CÂU CHUYỆN LỊCH SỬ 80/6 (Máy bay & chiến tranh)
(ĐC sưu tầm trên NET)
Đêm 10/3/1945, quân đội Mỹ ném bom Tokyo nhằm buộc Nhật Bản đầu hàng sớm trong những tháng cuối của Thế chiến II.
Vào đêm kinh hoàng năm đó, khi người dân Tokyo đang ngủ, khoảng 300 "pháo đài bay" B-29 của Không quân Mỹ bắt đầu thả hàng loạt bom M-69 có nhân là hỗn hợp cháy xuống thành phố. 2.000 tấn thuốc nổ đã trút xuống khu vực đông dân cư nhất của Tokyo.
"Hơn cả địa ngục"
Chiến dịch dội bom trên bầu trời Tokyo đã khắc sâu trong tâm trí nhiều người dân.
Kisako Motoki, khi ấy 10 tuổi, chạy tới một cây cầu để tìm nơi ẩn náu sau khi cha mẹ và em trai chết cháy vì trúng bom.
Hàng nghìn tấn bom tạo thành một trận bão lửa có chiều cao hàng trăm mét. Gió mạnh đã thổi bùng cơn bão ấy, biến khu vực rộng 40 km2 của Tokyo thành địa ngục.
“Tôi nhìn thấy những cơ thể bốc cháy được chất chồng lên nhau. Đó là hình ảnh những tảng đá màu đen. Một số thi thể nằm rải rác trên nền đất và các xác chết bốc cháy. Tôi không thể tin cảnh tượng kinh hoàng như vậy lại xảy ra ở thế giới này”, bà Motoki kể với abc.net.
Motoki cho biết, tâm trí của bà lúc đó hoàn toàn trống rỗng. "Tôi rất sốc. 70 năm đã qua, nhưng hình ảnh về những thi thể vẫn không thể phai trong tâm trí tôi. Cảnh tượng ấy còn hơn cả địa ngục", bà nói.
Trong khi đó, Masaharu Ohtake, 13 tuổi, đã chạy khỏi quán phở của gia đình cùng một người bạn khác khi máy bay Mỹ liên tục dội bom xuống thành phố. “Chúng tôi thấy một xe tải chất đầy xác chết. Tôi không thể hiểu làm cách nào mà người ta có thể xếp nhiều thi thể lên đó”, Ohtake kể.
Những người sống sót sau trận oanh tạc cho hay, không khí im lặng bao trùm lên khu đất hoang, gồm nhiều thi thể và mảnh vỡ như ống khói của nhà tắm hoặc một nhà máy nhỏ.
Bà Haruyo Nihei, 78 tuổi, giữ im lặng về cuộc oanh kích của quân đội Mỹ 70 năm trước. Hơn nửa thế kỷ trôi qua, bà mới kể những ký ức kinh hoàng.
“Tôi thấy cảnh tượng một đứa bé bốc cháy khi ngồi sau lưng mẹ. Bà ấy đã không thể dập ngọn lửa”, nhân chứng Nihei hồi tưởng.
Trận không kích trong đêm của quân đội Mỹ đã cướp sinh mạng của khoảng 100.000 thường dân, khiến một triệu người tàn phế và hàng triệu người khác mất nhà cửa. Đa phần nạn nhân là phụ nữ, người già và trẻ em, bởi đàn ông đã ra trận, theo lệnh tổng động viên. Cuộc không kích đã xóa sổ gần một nửa thành phố.
Mục tiêu không phải các nhà máy lớn
Tướng Mỹ Curtis LeMay ra lệnh cho binh sĩ thực hiện các cuộc tấn công trên khắp Nhật Bản trong những năm cuối của Thế chiến II. LeMay từng thừa nhận rằng, quân đội Mỹ đã đốt cháy nhiều người dân Tokyo vào đêm 10/3/1945 hơn cả số thương vong trong hai trận ném bom thành phố Hiroshima và Nagasaki cộng lại.
Chính phủ Mỹ từng tuyên bố rằng, mục tiêu của vụ đánh bom là các nhà máy. Nhưng theo bà Nihei, đây là lời nói dối. “Các nhà máy lớn không được đặt tại những khu vực mà quân đội Mỹ ném bom vào ngày 10/3/1945”, bà nói, đồng thời khẳng định Washington phải chịu trách nhiệm cho những tội ác mà họ gây ra.
Giờ đây, khi mối quan hệ đồng minh giữa Mỹ và Nhật Bản trở nên gần gũi, người ta cũng ít khi nhắc tới cuộc oanh tạc Tokyo năm xưa. Người dân Tokyo vẫn không thể quên ký ức về trận ném bom. Họ thường kể lại cho con, cháu để nhắc nhở thế hệ sau về sự tàn phá khủng khiếp của chiến tranh.
Trẻ em Nhật Bản ngày nay thường tới thăm đài tưởng niệm nạn nhân vụ oanh tạc của quân đội Mỹ trong Thế chiến II ở trung tâm thủ đô Tokyo. Đây là nơi lưu trữ tro cốt của hơn 100.000 thường dân vô tội đã thiệt mạng trong vụ không kích năm ấy.
Các phi công Nhật bước vào trong phòng và được cấp một cái đơn với nội
dung hỏi họ có muốn làm một phi công cảm tử Thần Phong (Kamikaze) hay
không. Lá đơn có 3 sự lựa chọn dành cho người điền: “Tôi tha thiết ước
muốn gia nhập”, “Tôi ước muốn được gia nhập”, và “Tôi không muốn gia
nhập”.
Máy bay và đại chiến thế giới - Phần 4
Cảnh địa ngục khi Mỹ dội bom Nhật 70 năm trước
Gió mạnh đã thổi bùng cơn bão lửa của hàng nghìn tấn bom mà quân đội Mỹ trút xuống thành phố Tokyo, Nhật Bản đêm 10/3/1945.
Máy bay Mỹ dội bom hàng loạt xuống khu vực tập trung đông dân cư của thành phố Tokyo. Ảnh: Bookmike.net |
Vào đêm kinh hoàng năm đó, khi người dân Tokyo đang ngủ, khoảng 300 "pháo đài bay" B-29 của Không quân Mỹ bắt đầu thả hàng loạt bom M-69 có nhân là hỗn hợp cháy xuống thành phố. 2.000 tấn thuốc nổ đã trút xuống khu vực đông dân cư nhất của Tokyo.
"Hơn cả địa ngục"
Cảnh tan hoang tại Tokyo sau đêm không kích của máy bay Mỹ. Ảnh: AP |
Kisako Motoki, khi ấy 10 tuổi, chạy tới một cây cầu để tìm nơi ẩn náu sau khi cha mẹ và em trai chết cháy vì trúng bom.
Hàng nghìn tấn bom tạo thành một trận bão lửa có chiều cao hàng trăm mét. Gió mạnh đã thổi bùng cơn bão ấy, biến khu vực rộng 40 km2 của Tokyo thành địa ngục.
“Tôi nhìn thấy những cơ thể bốc cháy được chất chồng lên nhau. Đó là hình ảnh những tảng đá màu đen. Một số thi thể nằm rải rác trên nền đất và các xác chết bốc cháy. Tôi không thể tin cảnh tượng kinh hoàng như vậy lại xảy ra ở thế giới này”, bà Motoki kể với abc.net.
Motoki cho biết, tâm trí của bà lúc đó hoàn toàn trống rỗng. "Tôi rất sốc. 70 năm đã qua, nhưng hình ảnh về những thi thể vẫn không thể phai trong tâm trí tôi. Cảnh tượng ấy còn hơn cả địa ngục", bà nói.
Trong khi đó, Masaharu Ohtake, 13 tuổi, đã chạy khỏi quán phở của gia đình cùng một người bạn khác khi máy bay Mỹ liên tục dội bom xuống thành phố. “Chúng tôi thấy một xe tải chất đầy xác chết. Tôi không thể hiểu làm cách nào mà người ta có thể xếp nhiều thi thể lên đó”, Ohtake kể.
Những người sống sót sau trận oanh tạc cho hay, không khí im lặng bao trùm lên khu đất hoang, gồm nhiều thi thể và mảnh vỡ như ống khói của nhà tắm hoặc một nhà máy nhỏ.
Bà Haruyo Nihei, 78 tuổi, giữ im lặng về cuộc oanh kích của quân đội Mỹ 70 năm trước. Hơn nửa thế kỷ trôi qua, bà mới kể những ký ức kinh hoàng.
“Tôi thấy cảnh tượng một đứa bé bốc cháy khi ngồi sau lưng mẹ. Bà ấy đã không thể dập ngọn lửa”, nhân chứng Nihei hồi tưởng.
Trận không kích trong đêm của quân đội Mỹ đã cướp sinh mạng của khoảng 100.000 thường dân, khiến một triệu người tàn phế và hàng triệu người khác mất nhà cửa. Đa phần nạn nhân là phụ nữ, người già và trẻ em, bởi đàn ông đã ra trận, theo lệnh tổng động viên. Cuộc không kích đã xóa sổ gần một nửa thành phố.
Mục tiêu không phải các nhà máy lớn
Tướng Mỹ Curtis LeMay ra lệnh cho binh sĩ thực hiện các cuộc tấn công trên khắp Nhật Bản trong những năm cuối của Thế chiến II. LeMay từng thừa nhận rằng, quân đội Mỹ đã đốt cháy nhiều người dân Tokyo vào đêm 10/3/1945 hơn cả số thương vong trong hai trận ném bom thành phố Hiroshima và Nagasaki cộng lại.
Chính phủ Mỹ từng tuyên bố rằng, mục tiêu của vụ đánh bom là các nhà máy. Nhưng theo bà Nihei, đây là lời nói dối. “Các nhà máy lớn không được đặt tại những khu vực mà quân đội Mỹ ném bom vào ngày 10/3/1945”, bà nói, đồng thời khẳng định Washington phải chịu trách nhiệm cho những tội ác mà họ gây ra.
Giờ đây, khi mối quan hệ đồng minh giữa Mỹ và Nhật Bản trở nên gần gũi, người ta cũng ít khi nhắc tới cuộc oanh tạc Tokyo năm xưa. Người dân Tokyo vẫn không thể quên ký ức về trận ném bom. Họ thường kể lại cho con, cháu để nhắc nhở thế hệ sau về sự tàn phá khủng khiếp của chiến tranh.
Trẻ em Nhật Bản ngày nay thường tới thăm đài tưởng niệm nạn nhân vụ oanh tạc của quân đội Mỹ trong Thế chiến II ở trung tâm thủ đô Tokyo. Đây là nơi lưu trữ tro cốt của hơn 100.000 thường dân vô tội đã thiệt mạng trong vụ không kích năm ấy.
Trận bom đẫm máu nhất thế giới Mỹ dội xuống Tokyo năm 1945
Chiến dịch Meetinghouse như một trận bão lửa hủy diệt Tokyo và có thể đã cướp đi sinh mạng của 200.000 người trong một đêm.
Oanh tạc cơ B-29 được dùng trong chiến dịch Meetinghouse. Ảnh: USAF.
|
Rạng sáng 10/3/1945, quân đội Mỹ tiến hành chiến dịch không kích hủy
diệt mang tên "Meetinghouse", tạo nên một trận bão lửa quét qua thủ đô
Tokyo của Nhật Bản, gây thiệt hại khủng khiếp hơn cả hai vụ ném bom hạt
nhân xuống thành phố Hiroshima và Nagasaki, theo Aviationist.
Chiến dịch này diễn ra trong bối cảnh Thế chiến II đang đi tới hồi kết,
khi Mỹ liên tục tấn công và chiếm được các hòn đảo chiến lược trên Thái
Bình Dương từ tay đế quốc Nhật. Sự chống trả quyết liệt của lính Nhật
tại những đảo nhỏ xa bờ, cũng như thiệt hại lớn cho cả hai phía khiến
quân đội Mỹ lo ngại thương vong không thể tưởng tượng nếu đổ bộ lên lãnh
thổ Nhật Bản.
Washington quyết định thực hiện hàng loạt đợt không kích quy mô lớn nhằm
vào các thành phố Nhật, nhằm mục đích buộc nước này đầu hàng vô điều
kiện. Tuy nhiên, bom hạt nhân khi đó vẫn đang trong quá trình phát
triển, những loại bom thông thường khó phát huy hiệu quả khi đế quốc
Nhật đã sơ tán cơ sở hạ tầng khỏi thành phố. Vì vậy, bom cháy E46 đã
được sử dụng để tăng tối đa sức hủy diệt, biến Meetinghouse trở thành
chiến dịch ném bom đẫm máu nhất lịch sử thế giới.
E-46 chỉ là một trong nhiều loại bom cháy được sử dụng trong cuộc không
kích. Bom E-46 có vỏ được buộc bằng 9 dây đai cố định ở phía ngoài và được
thả từ độ cao 1,5 km. Các dây đai sẽ đứt cùng lúc để giải phóng 47 túi
bom làm bằng vải thưa mềm và phát tán trên diện tích rộng. Chúng không
gây nổ mạnh hay tạo sóng xung kích, mà chỉ đáp nhẹ xuống mái nhà và bốc
cháy mạnh.
Theo kế hoạch của tướng Curtis Lemay, chỉ huy chiến dịch Meetinghouse,
300 oanh tạc cơ chiến lược B-29 được huy động tấn công Tokyo vào rạng
sáng ngày 10/3/1945. Những chiếc oanh tạc cơ này sử dụng toàn bom cháy
và không cần thả bom chính xác.
Đợt ném bom đầu tiên sẽ tạo nên một chữ X khổng lồ bằng lửa để đánh dấu
trung tâm mục tiêu. Những chiếc B-29 còn lại chỉ cần thả bom gần chữ X
này và ngọn lửa sẽ hủy diệt mọi thứ dưới mặt đất.
Phi đội B-29 thả bom cháy xuống lãnh thổ Nhật. Ảnh: USAF.
|
Chiến dịch này diễn ra như mọi cuộc không kích nhằm vào lãnh thổ Nhật
trước đó. Mở đầu là còi báo động và âm thanh từ oanh tạc cơ trong đêm,
theo sau là tiếng lộp bộp khi bom cháy rơi xuống mái nhà. Nhiều tiếng nổ
rung chuyển mặt đất sau đó vang lên khắp thành phố Tokyo.
Tiếng la hét thất thanh lớn dần khi ngọn lửa lan ra. Những ngọn lửa đơn
lẻ nhanh chóng nhập vào nhau, tạo thành hàng loạt đám cháy lớn. Thêm
nhiều quả bom cháy rơi xuống, tạo nên những đám cháy nuốt trọn cả một
khu phố. Ngọn lửa hút không khí từ những khu vực xung quanh, tạo nên
những cơn gió mạnh cuốn theo đồ đạc và cả con người vào cơn cuồng phong
lửa ở trung tâm. Khung cảnh Tokyo khi đó được ví như một địa ngục trên
mặt đất.
Cuộc không kích kết thúc chỉ trong chưa đầy một tiếng. Sức nóng từ những
ngọn lửa hơn 600 độ C tạo nên những cột khí nóng khổng lồ, gây nhiễu
loạn cho chính những oanh tạc cơ B-29 cuối cùng tới ném bom Tokyo. Mục
tiêu phía dưới bị lửa và khói che khuất, khiến các máy bay này không thể
nhắm mục tiêu khi ném bom.
Những người trải qua chiến dịch Meetinghouse của cả hai bên đều chia sẻ
những điều đáng sợ tương tự nhau. Sáng 10/3, sự im lặng bao trùm lên
khắp thành phố Tokyo. Người sống sót lang thang với lớp da và quần áo
cháy xém, moi móc tàn tích sau đám cháy để tìm những thứ tận dụng được.
Các tổ bay B-29 kiệt sức và có dấu hiệu rối loạn tâm lý sau sang chấn,
căn bệnh phổ biến với những quân nhân trải qua tình huống chiến đấu nguy
hiểm hoặc chứng kiến thiệt hại khủng khiếp của chiến tranh. Chiến dịch
Meetinghouse làm thay đổi cả hai phía, kể cả tướng Curtis Lemay vốn lạnh
lùng cũng tỏ ra kinh hãi vì thiệt hại sau trận ném bom.
Bức tranh mô tả trận bão lửa do một người sống sót vẽ. Ảnh: USAF.
|
Số người thiệt mạng trong chiến dịch Meetinghouse vẫn còn gây tranh cãi.
Đánh giá thiệt hại của quân đội Mỹ cho rằng ít nhất có 88.000 người
chết ngay trong trận ném bom, một số sử gia khẳng định con số này lên
tới 200.000 người. Hơn một triệu người lâm vào cảnh vô gia cư, trong khi
nhiều nạn nhân bị thương cũng chết dần vì dịch bệnh và đói ăn.
Dù có quy mô rất lớn, chiến dịch này hầu như không được nhắc đến trong
các cuốn sách lịch sử về Thế chiến II của Mỹ. Rất ít nhiều người biết về
Meetinghouse, trong khi các bài học lịch sử gần như không bao giờ nhắc
tới cuộc không kích đẫm máu này.
Việt Hòa
Quân Anh kinh hoàng trước các phi công cảm tử Thần Phong của Nhật Bản
VOV.VN - Chiến thuật phi
công cảm tử Thần Phong (kamikaze) của người Nhật vào cuối Thế chiến 2 đã
khiến quân đội Anh phải căng óc đối phó.
Tháng Giêng năm 2016 đánh dấu ngày kỷ niệm một sự kiện lớn trong lịch sử hải quân Anh mà ít người biết đến.
Vào
ngày 24 và 29 tháng 1/1945, máy bay Anh đã thực hiện 2 cuộc tấn công
táo bạo giữa ban ngày vào các nhà máy lọc dầu của Nhật Bản ở Palembang,
Sumatra. Với hơn 100 máy bay xuất kích từ hàng không mẫu hạm và 200 phi
hành đoàn, đây là chiến dịch không vận riêng lẻ lớn nhất của hải quân
Hoàng gia Anh trong Thế chiến thứ 2.
Anh tổn thất 41 máy bay Anh trong 378 phi vụ. 30 phi công Anh thiệt mạng, trong số này có 10 phi công bị lính Nhật hành quyết.
Vụ tấn công trực
diện do quân Đồng minh tiến hành nhằm vào một trong các vị trí chiến
lược nhất bên trong lãnh thổ do Nhật Bản kiểm soát khi ấy cho thấy phe
Đồng minh điều chỉnh chiến lược theo hướng đẩy nhanh nhịp độ cuộc chiến
trong bối cảnh cuộc chiến tranh chống phát xít Nhật Bản đang bước sang
một ngã rẽ mới.
Khơi mào đòn cảm tử
Tuy nhiên cuộc
tấn công của Anh đã “chọc vào ổ kiến lửa”. Phía Nhật đã đáp trả, bằng
loạt tấn công cảm tử bằng máy bay nhằm vào chiến hạm Anh lần đầu tiên.
Một sĩ quan Anh
sau đó thừa nhận: “Với tư cách là một vũ khí khủng bố, chiêu kamikaze
này thực sự gây ra những trở ngại nhất định... Cho dù bạn ở đâu, những phi công cảm tử này chỉ chăm chăm lao vào bạn.”
Thủ tướng Anh Winston Churchill đã hối thúc các chỉ huy “đào sâu suy nghĩ để tìm ra giải pháp cho mối nguy hiểm lớn này”.
Những người dám liều mình như thế này là ai và tại sao Nhật Bản dùng đến các biện pháp cực đoan như vậy?
Hồi tháng 10/1944 quân Mỹ bắt đầu cuộc chiến giành giật lại Philippines mà Nhật Bản đã chiếm đóng từ 2 năm trước đó.
Nhật
Bản biết lực lượng không quân của mình không phải là đối thủ của không
quân phe Đồng mình. Họ đã nhanh chóng chịu tổn thất về phi công và máy
bay. Trước tình cảnh này, Nhật Bản quyết định gắn những quả bom nặng hơn
2 tạ vào máy bay của họ rồi lao thẳng những chiếc phi cơ này vào mục
tiêu nhằm gây ra thiệt hại lớn hơn so với các cuộc tấn công thông
thường.
Trong một cuộc
tấn công liều chết, cơ may đánh trúng một chiến hạm tăng lên thêm
15-20%. Ban lãnh đạo Nhật Bản tính toán rằng, nếu người Mỹ bị đổ máu đến
một ngưỡng nào đó thì Tổng thống Mỹ Roosevelt sẽ phải chịu nhượng bộ
trước áp lực của công chúng, sẽ không còn bụng dạ nào để mở một cuộc xâm
lược tổng lực nhằm vào Nhật Bản. Khi ấy hai bên có thể đi tới đàm phán
hòa bình.
Khái niệm “Thần
Phong” bắt nguồn từ một trận cuồng phong đã cứu Nhật Bản thoát khỏi họa
xâm lược của hạm đội Mông Cổ vào năm 1281.
Đòn Thần Phong giết 100 quân Mỹ
Lúc 7h25 vào ngày
25/10/1944, Yukio Seki – một học viên tốt nghiệp học viện hải quân
Nhật, đồng thời là con trai của một người buôn đồ cổ, nâng cốc chúc mừng
Nhật hoàng Hirohito, rồi trèo lên máy bay của mình và chuẩn bị “làm nên
lịch sử”. Seki lúc đó 23 tuổi, lớn lên ở vùng nông thôn Nhật Bản.
Anh ta đặc biệt
ham mê vẽ và đã đem lòng yêu rồi kết hôn với người con gái của một gia
đình sống gần trường bay mà anh ta theo học. Nhưng hạnh phúc của đôi
uyên ương chẳng tày gang. Seki sau đó xung phong tham gia cuộc tấn công kamikaze.
Seki
nói với cha mẹ mình: “Con sẽ dùng cả chiếc máy bay con lái để lao trực
diện vào tàu sân bay của địch, nhằm đáp lại lòng tốt của Thiên hoàng”.
Khoảng 3 tiếng
đồng hồ rưỡi sau khi cất cánh từ một sân bay ở Philippines, Seki lao
nguyên chiếc phi cơ Mitsubishi Zero vào boong của tàu chiến Mỹ USS St
Lo. Quả cầu lửa lớn từ vụ va chạm mạnh này xuyên thủng khu vực boong và
nhà chứa máy bay trên hàng không mẫu hạm Mỹ, giết chết hơn 100 quân nhân
Mỹ.
Seki đã “làm nên
lịch sử” và được người Nhật coi là anh hùng. Người Nhật nhanh chóng hình
thành các “đơn vị tấn công đặc biệt” dựa trên một lực lượng tình nguyện
viên đông đảo sẵn sàng hy sinh mạng sống của họ. Nhiều người trong số
họ muốn chết vì một cái gì đó tốt đẹp hơn, nhưng cũng có nhiều người
hành động đơn thuần vì thể diện.
Hàng trăm phi
công non trẻ được nhanh chóng đào tạo cho các phi vụ kamikaze. Đa số
những người này ở độ tuổi 18-24. Người trẻ nhất mới chỉ 17 tuổi. Vào đêm
trước khi thực thi nhiệm vụ, một số phi công nghe nhạc hoặc biên những
lá thư cuối cùng gửi cho gia đình.
Các bức ảnh ghi
lại khuôn mặt đang mỉm cười của họ dù cho họ sắp đối mặt với cái chết
gần như cầm chắc trong tay. Tại sân bay, các nhóm nữ sinh vẫy các bông
hoa anh đào tiễn biệt những chiếc phi cơ cất cánh.
Chiến thuật
kamikaze rất đa dạng. Một số phi công khéo léo ẩn nấp trong mây để tránh
các tiêm kích cơ bảo vệ của phe Đồng minh. Họ cũng sử dụng mồi nhử để
đánh lạc hướng các máy bay tiêm kích đối phương trong khi các máy bay
Nhật khác chia thành các nhóm nhỏ trước khi bổ nhào tấn công tàu địch.
Một khi một chiếc
phi cơ Thần Phong va đập mạnh với boong tàu, các thủy thủ phe Đồng minh
sẽ phải đối mặt với cái chết hoặc thương tích kinh hoàng khi mà hàng
ngàn tấn nhiên liệu ở nhà chứa máy bay trên tàu bắt lửa. Và chẳng bao
lâu sau người Anh được “nếm mùi” đòn hiểm này của người Nhật.
Trận chiến Anh-Nhật
Vào tháng 3/1945, Hạm đội Thái Bình Dương của Anh – hạm đội lớn nhất của Hải quân Hoàng gia Anh trong Thế chiến thứ 2, đi gần 6.500km đường biển về phía bắc từ căn cứ ở Sydney để hội quân với Hạm đội 5 của Mỹ.
Đội
hình này được dẫn đầu bởi 4 tàu sân bay, với hơn 250 máy bay và 10.000
thủy thủ và phi công. Người Mỹ chuẩn bị xâm chiếm đảo Okinawa ở Thái
Bình Dương, từ đó họ có thể đánh chiếm Nhật Bản, chỉ cách hơn 560km về
phía bắc.
Người Nhật nghênh
chiến một cách dữ dội. Các phi công của Hạm đội Thái Bình Dương của Anh
được trao nhiệm vụ săn các phi cơ Thần Phong.
Vào ngày 1/4,
radar của Hạm đội Anh đóng cách 322km về phía đông nam phát hiện một đội
hình khoảng 20 máy bay địch đang lao nhanh tới.
Máy bay của hải
quân Anh được lệnh lao lên đánh chặn. Các máy bay khác từ các tàu sân
bay cũng cất cánh để củng cố thế trận phòng thủ.
Một chiếc phi cơ
Zero Nhật Bản đột phá qua lưới lửa cao xạ của hạm đội. Chiếc Zero này bị
một chiếc phi cơ Seafire của Anh theo sát. Chiếc Seafire này do viên
phi công Dickie Reynolds 22 tuổi quê ở Cambridge (Anh) điều khiển.
Dickie Reynolds có kỹ thuật tốt trong việc bắn hạ máy bay đối phương.
Nhưng trước khi
Reynolds ra đòn hạ gục đối phương, chiếc Zero đã kịp nghiêng cánh và lao
thẳng xuống boong chiếc tàu sân bay Indefatigable, tạo ra một quả cầu
lửa khổng lồ khiến 3 sĩ quan chết ngay tại chỗ.
Bất chấp việc chiếc tàu bị tổn hại nặng, gần một tiếng đồng hồ sau đó, các máy bay vẫn cất và hạ cánh trên chiếc tàu này.
Không như các tàu
sân bay Mỹ có boong bay bằng gỗ, tàu Anh có các boong bay với lớp thép
dày hơn 10cm. Một sĩ quan liên lạc Mỹ đánh giá: “Khi một phi cơ Thần
Phong đánh trúng một tàu sân bay Mỹ, thì kiểu gì tàu này cũng mất 6
tháng sửa chữa ở Trân Châu cảng.”
Vào ngày 4/5, các
phi cơ kamikaze tiếp tục tấn công, đánh trúng tàu sân bay Formidable
của Anh. Một thủy thủ khác, đến từ Portsmouth, từng nếm trải các cuộc
không kích của Đức, nhớ lại: “Đó là lần đầu tiên cả một chiếc máy bay
lao thẳng vào tôi”.
VOV.VN - Sự thật về phi công
Thần Phong (Kamikaze) được hé lộ qua những người sống sót. Tuy là quân
phát xít, họ khác biệt nhiều với những kẻ đánh bom tự sát ngày nay.
Từ 1/4 đến
9/5/1945, tất thảy mọi tàu sân bay Anh đi riêng lẻ ngoài mặt trận đều bị
các máy bay kamikaze của Nhật “thăm hỏi”, khiến Anh hứng chịu tổn thất
là 44 quân nhân bị chết, gần 100 người khác bị thương. Các phi công của
Anh bắn hạ hơn 40 máy bay Nhật – đa số là các máy bay tấn công tự sát.
Mặc dù vậy, Đô
đốc Mỹ Chester Nimitz vẫn ghi nhận vai trò của Hạm đội Anh đã giúp tàu
Mỹ giảm bớt áp lực từ phía kamikaze khi tàu của họ đóng ngoài khơi
Okinawa. Theo ông này, vai trò của Anh vừa là bắn hạ phi cơ Thần Phong,
vừa là hứng chịu các đòn tấn công cảm tử từ các máy bay này./.
Thế chiến 2:
Hé lộ những góc khuất về phi công cảm tử Thần Phong
VOV.VN - Sự thật về phi công
Thần Phong (Kamikaze) được hé lộ qua những người sống sót. Tuy là quân
phát xít, họ khác biệt nhiều với những kẻ đánh bom tự sát ngày nay.
Một chiếc phi cơ Thần Phong trúng đạn từ tàu sân bay Mỹ (ảnh minh họa của aviation-art) |
Đó là vào năm
1945. Nhiều người trong số họ là sinh viên đại học mà trước đó được miễn
thực hiện nghĩa vụ quân sự. Nhưng vào thời điểm này Nhật Bản đang cạn
dần quân.
Hisashi Tezuka
nhớ lại một số đồng đội đã nhanh chóng điền vào lá đơn rồi hùng dũng
bước đi. Nhưng ông và đa phần những người khác ngồi nấn ná trong hàng
giờ liền, dường như không thể quyết định được phải chọn câu trả lời nào
trong đơn.
Ông không biết
khi đó liệu có ai dám từ chối hay không. Sau này ông được biết rằng số
ít người làm như vậy đã được nhắc nhở phải chọn câu trả lời “đúng”.
Tezuka vẫn muốn
thành thực với cảm xúc thật trong con người mình nên ông gạch lựa chọn
thứ 2 và viết ra câu trả lời của riêng mình: “Tôi sẽ gia nhập”.
Tezuka nói với hãng tin AP tại căn hộ của mình ở ngoại ô Tokyo: “Tôi không muốn nói là tôi cầu ước được làm việc đó. Tôi không muốn thế”.
Họ là các kamikaze, tức là các phi công Thần Phong, được lệnh lao máy bay của mình vào các mục tiêu theo lối cảm tử.
Biến mình thành một quả đạn, một phi cơ Kamikaze của Nhật lao thẳng vào một tàu chiến Mỹ vào tháng 10/1944 (ảnh tư liệu của AP) |
Các dữ liệu và
cuộc điều tra cuộc Ném bom Chiến lược của Mỹ được lưu trữ tại ngôi đền
Yasukuni ở Tokyo ước tính khoảng 2.500 phi công Kamikaze đã thiệt mạng
trong cuộc Chiến tranh Thế giới thứ 2 mà Nhật Bản tham gia. Một số sách lịch sử đưa ra con số cao hơn.
Sách vở và phim
ảnh đã mô tả họ như những kẻ đánh bom liều chết hô to từ “Banzai” khi
sắp đâm được vào mục tiêu. Nhưng các cuộc phỏng vấn với những phi công
sống sót và gia đình của họ cũng như thư từ và tài liệu đã cho thấy một
hình ảnh khác – những nam giới hành động xuất phát từ lòng yêu nước,
tinh thần xả thân và sự cần thiết. Thế giới họ sống giống như một lá
đơn đa lựa chọn: Nó không có sự lựa chọn thật cho họ.
Tất cả đều đã “lập trình” để chết
Người ta không lựa chọn những người là con trai cả trong gia đình, nhằm
bảo vệ hương hỏa gia đình trong một nước Nhật còn mang nặng óc phong
kiến. Tezuka, khi ấy là một sinh viên tại Đại học Tokyo danh tiếng, có 6
anh em trai và một chị gái. Ông không phải là con trai cả. Ông cười
buồn bã bảo, mình là một sự lựa chọn tốt.
Ông Tezuka cầm ảnh chân dung của chính mình thời trai trẻ, khi là một phi công cảm tử Thần Phong (ảnh: AP, tháng 4/2015) |
Tezuka được nghỉ
phép 5 ngày để về thăm cha mẹ. Ông không có lòng dạ nào để nói thật với
họ rằng mình đã được đưa vào đội ngũ các phi công ném bom cảm tử.
Tezuka nói: “Anh bay tới mục tiêu và mọi việc thế là kết thúc”.
Ông sống sót được
là nhờ Nhật hoàng Hirohito loan báo trên sóng phát thanh việc nước Nhật
đầu hàng. Khi ấy Tezuka đang trên đoàn tàu đưa ông tới nơi thực hiện
nhiệm vụ tấn công cảm tử.
Ông nói: “Tôi đã nằm trong kế hoạch quyết tử. Đầu óc tôi hoàn toàn trống rỗng”.
Khi ấy Tezuka mới 23 tuổi. Nay ông đã 93 tuổi. Ông kể, vậy là mình sống gấp 4 lần tuổi thọ của nhiều phi công kamikaze.
Tezuka yêu thích
lái chiếc chiến đấu cơ Zero, đến nỗi mà sau chiến tranh ông không thể
nào chịu được việc bay trên một chiếc máy bay thương mại. Ông cũng chán
ghét chiến tranh nên không muốn gia nhập quân đội nữa, thế là ông mở một
doanh nghiệp về tư vấn nhập khẩu.
Tezuka hay đi
thăm những người nông dân Mỹ. Ông không bao giờ nói với họ rằng ông từng
là phi công Thần Phong cảm tử của Nhật Bản.
Một người đàn ông
tráng kiện và nhanh trí, Tezuka trao cho phóng viên một bức ảnh màu nâu
úa chụp ông khi là một phi công lái Zero, miệng cười, đầu đội mũ phi
công, cổ quàng chiếc khăn lụa màu trắng đã thành thương hiệu.
Ông giải thích: “Khăn này là để giữ ấm. Bay trên cao thực sự là lạnh.”
Ông cầm một mô
hình đồ chơi của máy bay Zero – đây là một món quà của con gái ông. Ông
mỉm cười khi bật động cơ cánh quạt kêu ro ro của chiếc máy báy đồ chơi.
Tezuka nhớ lại
quá trình huấn luyện, bay theo đội hình hoành tráng qua các cánh rừng và
hồ. Cảnh đẹp mê ly đến mức bạn gần như quên đi tình trạng chiến tranh
khi đó.
“Anh có biết cầu
vồng trông như thế nào khi mình đang bay không?”. Đôi mắt ánh lên vẻ
thích thú kiểu trẻ thơ, ông trả lời luôn: “Đó là một vòng tròn hoàn
hảo”.
Người yêu của các phi công cảm tử
Các phi công Zero
là những người được ngưỡng mộ thời đó trong xã hội Nhật Bản. Trong các
bức ảnh úa vàng theo thời gian, họ tạo dáng để chụp chân dung, ôm vai bá
cổ nhau, nở những nụ cười thật to, dường như không bận tâm đến những gì
sắp xảy tới với mình. Kính bay của họ được gác lên mũ bảo hiểm, khăn
choàng nhét dưới làn áo jacket.
Máy bay Zero giành được sự kính nể từ cả đối phương. Một số người Nhật Bản ghi tên nhập ngũ chỉ để được bay bằng máy bay này.
Ông Masao Kanai tử trận trong một chiến dịch kamikaze ở Okinawa vào năm 1945, khi ông này mới 23 tuổi.
Trong một chương
trình khuyến khích các sinh viên ủng hộ quân đội Đế chế Nhật, ông đã
viết thư trao đổi qua lại với một nữ sinh 17 tuổi, tên là Toshi Negishi.
Tổng cộng họ đã trao đổi tới 200 lá thư.
Có lần họ định hẹn hò với nhau, khi ông có cơ hội hiếm hoi được tạm
ngừng huấn luyện và đi thăm thủ đô Tokyo. Đó là vào ngày 10/3/1945, ngay
sau khi Tokyo hứng chịu các cuộc không kích ồ ạt. Thế là cả hai chẳng
bao giờ gặp được nhau nữa.
Hai món quà hình trái tim và hình chiến đấu cơ Zero mà phi công cảm tử Kanai tự đẽo tặng cô nữ sinh trước khi anh này tử trận ở Okinawa vào năm 1945 (ảnh: AP) |
Trước khi lên máy
bay thực hiện phi vụ cuối cùng trong đời, ông gửi 2 món đồ trang sức
nho nhỏ cho cô nữ sinh kia. Đó là 2 vật ông tự tay khắc ra từ kính buồng
lái – một trái tim và một chiếc Zero bé xíu. Trái tim có các chữ cái T
và M khắc lồng lên nhau, là chữ viết tắt tên của hai người.
Negishi đeo các đồ trang sức này duy nhất một lần. Bà cất giữ chúng trong một chiếc hòm suốt 70 năm qua.
Gần đây bà lão
tặng đồ trang sức làm bằng tay này cho một công trình tưởng niệm đơn vị
không quân hải quân Tsukuba – một bộ chỉ huy và trung tâm huấn luyện
dành cho các kamikaze ở Kasama, phía bắc Tokyo. Các tình nguyện viên
trong cộng đồng quyết tâm gìn giữ ký ức về các kamikaze, họ đang cố gắng
ngăn cản các kế hoạch xé bỏ công trình đó khỏi thời kỳ này.
Mặc dù có các đài
tượng niệm khác dành cho kamikaze, nhưng cho đến tận gần đây vẫn chưa
có ai xem xét nghiêm túc hoặc tập hợp tài liệu về lịch sử của tòa nhà
Tsukuba.
Trong một bộ phim
sắp được trình chiếu do các tình nguyện viên làm, bà Negishi nhấn mạnh:
“Phải có người nhớ về quá khứ. Nếu không, sẽ gây tổn thương rất nhiều”.
Các tình nguyện
viên đã mở một cuộc triển lãm các bức ảnh, thư từ, mũ và bộ phận của
chiếc máy bay Zero cũng như các hiện vật của giai đoạn Thần Phong. Trong
số đó là bức thư cuối cùng của Kanai gửi cho gia đình. Bức thư có đoạn:
“Con không biết phải bắt đầu từ đâu. Ngoài kia mưa đang rơi tí tách.
Chiếc radio phát ra bài hát khe khẽ. Một buổi tối thật yên bình. Chúng
con sẽ đợi tới khi trời quang đãng và cất cánh thực hiện nhiệm vụ. Nếu
không vì trời mưa thì giờ này con đã đi lâu rồi.”
Một trong những
bức ảnh ám ảnh nhất được trưng bày ghi lại cảnh một phụ nữ trong trang
phục kimono dành cho cô dâu, đang ngồi bên hàng chục người nhà và ôm lấy
một khung ảnh của người chồng chưa cưới đã chết của mình, một phi công
kamikaze. Cô dâu trong đám cưới sau khi vị hôn phu qua đời đó nhìn thẳng
vào máy ảnh, gương mặt thẫn thờ.
Lá thư cuối cùng mà Nobuaki Fujita, 22 tuổi, viết cho cô dâu này cũng được trưng bày tại triển lãm nói trên.
“Đời sau, kiếp
sau, rồi kiếp sau nữa, hãy cưới anh,” người phi công viết. “Mutsue, tạm
biệt em nhé. Mutsue, Mutsue, Mutsue, Mutsue yêu dấu nhất của anh”.
Dằn vặt vì vẫn còn sống khi đồng đội đã chết
70 năm sau khi
Thế chiến 2 kết thúc, đường băng năm nào trải dài ở Tsukuba đã không còn
từ lâu. Nhưng những hàng cây anh đào thì vẫn đứng đó.
Tại một góc khác
của khu vực Tsukuba, một hầm tránh bom tối đen như mực khi đi qua mấy
lớp khoang. Chiếc hầm được thiết kế để phục vụ một bộ chỉ huy khẩn cấp
trong trường hợp máy bay Mỹ ném bom phá hủy tòa nhà chính. Nó làm người
ta nhớ tới quyết tâm đầy ảo tưởng của quân đội Đế chế muốn tiếp tục
kháng cự bằng bất cứ giá nào.
Trong huấn luyện,
các phi công liên tục thực hiện các thao tác nguy hiểm như cắm thẳng từ
trên cao xuống, để tập đâm vào mục tiêu cần tiêu diệt. Họ phải bẻ cần
lái gấp để chuyển hướng bay khi sắp va chạm với mặt đất, rồi vút trở lại
bầu trời. Trọng lực kéo rất mạnh lên cơ thể họ khi ấy.
Khi làm như thế
trên chiến trường, họ được hướng dẫn gửi tín hiệu vô tuyến cuối cùng
bằng mã Morse và duy trì việc phát tín hiệu đó. Ở phòng thu phát, người
ta biết viên phi công đã chết khi nào tiếng bíp kéo dài đó biến mất.
Yoshiomi Yanai, hiện nay 93 tuổi, sống sót do ông không thể định vị mục
tiêu của mình – một lỗi hiếm gặp đối với một chiến dịch kamikaze. Ông
hay lui tới thăm cơ sở Tsukuba.
Ông Yanai giới thiệu di chúc của mình trước khi lên máy bay thực hiện nhiệm vụ cảm tử trong cuộc chiến với tàu chiến Mỹ (ảnh AP, tháng 4/2015) |
Yanai khóc thương cho số phận các đồng đội đã chết quá trẻ, chưa thực sự được trải nghiệm cuộc sống.
Ông vẫn lưu giữ
những gì ông định gửi cho cha mẹ trước khi ông lẽ ra đã tử trận. Đó là
một cuốn album ông gói cẩn thận trong một tấm vải furoshiki truyền
thống. Ông gắn đầy các trang album với những bức ảnh ông đang cười sảng
khoái với đồng đội cũng như bức ảnh ghi lại những giây phút hạnh phúc
khác. Ông nhờ một người bạn cũng là phi công vẽ hình chiếc Zero vào
album của mình.
Trong những trang
đầu của album, ông viết bằng những con chữ to: “Thưa cha, thưa mẹ, con
sắp cất cánh rồi. Con sẽ chết với một nụ cười. Xin cha mẹ tha thứ cho
đứa con trai bất hiếu này. Con xin được đi trước. Con sẽ đợi cha mẹ”.
Maxwell Taylor
Kennedy viết về kamikaze trong một cuốn sách năm 2008 có nhan đề “Giờ
khắc Nguy hiểm”. Ông cho biết, không cái gì khác ngoài tinh thần xả thân
đã thôi thúc các kamikaze.
Khi bắt đầu
nghiên cứu về kamikaze, ông nghĩ sẽ có yếu tố cuồng tín nào đó. Và rồi
ông ngạc nhiên khi thấy các kamikaze rất giống với các thanh niên Mỹ
cũng như thanh niên các nước khác trên thế giới. “Họ hết sức yêu nước,
nhưng cũng đồng thời sống vô cùng lý tưởng”.
Tác giả Kennedy nhấn mạnh rằng các phi công Thần Phong ít có điểm tương đồng với các kẻ đánh bom tự sát
hiện nay. Nhật Bản khi đó tham gia vào một cuộc chiến tranh quy ước.
Trên tất cả, các kamikaze không có sự lựa chọn nào khác. Vả lại, các mục
tiêu mà họ tấn công không phải là dân thường.
Trong một cuộc
phỏng vấn qua điện thoại từ Los Angeles, Kennedy nói: “Họ chăm sóc lẫn
nhau. Nếu ai đó không lên máy bay vào sáng hôm đó, thì người bạn cùng
phòng sẽ phải đi thay”.
Giết người chỉ bằng một chiếc bút chì
Máy bay được
thiết kế cho việc sử dụng trong các sứ mệnh kamikaze vốn dĩ không phải
là chiếc Zero mà là chiếc Ohka. Đây là một tàu lượn mang bom và có các
quả rocket nhỏ. Chúng được đưa tới gần mục tiêu, gắn dưới thân máy bay,
rồi thả tự do.
Ohka có nghĩa là
hoa anh đào. Người Mỹ gọi đó là “bom Baka”. Baka là từ tiếng Nhật, có
nghĩa là gã ngốc. Do tầm lượn rất ngắn nên chúng dễ dàng bị bắn hạ.
Fujio Hayashi,
khi ấy 22 tuổi, được trao nhiệm vụ giám sát và huấn luyện các phi công
lái tàu lượn Ohka rồi cuối cùng… đưa họ tới cái chết.
Trong nhiều thập
kỷ, ông Hayashi vẫn bị day dứt bởi cảm giác có tội khi đã đưa hàng chục
nam thanh niên Nhật vào chỗ chết, bằng “cây bút chì của mình”. Hồi đó
mỗi ngày ông lại viết ra tên những người thực hiện nhiệm vụ tấn công cảm
tử bằng tàu lượn Ohka. Để tránh bị hiểu lầm là thiên vị, ông lựa chọn
trước tiên những phi công mà ông quý mến.
Sau Chiến tranh
Thế giới thứ 2, Hayashi gia nhập quân đội mới của Nhật Bản, gọi là Lực
lượng Phòng vệ. Ông dự nhiều buổi lễ tưởng niệm các phi công đã chết.
Ông an ủi gia đình họ và nói với họ về sự hào hiệp của các phi công cảm
tử đó. Ông nói, họ cười trước cái chết của mình vì họ không muốn ai phải
khóc thương hoặc lo lắng về họ.
Trong một bài
tiểu luận nhan đề “Chiến dịch Cảm tử”, ông viết: “Ngày nào trong 365
ngày của năm, hễ tôi nhớ tới những người đã mất, nước mắt lại trực trào.
Tôi phải chạy vào phòng tắm và khóc ở đó. Lúc tôi khóc, tôi cảm thấy rõ
hình ảnh họ trong trái tim tôi, như thể ngày nào họ còn sống”.
Hayashi hầu như
không kể cho con cái mình về những tháng ngày làm việc bên các kamikaze.
Các con ông chỉ biết ông là một người cha yêu nhạc cổ điển, thường
xuyên đưa họ đi công viên và rất yêu loài mèo.
Hayashi nói: “Tôi
nghĩ tới nhiều thanh niên mà tôi đã giết chết bằng chiếc bút chì của
mình. Tôi xin lỗi đã giết họ trong vô vọng.”
Ông lão kể ông
muốn khi chết, tro của ông sẽ được rải xuống vùng biển gần quần đảo
Okinawa nơi các phi công của ông đã tử trận. Ông nói, chỉ khi ấy cuộc
chiến một thời của ông mới kết thúc.
Hayashi qua đời vào ngày 4/6 vừa rồi, thọ 93 tuổi. Gia đình ông đã lên kế hoạch thực hiện nguyện ước của ông./.
Phút cận kề cái chết của hai phi công cảm tử Nhật Bản
Phục vụ trong phi đội thiện chiến Thần phong của
Nhật Bản, ngỡ rằng sẽ được hy sinh vì tổ quốc, nhưng ông Hisao Horiyama
và ông Takehiko Ena lại may mắn thoát chết khi chuẩn bị đối đầu với quân
Đồng minh trong thế chiến II.
Cựu phi công Hisao Horiyama. Ảnh: Guardian
|
Ông Hisao Horiyama lần đầu tiên được biết cách mình sẽ chết thông qua một tờ giấy trắng năm 21 tuổi.
Đó là vào cuối năm 1944 khi quân Đồng Minh dần chiếm thế thượng phong
trước Nhật Bản. Trong bối cảnh đó, các lãnh đạo quân sự của Tokyo quyết
định thành lập biệt đội Thần phong, gồm những binh sĩ tận trung, sẵn
sàng chết vì chiến thắng của Thiên hoàng. Và ông Horiyama là một trong
số đó.
'Bỏ lỡ cơ hội được chết'
Để các đợt tấn công cảm tử thành công, lực lượng không quân và hải
quân cần một đội phi công trẻ. Nhiều người trong số họ được điều chuyển
từ lực lượng khác và từ các trường đại học tốt nhất của Nhật Bản.
Trước khi được lệnh chuyển sang không quân, ông Horiyama vốn là anh lính
trẻ thuộc một đơn vị pháo binh của quân đội hoàng gia Nhật Bản.
Ông cho biết sau khi hoàn thành khóa đào tạo, những thành viên của biệt
đội Thần phong nhận được một tờ giấy trắng ghi 3 lựa chọn: tha thiết
tình nguyện chết, tình nguyện chết, hoặc rút lui.
Tuy nhiên, khi buộc phải tham gia cuộc chiến giữa Nhật Bản và phe Đồng
minh lúc mới 21 tuổi, ông Horiyama hiểu rằng mình chỉ có lựa chọn duy
nhất. Không chút do dự, ông chấp nhận việc lái chiến đấu cơ lao vào mạn
tàu chiến của Mỹ.
"Khi chúng tôi vừa tốt nghiệp trường đào tạo của quân đội, Thiên hoàng
Hirohito đã cưỡi một con ngựa trắng tới thăm đơn vị của chúng tôi. Khi
đó tôi nghĩ, đây là dấu hiệu cho thấy ngài sẽ đích thân yêu cầu chúng
tôi thực hiện nhiệm vụ", ông kể. "Tôi biết là mình chẳng còn lựa chọn
nào khác ngoài phải chết vì ngài. Thời điểm đó, chúng tôi đều tin rằng,
Thiên hoàng và đất nước Nhật Bản là một và giống nhau".
Với hành động tự sát này, ông, cũng như nhiều người khác, sẽ kết thúc
cuộc đời của mình trong danh dự là một chiến sĩ ưu tú của Thiên hoàng
lúc bấy giờ.
"Chúng tôi không nghĩ nhiều về cái chết. Chúng tôi được huấn luyện
để kiềm chế cảm xúc. Thậm chí nếu buộc phải chết, chúng tôi cũng phải
tự nhủ rằng, mình chết vì lý do chính đáng. Chết chính là bước cuối cùng
để hoàn thành nhiệm vụ và chúng tôi được lệnh không được quay trở về.
Chúng tôi biết rằng nếu sống sót trở về, chỉ huy sẽ rất tức giận", ông
Horiyama cho hay.
Một máy bay thuộc phi đội Thần phong lượn bên tàu chiến Mỹ năm 1944. Ảnh: AP
|
Như mọi phi công được tuyển chọn để làm nhiệm vụ cảm tử, ông Horiyama được viết một chúc thư và một lá thư gửi cho bố mẹ.
"Tôi là một đứa trẻ ngang ngược và hay bị điểm kém ở trường. Tôi nói với
bố tôi rằng tôi xin lỗi vì từng là một đứa học sinh kém, xin lỗi vì đã
phá hỏng 3 chiến đấu cơ trong quá trình huấn luyện. Và tôi cũng rất tiếc
khi cuộc chiến này dường như đang chống lại Nhật Bản. Tôi muốn chứng
minh bản thân với ông ấy và đó là lý do tại sao tôi tình nguyện tham gia
đơn vị chiến đấu đặc biệt này", ông kể.
"Nhưng mẹ tôi đã rất buồn. Ngay trước khi qua đời, bà nói với tôi rằng
bà sẽ không bao giờ tha thứ cho bố tôi nếu tôi tử trận trong đợt tấn
công nào đó. Vì vậy, tôi rất cảm kích Thiên hoàng khi ông quyết định đầu
hàng".
Nhật Bản vẫn kêu gọi các phi công tham gia nhiệm vụ cảm tử cho đến tận
ngày 15/8/1945, ngày hoàng đế Hirohito tuyên bố với một dân tộc đang tan
nát cõi lòng vì các vụ tấn công nguyên tử ở Hiroshima và Nagasaki, rằng
Nhật Bản đầu hàng.
"Tôi không thể nghe rõ thông báo đó trên đài NHK do tạp âm. Một người
bật khóc lớn. Và đó là lúc tôi biết, chúng tôi đã thua", ông Horiyama
nói.
70 năm trôi qua, ông Horiyama, 92 tuổi, hiện sống với vợ ở Tokyo.
Trong phòng khách, ông đặt mô hình của một chiếc chiến đấu cơ bên cạnh
kệ sách. Một góc nhà khác lại xếp đầy hộp các-tông với những tấm ảnh đen
trắng chụp các phi công của biệt đội Thần phong, những mẩu tin về các
cựu chiến binh được cắt ra từ báo hay tạp chí.
"Tôi thấy rất tồi tệ vì không thể hy sinh thân mình cho đất nước. Những
đồng đội đã hy sinh của tôi sẽ được tưởng nhớ trong vinh quang, còn tôi
đã bỏ lỡ cơ hội để chết theo cách ấy. Tôi có cảm giác như mình đã khiến
tất cả mọi người thất vọng".
Thoát chết vào phút chót
Tính đến tháng 1/1945, đã có hơn 500 chiếc chiến đấu cơ Thần phong tham
gia nhiệm vụ cảm tử. Con số này ngày càng tăng do nỗi lo sợ rằng Mỹ sẽ
chiếm đóng các đảo lớn của Nhật.
Khi chiến tranh kết thúc, hơn 3.800 phi công đã hy sinh. Mặc dù vẫn có
những bất đồng về tính hiệu quả của biệt đội Phong thần, những đợt tấn
công tự sát như vậy đã giúp Nhật đánh chìm hoặc gây thương vong lớn cho
tàu chiến của Mỹ và phe Đồng minh.
Tuy nhiên, không phải phi công nào trong biệt đội Thần phong cũng
nhiệt thành trong lý tưởng hy sinh vì Tổ quốc như ông. Khi biết mình
được chọn để cho nhiệm vụ cảm tử này, Takehiko Ena đã vô cùng bối rối.
Cựu phi công Takehiko Ena. Ảnh: Guardian
|
"Tôi có cảm giác máu đang chảy trên mặt mình. Tôi và những phi công khác
đã chúc mừng nhau ngay khi lệnh ban xuống. Nghe có vẻ kỳ lạ nhưng đó
chẳng phải là tin tức đáng để chúc mừng", ông kể.
Ông Ena, 92 tuổi, được đưa vào hải quân khi vẫn còn là cậu sinh viên 20
tuổi học ngành kinh tế tại đại học danh tiếng Waseda ở Tokyo. Ông Ena
được cử tới tham gia đội phi công ở Kyushu, hòn đảo lớn ở cực nam của
Nhật Bản, hồi tháng 4/1945. Đây là thời điểm biệt đội Thần phong hoạt
động mạnh nhất.
Ông được tham gia lái thử nghiệm một chiến đấu cơ gắn một quả bom nặng
800 kg ở khung gầm. Và chiếc máy bay này chỉ có đủ nguyên liệu để bay
một chiều.
Đây là một phần trong chiến dịch Kikusui (tạm dịch là hoa cúc), một
chiến dịch đánh bom cảm tử tham vọng của Nhật Bản nhằm chống lại tàu
chiến của phe Đồng minh trong trận chiến ở Okinawa. Vào thời điểm đó,
Okinawa là một trong những chiến trường đẫm máu nhất ở Thái Bình Dương.
Vào giai đoạn cuối của Thế chiến thứ II, Nhật Bản phần lớn sử dụng những
chiếc máy bay cũ được tu sửa để thực hiện nhiệm vụ cảm tử. Rất nhiều
chiếc máy bay không thể khởi động hoặc gặp sự cố về động cơ trên đường
tiến tới mục tiêu. Phần lớn trong số đó đều bị tàu của phe Đồng minh bắn
hạ trước khi tiếp cận.
Đây là nỗi tuyệt vọng đối với các lãnh đạo quân sự Nhật Bản nhưng lại là sự cứu rỗi dành cho ông Ena.
Ngày 28/4/1945, ông Ena lái máy bay trên đường băng ở sân bay Kushira,
tỉnh Kagoshima, để đi thực hiện nhiệm vụ, nhưng chiếc máy bay không thể
cất cánh. Nhiệm vụ thứ hai của ông cũng kết thúc trong thất bại khi ông
phải hạ cánh khẩn cấp xuống một căn cứ quân đội do trục trặc về động cơ.
Hai tuần sau đó vào ngày 11/5, ông tiếp tục thực hiện nhiệm vụ thứ ba
cùng với một phi công 20 tuổi và nhân viên truyền tín hiệu 18 tuổi.
"Về bề ngoài, chúng tôi đang phục vụ cho đất nước của mình. Chúng tôi tự
nhủ rằng, chúng tôi đã được chọn để hy sinh. Còn tôi chỉ muốn bảo vệ bố
mẹ tôi thôi. Lúc đó, chúng tôi đều sợ hãi", ông nói.
Và rồi, động cơ máy bay của ông Ena lại gặp trục trặc, buộc ông phải hạ
cánh xuống biển. Ba thanh niên sống sót và bơi vào hòn đảo Kuroshima gần
đó. Họ sống ở đó trong hai tháng rưỡi trước khi được một tàu ngầm của
Nhật Bản đón đi.
Ông Ena khi còn là thành viên của Thần phong. Ảnh: Guardian
|
Ngay sau đó, Nhật Bản tuyên bố đầu hàng. Chiến tranh kết thúc và nhường
chỗ cho định hướng lạc quan về tương lai, dù Nhật Bản phải đối mặt với
gánh nặng tái thiết những thành phố bị tàn phá nặng nề và bồi thường
chiến phí.
"Chúng tôi cảm thấy buồn cho những người bạn đã hy sinh trong cuộc chiến
nhưng chúng tôi cũng cố gắng hình dung xem mình sẽ tái thiết Nhật Bản
như thế nào", ông nói.
Khi được hỏi về nỗ lực của Thủ tướng Shinzo Abe nhằm cho phép quân đội
Nhật Bản chiến đấu cùng các đồng minh ở hải ngoại lần đầu tiên kể từ sau
Thế chiến II, ông Ena tỏ ra giận dữ.
"70 năm qua chúng tôi được bảo vệ bởi một Hiến pháp luôn hướng tới hòa
bình. Tôi rất biết ơn vì chúng ta đã không tiếp tục chiến tranh vào năm
1945. Người Nhật Bản nên hạnh phúc vì điều đó", ông Ena nói.
Kim Dung (theo Guardian)
Nhận xét
Đăng nhận xét