhân thông qua những đợt khen thưởng đột xuất trong chiến đấu; cùng đó là một hệ thống “kìm kẹp” lẫn nhau bằng chính các binh sĩ và bộ máy an ninh chìm.
Bản “tổng kết chiến tranh” do Trần Bá Di viết trong thời gian ở trại cải huấn. Ảnh: Vũ Minh
Nhằm mục đích “lên dây cót tinh thần” cho binh sĩ, Sư đoàn 9 của Di còn tổ chức những buổi nói chuyện do các “hồi chánh viên” lên lớp với nội dung chính là cách thức đưa người vào hoạt động nội tuyến của đối phương, những hình thức mua chuộc, lôi kéo binh sĩ hoạt động cho cách mạng và một nội dung không thể thiếu là phần mô tả về “đời sống cực khổ” của người dân miền Bắc…
 Thất trận vì tướng-quân “rệu rã”
Trong “bản thu hoạch” của mình, Di đã dành khá nhiều trang để kể về các hoạt động đấu tranh, phản chiến trong binh lính dưới quyền và khái quát thành 3 hình thức chính là: Chống hành quân; binh biến khởi nghĩa; đứng về phía nhân dân nhằm chống lại âm mưu của Mỹ và chính quyền Sài Gòn.
Khi Trần Bá Di về làm Tư lệnh Sư đoàn 9, cũng là khoảng thời gian chiến sự đang trở nên khốc liệt và các lực lượng từ quân chủ lực cho tới quân địa phương đều ghi nhận nhiều trường hợp binh sĩ tham gia vào các hoạt động phản chiến. Tại sư đoàn của Di, đã có biểu hiện một số sĩ quan cấp úy thường cố tình trình diện muộn lúc bắt đầu xuất phát hành quân hoặc giả ốm vào phút chót. Một số khác lấy lý do bỏ đơn vị không xin phép ngay trước lúc chuẩn bị hành quân rồi ở trong tình trạng vắng mặt trái phép tới 14 ngày (vì 15 ngày vắng mặt sẽ bị báo cáo đào ngũ và bị đưa ra tòa án quân sự). Sau 14 ngày, số này trở về đơn vị để rồi sau đó tiếp tục diễn lại trò “vắng mặt” trước khi có đợt hành quân mới...
Trong các năm từ 1969-1973, ở các tỉnh: Vĩnh Bình, Vĩnh Long, Chương Thiện, Sóc Trăng, Cần Thơ, Cà Mau, Định Tường, Kiến Hòa – những nơi mà Sư đoàn 9 thường đến tăng cường, chính Trần Bá Di đã phát hiện nhiều lần tại những đơn vị quân địa phương – nhất là cấp đại đội – có tình trạng binh sĩ tránh né các vùng căn cứ của cách mạng. Trên đường hành quân, chỉ cần gặp sự kháng cự nhỏ từ phía Quân giải phóng thì các đơn vị này đã tìm cách né sang hướng khác. Di viết: “Có tới 2/3 số báo cáo của các đơn vị trực thuộc sư đoàn thường hay phóng đại hoặc báo cáo hoàn toàn sai về các cuộc chạm súng để xin yểm trợ hỏa lực hoặc tăng viện. Nhiều lúc các bản báo cáo còn cho ra những số liệu “ẩu” là đã tới mục tiêu, trong khi họ vẫn còn ở cách mục tiêu chạm súng với Quân giải phóng tới 1-2 cây số...”. Theo Di, sở dĩ quân lính dám làm ẩu như vậy là vì họ biết lợi dụng những lúc sư đoàn không có máy bay lên thẳng hoặc máy bay kiểm soát vị trí của các đơn vị dưới mặt đất.
Năm 1973, khi hoạt động ở vùng Lái Hiếu (Long Mỹ, Chương Thiện) và vùng Hồng Ngự (Kiến Văn, Kiến Phong), có từ 4-6 tiểu đoàn của Sư đoàn 9 đã tìm cách tiến quân một cách chậm chạp. Lúc chạm súng, số này chỉ tham gia lẻ tẻ rồi ém quân nằm một chỗ, sau đó xin hỏa lực yểm trợ, tới sáng hôm sau khi Quân giải phóng ngưng nổ súng thì mới tiến vào trận địa trống. Khoảng tháng 3-1974, Tiểu đoàn quân địa phương thuộc Tiểu khu Phong Dinh xuất phát từ Hòa An hành quân vào vùng Xáng Bộ (Long Mỹ, Chương Thiện) có 30 lính và hạ sĩ quan đã bỏ súng, quân trang, lẩn trốn về nhà để tránh hành quân. Tình trạng này sau đó xảy ra đều khắp ở các tỉnh miền Tây Nam Bộ, trầm trọng nhất là tại các tỉnh: Chương Thiện, Phong Dinh, Sóc Trăng, Cà Mau, Vĩnh Bình.
Trần Bá Di chua chát thừa nhận: “Khi Mỹ rút, quân lính Việt Nam Cộng hòa bắt đầu lo ngại, tinh thần chống đối cách mạng có khuynh hướng giảm. Trước những chiến thắng dồn dập của cách mạng ở Quân khu 2, Quân khu 3, áp lực nặng nề đã ảnh hưởng lên khắp miền Tây Nam Bộ, cả chỉ huy lẫn binh sĩ đều mất tinh thần. Số quân chủ lực tuy vẫn còn nòng cốt kìm kẹp nhưng phần lớn đã không còn muốn chiến đấu nữa. Tình trạng đào ngũ tăng vọt, cộng với việc tuyển mộ khó khăn, nên quân số ở các đơn vị chiến đấu đã trở nên hết sức bi đát”. Trong phần cuối bản “báo cáo tổng kết chiến tranh” của mình, Trần Bá Di còn nêu lên một thực trạng ở thời điểm những năm 1973-1975: “Số lính quân dịch vẫn còn bị kiểm soát nhưng trong thực tế họ không còn tinh thần chiến đấu nữa; với số lính bảo an, dân vệ, tình trạng còn bi đát hơn, họ rút khỏi các vùng chiến sự hoặc tìm cách tiếp xúc với Quân giải phóng cả bằng cách gặp trực tiếp lẫn qua máy truyền tin”.
Những lời thú nhận của viên tướng hai sao Trần Bá Di đã cho thấy phần nào nguyên nhân thất trận của một bộ máy mà trong đó các “tướng” đã từng được huấn luyện, đào tạo bài bản còn “quân” thì luôn được lên dây cót tinh thần bằng đủ mọi hình thức. Vậy mà bộ máy ấy đã sớm rệu rã và trở thành “đứa con rơi” ngay sau khi các “quan thầy” rút lui khỏi chiến trường miền Nam…
Bùi Quang Huy

Những Tướng Quân Đội VNCH đã chết trong thời chiến

Tướng Quân Đội VNCH không có hình trong album này:

Chuẩn Tướng Bùi Văn Nhu.
Sinh ngày 26-12-1920 tại quận Bến Lức tỉnh Long An, bắt đầu phục vụ ngành Cảnh Sát Quốc Gia năm 1939 từ ngạch Thư Ký phiên dịch.* Từ 1949 đến 1952, Biên Tập Viên Chánh Sở Trung Ương Tình Báo.* 1952-1958: Quận Trưởng Hạng 4 Thanh Tra Tổng Nha CSQG* 1958-1960: Quận Trưởng Hạng 3 Giám Đốc TTHL/CS & CA* 1960-1962: Quận Trưởng Hạng 2 Phụ Tá Khối CS Đặc Biệt Tổng Nha CS* Đến năm 1966-1971, ông lên đến ngạch Quận Trưởng Thượng Hạng và đảm nhiệm chức vụ Phó Tổng Giám Đốc Tổng Nha CS.* 1971-1975: Đại tá CSQG, Tư Lệnh Phó Tổng Nha* 01-2-1975: Chuẩn tướng CSQG, Tư Lệnh Phó Tổng Nha CS.Sau ngày 30-4-1975, Việt Cộng đưa đi tập trung khổ sai và chết tại trại tù Nam Hà, ngày 15-3-1984.
Nguồn http://phudong1.multiply.com/journal?&page_start=20
Của Đỗ Như Quyên, Biệt Động Quân

Posted by Admin ĐN
Chuẩn Tướng Nguyễn Huy Ánh:
Sinh tháng 7-1934, tốt nghiệp trường Không Quân Phi Hành Salon de Provence 1953, nguyên Tư Lệnh Sư Đoàn 4 Không Quân QĐIV/ QKIV cho đến năm 1972. Chuẩn Tướng Ánh tử nạn phi cơ trong một phi vụ quan sát tình hình, vì ghi nhận một phi cơ L19 bị rớt nên ông dùng trực thăng của ông đến câu phi cơ L19 và rủi ro xảy ra tai nạn. Ông tử nạn lúc 17giờ ngày 27-2-1972.
Posted by Admin ĐN
Chuẩn Tướng Nguyễn Huy Ánh:
Sinh tháng 7-1934, tốt nghiệp trường Không Quân Phi Hành Salon de Provence 1953, nguyên Tư Lệnh Sư Đoàn 4 Không Quân QĐIV/ QKIV cho đến năm 1972. Chuẩn Tướng Ánh tử nạn phi cơ trong một phi vụ quan sát tình hình, vì ghi nhận một phi cơ L19 bị rớt nên ông dùng trực thăng của ông đến câu phi cơ L19 và rủi ro xảy ra tai nạn. Ông tử nạn lúc 17giờ ngày 27-2-1972.
Posted by Admin ĐN
Thiếu Tướng Trình Minh Thế:
Sinh năm 1922, tỉnh Tây Ninh Việt Nam . Ngày 3-5-1955, trong lúc đang theo dõi các đơn vị của mình (quân đội Cao Đài) phối hợp với quân đội chính phủ tấn công lực lượng Bình Xuyên ở khu cầu Tân Thuận, tướng Trình minh Thế đứng trên một xe jeep tại dốc cầu, phía bên Sàigòn. Giữa tiếng nỗ của nhiều loại súng cách xa nơi ông đứng khoảng hơn 100m, có một viên đạn duy nhất không rõ ai bắn, đã trúng ngay đầu tướng Trình minh Thế làm ông chết tại chổ.
Posted by Admin ĐN
Thiếu Tướng Trình Minh Thế:
Sinh năm 1922, tỉnh Tây Ninh Việt Nam . Ngày 3-5-1955, trong lúc đang theo dõi các đơn vị của mình (quân đội Cao Đài) phối hợp với quân đội chính phủ tấn công lực lượng Bình Xuyên ở khu cầu Tân Thuận, tướng Trình minh Thế đứng trên một xe jeep tại dốc cầu, phía bên Sàigòn. Giữa tiếng nỗ của nhiều loại súng cách xa nơi ông đứng khoảng hơn 100m, có một viên đạn duy nhất không rõ ai bắn, đã trúng ngay đầu tướng Trình minh Thế làm ông chết tại chổ.
Posted by Admin ĐN
Chuẩn Tướng Lê Nguyên Vỹ.
Sinh ngày 22-8-1933, tỉnh Sơn Tây, học khoá 2 Trường Võ Bị Địa Phương Trung Việt, tốt nghiệp với cấp bậc chuẩn uý hiện dịch. Trước ngày 30-4-1975, ông nguyên là Tư Lệnh Sư Đoàn 5/BB. Ngay sau lúc nghe được lời kêu gọi buông súng của ông Dương văn Minh, chuẩn tướng Lê nguyên Vỹ đã tự sát trước sân cờ của bản doanh Bộ Tư Lệnh SĐ5/BB ở Lai Khê tỉnh Bình Dương.
Posted by Admin ĐN
Chuẩn Tướng Lê Nguyên Vỹ.
Sinh ngày 22-8-1933, tỉnh Sơn Tây, học khoá 2 Trường Võ Bị Địa Phương Trung Việt, tốt nghiệp với cấp bậc chuẩn uý hiện dịch. Trước ngày 30-4-1975, ông nguyên là Tư Lệnh Sư Đoàn 5/BB. Ngay sau lúc nghe được lời kêu gọi buông súng của ông Dương văn Minh, chuẩn tướng Lê nguyên Vỹ đã tự sát trước sân cờ của bản doanh Bộ Tư Lệnh SĐ5/BB ở Lai Khê tỉnh Bình Dương.
Posted by Admin ĐN
Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng.
Sinh năm 1933, Hóc Môn, Gia Định, tốt nghệp khoá 5 Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức, nguyên là Tư Lệnh Phó QĐIV/ QKIV từ ngày 1-11-1974. Ông cũng từng là Tư Lệnh Sư Đoàn 5/BB (ngày 14-6-1971), Tư Lệnh Phó QĐIII/ QKIII Đặc trách Lực Lượng Phản Ứng Cấp Thời (ngày 4-9-1972), Tư Lệnh Sư Đoàn 21/BB (ngày 9-6-1973).  ngày 30-4-1975, tại tư dinh của mình ở Cần Thơ, Chuẩn Tướng Lê văn Hưng sau khi nói những lời từ biệt với các thuộc cấp, dặn dò khuyên nhủ bạn đời là bà Phạm thị kim Hoàng, ông vào văn phòng riêng và khóa chặt cửa lại mặc dù tiếng khóc than nức nở kêu gào của người vợ. Ông đã dùng súng tự sát vào lúc 20:45 giờ ngày 30-4-1975.
Posted by Admin ĐN
Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng.
Sinh năm 1933, Hóc Môn, Gia Định, tốt nghệp khoá 5 Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức, nguyên là Tư Lệnh Phó QĐIV/ QKIV từ ngày 1-11-1974. Ông cũng từng là Tư Lệnh Sư Đoàn 5/BB (ngày 14-6-1971), Tư Lệnh Phó QĐIII/ QKIII Đặc trách Lực Lượng Phản Ứng Cấp Thời (ngày 4-9-1972), Tư Lệnh Sư Đoàn 21/BB (ngày 9-6-1973). ngày 30-4-1975, tại tư dinh của mình ở Cần Thơ, Chuẩn Tướng Lê văn Hưng sau khi nói những lời từ biệt với các thuộc cấp, dặn dò khuyên nhủ bạn đời là bà Phạm thị kim Hoàng, ông vào văn phòng riêng và khóa chặt cửa lại mặc dù tiếng khóc than nức nở kêu gào của người vợ. Ông đã dùng súng tự sát vào lúc 20:45 giờ ngày 30-4-1975.
Posted by Admin ĐN
Chuẩn Tướng Nguyễn Văn Điềm.
Sinh ngày 30-6-1929, tốt nghiệp khóa 4 Trường Bộ Binh Thủ Đức. Ông giữ chức vụ Trung đoàn trưởng của SĐ1/BB và Tư Lệnh Phó trước khi được bổ nhiệm làm Tư Lệnh Sư Đoàn 1/BB, năm 1973. Ông được hăng cấp Chuẩn tướng tháng 4-1974. Trực thăng của ông bị rơi gần bờ biển Sa Huỳnh thuộc tỉnh Quảng Ngãi, vào 8giờ tối ngày 28-3-1975. Ông là vị tướng bị tử nạn cuối cùng trong cuộc chiến Việt Nam.
Posted by Admin ĐN
Chuẩn Tướng Nguyễn Văn Điềm.
Sinh ngày 30-6-1929, tốt nghiệp khóa 4 Trường Bộ Binh Thủ Đức. Ông giữ chức vụ Trung đoàn trưởng của SĐ1/BB và Tư Lệnh Phó trước khi được bổ nhiệm làm Tư Lệnh Sư Đoàn 1/BB, năm 1973. Ông được hăng cấp Chuẩn tướng tháng 4-1974. Trực thăng của ông bị rơi gần bờ biển Sa Huỳnh thuộc tỉnh Quảng Ngãi, vào 8giờ tối ngày 28-3-1975. Ông là vị tướng bị tử nạn cuối cùng trong cuộc chiến Việt Nam.
Posted by Admin ĐN
Chuẩn Tướng Phan Đình Soạn.
Sinh ngày 16-11-1929, Huế, tốt nghiệp khóa 1 Trường Sĩ Quan Việt Nam Thủ Đức, nguyên Chỉ Huy Trưởng Pháo Binh QLVNCH từ ngày 1-10-1968 đến 31-1-1972. Ông được bổ nhiệm giữ chức Tư Lệnh Phó QĐI/ QKI vào ngày 1-2-1972, thay thiếu tướng Nguyễn văn Hiếu. Ngày 25-2-1972, chuẩn tướng Phan đình Soạn đi máy bay trực thăng ra thăm một chiến hạm Mỹ, cách Đà Nẵng khoảng 20km ngoài khơi biển Đông Việt Nam. Lúc cất cánh trở về, trực thăng của ông vì sơ suất nên đụng vào trụ ăng ten của chiến hạm. Tuy bị hư hại nhưng trực thăng vẫn gắng bay về và bị rớt gần bán đảo Sơn Trà, quận ba thành phố Đà Nẳng.
Posted by Admin ĐN
Chuẩn Tướng Phan Đình Soạn.
Sinh ngày 16-11-1929, Huế, tốt nghiệp khóa 1 Trường Sĩ Quan Việt Nam Thủ Đức, nguyên Chỉ Huy Trưởng Pháo Binh QLVNCH từ ngày 1-10-1968 đến 31-1-1972. Ông được bổ nhiệm giữ chức Tư Lệnh Phó QĐI/ QKI vào ngày 1-2-1972, thay thiếu tướng Nguyễn văn Hiếu. Ngày 25-2-1972, chuẩn tướng Phan đình Soạn đi máy bay trực thăng ra thăm một chiến hạm Mỹ, cách Đà Nẵng khoảng 20km ngoài khơi biển Đông Việt Nam. Lúc cất cánh trở về, trực thăng của ông vì sơ suất nên đụng vào trụ ăng ten của chiến hạm. Tuy bị hư hại nhưng trực thăng vẫn gắng bay về và bị rớt gần bán đảo Sơn Trà, quận ba thành phố Đà Nẳng.
Posted by Admin ĐN
Chuẩn Tướng Trần Văn Hai.
Sinh năm 1929, Cần Thơ, tốt nghiệp khoá 7 Trường Võ Bị Liên Quân, Đà Lạt. Ông nguyên là Tư Lệnh Sư Đoàn 7/BB thuộc QĐIV/ QKIV từ ngày 1-3-1974. Trước đó ông cũng từng đảm trách các chức vụ như Tỉnh Trưởng tỉnh Phú Yên (năm 1965), Chỉ Huy Trưởng Bộ Chỉ Huy Biệt Động Quân Trung Ương (năm 1967), Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Quốc Gia (năm 1968), Chỉ Huy Trưởng Trung tâm Huấn Luyện Lam Sơn kiêm Chỉ Huy Trưởng Huấn Khu Dục Mỹ (năm 1971), Tư Lệnh Phó QĐII/ QKII và kiêm nhiệm Chỉ Huy Trưởng Bộ Chỉ Huy Hành Quân Chiến Thuật QĐII/QKII (năm 1972).  Chết vì tự tử trong ngày 30-4-1975.  Khoảng 17:00 giờ tại Bộ Tư Lệnh SĐ7/BB ở Mỹ Tho, chuẩn tướng Trần văn hai đã uống thuốc độc ngay trong văn phòng của mình.  Trước khi uống thuốc độc chuẩn tướng Trần văn Hai trao cho vị sĩ quan tuỳ viên số tiền 70.000 đồng nhờ đưa cho người mẹ già của mình. Đây cũng là tháng lương cuối cùng của một người lính suốt đời liêm chính.
Chuẩn Tướng Trần Văn Hai.
Sinh năm 1929, Cần Thơ, tốt nghiệp khoá 7 Trường Võ Bị Liên Quân, Đà Lạt. Ông nguyên là Tư Lệnh Sư Đoàn 7/BB thuộc QĐIV/ QKIV từ ngày 1-3-1974. Trước đó ông cũng từng đảm trách các chức vụ như Tỉnh Trưởng tỉnh Phú Yên (năm 1965), Chỉ Huy Trưởng Bộ Chỉ Huy Biệt Động Quân Trung Ương (năm 1967), Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Quốc Gia (năm 1968), Chỉ Huy Trưởng Trung tâm Huấn Luyện Lam Sơn kiêm Chỉ Huy Trưởng Huấn Khu Dục Mỹ (năm 1971), Tư Lệnh Phó QĐII/ QKII và kiêm nhiệm Chỉ Huy Trưởng Bộ Chỉ Huy Hành Quân Chiến Thuật QĐII/QKII (năm 1972). Chết vì tự tử trong ngày 30-4-1975. Khoảng 17:00 giờ tại Bộ Tư Lệnh SĐ7/BB ở Mỹ Tho, chuẩn tướng Trần văn hai đã uống thuốc độc ngay trong văn phòng của mình. Trước khi uống thuốc độc chuẩn tướng Trần văn Hai trao cho vị sĩ quan tuỳ viên số tiền 70.000 đồng nhờ đưa cho người mẹ già của mình. Đây cũng là tháng lương cuối cùng của một người lính suốt đời liêm chính.
Chuản Tướng Trương Quan Ân.
Sinh năm 1932, là thủ khoa khóa 7 Trường Võ Bị Liên Quân Việt Nam ở Đà Lạt. Ông nguyên là Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh/ QĐII/ QKII từ ngày 24-11-1966. Vợ ông là bà Dương thị kim Thanh (Huế), nguyên chuẩn uý thuộc binh chủng Nhảy Dù nhưng làm việc tại Tổng Y Viện Cộng Hòa.  Ông và vợ chết vì trực thăng nổ vào ngày 8-9-1968, khi ông cùng bà đi chung một chiếc trực thăng loại H-34 (Choctaw) của Không Quân VNCH đến thăm các căn cứ tiền đồn.
Posted by Admin ĐN
Chuản Tướng Trương Quan Ân.
Sinh năm 1932, là thủ khoa khóa 7 Trường Võ Bị Liên Quân Việt Nam ở Đà Lạt. Ông nguyên là Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh/ QĐII/ QKII từ ngày 24-11-1966. Vợ ông là bà Dương thị kim Thanh (Huế), nguyên chuẩn uý thuộc binh chủng Nhảy Dù nhưng làm việc tại Tổng Y Viện Cộng Hòa. Ông và vợ chết vì trực thăng nổ vào ngày 8-9-1968, khi ông cùng bà đi chung một chiếc trực thăng loại H-34 (Choctaw) của Không Quân VNCH đến thăm các căn cứ tiền đồn.
Posted by Admin ĐN
Thiếu Tướng Đoàn Văn Quảng.
Sinh năm 1923, xuất thân Thiếu Sinh Quân Việt Nam .
* 1960: Thiếu tá, Chỉ Huy Trưởng Bộ Chỉ Huy Hành Quân/ Đệ Ngũ Quân Khu (đến năm 1962 là QĐ IV vùng 4 chiến thuật)
* 1961: Trung tá, Chỉ Huy Trưởng Biệt Động Quân/ Đệ ngũ Quân Khu.
* 1962: Tư Lệnh Phó Sư Đoàn 21/BB. Tháng 10-1963, Tư Lệnh Phó SĐ9/BB.
* 7-11-1963: Đại Tá Tư Lệnh SĐ9/BB.
* 1964: Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Biêt.
* 1966: Chuẩn tướng. 1971: Thiếu tướng.
* 1972: Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung.
Sau ngày 30-4-1975, Việt Cộng đưa đi tập trung khổ sai. Thiếu tướng Đoàn văn Quảng chết trong tù Cộng sản ở trại khổ sai Nam Hà (Hà nam Ninh) ngày 6-3-1984.
Posted by Admin ĐN
Thiếu Tướng Đoàn Văn Quảng.
Sinh năm 1923, xuất thân Thiếu Sinh Quân Việt Nam .
* 1960: Thiếu tá, Chỉ Huy Trưởng Bộ Chỉ Huy Hành Quân/ Đệ Ngũ Quân Khu (đến năm 1962 là QĐ IV vùng 4 chiến thuật)
* 1961: Trung tá, Chỉ Huy Trưởng Biệt Động Quân/ Đệ ngũ Quân Khu.
* 1962: Tư Lệnh Phó Sư Đoàn 21/BB. Tháng 10-1963, Tư Lệnh Phó SĐ9/BB.
* 7-11-1963: Đại Tá Tư Lệnh SĐ9/BB.
* 1964: Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Biêt.
* 1966: Chuẩn tướng. 1971: Thiếu tướng.
* 1972: Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung.
Sau ngày 30-4-1975, Việt Cộng đưa đi tập trung khổ sai. Thiếu tướng Đoàn văn Quảng chết trong tù Cộng sản ở trại khổ sai Nam Hà (Hà nam Ninh) ngày 6-3-1984.
Posted by Admin ĐN
Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam.
Sinh ngày 23-9-1927, Đà Nẳng (chánh quán An Cựu Tây, quận Hương Thủy, tỉnh Thưà Thiên), tốt nghiệp khóa 3 Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức. Đời binh nghiệp của ông đã trải qua những chức vụ như: Tiểu Đoàn Trưởng TĐ5 Nhảy Dù (năm 1965), Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù (năm 1967), Tư Lệnh Sư Đoàn 7/BB (tháng 1-1970) và Tư Lệnh Quân Đoàn IV/ Quân Khu IV (tháng 11-1974) với cấp thiếu tướng.
Ông đã dùng súng tự sát trong tư dinh của mình ở Cần Thơ khoảng 07:30 giờ ngày 1-5-1975.
Posted by Admin ĐN
Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam.
Sinh ngày 23-9-1927, Đà Nẳng (chánh quán An Cựu Tây, quận Hương Thủy, tỉnh Thưà Thiên), tốt nghiệp khóa 3 Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức. Đời binh nghiệp của ông đã trải qua những chức vụ như: Tiểu Đoàn Trưởng TĐ5 Nhảy Dù (năm 1965), Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù (năm 1967), Tư Lệnh Sư Đoàn 7/BB (tháng 1-1970) và Tư Lệnh Quân Đoàn IV/ Quân Khu IV (tháng 11-1974) với cấp thiếu tướng.
Ông đã dùng súng tự sát trong tư dinh của mình ở Cần Thơ khoảng 07:30 giờ ngày 1-5-1975.
Posted by Admin ĐN
Thiếu Tướng Nguyễn Văn Hiếu.
Sinh ngày 23-6-1929, thành phố Thiên Tân, Cộng Hoà Trung Hoa Dân Quốc. Năm 1949 đang học đại học Aurore ở Thượng Hải thì phải theo gia đình dọn về Saigon, Việt Nam . Đầu năm 1951, ông theo học khóa 3 Võ Bị Liên Quân Việt Nam tại Đà Lạt, và tốt nghiệp (hạng hai) ngày 1-7-51 với cấp bậc thiếu uý.Thiếu Tướng Nguyễn văn Hiếu
Hai mươi năm sau, thiếu uý Nguyễn văn Hiếu đã là thiếu tướng Tư Lệnh Phó QĐ I (nhậm chức ngày 9-6-1971) và nỗi tiếng là một vị tướng liêm chính. Do có tài năng và đức độ, nên ngày 10-2-1972, Phó Tổng Thống Trần văn Hương (1902-1982) đề cử tướng Nguyễn văn Hiếu giữ chức Phụ Tá Đặc Biệt trong Ủy Ban Bài Trừ Tham Nhũng (tương đương cấp Thứ Trưởng). Ngày 1-10-1973, ông được bổ nhiệm làm Tư Lệnh Phó QĐ III/ QK III và đã giữ chức vụ nầy qua ba vị Tư Lệnh Quân Đoàn là Trung Tướng Phạm quốc Thuần, Trung Tướng Dư quốc Đống (1932-2008), Trung Tướng Nguyễn văn Toàn (1932-2005).
Ngày 2-4-1975, tướng Nguyễn văn Hiếu được bổ nhiệm chức Tư Lệnh Tiền Phương QĐ III, nhưng chưa kịp nhận nhiệm sở. Ngày 4-4-1975, khoảng 17:30 giờ (các tài liệu khác thì ghi buổi trưa khoảng 13:30 giờ) những người đang làm việc tại Bộ Tư Lệnh QĐ III ở Biên Hoà bổng nghe một tiếng súng nổ trong văn phòng thiếu tướng Nguyễn văn Hiếu (cùng có nguồn tài liệu khác ghi có hai tiếng súng). Lúc mọi người mở cửa phòng thì thấy tướng Nguyễn văn Hiếu đã ngồi chết gục tại bàn làm việc, một tay ông để trên bàn và tay còn lại buông thòng xuống đất nơi có một cây súng nhỏ còn nằm trên sàn nhà (có thể loại súng P 38). Ông bị chết vì một viên đạn đi xuyên từ cằm lên thái dương (có vài tài liệu khác ghi viên đạn từ thái dương bắn xuyên lên đỉnh đầu và phá một lỗ trên trần nhà), nhưng chẳng có ai hiểu được nguyên nhân ông bị chết là do ngộ sát, tự sát hoặc bị ám sát. Vài ngày sau cái chết của tướng Nguyễn văn Hiếu, chính phủ ban đầu công bố là ông tự sát, nhưng sau đó đã cải chánh và đổi thành ngộ sát, bị cướp cò lúc đang lau súng.
Ba mươi năm sau cái chết bí ẩn của tướng Nguyễn văn Hiếu, có rất nhiều người vẫn không tin ông bị cướp cò súng bởi vì ông là người sưu tập và rất cẩn thận về súng. Có người còn quả quyết tướng Hiếu bị ám sát chết bởi những kẻ tham nhũng. Bọn nầy mượn gió bẻ măng để
Thiếu Tướng Nguyễn Văn Hiếu.
Sinh ngày 23-6-1929, thành phố Thiên Tân, Cộng Hoà Trung Hoa Dân Quốc. Năm 1949 đang học đại học Aurore ở Thượng Hải thì phải theo gia đình dọn về Saigon, Việt Nam . Đầu năm 1951, ông theo học khóa 3 Võ Bị Liên Quân Việt Nam tại Đà Lạt, và tốt nghiệp (hạng hai) ngày 1-7-51 với cấp bậc thiếu uý.Thiếu Tướng Nguyễn văn Hiếu
Hai mươi năm sau, thiếu uý Nguyễn văn Hiếu đã là thiếu tướng Tư Lệnh Phó QĐ I (nhậm chức ngày 9-6-1971) và nỗi tiếng là một vị tướng liêm chính. Do có tài năng và đức độ, nên ngày 10-2-1972, Phó Tổng Thống Trần văn Hương (1902-1982) đề cử tướng Nguyễn văn Hiếu giữ chức Phụ Tá Đặc Biệt trong Ủy Ban Bài Trừ Tham Nhũng (tương đương cấp Thứ Trưởng). Ngày 1-10-1973, ông được bổ nhiệm làm Tư Lệnh Phó QĐ III/ QK III và đã giữ chức vụ nầy qua ba vị Tư Lệnh Quân Đoàn là Trung Tướng Phạm quốc Thuần, Trung Tướng Dư quốc Đống (1932-2008), Trung Tướng Nguyễn văn Toàn (1932-2005).
Ngày 2-4-1975, tướng Nguyễn văn Hiếu được bổ nhiệm chức Tư Lệnh Tiền Phương QĐ III, nhưng chưa kịp nhận nhiệm sở. Ngày 4-4-1975, khoảng 17:30 giờ (các tài liệu khác thì ghi buổi trưa khoảng 13:30 giờ) những người đang làm việc tại Bộ Tư Lệnh QĐ III ở Biên Hoà bổng nghe một tiếng súng nổ trong văn phòng thiếu tướng Nguyễn văn Hiếu (cùng có nguồn tài liệu khác ghi có hai tiếng súng). Lúc mọi người mở cửa phòng thì thấy tướng Nguyễn văn Hiếu đã ngồi chết gục tại bàn làm việc, một tay ông để trên bàn và tay còn lại buông thòng xuống đất nơi có một cây súng nhỏ còn nằm trên sàn nhà (có thể loại súng P 38). Ông bị chết vì một viên đạn đi xuyên từ cằm lên thái dương (có vài tài liệu khác ghi viên đạn từ thái dương bắn xuyên lên đỉnh đầu và phá một lỗ trên trần nhà), nhưng chẳng có ai hiểu được nguyên nhân ông bị chết là do ngộ sát, tự sát hoặc bị ám sát. Vài ngày sau cái chết của tướng Nguyễn văn Hiếu, chính phủ ban đầu công bố là ông tự sát, nhưng sau đó đã cải chánh và đổi thành ngộ sát, bị cướp cò lúc đang lau súng.
Ba mươi năm sau cái chết bí ẩn của tướng Nguyễn văn Hiếu, có rất nhiều người vẫn không tin ông bị cướp cò súng bởi vì ông là người sưu tập và rất cẩn thận về súng. Có người còn quả quyết tướng Hiếu bị ám sát chết bởi những kẻ tham nhũng. Bọn nầy mượn gió bẻ măng để "giết người bịt miệng" lúc ngọn sóng Đỏ đang tràn tới. Nhưng cũng có người cho rằng một thế lực khác đã gây ra cái chết nầy. Thế lực đó đã biết được một kế hoặch bí mật giữa các tướng Nguyền văn Hiếu, Nguyễn khoa Nam, Lê văn Hưng, Trần văn Hai ở QĐIV/ QKIV, là các vị nầy sẽ tái phối trí và tổ chức lực lượng quân sự tử thủ ở vùng đồng bằng sông Cửu Long nếu thủ đô Sài gòn rơi vào tay quân Cộng Sản. Và thế lực đó không muốn cuộc chiến kéo dài thêm nữa khi họ đã công khai bắt tay với Việt Cộng vì quyền lợi của họ
Posted by Admin ĐN
Thiếu Tướng Nguyễn Viết Thanh.
Sinh năm 1931, Lâm Đồng, tốt nghiệp khóa 4 Trường Võ Bị Liên Quân Việt Nam, Đà Lạt, nguyên là Tư Lệnh QĐIV/ QKIV từ ngày 1-7-1968.  Hành quân Cửu Long 1 (bắt đầu ngày 9-5-1970) là cuộc hành quân cấp quân đoàn vượt qua đất Cam Bốt nhằm giải cứu, hồi hương hàng chục ngàn đồng bào thoát sự tàn sát của của dân Cam Bốt. Trên cương vị là Tư Lệnh Hành Quân Cửu Long 1, thiếu tướng Nguyễn viết Thanh thường xuyên có mặt trên máy bay trực thăng để theo dõi và đôn đốc các đơn vị. Ngày 1-5-1970, chiếc trực thăng chỉ huy của tướng Thanh đã vở tan trên không vì bị một chiếc trực thăng võ trang của Mỹ đụng vào. Tai nạn xảy ra trên bầu trời tỉnh Kiến Tường.
Posted by Admin ĐN
Thiếu Tướng Nguyễn Viết Thanh.
Sinh năm 1931, Lâm Đồng, tốt nghiệp khóa 4 Trường Võ Bị Liên Quân Việt Nam, Đà Lạt, nguyên là Tư Lệnh QĐIV/ QKIV từ ngày 1-7-1968. Hành quân Cửu Long 1 (bắt đầu ngày 9-5-1970) là cuộc hành quân cấp quân đoàn vượt qua đất Cam Bốt nhằm giải cứu, hồi hương hàng chục ngàn đồng bào thoát sự tàn sát của của dân Cam Bốt. Trên cương vị là Tư Lệnh Hành Quân Cửu Long 1, thiếu tướng Nguyễn viết Thanh thường xuyên có mặt trên máy bay trực thăng để theo dõi và đôn đốc các đơn vị. Ngày 1-5-1970, chiếc trực thăng chỉ huy của tướng Thanh đã vở tan trên không vì bị một chiếc trực thăng võ trang của Mỹ đụng vào. Tai nạn xảy ra trên bầu trời tỉnh Kiến Tường.
Posted by Admin ĐN
Thiếu Tướng Phạm Văn Phú.
Sinh năm 1929, tỉnh Hà Đông, học khóa 8 Trường Võ Bị Liên Quân Việt Nam, Đà Lạt, nguyên là Tư Lệnh QĐII/QKII từ tháng 11-1974. Trong cuộc họp ở Cam Ranh ngày 14-3-1975, Tổng Thống VNCH Nguyễn văn Thiệu (1924-2001) lệnh cho tướng Phạm văn Phú rút quân khỏi các tỉnh Kontum, Pleiku về vùng duyên hải QĐ II. Cuộc lui quân nầy diễn tiến như thế nào thì lịch sữ đã cho thấy. Ngày 29-4-1975, tại nhà riêng ở Sàigòn, thiếu tướng Phạn văn Phú đã uống một liều thuốc độc thật mạnh nhưng gia đình phát giác và đưa ông vào bệnh viện cứu chữa. Trưa ngày 30-4-1975, ông tỉnh lại và thều thào hỏi vợ về tình trạng lúc bấy giờ. Sau khi nghe vợ cho biết ông Dương văn Minh đã đầu hàng và Việt Cộng vừa vô dinh Độc Lập. Nghe đến đây, thiếu tướng Phạm văn Phú thở hắt ra. Đó cũng là hơi thở cuối cùng của ông.
Posted by Admin ĐN
Thiếu Tướng Phạm Văn Phú.
Sinh năm 1929, tỉnh Hà Đông, học khóa 8 Trường Võ Bị Liên Quân Việt Nam, Đà Lạt, nguyên là Tư Lệnh QĐII/QKII từ tháng 11-1974. Trong cuộc họp ở Cam Ranh ngày 14-3-1975, Tổng Thống VNCH Nguyễn văn Thiệu (1924-2001) lệnh cho tướng Phạm văn Phú rút quân khỏi các tỉnh Kontum, Pleiku về vùng duyên hải QĐ II. Cuộc lui quân nầy diễn tiến như thế nào thì lịch sữ đã cho thấy. Ngày 29-4-1975, tại nhà riêng ở Sàigòn, thiếu tướng Phạn văn Phú đã uống một liều thuốc độc thật mạnh nhưng gia đình phát giác và đưa ông vào bệnh viện cứu chữa. Trưa ngày 30-4-1975, ông tỉnh lại và thều thào hỏi vợ về tình trạng lúc bấy giờ. Sau khi nghe vợ cho biết ông Dương văn Minh đã đầu hàng và Việt Cộng vừa vô dinh Độc Lập. Nghe đến đây, thiếu tướng Phạm văn Phú thở hắt ra. Đó cũng là hơi thở cuối cùng của ông.
Posted by Admin ĐN
Trung Tướng Đỗ Cao Trí.
Sinh ngày 20-11-1929, làng Bình Tước tỉnh Biên Hòa Việt Nam , nguyên là Tư Lệnh Quân Đoàn III/ Quân Khu III. Sáng ngày 23-2-1971, trên cương vị Tư Lệnh Hành Quân Toàn Thắng 1/71, ông chủ tọa cuộc họp tham mưu tại Bộ tư lệnh Tiền phương QĐIII/ QK III tại căn cứ Trảng Lớn, quận Châu Thành, tỉnh Tây Ninh như thường lệ. Sau buổi họp, khoảng 09:30 giờ, ông dùng trực thăng bay về hướng bắc tỉnh Tây Ninh để đến Dambe (một thị trấn nhỏ của Kampuchia) nơi lực lượng xung kích QĐ III của đại tá Trần quang Khôi đang chờ. Trực thăng chỉ huy của Trung Tướng Đỗ cao Trí rời khỏi Trảng Lớn khoảng bốn phút thì bùng nổ ở trên không. Địa điểm tai nạn khoảng 7km bắc- tây-bắc thị xã Tây Ninh.
Posted by Admin ĐN
Trung Tướng Đỗ Cao Trí.
Sinh ngày 20-11-1929, làng Bình Tước tỉnh Biên Hòa Việt Nam , nguyên là Tư Lệnh Quân Đoàn III/ Quân Khu III. Sáng ngày 23-2-1971, trên cương vị Tư Lệnh Hành Quân Toàn Thắng 1/71, ông chủ tọa cuộc họp tham mưu tại Bộ tư lệnh Tiền phương QĐIII/ QK III tại căn cứ Trảng Lớn, quận Châu Thành, tỉnh Tây Ninh như thường lệ. Sau buổi họp, khoảng 09:30 giờ, ông dùng trực thăng bay về hướng bắc tỉnh Tây Ninh để đến Dambe (một thị trấn nhỏ của Kampuchia) nơi lực lượng xung kích QĐ III của đại tá Trần quang Khôi đang chờ. Trực thăng chỉ huy của Trung Tướng Đỗ cao Trí rời khỏi Trảng Lớn khoảng bốn phút thì bùng nổ ở trên không. Địa điểm tai nạn khoảng 7km bắc- tây-bắc thị xã Tây Ninh.
Posted by Admin ĐN
Tướng Đỗ Cao Trí Và Lê Nguyên Khang
Tướng Đỗ Cao Trí Và Lê Nguyên Khang
Tướng Đỗ Cao Trí và Nguyễn Đức Thắng
Tướng Đỗ Cao Trí và Nguyễn Đức Thắng
  
QUÂN REO QUÊ MẸ QUẢNG TRỊ ANH HÙNG - LÝ THÙY DƯƠNG
 
Tieng hat tren duong que huong NSND Le Dung