KIẾP GIANG HỒ 164
(ĐC sưu tầm trên NET)
Tang vật vàng giả của Lê Văn Tụê và đồng bọn gây án
Đối tượng Lê Văn Tuệ
Năm 1997, Tuệ cùng đám đàn em hốt được trên 2kg vàng ở một hầm vàng bỏ hoang. Ngay sau đó cả bọn kéo về Đà Nẵng ăn chơi phung phí rồi rã đám. Khi Tuệ trở lại bãi vàng Phước Sơn cũng là lúc ở đây đang trúng vàng rất đậm, một ông chủ mời Tuệ ở lại cùng hợp tác làm ăn. Nhiệm vụ của Tuệ là làm hung thần giữ cửa. Chẳng phải làm gì nhưng vẫn được cung phụng đầy đủ. Có tiền cộng với thói chơi ngông, Tuệ nhanh chóng trở thành con nghiện. Khi có được vài chục cây vàng, Tuệ lại đi nhiều nơi ăn chơi. Đến khi hết tiền lại trở về bãi vàng. Suốt thời gian dài, Tuệ thả mình trong vòng luẩn quẩn không biết về đâu. Dần dần số tiền làm thuê không đủ phê ma túy mỗi ngày, Tuệ thấy chán nản và quyết định cai ma túy để hoàn lương.
Tiểu Sử Đại Ca Giang Hồ Khét Tiếng Xứ Vàng LÊ VĂN TUỆ - Con Đường Hoàn Lương Bất Thành
Lê Văn Tuệ
Bây
giờ, hắn là ông chủ nhỏ của một gia đình, có một vợ một con, một ngôi
nhà nhỏ mọc giữa khoảng vườn thưa đầy lá rụng. Từ sáng đến tối, hắn cần
mẫn úp mặt xuống đáy sông Tiên (xã Tiên Lộc, Tiên Phước, Quảng Nam) đãi
sỏi bán cho dân thầu xây dựng, kiếm từng 10 ngàn đồng một để nuôi vợ
nuôi con. Những người quen trong xóm đi qua, nhìn cái dáng lụi cụi, vất
vả và cam chịu của hắn chỉ lặng lẽ thở dài. Đám trai tráng ria mép chưa
kịp cứng thì tròn mắt ngạc nhiên. Không hiểu nổi có thật là hắn - đại ca
Lê Văn Tuệ khét tiếng, kẻ từng dám tiêu hoang cho đến hết một lúc hàng
trăm cây vàng, kẻ đã từng là nỗi khiếp hãi của cư dân bất hợp pháp vùng
vàng Phước Sơn - đấy không? Ai tròn mắt, ai ngạc nhiên... cứ việc. Với
Tuệ, tất cả đã thành quá vãng. Cái thời “thò tay vào túi là đụng phải
vàng” ấy đã qua rồi, qua mà không có gì đáng để nuối tiếc, bởi đó là
đoạn đường đầy những máu hận thù và nước mắt tủi nhục...
Hơn
18 năm trước, Lê Văn Tuệ chỉ là một thằng bé con nhà nghèo, đến lớp với
hai chân hai chiếc dép khác màu. Năm 1986, học hết lớp 12, chán cái
cảnh đến lớp với cái bụng lúc nào cũng óc a óc ách vì... đói, Tuệ xếp
sách vào bao tải treo lên xà nhà, theo bạn bè đi đãi vàng sa khoáng ở
Trà Giốc, Trà My, le lói trong lòng một khát vọng đổi đời. Nhưng vàng
đâu không thấy, chỉ thấy vàng hai con mắt. Sốt rét rừng quật ngã gục
giấc mơ hiền lành của thằng trai 16 tuổi. Tỉnh cơn nóng lạnh, Tuệ cùng
đám bạn lại lo... chạy, vì bị công an truy quét liên tục. Túng quá hóa
liều, nhóm của Tuệ bàn nhau đi “chấn”. Tháng 2.1992, Tuệ tham gia phi vụ
“ăn bay” đầu tiên, chấn được 2,6 cây vàng bổi. Số tiền này, cả bọn
không thằng nào dám tiêu, chúng đầu tư hết vào mua máy, máng xay vàng
tại bãi Tiên Hiệp, Tiên Phước. Không chút kinh nghiệm, chỉ ít ngày sau,
số vàng cướp được đã bốc hơi theo khói máy dầu. Chán nản, cả bọn dàn
cảnh đánh nhau để có cớ rã đám. 12 triệu đồng bán máy được chia đều cho 7
thằng, mỗi thằng lận lưng một ít và chia tay nhau. Từ đó, Tuệ bắt đầu
một đoạn đời kinh khủng mà dẫu có muốn cũng không quên được.
* * *
Ngày
18.3.1992, Tuệ ném mình vào giữa bãi đá Saphre Trường Xuân (Đắc Nông -
Đắc Lắc). Bãi vàng hay bãi đá quí thì cũng như nhau, đều là nơi bạo lực
đồng nghĩa với quyền lực. Đúng hôm Tuệ mò lên thì máng đãi của sáu thằng
oắt con cùng quê Nông Cống, Thanh Hóa vào cầu, nhặt được dăm bảy viên
đá “lốt” (deluxe). Lập tức, chiến tranh hầm hố xảy ra. Sáu thằng bé con
bị một đám dân anh chị trong bãi tấn công, đòi giao nộp chiến lợi phẩm.
“Kiến nghĩa bất vi vô dõng dã”, Tuệ tự động xắn tay áo xông vào trợ
chiến. Thấy có người giúp, bọn nhóc trở nên can đảm hẳn lên, lăn xả vào
trận, đánh cho đám gây hấn tan tác. Để trả nghĩa, chúng nằng nặc mời cao
thủ Lê Văn Tuệ “ở lại với anh em”. Chưa biết đi đâu, tiền mang theo
cũng đã cạn kiệt, Tuệ gật đầu ở lại làm “đấng chăn dắt” đám trẻ con thừa
máu liều nhưng thiếu kinh nghiệm và cô thân cô thế. Việc của Tuệ không
phải là nai lưng ra đào đãi mà là “bảo kê”, đứng ra dàn xếp những mối
bất hòa, thậm chí sẵn sàng động chân động tay khi có kẻ mò đến đòi tiền
bãi hay cướp phá. Nghề này Tuệ khá thạo, nhờ vào chút vốn “võ vườn” học
được từ những năm còn bé. Buổi tối, bọn trẻ lại vây tròn quanh Tuệ để
đại ca chỉ vẽ cho vài thế võ phòng thân.
Rừng
không hai cọp, đám anh chị trong bãi Saphre cay lắm, quyết tâm phục
kích nhổ bỏ cái gai trong mắt. Biết nguy hiểm đang rình rập, một hôm Tuệ
bảo đám em út đưa cho mình ít tiền và mò vào thị trấn Gia Nghĩa (Đắc
Nông). ở đó, Tuệ không mua sắm gì, chỉ ghé vào một tiệm tạp hóa và một
tiệm hàn, ăn một tô phở rồi về. Trong túi áo Tuệ có thêm một thứ “đồ
chơi” lạ mắt: một sợi dây mì đàn ghi ta, một đầu có gắn một cục chì
nặng, đầu kia buộc chết vào một chiếc vòng sắt, nắm vừa lọt tay, được
ông chủ tiệm hàn chế theo thiết kế của chính Tuệ.
Biết
chắc trận địa phục kích đang đợi mình, Lê Văn Tuệ nấn ná mãi đến 2 giờ
sáng mới quay vào bãi. Vừa qua khỏi cầu ván thứ nhất, hơn chục thằng cô
hồn đã bu lấy Tuệ với đủ thứ đồ chơi, từ cuốc, xà beng đến côn nhị khúc.
Nắm chắc chiếc vòng sắt, Tuệ múa tít sợi dây đàn. Đêm đen như mực,
“địch quân” không hề phát hiện được “đồ chơi” của Tuệ là thứ gì, chỉ
nghe tiếng gió rít vù vù, nhanh như chớp, và tiếng cục chì quật vào đầu,
vào lưng lốp bốp. Trận phục kích chỉ kéo dài chừng dăm phút, hơn chục
tên lót ổ đã thất kinh bỏ chạy, sau khi đã lãnh hàng chục vết thương.
Tuệ không đuổi theo, đúng hơn là không dám đuổi theo, chỉ vội vã thu sợi
dây đàn vào tay và bỏ chạy về lán, giấu kín nó vào người.
“Vũ
khí bí mật” của Tuệ đã nhanh chóng tạo nên nỗi khiếp hãi cho đám dân
anh chị vùng bãi đá. Chưa phát hiện được đích thực loại vũ khí mới, đám
cô hồn không dám mạo hiểm tấn công, chỉ lặng lẽ lủi đi, tránh không để
Tuệ gặp mặt. Nghiễm nhiên, Lê Văn Tuệ trở thành một đại ca đáng kiêng dè
trong mỏ đá, thỉnh thoảng lại được những lán vào cầu đem lễ vật đến
biếu xén, cống nộp để mong “được che chở”.
Được
yên ổn, sự kính trọng của đám trẻ con Nông Cống dành cho Tuệ đã trở
thành nỗi tôn sùng. Gom hết 13 cây vàng bán đá, chúng giao hết cho Tuệ,
nằng nặc yêu cầu Tuệ đi “tầm sư học đạo” để về lãnh đạo chúng lập băng,
nói trắng ra là đi học nghề... ăn cướp. Những thắng lợi đầu tiên nhờ máu
liều và chút khôn vặt đã đun sôi máu phiêu lưu trong huyết quản Lê Văn
Tuệ. Dù không biết sẽ phải đi đâu, học cái gì, Tuệ vẫn không thể phụ
lòng đám trẻ con, đành im lặng gật đầu và cất gói vàng vào túi. Sau gần
một tháng lang thang khắp Tp. Hồ Chí Minh, rồi Sông Bé, Tây Ninh dò hỏi
qua đủ loại xe ôm, dân anh chị bến bãi, cả bọn cô hồn đủ mọi xó xỉnh,
cuối cùng Tuệ cũng tìm được một chốn có một không hai trên trái đất này,
nôm na gọi là “Trường dạy nghề ăn cướp”. Từ nhà máy đường Cu Ba (Tây
Ninh) đi thêm khoảng 250 mét có một con đường nhỏ (nay đã là một xa lộ
rộng thênh thang dài gần 50 km) dẫn vào xứ Cà Tum, sát với biên giới
Việt Nam - Campuchia, một vùng đất trồng nhiều cây ăn trái và hoa cảnh. ở
đó, có một tướng cướp đã “về hưu” tên là Mai Sơn Lộc.
* * *
Trước
giải phóng, Mai Sơn Lộc là một tướng cướp chuyên “ăn bay” hàng PX (hàng
quân tiếp vụ của Mỹ) trên xa lộ Sài Gòn - Biên Hòa. Cưỡi trên Honda đời
67 hoặc 72 xoáy nòng, Mai Sơn Lộc và đồng bọn thường lao theo những
chiếc GMC chở hàng quân tiếp vụ, sau đó nghiêng xe, tăng tốc chui tọt
qua gầm xe GMC, bất ngờ mọc lên trước mũi xe hàng, rút súng, khống chế
tài xế và cướp hàng. Sự táo tợn, trình độ đi xe máy thượng thừa của các
“quái bay” này đã trở thành nỗi ám ảnh kinh hoàng trên xa lộ một thời
của các chú lính hậu cần cả ngụy lẫn Mỹ... Sau giải phóng, nghề “quái
bay” không còn đất sống, Mai Sơn Lộc “đê đầu qui cố hương” và chẳng hiểu
ma nào dẫn lối, đã tự biến cái thẻo rẫy khuất nẻo của mình thành một
trường đào tạo quái nhất thế gian. Khi Tuệ đến “bái sư nhập môn”, trường
học quái đản này đã nhận trước một học trò tên là Hoàng Quốc Anh, quê ở
Tam Kỳ, Quảng Nam.
Sau
sáu tháng miệt mài, “lão hắc đạo” xuất thân là lính Liên đoàn 6 Biệt
động quân (đóng tại Tam Hiệp, Đồng Nai) đã dạy cho hai tên học trò đủ
mọi cao chiêu của nghề cường đạo. Về lý thuyết, bài học sâu sắc nhất Tuệ
thọ giáo được là “tuyệt đối không dùng súng xã hội chủ nghĩa. Lý do,
mọi khẩu súng xã hội chủ nghĩa đều có số, chỉ cần giám định vỏ đạn, tông
tích khẩu súng có thể bị lần ra ngay”. Về thực hành, Mai Sơn Lộc truyền
cho hai tên đồ đệ đủ thứ tuyệt kỹ, từ cận chiến tay không đến cách sử
dụng đủ loại hung khí. Thêm vào đó, vì đặc trưng của nghề ăn cướp là
luôn luôn phải chạy trốn vì bị săn đuổi nên Mai Sơn Lộc đã bỏ rất nhiều
thời gian bắt hai thằng học trò học làu làu hai thứ: kỹ thuật tự cứu
thương (dao đâm, đạn bắn) và kỹ thuật đi xe máy trên mọi địa hình. Giáo
cụ cho môn học thứ hai là 200 mét đường ray được lắp sẵn trong vườn và
chiếc Honda 67 cũ mèm ông thầy dựng bên vách chòi rẫy.
Ngày
“hạ sơn”, mọi môn học Lê Văn Tuệ đều xuất sắc hơn hẳn Quốc Anh nhưng
đành chào thua bạn đồng môn cái món đi xe 67 một lèo với tốc độ cao hết
200 mét đường ray mà không hề trật bánh. Khoản này, Tuệ không làm nổi.
Kết
quả là 13 cây vàng mà Tuệ mang theo đã chuyển sang túi ông thầy. Sau
đó, hai trò một thầy, đường ai nấy đi. Giang hồ là thế, quan hệ duy nhất
chỉ một chữ tiền, mọi khái niệm lễ nghĩa, tình cảm chỉ là mơ hồ và xa
xỉ.
Trở
lại bãi đá Saphre, lang thang tìm đỏ con mắt suốt một tuần vẫn không
lần ra tông tích sáu “thằng em” Nông Cống là Phúc, Hiền, Ngọc, Thảo,
Thắng, Hùng, Lê Văn Tuệ đành “dặt dẹo” (xin đểu) ít tiền rồi tìm đường
về quê. Trong thâm tâm, thời điểm đó Tuệ cũng không mong gì chuyện gắn
bó với kiếp giang hồ.
Ba
năm sau đó, những kiến thức giang hồ tưởng chừng như rơi rụng hết khi
Lê Văn Tuệ cứ suốt ngày rị mọ với nghề khoan giếng để kiếm cơm. Lúc này,
nghề khoan giếng đang vào cầu, tay nghề cũng khá nên từ Lăng Cô vào đến
tận Chu Lai rồi lên Quế Sơn, ở đâu Tuệ cũng có mối mang săn đón. Ngoài
cơm rượu đãi đằng, một ngày lao động cật lực cũng giúp Tuệ đút túi vài
ba chỉ vàng không mấy khó.
* * *
Tình
cờ, trong một lần nghỉ lại tại khách sạn Tam Kỳ, Tuệ gặp lại Quốc Anh.
Kéo bạn vào quán, gọi rượu Tây uống say túy lúy, Quốc Anh mở samsonite
và khoe với bạn những bó tiền đô. Hắn bảo:
- Nếu theo tao, chỉ cần ba tháng, mày thừa sức kiếm gấp đôi số này.
Tuệ hỏi:
- Làm gì?
Quốc Anh đáp:
- Sang K (Campuchia), đi cướp đá quí dọc đường biên giới Thái Lan - Campuchia ở Pailin.
Lần đó, Tuệ lắc đầu.
Không
lâu sau đó, nghề khoan giếng bắt đầu tụt dốc thê thảm vì có quá nhiều
kẻ cạnh tranh. Đang lúc chán nản thì Quyền Đê, một tay anh chị bãi vàng
quê gốc Kim Sơn, Ninh Bình gặp và rủ rê. Lẽ ra, Tuệ đã không đi, Quyền
gãi tai than thở:
- Mấy thằng em trên bãi bị ức hiếp quá!
Nghe
thế, hắn bắt đầu nóng lỗ tai, gật đầu ngay. Vậy là, ngày 5.5.1994, Tuệ
lại lóc cóc tìm đường lần lên bãi vàng Phước Sơn, hành lý mang theo là
một bình xịt hơi cay năm tác dụng do Quyền Đê trang bị. Chiếc bình xịt
này, trên thị trường có giá 8,3 cây vàng.
Ngay
trong đêm đầu tiên có mặt tại bãi vàng Phước Thành (Phước Sơn), Tuệ đã
cầm đầu mười tên thợ gốc Bắc xông vào tấn công một số lán trại của bọn
anh chị hiềm khích, vừa đánh vừa cướp lại tất cả những gì bọn chúng bị
tước mất. Công an xã xuất hiện, Tuệ tấn công luôn cả công an rồi rút
lui, sau khi nhận từ đám này một mớ tiền công trị giá gần chục cây vàng.
Rút lên bãi Trà Ven (Trà My) đúng lúc bãi này đang ăn nên làm ra, Tuệ
kiếm vàng dễ như bỡn. 11 ngày chặn đường, dặt dẹo của các lán vào cầu,
khi đem ra chia, phần Tuệ được 63 cây vàng.
Có
tiền cũng là lúc con thú hoang trong lòng Tuệ nổi lên. Hắn lao vào ăn
chơi, đập phá, hút chích. Ngày đi chấn, tối đánh bạc và hút thuốc phiện,
hắn không hề lo lắng đến tương lai. Tình cờ, một đại ca ở bãi tên là
Chung bị đánh lén, Tuệ nhảy vào giải thoát, từ đó thành quen. Hai tên
giang hồ kết nhau, hùn lại hơn 100 cây vàng rủ nhau về Hà Nội, quê
Chung, ăn chơi đập phá cho đến đồng bạc cuối cùng.
Khi tiền sắp cạn, Chung bảo:
- Tao đã từng đi phụ hồ nhiều năm ở K biết nhiều nhà giàu lắm. Hay tao với mày sang K, đi cướp cho... vui?
Không
cần suy nghĩ, Tuệ gật đầu ngay, định bụng sang Campuchia sẽ tìm lại
Quốc Anh, lập băng nhóm hoành hành bá đạo. Nhưng, lang thang mãi vùng
đường biên Pailin cả tháng trời vẫn không gặp được Quốc Anh, Tuệ và
Chung đành lộn xuống Pursat cướp hàng lậu. Dặt dẹo nghề này không khá,
phải mang vác nặng, đụng độ nhiều mà chẳng kiếm được bao nhiêu, hai tên
đâm nản. Chúng quay về Nam Vang, nhờ một tên giang hồ gốc Kiên Giang
tiến cử vào làm bảo kê cho một nhà hàng của người Việt ở khu cầu hai
tầng. Làm được 1 tháng 17 ngày, Tuệ thấy nhục quá, vì thực chất, chúng
đang tự biến mình thành những tên ma cô mạt hạng, ăn chặn, bớt xén mớ
tiền còm cõi của các cô gái làm tiền. Hắn gọi chủ quán đến, bảo:
- Ăn tiền của gái chướng lắm, tôi có ăn thì phải ăn tiền của chủ. Đưa đây một mớ để tôi về quê!
Khi
nói câu này, mặt Tuệ đằng đằng sát khí, như thể sắp sửa đốt nhà. Hoảng
quá, chủ quán đành lòi ra một cục tiền để tống tiễn Tuệ đi. Chung không
chịu về, bằng lòng ở lại Nam Vang làm nghề chăn gái.
Ngày
2.9.1995, Tuệ về đến Đà Nẵng. Lẽ ra, đoạn giang hồ đã chấm dứt nhưng vì
trong túi chẳng còn một đồng nên Tuệ không thể. Năn nỉ thế nào, tên lơ
xe đò cũng không chịu cho Tuệ đi nhờ xe về Tiên Phước, tiền trả sau. Tuệ
thấy nhục quá bèn thề độc:
- Phải kiếm đủ 100 cây vàng, sau đó quay lại tìm tên lơ xe, đãi nó một trận và đánh nó một trận, rồi rửa tay gác kiếm.
Nói
là làm, Tuệ gọi xe ôm tiến thẳng lên bãi Trà Văn. Như con thú hoang,
hắn lao vào cướp lán, bãi như điên để nhanh chóng kiếm cho đủ 100 cây
vàng. Gặp máng cướp máng, gặp bãi bật bãi, máng bãi không ăn thua thì
cướp của dân buôn. Khi kẹt quá, hắn cướp luôn cả đồ nghề của thợ, làm
vàng giả và... bán.
Trong túi hắn, đã có lúc rủng rỉnh một lúc mấy trăm cây vàng.
Không gì đáng ngờ bằng lời thề của thằng nghiện. Có tiền, Tuệ lại ăn, lại hút, lại quên mất ý niệm hoàn lương.
Chẳng
bao lâu sau, hắn nổi tiếng như cồn, ân oán đầy rẫy rắc khắp vùng vàng
rộng lớn và liên tục bị cả công an lẫn giang hồ truy đuổi.
* * *
Vừa
cướp, vừa chạy trốn, đến tết năm 1996, Tuệ cùng đường. Khi lọt vào bãi
thôn 3 xã Phước Thành thì mụn độc phát lan ăn loét bàn chân, Tuệ không
đi nổi nữa. Đúng lúc đó, hắn gặp cố nhân: Bùi Đình Chuẩn. Trước đây, bị
Tuệ cướp lán nhiều lần, Hiệp, quê người Nghệ An đã từng thuê Chuẩn thanh
toán Tuệ. Với vũ khí lợi hại là sợi dây contermette đúc chì, Tuệ đã
đánh cho tám tên đàn em của Chuẩn chạy tan tác, sau đó vào phá tan hoang
lán của Hiệp, bắt cả Hiệp và Chuẩn quỳ gối liếm... gót giày xin tha.
Lẽ
ra, khi Tuệ đã thân tàn ma dại, Chuẩn đã có thể tính sổ lại món nợ ân
oán cũ. Khổ nỗi, lúc này Chuẩn còn tệ mạt hơn, nghiện oặt xà lai gần như
không đi đứng nổi. Do đó, thay vì tấn công rửa nhục, Chuẩn lại nhìn
thấy cơ hội mượn Tuệ để lợi dụng, nhằm thỏa mãn cơn nghiện. Vậy là,
Chuẩn đem hết những chiến tích thư hùng của Tuệ ra kể cho đám Đỗ Duy Lệ,
Hòa lai... nghe. Biết Lê Văn Tuệ là tay hung thần, Lệ đổi ngay nét mặt
khinh bỉ ra thái độ niềm nở mời chào. Hàng ngày, Lệ sai đàn em cõng Tuệ
đi chơi khắp đầu non cuối bãi, tối về hết lòng lo phục dịch rượu bia và
chạy chữa vết thương. Thật ra, Lệ chẳng tốt lành gì (sau này Đỗ Duy Lệ
bị bắt, tử hình vì tội tổ chức giết người, cướp máng), hắn chỉ cốt lấy
lòng, nuôi Tuệ khỏe để nhờ Tuệ đứng ra làm đầu lĩnh tiến công hạ đối thủ
truyền kiếp là tên Điều “tóc lai”, quê ở Đền Hùng, Phú Thọ. Tuệ biết
hết. Khi bệnh tình khỏi hẳn, hắn gọi Đỗ Duy Lệ lại bảo:
-
Tao từ nhỏ cho tới lớn có ăn cướp cũng cướp một mình, không quen băng
nhóm. Tụi mày định mượn tay tao giết thằng Điều, tao sẽ không làm vì với
nó, tao không thù oán. Nhưng công phục vụ của bọn mày, tao cũng không
quịt. Để trả, tao sẽ đi dặt dẹo ba ngày, được bao nhiêu tụi mày lấy bấy
nhiêu, sau đó đường ai nấy đi.
Nói
là làm, Tuệ ở lại đến hết Tết, cướp thêm một mớ rồi quyết tâm về Đà
Nẵng cai nghiện. Hắn đã quá ngán ngẩm kiếp giang hồ phù hoa, tiền tiêu
như nước nhưng đầy điếm nhục.
Nhưng
trời ạ, chốn giang hồ đầy gió tanh mưa máu, bước vào thì dễ nhưng làm
gì có đường lui. Đã quá nổi tiếng, dù trốn góc nào, Tuệ cũng bị những
tên em út lần ra và chèo kéo. Tuệ tự huyễn hoặc mình bằng hình ảnh một
tay nghĩa hiệp, chưa thể buông đao thờ Phật vì bọn đàn em còn bị ức hiếp
ở bãi vàng. Vậy là, vừa cắt cơn nghiện, hắn lại mò vào bãi, lại đánh
người cướp của, lại nghiện oặt xà lai và lại đi cai. Một lần, hai lần,
rồi... mười lần. Nghiệp chướng giang hồ không buông tha Tuệ mà Tuệ thì
cũng không đủ dũng khí để đoạn tuyệt hoàn toàn. Nếu chịu dừng đúng lúc,
hẳn Tuệ đã giàu lắm. Đầu năm 1998, trong khi tọ mọ một hầm vàng của dân
Đại Lộc bỏ hoang, cả nhóm của Tuệ đã vơ được 2,3 kg vàng 9999, chỉ sau
hai ngày ba đêm làm cật lực. Ngày 14.1.1998, mang theo số vàng, Tuệ dẫn
cả bọn về Đà Nẵng ăn chơi đập phá và đánh bạc. Chỉ sau bốn ngày, toàn bộ
số vàng này đã tan thành mây khói. Một mình Tuệ quay lại bãi làm tiếp,
mót được 21 triệu đồng. Số tiền này cũng chỉ đủ để hắn trả tiền xe ôm và
tiền một đĩa cơm, còn bao nhiêu lại dốc cạn vào một đêm cá độ bóng đá.
Như con thiêu thân lao vào chỗ chết cháy, Tuệ tự đề ra khẩu hiệu cho cả
bọn:
- Đã chơi là phải dốc cạn đồng bạc cuối cùng. Tiêu không được tiếc.
Giai
đoạn hoàng kim nhất của nghề dặt dẹo bãi vàng là nguyên cả mùa khô năm
1998. Năm ấy, bãi vàng Phước Sơn trúng lớn và trúng rộng khắp cho nên
những tay đại ca danh tiếng như Lê Văn Tuệ không cần làm gì cũng dư giả
tiền tiêu. Vừa vào lại bãi thôn 3, Tuệ đã chạm trán ngay với Điều, kẻ
được Tuệ từ chối tấn công đánh cướp ngày nào. Đang lúc trúng quả nặng
đồng cân, Điều cảm nghĩa xưa, nằng nặc mời Tuệ ở lại lán để anh ta có cơ
hội đãi đằng. Tuệ đồng ý. Việc duy nhất mà Tuệ phải làm để giết thì giờ
là mua các loại thuốc phiện, heroin về mày mò bào chế để tìm ra liều
chích... phê nhất, bất kể tốn kém, tiền bạc đã có các chủ lán lo. Với
heroin thì đơn giản, chỉ việc bơm nước cất vào là chích (nghiện quá
nặng, đốt giấy bạc hút không phê). Nhưng, chơi heroin không phải là sành
điệu. Tuệ “lên hương” đến nỗi đã có thể sắm riêng cho mình một “lái xe”
- tay chuyên nghiệp tiêm thuốc phiện - loại thượng thừa mà không thèm
hỏi tên nó là gì. Khi rảnh rỗi, tên này đã dạy lại cho Tuệ toàn bộ cao
chiêu của nghề “lái xe”.
Đơn
giản nhất là gẩy “cống” - thuốc phiện tinh chất - vào thìa hoặc nắp bia
nấu sôi lên, lọc qua ba đót thuốc lá sạch, cứ thế trộn vào nước cất
chích vào ven. Cách này sang nhưng với những con nghiện đã đạt đến “cảnh
giới thượng thừa” thì không mấy phê. Muốn cho đã, chúng bày ra cách
trộn thêm tân dược và phụ gia vào thuốc. Công thức đặc biệt nhất là:
“cống” + xái 1 + thuốc cảm ABC hoặc Aspirin hoặc Paracetamon + mì chính
(bột ngọt) tán nhuyễn thành bột đem nấu, sau đó lăn, đánh miếng, cán
mỏng để dành hút dần bằng đèn dầu đậu phộng hoặc nấu, lọc lại đem chích.
Cách này rất kỳ công. Hễ “lái xe” non tay hoặc nấu ẩu là cầm chắc chích
vào sẽ sốt khặc khừ và ói ra mật xanh mật vàng nên Tuệ cũng không
khoái. Để “lên thiên đàng”, hắn tự sáng tạo cho mình một công thức bí
mật gồm Dolagan + morphin + sedusel tán nhuyễn + nước cất, chích phê lâu
và mạnh hơn cả. Nhưng, dùng liều này rất đắt, giá mỗi mũi chích đúng đô
trong bãi phải tốn 350.000 đồng. Để thỏa mãn cơn ghiền, lúc hoàng kim,
Tuệ chích mỗi ngày gần 15 cữ, tốn sơ sơ chừng 5 triệu đồng.
Không
phải cướp bóc, dặt dẹo, nằm lán hút chích mãi cũng nhàm, Tuệ lân la học
nghề “đánh hóa”(cách dùng hóa chất lọc quặng lấy vàng) và nghề tăm vỉa.
Đang rộ mùa thu hoạch, tiền vào như nước nên các chủ lán, chủ hầm không
tiếc, tha hồ cho Tuệ thử. Gần một năm “nghiên cứu” Tuệ lại danh nổi như
cồn, nổi tiếng như tay “đánh hóa” thuộc hàng cao thủ nhất, “tăm vỉa”
(thăm dò mạch đá có chứa vàng) cũng được liệt vào loại “cụ”, uy tín cùng
mình. Thế là, gần như không cần phải mó tay vào chuyện động dao động
thớt, Tuệ tha hồ được các lán mời mọc săn đón và trả công hậu hĩnh với
mức lương của một đại chuyên gia.
Giả
sử có máu làm giàu, thời kỳ này thừa sức đưa Tuệ lên hàng ông chủ tầm
cỡ. Khổ nỗi, xưa nay người ta chỉ bàn chuyện giang hồ chơi, có ai nhắc
chuyện giang hồ làm giàu bao giờ. Tiền kiếm được, Tuệ đổ hết vào những
cuộc chơi theo cách riêng của hắn là ngao du sơn thủy. Lâu lâu, trong
bãi có một tốp thợ vàng quê ở miền Bắc “về phép”, Tuệ lại đút túi vài ba
chục cây vàng và đòi đi theo để “tham quan cho biết đất Việt Nam núi
rộng sông dài”. Lời đề nghị lãng mạn của kẻ có tiền chẳng bao giờ làm ai
phật ý. Vậy là Tuệ có dịp rong ruổi khắp nơi, nếm đủ mọi của ngon vật
lạ và cảnh đẹp trên đời. Hầu như không có một thị trấn nào của vùng
trung du Bắc Bộ, một thị xã nào của vùng núi non Tây Bắc mà Tuệ chưa
từng thăm viếng. Hắn đi nhiều đến nỗi thuộc làu làu tên hiệu, bảng giá
và món độc chiêu của từng khách sạn ở nhiều tỉnh miền Bắc, dù đó là
những khách sạn heo hút ở vùng sáu tỉnh Cao-Bắc-Lạng-Thái-Hà-Tuyên...
Chẳng có gì ràng buộc, Tuệ chỉ chịu quay về khi túi áo túi quần đã lộn
trái. Dăm bữa nửa tháng, dặt dẹo được vài chục cây vàng, hắn lại ra đi.
Tính ra, riêng trong mùa khô năm 1998, số tiền Tuệ tiêu hết chắc cũng đủ
nuôi vài ba chục người... suốt cả đời. Chính vì máu ham chơi, Tuệ đã
trở nên đặc biệt thân thiết với đám lãng tử dân Bắc trong bãi vàng, được
chúng đặt cho một biệt danh khá mỹ miều: “Gã trai xứ Quảng trong lòng
anh em đất Bắc”. Trời ạ, giang hồ cũng có lúc “sến” phải biết!
* * *
Thuở
huy hoàng không kéo dài vĩnh cửu. Đến mùa mưa năm 1998, thì Lê Văn Tuệ
bắt đầu lâm vào cảnh khốn khó. Đầu tiên, tình hình khai thác vàng bỗng
cạn kiệt hẳn. Hàng loạt hầm máy đào mãi vẫn chẳng tăm ra vàng, chủ hầm
chủ máy nợ chồng chất và lâm vào phá sản (trung bình mỗi máy + 10 người
chi một ngày hết 2 cây vàng), thợ đào thuê đói hoa cả mắt. Vì thế, nghề
dặt dẹo may lắm cũng chỉ đủ no dạ dày, không đủ no óc (thỏa mãn cơn
nghiện). Đói thuốc, Tuệ và cả chục tên em út vật vã điên cuồng, cuối
cùng làm mồi ngon cho sốt rét rừng, ghẻ lở và đủ loại bệnh tật vốn tiềm
ẩn đầy rẫy ở chốn ma thiêng nước độc, môi trường mất vệ sinh. Để cưỡng
lại cơn tù quẫn, Tuệ gia tăng xin đểu, cướp, chấn. Đang lúc thất bát
chẳng có chủ hầm, chủ lán nào chịu nổi cảnh bị sách nhiễu nên hè nhau
chống lại, khiến cả Tuệ lẫn đàn em đều nhiều lần bị trọng thương. Đã
vậy, về Đà Nẵng điều trị thì sợ công an bắt, lại không đủ tiền nên chúng
đành liều chết trụ lại chốn rừng sâu nước độc. Mùa mưa năm ấy, số mồ vô
danh mọc lên trên những lối mòn bạt núi dẫn vào bãi vàng Phước Sơn hình
như tăng lên rất nhanh. Đã thế, đề phòng nạn sập hầm, lở đất sụt bãi
gây chết người như mùa mưa năm 1997, công an tỉnh, huyện lại ráo riết
truy quét khiến Tuệ và đàn em cứ phải bỏ bãi chạy trốn liên tục, vết
thương này chưa kịp kéo da non, vết thương khác lại xuất hiện. Các băng
nhóm khác cũng không nể nang, đùm bọc gì được vì tình trạng tự thân của
chúng thậm chí còn thê thảm hơn. Băng Thanh sứt, Bắc phò, Hiển bụi khét
tiếng vì đông, mạnh nhất vùng vàng cũng rã đám rồi quay sang đâm chém
nhau. Bị chém 14 nhát trên
lưng, Hiển bụi sai đàn em dùng chỉ may đồ khâu díu lưng mình lại hàng
trăm mũi. Nằm ba ngày, “vã” quá, tên tướng cướp bị thương lại mò dậy,
vác nguyên tấm lưng rách như tấm chiếu thuốc phiện tiếp tục đi cướp. Kết
quả là sau đó, hàng chục tên thi nhau vào tù...
Lê
Văn Tuệ cũng đành ngậm ngùi tan đàn xẻ ghé với bọn đàn em để tự cứu
mình. May cho Tuệ, đúng lúc khốn quẫn nhất thì hắn gặp được một tay
giang hồ thứ thiệt: Mông cận.
Mông
lớn hơn Tuệ gần một con giáp, quê ở Võ Nhai, Thái Nguyên. Vợ Mông là
một cán bộ ở huyện Phước Sơn. Bản thân Mông là một thầy giáo, kính cận
dày cộp luôn đeo trên sống mũi. Nhưng tiếng gọi hoang dã và sự hấp dẫn
của vùng vàng đã kéo Mông ra khỏi bục giảng, trở thành một chủ hầm vàng.
Hầm của Mông toàn là thợ “chiến đấu” đất Thái Nguyên, tay nghề khai
thác rất cao nên anh ta cũng nhiều lần trúng đậm. Vào bãi, song xuất
thân là thầy giáo nên Mông cận sống rất nguyên tắc. Lán của “thầy” Mông
cận tuyệt đối không có thuốc phiện, bài bạc, gái... hay bất kỳ thứ tệ
nạn nào bén mảng. Thợ khá đông nhưng kỷ luật của Mông là dứt khoát không
ỷ chúng hiếp cô, không tham gia bất cứ một trò chèn ép, giành giật nào
với các hầm, bãi khác. ít nhiều, nguyên tắc sống của Mông cũng khiến cho
các cư dân bãi vàng vì nể. Vả lại, võ nghệ Mông cận cũng khá cao, muốn
“sờ” vào cũng không phải dễ.
Nhờ
tổ chức tốt, đầu tư kỹ nên trong khi toàn bộ vùng vàng lao đao vì đào
đãi không đủ chi tiêu thì lán của Mông vẫn bình chân như vại, không giàu
có lắm song đời sống thợ thuyền vẫn bảo đảm, khai thác có lãi. Chính vì
thế, Mông cận trở thành mục tiêu của lòng tham, gợi lên trong lòng bọn
đao búa vùng vàng ý định cướp hầm. Kẻ ra tay là nhóm Việt Long, quê Đồng
Hỷ, Thái Nguyên. Lừa lúc Mông một mình từ bãi vàng về nhà ở thị trấn
Khâm Đức, Việt Long đã tổ chức “trải đệm” định thịt Mông. Đúng lúc đó,
Lê Văn Tuệ đi qua. “Dọc đàng thấy chuyện bất bằng chẳng tha”, Tuệ dù
không biết Mông cận là ai nhưng cũng múa sợi dây buộc chì xông vào cứu
Mông, đánh cho đám Việt Long tan tác. Cảm nghĩa, lại biết Tuệ tuy khét
tiếng vì chấn, dặt dẹo song chưa hề gây nợ máu, lại càng không phải hạng
kẻ cướp tiểu nhân, Mông cận đã vui vẻ mời Tuệ về đứng lán cho mình.
Đứng lán thực chất là giữ chức đốc công, vừa coi sóc thợ làm việc,
vừa... bảo kê ngăn chặn những kẻ tính cướp phá. Nghề này Tuệ khá thạo,
lại đang cơn bĩ cực nên gã nhận lời ngay. Từ 23.10.1998 đến 4.4.1999 là
khoảng thời gian thanh thản nhất của Tuệ ở bãi vàng. Đó là khoảng thời
gian không có giành giật, đấm đá, chỉ có lao động thật sự. Hàng ngày,
Tuệ cũng đánh trần đào đất, đãi đá, vừa làm vừa trông coi thợ, hùng hục
và chu đáo như một bác thợ cả thực thụ.
Trong
thời gian đó, Tuệ không hề về quê thăm nhà, thăm mẹ. Nhưng Mông cận thì
có. Anh đã nhiều lần đem tiền, quà, thuốc men về Tiên Lộc, Tiên Thọ
thay Tuệ thăm hỏi, biếu mẹ của gã. Không những thế, Mông còn bỏ nhiều
thời gian tìm hiểu gia cảnh, ước mong của bà mẹ có đứa con hư phiêu bạt
giang hồ. Tuệ không hề hay biết rằng, sau nhiều lần thăm hỏi ấy, giữa mẹ
gã và Mông cận đã thỏa thuận một giải pháp: cưới vợ cho Tuệ. Đó là cách
duy nhất để buộc chân con ngựa bất kham. Khi hiểu ra mọi chuyện, Tuệ đã
khóc nhiều đêm. Lần đầu tiên, không hề có một vết thương, không hề có
một tiếng chửi nhưng Lê Văn Tuệ đã rơi nước mắt. Gã khóc vì tình người,
vì hàm ơn Mông cận và vì lần đầu tiên trong đời chợt đắng cay nát lòng
vì thương mẹ. Khi nghe lời Mông cận - giờ đây thực sự trong lòng Tuệ đã
coi Mông là một người anh - về thăm mẹ, Tuệ đã khóc thêm lần nữa. Mẹ gã,
75 tuổi, tóc bạc lưng còng bộc bạch:
- Vàng bạc mà làm gì con ơi, trên đời chỉ nghĩa tình, gia đình là đáng trọng!
Và
bà cũng khóc, cũng hết lời khuyên hắn đoạn tuyệt giang hồ. Bà chỉ mong
ngày nhắm mắt - không xa nữa - được thấy Tuệ cùng con dâu và cháu nội
túc trực bên mình. Nước mắt bà mẹ khiến thằng con hoang dã tỉnh ngộ. Hắn
quyết tâm hoàn lương.
Nói thì dễ, nhưng làm thì không dễ, bởi những cơn nghiện vẫn còn đeo đẳng. Ngày 4.4.1998, Mông cận đột ngột gọi Tuệ lại bảo:
-
Tao đã hứa là không bao giờ để cho ma túy chui vào lán. Tao biết, mày
vẫn hút chích thường xuyên. Giờ có hai cách để chọn: hoặc là cầm tiền về
quê cai rồi ở lại hẳn, không vàng bạc, thuốc men gì cả, hoặc là mày ở
tao đi.
Giá
là lúc khác, chắc chắn Tuệ sẽ cười vào mặt kẻ mới dạy khôn gã. Nhưng
với Mông, gã không thể. Về quê cũng không. Sau 13 năm lưu lạc, Tuệ không
chịu nổi cái cảnh tay trắng quay đầu trong bộ dạng tiều tụy vì đói
thuốc.
Nói
là làm, Mông cận không so đo, bỏ lại toàn bộ hầm, máng, máy móc cho Tuệ
rồi dẫn thợ vào sâu trong bãi 45 (xã Phước Hiệp) tìm hầm khác. Bãi 45
là nơi duy nhất trong toàn vùng vàng Phước Sơn không có ma túy. Tuệ sợ,
gã không dám theo Mông, đành bằng lòng ở lại. Mông vừa đi khỏi, đám em
út cũ của Tuệ từ Thái Nguyên mới vào đói quá lại tìm đến xin đầu quân.
Vừa thương chúng, lại đang thiếu quân, Tuệ lại gật đầu.
* * *
Tốp
thợ cả thầy lẫn tớ đều là con nghiện, kinh nghiệm quản lý không có, vốn
liếng cũng không, đã không moi được thêm một vảy vàng nào từ lòng đất.
Một tuần sau, Tuệ gọi người bán hết toàn bộ hầm máy của Mông để lại.
Tiền thu được chỉ đủ trả nợ và giúp cả đám sống thêm mấy ngày. Trong khi
đó, mùa mưa lại sầm sập kéo về. Cả tốp đói rã họng, đành đi tọ mọ những
hầm lán bỏ hoang sống qua ngày. Và, điều kinh khủng nhất đã đến: sập
hầm, một thằng bé trong bọn bị đá đè giập ống quyển.
Không
đồng xu dính túi, trời lại mưa dữ dội, đưa thằng bé đi bệnh viện là
điều không thể vì chưa ra đến nơi thằng bé đã chết vì đói thuốc và vì
vết thương đang hoại tử. Không còn cách nào khác, Tuệ đành cắn răng đóng
vai trò bác sĩ (dù mới học chừng hết lớp 9), tự tay... tháo khớp cho
thằng bé. Một đống lửa to được cả đám trẻ con phiêu bạt đốt lên. Không
rửa, không lột vỏ, một đống củ mì (sắn) vừa xin được trong rẫy của người
Mơ-nông được cả lũ vừa luộc, vừa nướng lên và tranh nhau ăn cho đỡ đói.
Ăn xong, sáu, bảy đứa, kẻ say,
người tỉnh thao láo mắt nhìn Tuệ vừa khóc vừa làm bác sĩ. Không thuốc
tê, không thuốc mê, Tuệ dùng dây dù trói chặt hết tay chân thằng bé bị
thương xuống sạp tre. Thêm một sợi dây dù to bản khác thít ngang qua
trán cột chặt xuống sạp để giữ cho nó không ngóc lên hay giãy giụa. Nhặt
một thanh tre, nhét chặt vào giữa hai hàm răng nó, bắt hai đứa khác đè
chặt hai bên, Tuệ bắt đầu rạch ống quần rách tướp đầy bùn đất của nó.
Dụng cụ mổ duy nhất là một con dao đã mài sẵn từ chiều, được tẩy trùng
bằng cách hơ trên đống lửa. Kiến thức giải phẫu duy nhất là kinh
nghiệm... mổ gà. Cứ thế, Tuệ rạch ngang đầu gối kẻ bị thương. 5 phút, 10
phút... Nước mắt ròng ròng, những tiếng kêu bị chặn không vọt ra khỏi
cổ, thằng bé bị trói cứ giật đùng đụng, mồ hôi túa ra, mắt trợn ngược
rồi ngất đi... Sau 30 phút thì mọi việc hoàn tất, chân thằng bé được cắt
cụt đến đầu gối và được may lại bằng chỉ khâu đồ.
Những
ngày sau đó, Tuệ và những đứa khỏe mạnh hầu như không ngủ, cứ hùng hục
đi đánh hóa thuê cho các chủ hầm khác. Toàn bộ tiền kiếm được chỉ để mua
hai thứ: thức ăn và heroin. Thứ thuốc men duy nhất mà kẻ bị thương được
hưởng trong giai đoạn hậu phẫu là heroin. Chính ma túy đã giúp nó sống
sót. Khi nào nó đau quá, Tuệ lại chích cho nó một liều, phần còn lại đem
rắc vào vết thương. Lạ lùng thay, sau đúng 14 ngày thì vết thương lành
hẳn. Bù lại, đô nghiện của thằng oắt con tăng gấp đôi, gấp ba, suốt ngày
nó vật vã sùi bọt mép vì đói thuốc.
Ca
mổ kinh hoàng đó đã khiến tâm trí Tuệ thay đổi hẳn. Hắn đâm ra ghê sợ
mọi thứ. Ghê sợ kiếp sống giang hồ và ghê sợ cả bản thân mình. Những
ngày đó, những giọt nước mắt và lời nguyện cầu của người mẹ lại ùa vào
óc, giày xéo tâm can hắn. Sau nửa tháng mất ngủ, Tuệ quyết định cai
nghiện và hoàn lương. Dự định của hắn được những tên em út tán đồng, bởi
chúng cũng đã hoàn toàn rệu rã. Cả đám thống nhất: sẽ chia tay nhau vào
ngày 30.5.1999. Kể từ đó, chúng thi nhau làm hùng hục và cố tiết chế
cơn nghiện để dành dụm tiền cho cuộc hoàn lương.
Nhưng
dù tiết kiệm mấy, tiền kiếm được cũng bị đốt hết vào ma túy nên ngày
hẹn đến, cả đám vẫn phải ở yên tại bãi sau đó tan tác mỗi đứa một
phương. Bí thế, Tuệ đành bấm bụng - lần đầu tiên - ngửa tay xin (chứ
không cướp) của một cố nhân. Dù tử tế đến mấy, Lê Văn Tuệ vẫn là một
hung thần đầy đe dọa nên ý định rời vùng vàng của hắn dĩ nhiên là rất
đáng được hoan nghênh. Vì vậy, Điều - kẻ tao ngộ năm nào - đã hào phóng
cho Tuệ nguyên cả một mẻ máng, tổng cộng được 9,3 lượng vàng. Sau một
chầu nhậu túy lúy để chia tay và tuyên bố rửa tay gác kiếm, Tuệ cầm số
vàng này ra thẳng Hà Nội, vào nhà một chiến hữu tên Cường cạnh bệnh viện
Bạch Mai thuê bác sĩ đến để điều trị cai nghiện. 11 ngày sau, cắt cơn,
Tuệ gửi hết số vàng cho bác sĩ và “lai hồi cố thổ”. Từ tay trắng ra đi,
đứa con hoang lại trở về nơi hai bàn tay trắng.
* * *
Cuộc
sống bình thường, vất vả nhưng thanh thản đã đồng hành với Tuệ được bốn
năm. Hắn đã lấy vợ và đã có được một cô con gái gần ba tuổi. Mẹ hắn đã
rời bể khổ ra đi. Ngày mất, bà đã nở nụ cười, bởi đã toại thành tâm
nguyện: có con trai, con dâu và cháu nội quì cạnh bên giường.
Với
Tuệ, những năm qua cuộc sống đã gặp không ít khó khăn, khi nghề đãi
cát, sạn trên sông chỉ vừa đủ để lo cơm áo cho gia đình nhỏ. May mà gã
đã đoạn tuyệt với ma túy. Nhờ đó, dù khó khăn, Tuệ vẫn cương quyết không
một lần quay lại bãi vàng trong suốt nhiều năm qua, dù có rất nhiều lời
mời chào, chèo kéo, dù gã biết chắc chỉ cần một chuyến đi mười ngày,
nửa tháng thôi, lúc trở lại túi gã đã có thể có thêm cả chục lượng vàng.
Số vàng đó, bây giờ với Tuệ là cực lớn, lớn hơn cả giấc mơ, nhưng đơn
giản, nó không phải là do mồi hôi đổ ra, Tuệ sẽ cương quyết không màng
tới. Hơn nữa, dù không phải là mười mà cả trăm, cả ngàn cây vàng đi nữa
cũng không quí bằng mảnh vườn nhỏ, giấc mơ con và tiếng bi bô con trẻ -
hạnh phúc đơn sơ nhưng rất thật mà Tuệ đang cầm giữ trong tay. Tuệ không
thể và không dám nghĩ tới chuyện mò lên vùng vàng dù chỉ một lần, bởi
“một bước chân sai nghìn thuở hận”, rất có thể bước chân xứ đó sẽ sơ sẩy
khiến kẻ đã buông đao thờ Phật có nguy cơ rời xa tổ ấm vô giá của mình.
Mười
ba năm lăn lộn trong kiếp giang hồ, giữa cơ man vàng, máu, ma túy và
nước mắt, Lê Văn Tuệ đã quá đủ kinh nghiệm để hiểu cái giá phải trả cho
hạnh phúc, dù đó chỉ là một hạnh phúc nhỏ nhoi thường gặp giữa đời
thường.
Quảng Nam, tháng 10.2002
|
Đại ca bãi vàng khét tiếng đứt gánh hoàn lương
ANTĐThân
hình gầy còm, yếu ớt đầy bệnh tật, tay phải vịn vành móng ngựa, đó là
hình ảnh Lê Văn Tuệ (43 tuổi) tại phiên toà xét xử cùng đồng bọn lừa đảo
chiếm đoạt tài sản tại huyện Sơn Hà, Quảng Ngãi, đầu năm 2014. Tuệ là
một tay giang hồ một thời ngang dọc, là nỗi khiếp hãi nhiều bãi vàng ở
Quảng Nam.
Đại ca khét tiếng một thời
Sinh ra trong một gia đình nghèo khó, ở
xã Tiên Lộc, huyện Tiên Phước (Quảng Nam), chuyện học của Lê Văn Tuệ, bị
dở dang khi đang học lớp 12. Thời điểm năm 1986, Tuệ theo bạn bè đi đãi
vàng sa khoáng ở Trà Giốc, Trà My (Quảng Nam). Bắt đầu Tuệ học cách đào
đãi vàng, cách hành xử giang hồ ở chốn rừng thiêng nước độc.
Đến năm 1992, Tuệ dạt về bãi đá Saphia Trường Xuân (tỉnh Đắc Nông). Giống như bãi vàng, nơi này cũng chia nhiều băng nhóm, tranh giành quyền lực. Tuệ nhanh chóng thể hiện bản lĩnh giang hồ, dẫn dắt anh em thâu tóm địa bàn. Nhiều cuộc thanh trừng của nhiều băng nhóm khác hòng hạ Lê Văn Tuệ nhưng đều bất thành.
Đến năm 1992, Tuệ dạt về bãi đá Saphia Trường Xuân (tỉnh Đắc Nông). Giống như bãi vàng, nơi này cũng chia nhiều băng nhóm, tranh giành quyền lực. Tuệ nhanh chóng thể hiện bản lĩnh giang hồ, dẫn dắt anh em thâu tóm địa bàn. Nhiều cuộc thanh trừng của nhiều băng nhóm khác hòng hạ Lê Văn Tuệ nhưng đều bất thành.
Tang vật vàng giả của Lê Văn Tụê và đồng bọn gây án
Theo lời Tụê kể, để đối phó các băng
khác, Tuệ sắm thứ vũ khí lợi hại, dùng chì buộc dây đàn. Một mình với
sợi dây đàn, Tuệ hạ gục nhiều đám cướp rừng. Tụê ngày càng nổi đình đám,
các băng nhóm đều phải khiếp sợ. Nhưng sau đó Tụê chia tay đàn em, rời
cứ địa saphia để trở về quê huyện Tiên Phước hoàn lương. Về quê làm nghề
khoan giếng không được bao lâu, “nhớ vàng” Tuệ lại bỏ quê lên lại bãi
vàng Phước Sơn. Tại đây, Tuệ cứu giúp nhiều đàn em trả thù băng, nhóm
khác, cướp lại những gì bọn đàn em đã bị cướp. Trả ơn, đàn em tặng đại
ca Tuệ chục cây vàng và năn nỉ ông anh ở lại làm ăn lâu dài với nhóm.
Chán cảnh ở đây, Tuệ dạt lên bãi vàng ở
Trà My “lập nghiệp”. Nghe uy danh của Tuệ, các chủ hầm, chủ lán trại
nhanh chóng hạ mình cống nạp cho đại ca Tuệ trên 50 cây vàng. Có vàng
trong tay, Tuệ đã nướng vào bài bạc, hút chích và chi xài hoang phí. Tuệ
đã cùng một đại ca khác ôm gần 100 cây vàng ra Hà Nội ăn chơi. Hết
tiền, đại ca này rủ sang Campuchia làm bảo kê cho một nhà hàng của người
Việt. Sau một tháng rưỡi, Tuệ thấy nản và nhục quá nên trở về quê tiếp
tục gác kiếm giang hồ.
Lần này về quê hoàn lương chưa được bao
lâu, gặp chuyện “giữa đường” nổi máu giang hồ, không kiềm chế được, Tuệ
đánh đấm một trận tơi bời. Sau lần đó, Tuệ quay lại bãi vàng ở Trà My
làm nghề cũ, với dự tính bằng mọi giá phải kiếm được thật nhiều tiền,
vàng. Tuy nhiên lần này, việc trở lại bãi vàng gặp không ít khó khăn.
Lực lượng Công an đang truy lùng, quyết liệt triệt xóa các băng nhóm tại
bãi vàng. Tuệ phải trốn tránh trong rừng sâu.
Đối tượng Lê Văn Tuệ
Năm 1997, Tuệ cùng đám đàn em hốt được trên 2kg vàng ở một hầm vàng bỏ hoang. Ngay sau đó cả bọn kéo về Đà Nẵng ăn chơi phung phí rồi rã đám. Khi Tuệ trở lại bãi vàng Phước Sơn cũng là lúc ở đây đang trúng vàng rất đậm, một ông chủ mời Tuệ ở lại cùng hợp tác làm ăn. Nhiệm vụ của Tuệ là làm hung thần giữ cửa. Chẳng phải làm gì nhưng vẫn được cung phụng đầy đủ. Có tiền cộng với thói chơi ngông, Tuệ nhanh chóng trở thành con nghiện. Khi có được vài chục cây vàng, Tuệ lại đi nhiều nơi ăn chơi. Đến khi hết tiền lại trở về bãi vàng. Suốt thời gian dài, Tuệ thả mình trong vòng luẩn quẩn không biết về đâu. Dần dần số tiền làm thuê không đủ phê ma túy mỗi ngày, Tuệ thấy chán nản và quyết định cai ma túy để hoàn lương.
Năm 1998, trở về quê xã Tiên Lộc, huyện
Tiên Phước trong bàn tay trắng, và sự quyết chí hoàn lương, đoạn tuyệt
giang hồ. Không ai ngờ, Tuệ thực hiện được việc hoàn lương suốt thời
gian dài trên chục năm. Tuệ lao động bằng đôi bàn tay chân chính của
mình với nghề đãi sỏi bán cho dân thầu xây dựng. Cưới vợ, sinh con, mái
ấm hạnh phúc của gã giang hồ ngày nào không gì bằng. Và ai cũng nghĩ Tuệ
đã hoàn lương thật sự...
Vấp ngã trên đường hoàn lương
Tuy sống trong mái ấm hạnh phúc bên vợ
và 3 người con, nhưng nhìn cảnh vợ hàng ngày buôn gánh bán bưng không
khỏi ray rứt đối với Tuệ. Cùng với đó, hậu quả của những ngày lâm vào ma
tuý, ăn chơi bạt mạng đã mang vào mình Tuệ những căn bệnh quái ác. Rồi
một ngày đầu năm 2013, Tuệ quyết định khăn gói ra đi. Bệnh tình sức khoẻ
yếu không thể trở lại bãi vàng ngày xưa tung hoành. Tuệ tìm đến bãi
vàng ở tỉnh Kon Tum và Quảng Ngãi. Bây giờ không thể đào, đãi vàng,
không thể hành xử giang hồ, Tuệ đi lừa đảo. Tuệ làm ăn với một người lạ
mặt tại bãi vàng ở tỉnh Kon Tum. Người này có loại vàng rất giống vàng
đãi, chỉ khi khò lửa mới phát hiện. Tuệ mua lại cục vàng giả này tính
chuyện làm ăn lớn. Nhưng nơi đất khách quê người, một thân một mình sẽ
rất khó thành công trong việc lừa gạt thiên hạ, Tuệ gặp Trần Văn Ngạc và
Dương Minh Quang, đều ở huyện Ba Tơ cùng tham gia. Cả nhóm phân công
nhiệm vụ từng tên thực hiện lừa bán vàng giả cho các tiệm vàng. Giả đóng
phu vàng, chúng đem vàng giả vào các hiệu vàng bán. Nhiều hiệu vàng
tưởng vàng thật mua giá cao.
Nhóm lừa đảo trên đã thực hiện trót lọt nhiều hiệu vàng ở huyện Mộ Đức, Sơn Hà, lấy hàng chục triệu đồng. Đến ngày 21-9-2013, nhóm Tuệ đến hiệu vàng Hường, ở thôn Thạch Trụ Tây, xã Đức Lân, huyện Mộ Đức, thực hiện hành vi lừa đảo thì bị chủ hiệu vàng phát hiện, báo công an xã Đức Lân. Nhóm Tuệ, Ngạc và Quang đã bị công an và người dân bao vây bắt ngay sau đó.
Nhóm lừa đảo trên đã thực hiện trót lọt nhiều hiệu vàng ở huyện Mộ Đức, Sơn Hà, lấy hàng chục triệu đồng. Đến ngày 21-9-2013, nhóm Tuệ đến hiệu vàng Hường, ở thôn Thạch Trụ Tây, xã Đức Lân, huyện Mộ Đức, thực hiện hành vi lừa đảo thì bị chủ hiệu vàng phát hiện, báo công an xã Đức Lân. Nhóm Tuệ, Ngạc và Quang đã bị công an và người dân bao vây bắt ngay sau đó.
TAND huyện Sơn Hà đưa Lê Văn Tuệ và
đồng bọn đã ra xét xử về hành vi lừa đảo bán vàng giả. Cả nhóm bị lĩnh
bản án thích đáng. Riêng Tuệ nhận mức án 18 tháng tù về tội "lừa đảo
chiếm đoạt tài sản". Đại ca bãi vàng khét tiếng ngày nào trên bước đường
hoàng lương tưởng như sẻ suôn sẻ, không ngờ lại đứt gánh chỉ vì mong
làm giàu nhanh từ việc phi pháp. Tiếc thay!
Đoạn cuối cuộc đời thảm hại của đại ca xứ vàng
Thứ hai, 09/06/2014 | 07:07 GMT+7
Cách
đây 18 năm, hắn là đại ca có tiếng ở các bãi vàng miền Tây Quảng Nam,
đâm chém, cướp bóc với hắn là nghề; Ma túy, cờ bạc với hắn là thú vui;
Tiền, vàng với hắn như cỏ rác, 100 cây vàng chỉ đủ tiêu vặt một tháng...
Nhưng bây giờ, không còn ai nhận ra hắn của ngày xưa.
“Giấc mơ vàng” và con đường phiêu bạt
Họ
tên đầy đủ của hắn là Lê Văn Tuệ, sinh năm 1972. Quê hắn ở Tiên Phước
(Quảng Nam). Những năm cuối thế kỷ 20, miền Tây Quảng Nam được mệnh danh
là “xứ sở vàng” với hàng trăm bãi khai thác vàng trái phép. Hắn cũng
háo hức đi tìm giấc mơ đổi đời. Ban đầu, hắn làm một phu vàng bình
thường. Nhưng về sau, với máu giang hồ, hắn nhanh chóng gia nhập các
băng nhóm cướp bóc hoặc đâm chém nhau để tranh giành lãnh địa.
Vụ
cướp máng đầu tiên vào tháng 2/1992, hắn và đồng bọn thu được 2,6 cây
vàng bổi. Sau khi tiêu hết số vàng này, hắn chia tay huynh đệ dạt vào
Đắk Nông làm nghề đào đãi đá quý. Cũng như các bãi vàng, các bãi đá cũng
rải đầy băng nhóm, ngày đêm lăm le nhau để trấn lột, tranh giành quyền
thống lĩnh những nơi màu mỡ. Hắn nhanh chóng gia nhập vào một băng nhóm
gồm 6 tên trẻ tuổi cùng quê Nông Cống.
Chuyện
về hắn như huyền thoại. Rằng, chỉ một sợ dây lớn nhất của đàn ghi-ta
(dây mì) và một cục chì bằng nắm tay, hắn có thể đánh tan tác đám lâu la
với cuốc xẻng, xà beng và cả côn nhị khúc.
Đêm
đó, khi hắn từ thị trấn Gia Nghĩa vào bãi đá thì bị một băng nhóm phục
kích. Hắn bình tĩnh rút trong túi ra sợi dây đàn với một đầu cột chặt
vào cục đá và múa tít trên đầu. Khi đó, đối phương chưa kịp tung chưởng
thì đã choáng váng bởi cục kim loại quật vào đầu, vào mặt đau tê tái. Dù
có một mình nhưng hắn thoát khỏi tay gần 10 tên đầu gấu một cách dễ
dàng.
Cũng từ trận đánh lịch sử
đêm đó, hắn bỗng chốc nổi tiếng khắp bãi đá ở đây và nghiễm nhiên lên
chức đại ca. Sau một thời gian tung hoành ở Đắk Nông, hắn theo bạn vào
tận biên giới Tây Ninh học võ và học... cướp. Tuy nhiên, bám trụ ở đây
không được bao lâu, hắn trở về quê. Trở về với gia đình, lúc này, nghề
đào giếng khá hơn nghề đào vàng nên hắn bằng lòng làm người lương
thiện.
Ngày ngày, hắn sách đồ
nghề đi khoan giếng, từ Tam Kỳ đến Quế Sơn và có khi ra cả Huế hay vào
Quảng Ngãi. Thế nhưng không được bao lâu, hắn gặp lại một chiến hữu ở
bãi vàng trước đây và người này rủ hắn lên bãi làm ăn. Hắn vứt dụng cụ
khoan giếng, hăm hở trở lên các bãi vàng.
Đêm
đầu tiên có mặt tại bãi vàng Phước Thành (Phước Sơn), hắn đã dẫn đầu 10
tên phu vàng gốc Bắc đánh tan tác một số lán trại. Chỉ trong vòng 11
ngày trấn lột, hắn đã thu được 63 cây vàng từ các cuộc cướp bóc. Có
vàng, hắn càng liều lĩnh và xưng hùng xưng bá.
Có
tiền, hắn lao vào bài bạc, hút chích. Nói về độ tiêu tiền, hắn nổi
tiếng khắp các bãi vàng. Có lần, hắn và một tên dân anh chị cầm nguyên
100 cây vàng ra Hà Nội ăn chơi trác táng. Chưa đến một tháng, chúng không còn một xu dính túi. Thế là phải lội vào Quảng Nam lên “xứ sở vàng”.
Cứ
như thế, ban ngày hắn đi trấn lột, cướp bóc, ban đêm hắn ngồi sòng và
chìm ngập trong khói thuốc phiện. Những năm 97-98, các bãi vàng ở Phước
Sơn, Trà My liên tục “trúng quả”. Nghề cướp bóc, bảo kê của hắn càng
được dịp phất lên. Có tiền, hắn càng ăn chơi tợn, nhất là món thuốc
phiện.
Tự chế thuốc “hóa vàng”
Trong
thời gian dặt dẹo ở bãi vàng Phước Sơn, do có “số má” nên hắn được các
chủ hầm vàng thuê làm bảo kê. Công việc nhàn hạ nên hắn lân la học nghề
“đánh hóa” (cách dùng hóa chất lọc quặng lấy vàng) và nghề tăm vỉa (thăm
dò mạch đá có chứa vàng).
Gần
một năm “nghiên cứu” hắn bỗng dưng nổi tiếng cả bãi vàng vì tay nghề
đánh hóa và tài tăm vỉa “bách phát bách trúng”, hắn liên tục được các
lán mời mọc săn đón và trả công như một chuyên gia.
Khoảng
cuối năm 1998 do khai thác vô tội vạ, vàng ở các bãi dần cạn kiệt, các
chủ hầm lần lượt phá sản. Không có nơi cung phụng, hắn và đàn em hơn
chục tên không có tiền phê ma túy nên lên cơn vật vã. Để có tiền xài,
hắn liên tục xin đểu, cướp, trấn lột của các chủ hầm.
Đang
lúc bị công an thường xuyên truy quét, đãi không ra vàng lại bị hắn
quấy nhiễu nên các chủ hầm vàng hợp sức lại chống trả khiến cả Tuệ lẫn
đàn em đều nhiều lần bị trọng thương.
Đang
lúc túng quẫn hắn gặp một ân nhân, đó là Mông “cận”, quê ở huyện Võ
Nhai, tỉnh Thái Nguyên. Mông vốn là một nhà giáo, tính cẩn thận, làm ăn
bài bản nên mặc dù cả bãi vàng gặp khó nhưng lán của anh ta vẫn sống
tốt.
Một ngày cuối năm 1998, một
nhóm côn đồ đã chặn đường đánh Mông. Đúng lúc đó, Tuệ tình cờ đi qua.
Dù không biết Mông “cận” là ai nhưng thấy chuyện bất bình, hắn rút “vũ
khí dây đàn” xông vào cứu. Để trả ơn, Mông “cận” đã mời hắn về làm đốc
công và bảo kê cho lán của mình. Đang túng quẫn nên hắn nhận lời ngay.
Từ
23/10/1998 đến 4/4/1999 là khoảng thời gian thanh thản nhất của hắn ở
bãi vàng. Không chỉ làm bảo kê, hắn còn tích cực tham gia lao động nên
được Mông rất tin tưởng và quan tâm.
Tháng
4/1999, sau khi không khuyên được Tuệ cai ma túy, Mông bỏ lán trại và
dụng cụ lại cho hắn rồi đi tìm hầm vàng mới. Mông vừa đi khỏi, đám em út
cũ của Tuệ từ Thái Nguyên mới vào không có việc làm lại tìm đến xin đầu
quân. Vừa thương chúng, lại đang lúc hầm vàng bỏ trống, hắn gật đầu
đồng ý.
Hoàn lương sau vụ làm “bác sĩ bất đắc dĩ”
Chỉ
1 tuần sau khi tiếp quản hầm vàng của Mông “cận”, hắn đã phải bán hết
máy móc, dụng cụ rồi cùng cả bọn lang thang quanh những lán trại cũ sống
lay lắt. Và, trong lúc cố gắng tìm kiếm những gì còn sót lại của một
hầm vàng bỏ hoang, một thằng bé trong bọn bị đá đè dập xương ống chân.
Trong
lúc trời mưa to, cả bọn không có đồng xu dính túi nên không thể đưa nạn
nhân đi bệnh viện. Lo sợ bị hoại tử, nhiễm trùng, hắn liều lĩnh tự tay
tháo khớp chân cho thằng bé. Không thuốc mê, không thuốc tê, hắn dùng
dây dù để “cố định” nạn nhân vào sạp. Dụng cụ mổ là dao thái rau và kim
chỉ khâu áo quần, dao mổ được sát trùng bằng bếp lửa.
Sau
30 phút, hắn đã làm xong việc tháo khớp cho nạn nhân. Những ngày sau
đó, hắn cùng đàn em đi đánh hóa thuê cho các chủ hầm kiếm tiền sống qua
ngày. Riêng thằng bé bị tháo khớp, nhờ có hêrôin nên cũng đỡ đau và thật
may mắn vết cắt không bị nhiễm trùng và sau 2 tuần thì lành hẳn.
Sau
khi tiếp nhận lũ đàn em và làm “bác sĩ bất đắc dĩ”, Tuệ bỗng suy nghĩ
nhiều về cuộc đời mình. Sau nhiều ngày đấu tranh tư tưởng, hắn quyết
định cai nghiện và hoàn lương.
Biết
ý định “bỏ vàng” của Tuệ, một người đã hào phóng cho hắn nguyên một mẻ
máng, đãi được 9,3 lượng vàng. Hắn cầm số vàng này ra Hà Nội, vào nhà
một người bạn tên Cường gần Bệnh viện Bạch Mai thuê bác sĩ đến để điều
trị cai nghiện. Sau khi cai nghiện thành công, hắn trở về quê nhà với mẹ
già. Và lần này, hắn làm yên lòng người mẹ khi lấy vợ và sinh cháu cho
bà.
Để mưu sinh, hắn cùng vợ
buôn hàng quế, những lúc nhàn rỗi, hắn đi đãi cát, sạn trên sông kiếm
thêm thu nhập. Dù cuộc sống chật vật nhưng được cái hắn đã đoạn tuyệt
được với ma túy.
Trong nhiều năm
qua, nhiều lần có người rủ rê trở lại bãi vàng, nhưng hắn vẫn cương
quyết không đi. Gần 20 năm lăn lộn các bãi vàng đã đem lại quá nhiều
đắng cay, tủi nhục nên hắn quyết không sa ngã một lần nữa, hắn muốn giữ
hạnh phúc đơn sơ mà mình đang có.
Vét hơi cuối đời lừa thiên hạ
Đầu
năm 2012, hắn thấy cơ thể mình ngày một yếu đi. Mười mấy năm nghiện
ngập, hắn biết mình đã mắc phải căn bệnh không thể nào chữa khỏi. Lúc
này, tiền làm ra của hai vợ chồng đều đổ vào thuốc thang cho hắn. Nhìn
vợ chắt chiu từng đồng bạc lẻ để lo cho mình, hắn lại quyết định, đi
tìm... vàng.
Rời
quê nhà, hắn đi một mạch lên Kon Tum. Như một thói quen, đôi chân hắn
dừng lại ở các bãi vàng. Nhưng bây giờ không một ai chào đón, xun xoe,
cung phụng cho hắn. Hắn lang thang tìm việc vặt vãnh kiếm sống qua ngày.
Rồi hắn nghĩ, không đào được vàng thật trong bãi thì hắn sẽ ra các tiệm
vàng ngoài phố để... đào.
Tháng
8/2013, tại bãi vàng ở xã Hiếu (huyện Kon Plong), hắn mua một cục
vàng giả của một người lạ mặt với giá gần 4 triệu đồng. Đã từng
đào đãi vàng, đã từng là người đi “tăm vàng” nên hắn biết khó ai phát
hiện được món hàng hắn mới mua là hàng giả.
Sau
đó, hắn cấu kết với 2 đối tượng ở Quảng Ngãi là Trần Văn Ngạc (25
tuổi, xã Ba Động, huyện Ba Tơ) và Dương Minh Quang (24 tuổi, thị trấn
Ba Tơ) lập nhóm đóng vai phu đào vàng đi bán vàng.
Ngày
15.9, cả nhóm kéo lên thị trấn Di Lăng để bán “vàng”. Hắn phân công
Ngạc cầm “vàng” vào tiệm vàng Bảy Thiên bán, còn hắn và Quang đứng
chờ ở bên ngoài tiếp ứng. Vào tiệm, Ngạc nói với ông Võ Trọng
Thuyên (46 tuổi, chủ tiệm vàng): “Đây là số vàng được đãi tại
một bãi vàng ở huyện Tây Trà, bây giờ cần gấp tiền nên em phải
bán”.
Lúc này trời sẩm
tối, mưa lớn, sau khi xem vàng bằng mắt, ông Thuyên đồng ý mua
và nói giá khoảng 2,5 triệu đồng/chỉ. Sau khi cân được 3,5 chỉ,
ông Thuyên đưa cho Ngạc gần 9 triệu đồng. Bán được vàng, hắn và 2
chiến hữu chia nhau tiêu xài.
Tối
17/9, hắn và Ngạc, Quang đến xã Đức Lân, huyện Mộ Đức để tiếp tục bán
“vàng”. Đến thôn Thạch Trụ Tây, hắn phân công Trần Văn Ngạc vào hiệu
vàng Hường và ngỏ ý bán vàng. Khi ông Đoàn Xuân Đàm (43 tuổi,
chủ hiệu vàng) hỏi vàng này ở đâu, Ngạc trả lời đó là số vàng được
chúng đãi được tại xã Hiếu (huyện Kon Plong). Cầm trên tay kiểm tra
và cắn thử, không phát hiệu điều gì bất thường, ông Đàm đã mua số
vàng trên với giá 6 triệu đồng.
Thấy
dễ ăn, ngày 21/9, hắn lại bảo Ngạc, Quang quay lại hiệu vàng Hường
và diễn lại vở kịch mà 4 ngày trước chúng đã diễn. Lần này ông Đàm quyết
không để chúng thoát nên liền gọi điện báo công an xã Đức Lân. Biết bị
phát hiện, Dương Minh Quang nhanh chóng lên xe máy bỏ chạy.
Nhiều người dân địa phương và lực lượng Công an xã đã truy đuổi,
bao vây bắt đối tượng.
Sau 2
giờ đồng hồ, cơ quan công an đã bắt được Quang khi y đang trốn
tại một nhà xưởng bỏ hoang tại Cụm công nghiệp Thạch Trụ. Đấu
tranh khai thác nóng với Quang, Công an huyện Ba Tơ tiếp tục bắt
giữ Trần Văn Ngạc. Lúc này, biết hành vi lừa đảo của mình bị lộ nên
hắn tìm cách lẩn trốn. Trong khi hắn đang đứng đón xe khách để về Quảng
Nam thì bị Công an huyện Mộ Đức bắt giữ./.
Nhận xét
Đăng nhận xét