Dai Chung la su suy ngam cua toi ve cuoc doi, xa hoi, nhan sinh
CON ĐƯỜNG HUYỀN THOẠI 2/C
Nhận đường liên kết
Facebook
X
Pinterest
Email
Ứng dụng khác
-
-Lịch sử là hiện thực quá khứ. -Có
những câu chuyện, những sự việc thuộc hiện thực lịch sử qua tháng năm
đã hóa thành huyền thoại lịch sử. Và những con người từng làm nên huyền
thoại lịch sử ấy vụt hóa thành thần thánh vì đã vượt qua sức tưởng tượng
của người đời. -"bốc lửa cánh đồng bốc lửa rừng cây dãy Trường Sơn máu ứa dân tộc tôi mang thương tích đứng lên trùng trùng rừng xanh núi đỏ bao người con hy sinh sóng dạt vào đất đá nhập với Trường Sơn dựng lũy thành…"
Anh ngã xuống đường băng Tân Sơn Nhứt Nhưng Anh gượng đứng lên tì súng trên xác trực thăng Và Anh chết trong khi đang đứng bắn Máu Anh phun theo lửa đạn cầu vồng. Chợt thấy anh, giặc hốt hoảng xin hàng Có thằng sụp xuống chân Anh tránh đạn Bởi Anh chết rồi nhưng lòng dũng cảm Vẫn đứng đàng hoàng nổ súng tiến công Anh tên gì hỡi Anh yêu quý Anh vẫn đứng lặng im như bức thành đồng Như đôi dép dưới chân Anh giẫm lên bao xác Mỹ Mà vẫn một màu bình dị, sáng trong Không một tấm hình, không một dòng địa chỉ Anh chẳng để lại gì cho riêng Anh trước lúc lên đường Chỉ để lại cái dáng-đứng-Việt-Nam tạc vào thế kỷ: Anh là chiến sỹ Giải phóng quân. Tên Anh đã thành tên đất nước Ôi anh Giải phóng quân! Từ dáng đứng của Anh giữa đường băng Tân Sơn Nhứt Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân
(3-1968)
-----------------------------------------------------------------------------
(ĐC sưu tầm trên NET)
Phim tài liệu Huyền thoại TÀU KHÔNG SỐ Tập 4
Phim tài liệu Huyền thoại tàu không số Tập 5
Thuyền trưởng Tàu không số kể về đường Hồ Chí Minh trên biển huyền thoại
Dân trí 50 năm đã qua nhưng ký
ức về những tháng ngày lênh đênh trên Tàu không số vẫn vẹn nguyên trong
ông. Có những nỗi đau như một vết sẹo khó lành mãi ám ảnh người thuyền
trưởng, đó là ký ức về những đồng đội đã bỏ lại thân mình nơi biển cả...
Nhiều người bất ngờ khi gặp lại Anh hùng LLVT Nguyễn Văn Đức (tức Sáu
Đức) - nguyên thuyền trưởng Tàu không số, Cựu chiến binh Hải quân Việt
Nam tại trường quay Đài Truyền hình Việt Nam, trong chương trình Giai
điệu Tự hào tháng 9 - Bám biển quê hương ngày 19/9 tại Hà Nội. Bất ngờ
hơn, khi ông được mời làm thành viên Hội đồng bình luận chương trình,
bên cạnh nhạc sĩ Văn Ký, nhạc sĩ Phạm Tuyên, Tiến sĩ Trần Công Trục -
chuyên gia biển Đông, nguyên Trưởng Ban Biên giới Chính phủ…
Anh hùng LLVT Nguyễn Văn Đức (sinh năm 1941, quê Bến Tre) cùng huyền
thoại Tàu không số đã đi vào lịch sử cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước
của dân tộc. Ông cũng một trong những người đầu tiên vượt biển từ Nam ra
Bắc để mở đường Hồ Chí Minh trên biển. Những năm tháng lịch sử hào hùng
ấy đã được ông chia sẻ trong chương trình. Chỉ mong về thắp nén nhang cho đồng đội
Tháng 6/1961, chiến trường miền Nam bước vào cuộc chiến chống Mỹ cam
go. Theo chỉ đạo của Trung ương Đảng, ông Đức cùng 5 đồng đội lên đường
ra Bắc để chở vũ khí vào chi viện cho chiến trường miền Nam trên một
chiếc tàu gỗ đánh cá ọp ẹp.
Chuyến đi đầu tiên nhằm khảo sát tình hình hoạt động của địch, địa
hình, đường đi,... Vượt qua 2.000 km trên biển chỉ với một tấm bản đồ sơ
sài, qua bao vòng vây bom đạn của địch, cuối cùng ông Đức và đồng đội
cũng ra được miền Bắc trong sự bất ngờ của những người chỉ huy, và cả
chính bản thân ông.
Chuyến đi đầy bão táp ấy đã mở ra chương đầu tiên của con đường Hồ Chí Minh trên biển huyền thoại.
Ngày 23/10/1961, Bộ đội Hải quân Việt Nam quyết định thành lập Đoàn
759 để vận chuyển hàng hóa, vũ khí chi viện cho chiến trường miền Nam
với mật hiệu Đoàn tàu không số. Trong suốt 14 năm từ đó cho đến ngày
toàn thắng, hàng trăm con tàu gỗ nhỏ mong manh như chiếc lá giữa biển
khơi đã chuyên chở vào chiến trường miền Nam hàng nghìn tấn vũ khí, hàng
hóa. Cùng với đó, là tấm lòng của hậu phương miền Bắc.
Ông Sáu Đức kể, hiểm nguy nơi biển cả bao la với những cơn bão khủng
khiếp cũng chưa thấm vào đâu nếu so với những cuộc lùng sục của kẻ thù
gồm hàng trăm chiếc tàu của hạm đội 7 Mỹ, hải quân Ngụy, máy bay trinh
sát và cả vệ tinh do thám của Mỹ.
“Đầu không đội trời, chân không đạp đất, không có thứ gì để chiến đấu
và chống trả. Không chỉ vậy, chúng tôi còn đương đầu với gió bão. Sóng
gió cấp 6-7 là lúc tàu bắt đầu đi, vì chỉ khi đó mới gặp ít nguy cơ phải
đương đầu với địch. Đi lúc bão mà thành công còn hơn đi trong trời êm
mà phải phá tàu”, ông Đức kể lại.
50 năm đã qua nhưng ký ức về những tháng ngày lênh đênh trên Tàu
không số vẫn vẹn nguyên trong ông. Có những nỗi đau như một vết sẹo khó
lành mãi ám ảnh người thuyền trưởng giờ đã bước vào tuổi thất thập. Đó
là vào ngày 27/2/1968, khi chiếc tàu mang số hiệu 43 chở hơn 40 tấn vũ
khí vào cảng Lý Sơn, Quảng Ngãi thì bị địch phát hiện. 17 chiến sĩ trên
tàu thì 3 người thiệt mạng, 12 người bị thương. Mọi người cùng dìu nhau
bơi vào đất liền để tìm sự giúp đỡ. Tàu cũng được kích nổ để phá.
Ông Đức đau xót nhớ về người đồng đội trẻ mới ngoài 20 không may mắn.
Chiến sĩ Vũ Xuân Ruệ quê ở Tiền Hải, Thái Bình mới cưới vợ được 3 ngày
đã lên đường hành quân vào Nam chiến đấu. Bị thương nặng trên khoang
lái, chàng trai trẻ chỉ kịp mấp máy với ông: “Anh Đức ơi, chắc em chết
mất thôi. Chúc các anh chiến đấu thắng lợi, về miền Bắc an toàn”, rồi
gục xuống tắt thở. “Cậu ấy chết trên tay tôi. Một chàng trai trẻ 24
tuổi, mới cưới vợ được 3 ngày đã lên đường làm nhiệm vụ. Rồi hy sinh
ngay sau đó. Tôi thương đồng chí lắm. Đồng chí mất trên biển cũng không
còn xác nữa”, giọng ông Đức nghẹn ngào.
Vào đến bờ, các chiến sĩ bị thương được người dân đưa vào bệnh xá
Đặng Thùy Trâm và được chính bác sĩ Đặng Thùy Trâm tận tình cứu chữa và
chăm sóc. 35 ngày sau, tất cả bình phục lại tiếp tục lên đường. Chuyến tàu thành công nhất
Sau sự kiện Vũng Rô năm 1967, đường Hồ Chí Minh trên biển bị lộ. Mỹ
lập tức siết chặt khu vực biển Đông, tăng cường tàu tuần tiễn, máy bay
trinh sát để ngày đêm săn lùng, âm mưu cắt đứt hoàn toàn đường biển nối
liền tiền tuyến với hậu phương.
Suốt 3 năm liền (1965-1968), không một con tàu nào của ta lọt qua
được vùng biển này. Thất bại, các chiến sĩ phải phá tàu bơi vào bờ. Quân
ta trên chiến trường miền Nam lâm vào cảnh khó khăn, nhiều chiến sĩ hy
sinh. Tình thế ấy buộc Trung ương Đảng phải chỉ huy một chuyến tàu chi
viện vũ khí cho miền Nam bằng mọi giá.
Đó là vào tháng 10/1969, khi cả nước đang chìm trong nỗi đau vì Chủ
tịch Hồ Chí Minh vừa mới qua đời. Ông Sáu Đức khi đó được điều làm
thuyền phó tàu 154 nhận nhiệm vụ mới là đi khắp vùng biển các nước Đông
Nam Á tìm đường vào Nam. Khi đó, tàu 154 đang nằm ở Xưởng 3, Hải Phòng.
Đó là chuyến đi đáng nhớ nhất, cũng là chuyến đi dài nhất của ông
trên biển. Bình thường, mỗi hải trình của Tàu không số chỉ kéo dài 5, 6
ngày nhưng lần này, để tránh nanh vuốt của địch, tàu 154 phải đi ra
ngoài vùng biển tự do khắp Đông Nam Á, vòng qua hàng loạt các nước như
Philippines, Indonesia, Malaysia rồi mới quay trở lại miền Nam Việt Nam.
Ông Đức kể, trong đêm cuối cùng khi tàu đi từ Malaisia sang đảo Hòn
Khoai (Cà Mau), trời mưa tầm tã, thuyền đánh cá của ngư dân miền Nam
thắp đèn sáng rực trên biển. Mưa bão và sóng trên tàu đánh cá khiến ra
đa trinh sát của địch bị nhiễu. Tận dụng cơ hội này, tàu 154 tranh thủ
len lỏi vào vùng đánh cá của dân rồi mở hết tốc độ, lao thẳng vào bến
trên đất liền. 1h sáng, tàu cập cảng. Ai nấy đều vui mừng khôn siết.
“Mọi người cho rằng, vong linh Bác Hồ đã phù hộ nên tàu mới cập bến
trót lọt. Chuyến tàu đó, chúng tôi chở được 60 tấn vũ khí để chi viện,
góp phần không nhỏ vào công cuộc thắng lợi của miền Nam, ổn định chiến
trường, giữ vững vùng giải phóng. Thành công của chuyến đi này là điều
nằm ngoài sức tưởng tượng. Ngay đồng chí Tham mưu trưởng Lê Trọng Tấn
còn không tin nổi, gọi điện xác nhận liên tục”, ông Sáu Đức nhớ lại.
Theo ông Đức, khi Bác Hồ qua đời, anh em đã hạ quyết tâm dù có hy
sinh cũng phải đưa bằng được một chuyến tàu vào miền Nam dù tình hình
lúc đó vô cùng khó khăn. May mắn là chuyến đi thành công tốt đẹp, tàu
154 được Nhà Nước phong tặng Huân chương “Anh hùng lực lượng vũ trang”.
18 chiến sĩ trên tàu đều được tặng thưởng Huân chương hạng Nhất tới hạng
Ba. Với không chỉ cá nhân ông Sáu Đức, đó là một chuyến đi để đời.
Đi qua hơn nửa thế kỷ, vượt qua bao giông bão, bom đạn, người cựu
chiến binh già vẫn còn đau đáu trong lòng nỗi trăn trở, nhiều đồng đội
của ông đã bỏ lại thân mình nơi biển cả, chưa được về đất liền, đoàn tụ
anh em, người thân...
Hoàng Anh
Các thuyền trưởng tàu không số (Kỳ 1)
Cho
đến nay, đã có nhiều bài báo, phóng sự tài liệu về đồng chí Lê Văn Một,
người thuyền trưởng của chiếc “tàu không số” đầu tiên mang tên Phương
Đông 1. Nhưng cuộc đời cách mạng của ông còn có nhiều bí mật, bất ngờ
khiến chúng ta đi từ ngạc nhiên đến khâm phục.
Kỳ 1: Thuyền trưởng tàu không số đầu tiên
Bắt đầu từ “con đường xuyên Tây”
Lê Văn
Một sinh năm 1921, thuộc dòng dõi gia tộc thủ khoa yêu nước Nguyễn Hữu
Huân đất Tiền Giang. Từ lúc lọt lòng, ông có tên Pháp là Abel René. Abel
René là con thứ 11 trong một gia đình giáo học quốc tịch Pháp có 13 anh
em. Cha là Đốc học Lê Văn Giỏi nổi tiếng đất Mỹ Tho (Tiền Giang). Cậu
bé Abel René từ nhỏ đã tỏ ra thông minh, sáng dạ, chăm chỉ học tập, được
bố mẹ cho học ở nhiều trường như Trường Tiểu học Mỹ Tho, Trường Lê Bá
Cang – Sài Gòn… rồi ra Hà Nội học ở Trường Thăng Long.
Đến tuổi
trưởng thành, Abel René vào lính thủy, làm “nghĩa vụ” với mẫu quốc
Pháp, là hoa tiêu trên tàu Lamotte Picquet – tuần dương hạm lớn nhất
Đông Dương.
Cách
mạng Tháng Tám 1945 là một bước ngoặt mới đến với Abel René. Luồng gió
mới thổi vào đời ông. Abel René bừng tỉnh: La france ce n’est pas ma
Ptrie! (Nước Pháp không phải là quốc mẫu của tôi!). Ông cùng bạn bè tìm
đường theo cách mạng kháng chiến. Abel René đổi tên thành Lê Văn Một.
Thuyền trưởng Lê Văn Một.
Tháng
12-1946, cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Lực lượng vũ trang Nam Bộ
“thuốc súng kém, chân đi không” đành phải lùi dần về Đồng Tháp Mười và
rừng U Minh. Ban sưu tầm vũ khí ở nước ngoài được thành lập. Lê Văn Một
và 12 người nữa được đồng chí Năm Phúc (tức nhà lão thành cách mạng
Dương Quang Đông) chọn vào lực lượng vận tải vũ khí, lên đường sang Băng
Cốc (Thái Lan) bằng ghe buồm để tìm mua vũ khí và tổ chức con đường
xuyên Tây, vận chuyển vũ khí từ Thái Lan về Nam Bộ.
Lê Văn
Một được giao trọng trách mang theo 25kg vàng, bỏ trong ruột tượng, ngày
đêm cột chặt quanh mình. Số vàng này là kỳ tích của “Tuần lễ vàng” vì
lòng yêu nước của nhân dân quyên góp để mua vũ khí.
Chuyến
đầu tiên, Lê Văn Một tổ chức 10 xe bò, 10 voi và lực lượng 70 người, vận
chuyển bằng đường bộ qua Cam-pu-chia về nước. Súng theo voi, đạn đeo
lưng người. Trải qua 16 ngày vượt núi, qua sông, địch luôn luôn ngăn
đường, chặn lối, đơn vị vừa hành quân vừa tác chiến 11 trận trên đất
Cam-pu-chia. Đầu tháng 1-1948, đoàn về đến Nam Bộ với 11 người hy sinh
và mất tích. Thấy vận chuyển đường bộ gian khổ, hiệu quả thấp, Lê Văn
Một tính cách chuyển sang vận chuyển bằng đường biển. Tuy nhiên, gian
khổ, hy sinh vẫn không hề nhỏ. Có lần đoàn vận tải do “cặp đôi” Lê Văn
Một – Bông Văn Dĩa chỉ huy gặp gió bão, phải ghé vào đảo Phú Quốc để
tránh. Gần một tháng nằm tại đây, cả đoàn phải đào củ chuối rừng ăn cầm
hơi… Cứ như vậy, suốt mấy năm liền, đi đi, về về trên Vịnh Thái Lan, đơn
vị đã vận chuyển được hàng trăm tấn vũ khí, hàng hóa về Nam Bộ. Những
chiến công thầm lặng đó đã tạo tiền đề cho ý tưởng vĩ đại mở con đường
Hồ Chí Minh trên Biển Đông.
… Đến mở đường huyền thoại Hồ Chí Minh trên biển
Năm
1960, phong trào cách mạng ở miền Nam phát triển mạnh mẽ, mở đầu là
phong trào Đồng Khởi ở Bến Tre rồi lan rộng khắp các tỉnh Nam Bộ. Nhu
cầu vũ khí cho chiến trường miền Nam rất lớn. Con đường Trường Sơn đang
hình thành. Trước tình hình đó, Trung ương Đảng đã chỉ thị cho các tỉnh
ven biển Nam Bộ chuẩn bị bến bãi và đưa thuyền ra Bắc để nhận vũ khí,
đồng thời nghiên cứu con đường vận chuyển chiến lược trên biển để sử
dụng lâu dài. Từ cuối năm 1961, đầu năm 1962, lần lượt 6 thuyền gỗ của
các tỉnh Bến Tre, Cà Mau, Bà Rịa, Trà Vinh (trong đó thuyền gỗ Cà Mau do
Bông Văn Dĩa phụ trách) đã ra đến miền Bắc an toàn. Con đường vận
chuyển trên biển Đông khẳng định là “có thể đưa vũ khí vào được”.
Lê Văn
Một lúc đó đang tập kết ngoài Bắc, làm Cảng trưởng cảng Cẩm Phả, được
điều chuyển ngay về Đoàn 759 – Bộ Quốc phòng (tiền thân của Lữ đoàn 125
Hải quân) chuẩn bị làm nhiệm vụ đặc biệt này, nhiệm vụ mở đường đưa vũ
khí từ Bắc vào Nam trên những “con tàu không số”. Phải nói rằng cấp trên
đã khéo chọn, khéo sắp xếp một “cặp bài trùng”, Lê Văn Một – Thuyền
trưởng, Bông Văn Dĩa – Chính trị viên, cùng chung chuyến mở đường, cũng
như họ đã từng kề vai sát cánh trên Vịnh Thái Lan thời chống Pháp đưa vũ
khí về Nam Bộ. Họ đã biết tính nết nhau, tôn trọng nhau, đoàn kết yêu
thương nhau, chèo lái “con tàu không số” đầu tiên vượt biển Đông mở
đường tiếp viện quan trọng đưa vũ khí vào miền Nam đánh Mỹ.
Ngày
11-10-1961, tại Bến K15, Đồ Sơn, Hải Phòng (Bến K15 vừa được Bộ Văn hóa –
Thể thao và Du lịch xếp hạng Di tích cấp quốc gia), con tàu gỗ Phương
Đông 1 lặng lẽ nhổ neo ra khơi, hướng về phía Nam, chở 30 tấn vũ khí,
mang theo cả niềm tin, tình thương của Đảng, của Bác Hồ, của nhân dân
miền Bắc tới đồng bào miền Nam. Chuyến đi mở đường đã thành công. Một
lần nữa hai người chỉ huy Lê Văn Một – Bông Văn Dĩa lại ghi tên mình vào
trang sử vẻ vang của dân tộc.
“Người đi lo một, người chờ tin lo mười”
Phó thủ
tướng Phạm Hùng ngày đó đã căn dặn 12 thành viên con tàu gỗ Phương Đông 1
trước giờ xuất phát: “Đây là chuyến đi đầu tiên, nên cực kỳ quan trọng,
một việc hệ trọng và lâu dài, do vậy nếu gặp địch phải khôn khéo, mưu
trí, trường hợp xấu phải hủy hàng, hủy tàu để giữ bí mật con đường, các
đồng chí nên nhớ, người đi lo một, người ở lại chờ tin, lo mười…”.
Ông Sáu
Lai, một trong hai người còn lại của tàu Phương Đông 1, hiện sống tại
Cần Thơ, kể lại: “Có lần gặp tàu địch bám theo hướng chạy của ta, chúng
nã pháo dữ dội. Anh em nhanh trí xổ cả buồm lái và mũi cho thuyền căng
gió lướt trên ngọn sóng. Chỉ huy tàu phát lệnh chiến đấu. Toàn tàu xác
định, khi cần dùng tốc độ vượt lên, để tàu địch phía sau, rồi cho nổ bom
phá áp tàu giặc, dùng tiểu liên, lựu đạn đánh địch, người lái thì cứ
cho tàu chạy thoát. Nếu không thoát thì cho nổ 3 trái bom còn lại, quyết
không để tàu và vũ khí rơi vào tay giặc. Một và Dĩa dự kiến, nếu địch
bắt cả tàu thì lợi dụng trời tối cắt dây cho anh em bơi vào bờ, còn Một
và Dĩa ở lại dùng bom thủ tiêu tàu. Một nói với Dĩa: Nếu phải thủ tiêu
để một mình tôi thôi! Anh cùng anh em may ra còn sống sót về Trung ương
báo cáo…”.
Có lúc,
gặp giông bão, tàu nhỏ, chở đầy hàng rất nguy hiểm, không vào bờ, dễ
“chết ở ngoài khơi”, vào bờ dễ “làm mồi cho giặc”, Thuyền trưởng Một và
Chính trị viên Dĩa phải tính toán cân nhắc đến mức căng thẳng.
Người đi
trên biển thì như vậy, người ở nhà chờ tin thì sao? Trung tướng Đồng
Văn Cống, nguyên Cục phó Cục Tác chiến, người trực tiếp theo dõi diễn
biến của “con tàu không số” đầu tiên, kể lại: “Theo kế hoạch dự kiến đi 5
ngày thì đến. Sáng nào đến giờ giao ban Đại tướng Võ Nguyên Giáp cũng
hỏi: “Thế nào rồi? Có tin tức gì không?”… Tôi sốt ruột lắc đầu, rồi ngày
thứ sáu, thứ bảy, thứ tám cũng không tin tức gì! Sáng ngày 19-10-1962,
tức ngày thứ chín, Quân ủy Trung ương đang giao ban. Tôi bước vào. Đại
tướng ngẩng đầu nhìn tôi đăm đăm. Lần này tôi gật đầu, mặt tươi sáng.
Đại tướng đứng dậy ôm chầm lấy tôi, Đại tướng khóc. Mừng quá, không sao
kể xiết…”.
Chuyến đi thắng lợi, tàu Phương Đông 1 đã cập bến Vàm Lũng – Cà Mau an toàn sau 9 ngày lênh đênh trên Biển Đông.
Một năm
sau, Lê Văn Một lại được cử làm thuyền trưởng tàu gỗ 41, đưa vũ khí vào
miền Đông Nam Bộ, mở bến Lộc An (Bà Rịa – Vũng Tàu) ngay trước đồn Phước
Hải, đêm 3-10-1963. Đây là một chuyến đi gian khổ bởi tàu bị mắc cạn
ngay trước đồn địch. Lê Văn Một đã ứng xử rất linh hoạt, thông minh, bảo
đảm đưa hàng tới bến an toàn. Hai chuyến đi này đều ghi những dấu ấn
đặc biệt trong hành trình vận chuyển vũ khí bằng đường biển của những
“con tàu không số”. Đây là những chuyến mở đường, vào bến mới, đầy khó
khăn và thử thách. Bằng kinh nghiệm đi biển, bản lĩnh dày dạn, đặc biệt
là tinh thần quả cảm “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”, Thuyền trưởng Lê
Văn Một đã xử trí rất thông minh nhiều tình huống phức tạp trong hiểm
nguy và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.
Lê Văn
Một mất năm 1982. Chiến công của ông đã được ghi trong Lịch sử Hải quân
nhân dân Việt Nam, được đánh giá cao trong tập chuyên khảo mang tên
“Đường Hồ Chí Minh trên biển Bà Rịa – Vũng Tàu” do Nhà xuất bản Chính
trị Quốc gia Hà Nội xuất bản năm 1993. Ba năm sau ngày ông mất, Bảo tàng
Hồ Chí Minh phối hợp với gia đình tổ chức cuộc họp mặt, đánh giá công
lao đóng góp của ông trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước, đặc biệt là
thành tích đóng góp cho việc mở đường, vào những bến mới trên con đường
Hồ Chí Minh trên biển. Ông được Nhà nước công nhận liệt sĩ và truy tặng
Huân chương Độc lập hạng ba vì những đóng góp của ông vào sự nghiệp cách
mạng của Đảng và của dân tộc.
Năm
tháng sẽ qua đi, nhưng chiến công anh hùng của tập thể tàu Phương Đông 1
mà người chèo lái con tàu đó là Thuyền trưởng Lê Văn Một và Chính trị
viên Bông Văn Dĩa, những con người đã dũng cảm đi tiên phong, “khai sơn
phá thạch” một con đường, sẵn sàng hy sinh vì nhiệm vụ giải phóng miền
Nam, thống nhất đất nước, mở đường vận tải chiến lược mang tên Bác Hồ
kính yêu sẽ mãi đi vào lịch sử đấu tranh anh dũng kiên cường của dân tộc
ta, trở thành huyền thoại mãi mãi không bao giờ nhạt phai trong tâm trí
chúng ta, làm rạng rỡ thêm truyền thống anh hùng của Hải quân nhân dân
Việt Nam.
14:20 2014/2/5 – Trịnh Dũng – Thu Hương
Các thuyền trưởng tàu không số (Kỳ 2)
Đại
tá Trần Văn Tú – cán bộ Ban liên lạc truyền thống “Đường Hồ Chí Minh
trên biển” giới thiệu với chúng tôi một cách trân trọng và cảm phục về
một người thuyền trưởng đã tham gia chở vũ khí vào miền Nam từ những
ngày đầu trên con đường biển mang tên Bác. Người đã chỉ huy chuyến tàu
sắt đầu tiên, có 10 chuyến đi thành công, một con số thật đáng nể phục
trong những năm tháng khó khăn, ác liệt bởi sự phong tỏa gắt gao của kẻ
thù. Theo lời giới thiệu, chúng tôi tìm đến phường Đằng Hải, quận Hải
An, thành phố Hải Phòng gặp ông. Ông là Nguyễn Ngọc Ảnh, Thuyền trưởng
của những con tàu không số năm xưa.
Kỳ 2: Thuyền trưởng tàu sắt đầu tiên
Làng
Lũng những ngày đầu tháng Tám, đúng tiết ngâu, mưa bay lất phất. Những
hạt mưa gợi lại bao ký ức xa xưa, trong không gian thoáng đãng còn phảng
phất hương thơm của làng hoa lâu đời. Ông ngồi đó, đối diện với tôi, ở
tuổi 80, ông không được khỏe lắm, ngoại trừ đôi mắt sáng và minh mẫn.
Ông là
đồng hương của Nguyễn Phan Vinh, Nguyễn Tương và Nguyễn Văn Hiệu những
người con ưu tú đất Quảng Nam anh hùng đã ra đi cùng những huyền thoại
về Đoàn tàu không số vượt sóng gió ra khơi trong những đêm đen, bão gió,
đưa vũ khí về miền Nam. Đó cũng là những ngày tháng có ý nghĩa nhất
trong cuộc đời ông. Ông tự hào về điều đó. 10 chuyến đi là 10 chuyến an
toàn, 10 chuyến thành công.
Nguyễn
Ngọc Ảnh tập kết ra Bắc năm 1954, làm cán bộ trong ngành đường sắt,
tuyến đường Hà Nội – Lào Cai; sau đó chuyển về Nhà máy dệt Nam Định, rồi
học lớp Sơ cấp Hàng hải và được điều về làm Thuyền trưởng tàu đánh cá
của Xí nghiệp đánh cá Hạ Long. Trước yêu cầu vận chuyển đường biển chi
viện cho chiến trường miền Nam, đầu năm 1962 ông và một số anh em trong
Xí nghiệp đã nhập ngũ vào Đoàn 759 – tiền thân Đoàn 125 sau này.
Một chiếc tàu sắt của đoàn tàu không số trên đường chở vũ khí vào Nam (Ảnh thu được từ tài liệu của Mỹ-ngụy).
Chuyến
đầu tiên ông tham gia chở vũ khí vào miền Nam là chuyến tàu sắt, do
Xưởng đóng tàu III đóng. Đây là lần đầu tiên thử nghiệm con tàu do ta
đóng và cũng là lần thử nghiệm cho một tuyến đi mới của đơn vị.
– Khi
nhận con tàu sắt còn nguyên mùi sơn mới, anh em rất phấn khởi, nhưng
không khỏi lo lắng vì chưa kịp tìm hiểu kỹ các tính năng của tàu đã nhận
lệnh lên đường. Trước đó, năm 1962 ta đã sử dụng các tàu gỗ gắn máy chở
vũ khí vào miền Nam, loại tàu này chỉ đi sát bờ, không ra biển xa được.
An toàn đấy nhưng hiệu quả vận chuyển thấp. Trước yêu cầu phát triển
của cách mạng miền Nam, phải có những con tàu vận chuyển tốt hơn, trọng
tải lớn hơn và đi biển trong mọi thời tiết. Con tàu này có trọng tải 50
tấn, lắp máy của Cộng hòa Dân chủ Đức – loại máy tốt nhất lúc bấy giờ.
Tàu chịu được sóng cấp 7, cấp 8, mớn nước nông, có thể ra vào dễ dàng
các kênh rạch ở Đồng bằng Nam Bộ.
Ngày
17-3-1963, từ bến K20-Hải Phòng chúng tôi lên đường. Đồng chí Đạt – Phân
đội trưởng tàu tuần tiễu được điều sang làm Thuyền trưởng, tôi là
Thuyền phó, đồng chí Nguyễn Văn Tiến nguyên là thành viên của đội tàu
Bến Tre ra Bắc hai năm trước làm Chính trị viên.
Buổi
chiều mùa đông hôm đó trời u ám, mây vần vũ xám xịt, sóng gió cấp 7, cấp
8. Tàu ra khơi. Phải đi vào những ngày sóng như vậy, nguy hiểm đấy,
nhưng mới an toàn vì ít chạm tàu địch.
Ông Ảnh
ít cười khi nói chuyện, có một nỗi buồn nào đó phảng phất trong đôi mắt
mở to đau đáu kia. Sự suy tư hay những ký ức xưa hiện về trong buổi trò
chuyện này? Lặng im một lát, ông kể tiếp:
– Trong
đêm tối mịt mùng, càng ra khơi sóng mỗi lúc càng to. Gió thổi ràn rạt.
Mặt biển tím sẫm. Thiết bị quan sát chỉ có 1 la bàn lái chính, 1 la bàn
chuẩn ở trên cao để quan sát trăng sao, núi non. Chủ yếu là dựa vào kinh
nghiệm đi biển. Tàu đi về hướng đảo Hải Nam, vượt qua Đông Nam quần đảo
Hoàng Sa, Trường Sa… hướng về phía Nam. Qua mấy ngày đêm vật lộn với
sóng gió, tuy rất mệt nhưng ban chỉ huy tàu vừa phải bảo đảm công tác
chỉ huy, vừa phải quan sát chi tiết những vị trí, nhận dạng trên đường,
làm tiền đề cho những chuyến sau. Sóng gió quần dữ, anh em thủy thủ mệt
nhoài vì say sóng. Bụng đói, thèm một chút cháo nóng mà nồi cháo cứ đổ
nước vào, mỗi lần tàu nghiêng lại hất tung cả bếp, cả cháo ra. Phải đi
biển mới biết nấu ăn trên tàu khi sóng lớn cực đến mức nào, không kiên
nhẫn chắc không làm nổi. Anh Trần Lộc, người Quảng Nam, có sáng kiến nắm
chặt hai quai nồi và nhấc lên mỗi khi tàu lắc mạnh. Vậy mà mấy tiếng
sau cũng được nồi cháo cầm hơi… Vượt qua đảo Cù Lao Thu, tàu hướng thẳng
vào cửa Ba Động. Khi bắt được tín hiệu, chuẩn bị vào bến thì bất ngờ
được tin báo địch tổ chức càn quét, vây hãm khu vực này, chúng tôi
chuyển hướng sang bến Bát Sát, nay là cửa Hàm Luông (Trà Vinh).
GửiGửi Cảnh quay tàu không số bị địch phát hiện,
tấn công trong phim “Đường Hồ Chí Minh trên biển – Đoàn tàu không số”
(đạo diễn Xuân Cường).
Vòng vèo
mãi theo con thuyền nhỏ dẫn đường lặng lẽ, mập mờ phía trước, chúng tôi
cho tàu vòng xuống bến, đó là đêm 23 rạng ngày 24-3-1963. Đang chạy,
bỗng tàu khựng lại! Tàu bị sục cạn. Mọi cố gắng của chúng tôi đều bất
thành. Chi bộ hội ý chớp nhoáng quyết định cho anh em sơ tán, mang cả
súng 12,7mm, CKC, AK lên rừng đước đề phòng nếu quân địch đến thì chiến
đấu. Tôi cùng máy trưởng Kiên và đồng chí Nuôi ở lại trên tàu, tùy tình
huống xử trí. Khoảng 11 giờ, có tiếng máy bay tới gần, ngó nghiêng. Bình
tĩnh, chúng tôi lấy cờ ba que treo lên như những tàu đánh cá của dân
miền Nam, phía trên khoang tàu rải mấy tấm lưới ra phơi. Máy bay địch
vẫn quần đi quần lại nhưng không phát hiện thêm điều gì. Đến chiều tối,
nước bắt đầu lên, người trong bến đón chúng tôi vào bờ. Tại đây, dân
quân và bộ đội địa phương đã bố trí lực lượng đón và tiếp nhận vũ khí an
toàn.
Tôi nhớ
bữa đó, do tàu bị sục cạn, cánh chân vịt bị cong vênh không chạy được.
Một xưởng sửa chữa cơ động dựng lên. Chúng tôi lấy gỗ đóng dưới tàu. Khi
nước xuống, con tàu nằm cao trên đà. Anh Kiên người Trà Vinh – thợ máy
tàu – có sáng kiến dùng đèn khò xì vào cánh chân vịt cho mềm, dùng búa
gõ, nắn cho thẳng. Hì hụi hơn một tuần thì gò xong 4 cánh chân vịt. Nghỉ
ngơi lại sức chúng tôi trở về miền Bắc. Chuyến về êm xuôi, lợi gió, lợi
nước, tàu chạy nhanh và cập bến Đồ Sơn an toàn.
Sau
chuyến đi đầu thắng lợi, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương tổ chức gặp
gỡ và liên hoan chúc mừng chúng tôi. Phó thủ tướng Phạm Hùng và Thượng
tướng Trần Văn Trà cùng dự liên hoan. Anh em rất phấn khởi vì được Phó
thủ tướng khen ngợi và tặng quà.
Từ kinh
nghiệm của chuyến đi đầu, các chuyến sau chúng tôi thường cho tàu cập
bến Láng Nước (tỉnh Cà Mau), bến này sâu lại có nhiều rừng đước nên cập
tàu thuận lợi và an toàn hơn. Suốt 6 năm làm nhiệm vụ, tôi đã đi 10
chuyến thành công. Riêng chuyến thứ 5 tàu của chúng tôi đụng phải khu
trục hạm của Mỹ, do chủ động phát hiện từ xa, nên đã nhanh trí kịp thời
chuyển hướng và chuyển hàng tới bến an toàn…
Giờ đây,
với ông, tổ ấm là ngôi nhà nhỏ rợp bóng cây ở làng Lũng – làng hoa, với
đủ màu sắc của vùng đất nổi tiếng trồng hoa thành phố, nơi ông bà sống
sum vầy cùng các con cháu đã trưởng thành. Ở đó là sự yên bình, đầm ấm, ở
đó là những khoảng lặng cần thiết để ngẫm ngợi về những ngày gian khó,
ác liệt nhưng hào hùng của những người lính vận tải biển. Vẫn đôi mắt
sáng mở to, ông ngồi lặng nhìn ra vườn táo xanh mướt mát kia với ánh
nhìn tưởng chừng như lơ đãng mà vẫn ẩn dấu ưu tư. Dường như, ông vẫn
thấy bóng dáng còn tàu nhỏ bé năm xưa qua làn mưa ngâu bay lất phất, vẫn
thấy gương mặt thân yêu của đồng đội và hy vọng vào ngày gặp mặt…
Ra về,
lòng tôi cứ vấn vương mãi hình ảnh về ông, về đôi mắt sáng, tinh tường,
mưu trí, dũng cảm của người thuyền trưởng năm xưa đã tham gia chỉ huy
chuyến tàu sắt đầu tiên, đã đi 10 chuyến thành công, đưa vũ khí về giải
phóng quê hương, góp phần làm nên trang sử huyền thoại của con đường
biển mang tên Bác Hồ kính yêu…
14:25 2014/2/5 – Trịnh Dũng – Thu Hương
Các thuyền trưởng tàu không số (Kỳ 3)
Từ
một du kích trưởng thành thành một thuyền trưởng “tàu không số” dày dạn
kinh nghiệm với hàng chục chuyến chở vũ khí vào miền Nam đánh Mỹ. Mỗi
chuyến đi là một câu chuyện, một kỷ niệm, nhưng theo ông hồi ức đáng nhớ
nhất là “chuyến đón tàu Phương Đông 1 của Chính trị viên Bông Văn Dĩa,
Thuyền trưởng Lê Văn Một, ngày 16-10-1962 tại Vàm Lũng-Cà Mau…”. Ông là
Nguyễn Xuân Thơm, hiện sống tại 15/7A Đoàn Như Hài, phường 12, quận 4,
TP Hồ Chí Minh.
Kỳ 3: Từ du kích trở thành thuyền trưởng
Ông kể, cuộc đời trai trẻ của mình đã
gắn trọn với con đường vận chuyển trên Biển Đông, chở vũ khí cho miền
Nam đánh Mỹ. Ông đã tham gia 16 chuyến vượt biển, 10 chuyến thành công,
đã từng chỉ huy Tàu HQ-673 chở các lực lượng đặc công đi giải phóng quần
đảo Trường Sa, nhưng thực sự câu chuyện “đón chiếc tàu Phương Đông 1
của bác Một, bác Dĩa” làm ông nhớ mãi, không sao quên được.
Nguyễn Xuân Thơm sinh ra và lớn lên ở
xã Tân Tiến, huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau. Từ nhỏ đã được chứng kiến sự
độc tài, thối nát của chế độ gia đình họ Ngô. Luật 10/59 của Ngô Đình
Diệm đã lê máy chém đi khắp miền Nam gây ra bao nhiêu tội ác dã man với
đồng bào. Quê hương, xóm làng bị chìm ngập trong cái gọi là “khu trù
mật”. Căm thù giặc Mỹ, Nguyễn Xuân Thơm đã đi theo cách mạng, vào vùng
giải phóng, gia nhập đội dân quân du kích Ấp 7 ở quê hương, sau đó ông
được chuyển về trung đội du kích xã làm nhiệm vụ canh gác, bảo vệ căn cứ
cách mạng, tính mạng và tài sản nhân dân.
Ông Nguyễn Xuân Thơm (bên trái) cùng đồng đội.
Ông kể,
ngày đó cơ sở vật chất cách mạng còn nghèo nàn lắm. Để chống lại các
cuộc càn quét của giặc hay phá tan các “khu trù mật” mở rộng vùng giải
phóng, đơn vị ông chỉ có trang bị vũ khí thô sơ như súng kíp, lựu đạn,
mìn tự tạo, vũ khí đạp lôi làm bằng chai đựng nước, và một loại vũ khí
không thể thiếu được đó là chông hầm và chông bàn (đây là loại vũ khí
được coi là lợi hại nhất)… Ngoài ra còn có hai khẩu súng trường, ba súng
kíp tự làm bằng ống xe đạp cộng với một số lựu đạn lấy được của giặc và
lựu đạn mỏ vịt tự làm.
– Vũ khí
thô sơ, thiếu thốn. Vậy mà hai năm trời đơn vị phải chiến đấu với hàng
chục trận càn của địch, đối đầu với hàng trăm tên địch được trang bị
nhiều vũ khí hiện đại, cùng nhân dân nổi dậy phá ấp chiến lược, san bằng
khu trù mật, thủ tiêu chính quyền ngụy, lập lại chính quyền cách mạng,
xây dựng quê hương làng xóm thân yêu của mình! Ông kể với giọng đầy sôi
nổi, tự hào, gương mặt ánh lên niềm vui rạng rỡ.
Khoảng
giữa năm 1962, ông và một người đồng chí được chuyển công tác về đơn vị
mới mà “hoàn toàn chưa biết gì về đặc điểm và tính chất hoạt động của
nó”. Về sau mới biết đó là đơn vị TN-3175, thuộc quân khu miền Tây Nam
Bộ, trực thuộc Trung ương Cục miền Nam. Tại đây anh em luôn được sự đùm
bọc của nhân dân xóm “ấp Máng Gào” thuộc xã Viên An-căn cứ cách mạng hồi
kháng chiến chống Pháp, mang truyền thống của cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ
1940 và cuộc khởi nghĩa Hòn Khoai của anh hùng Phan Ngọc Hiển năm xưa,
giờ còn gây tiếng vang khắp vùng. Nơi đây đã trở thành căn cứ cách mạng
kháng chiến. Nhiều đồng chí khác từ các xã: Khánh Bình Tây, Khánh Bình
Đông, Khánh Lâm thuộc huyện Trần Văn Thời… cũng được điều về đơn vị. Mọi
người sống vui vẻ, chan hòa như anh em một nhà, hằng ngày được học tập
chính trị, phổ biến nắm bắt tình hình nhiệm vụ mới. Sau mười ngày học
tập đơn vị phân công mỗi người một nhiệm vụ khác nhau.
– Tôi
được phân về trung đội vũ trang bảo vệ căn cứ và cơ quan, còn các bộ
phận khác đều có nhiệm vụ riêng. Sau đó chúng tôi được Trung ương giao
nhiệm vụ chuẩn bị mua ghe tàu, lắp máy trang bị ngụy trang, lo giấy tờ
hợp pháp trong vùng địch. Sau ba tháng tích cực chuẩn bị, lo lót chính
quyền ngụy, chúng tôi đã có ghe, đầy đủ các loại giấy tờ hợp pháp như
giấy đăng ký ghe, thuyền, giấy ngư phủ, giấy hành nghề của hợp tác xã
đánh cá của ngụy. Tất cả đã sẵn sàng. Ông Thơm kể.
Một ngày
đầu tháng 10-1962, đơn vị nhận được lệnh sẵn sàng ghe, thuyền để đón
nhận vũ khí từ miền Bắc vào. Kể sao hết niềm vui sướng của anh em bến
bãi trước tin vui này. Mọi người phấn khởi, hối hả làm việc quên cả ngày
đêm, kiểm tra ghe, lưới, sửa chữa máy móc, ngư cụ… Vậy là đồng bào miền
Nam sẽ có vũ khí hiện đại để chống lại các cuộc càn quét, tấn công tận
sào huyệt tiêu diệt kẻ thù, mở rộng vùng giải phóng. Từ hôm đó, 4 anh em
gồm: Tư Lưới – người được giao nhiệm vụ phụ trách bến, Chín Thuân, Dũng
(Miên) và ông Thơm hằng đêm đưa ghe ra biển giả vờ đánh bắt cá để nắm
tình hình. Ban ngày, anh em lại thu lưới vô rừng ẩn giấu.
– Những
ngày ấy căng thẳng đến ngộp thở. Ông Thơm bùi ngùi nhớ lại. Chúng tôi
ngày không dám ngủ, nơm nớp hồi hộp chờ đêm xuống là ra biển ngay. “Ngư
trường” của chúng tôi cách bờ từ 3 đến 10 cây số, anh em thay nhau trực
canh, mắt luôn nhìn ra biển, hướng đến những dấu hiệu nhỏ nhất, kể cả
một ánh chớp lạ trên mặt biển đen bầm thẫm mênh mông. 10 ngày đêm chỉ
với mỗi việc giả vờ thả lưới, rồi lại kéo lên, trong một khu vực. Mỗi
khi thuyền trôi khỏi “ngư trường”, anh em lại điều khiển ghe ngược dòng,
về vị trí cũ, rồi lại thả lưới. Cứ thế! Công việc thật vất vả! Tấm lưới
đâu có nhỏ bé chi! Dài tới 200-300 mét. Kéo lên, thả xuống! Ai đấy đều
mệt nhoài! Nhưng cứ nghĩ tàu sắp chở vũ khí về, mọi mệt mỏi tiêu luôn!
Nhưng cũng chính sự “làm việc tích cực đó” đã che mắt, đánh lạc hướng
bọn địch!
Ông Nguyễn Xuân Thơm cùng người nhà bên mộ Anh hùng LLVT nhân dân Bông Văn Dĩa.
Kể đến
đây ông cười giòn giã, ánh lên niềm vui sướng khiến chúng tôi cũng phải
bật cười mà nước mắt cứ chực trào khi hình dung cảnh kéo lưới “nghi
binh” suốt 10 đêm mịt mùng của 4 chàng “lực điền” mà “chẳng bắt được con
cá nào…”. Đến ngày thứ 11, khoảng 6 giờ sáng ngày 16-10-1962, mọi người
nhìn thấy một chiếc tàu rất to thấp thoáng, xa xa ngoài cửa Vàm Lũng,
sóng nước bọt trắng xóa.
– Treo
cờ tín hiệu lên! Tư Lưới vui mừng ra lệnh. Đèn pin đâu? Sáu Thơm khẩn
trương đánh tín hiệu đèn pin! Không khí trên ghe sôi động hẳn. Hồi hộp,
tôi lấy chiếc đèn pin, có bịt giấy đỏ để hở một lỗ nhỏ, đánh liền ba
chớp dài. Ngoài kia, con tàu vẫn lừ lừ chạy theo hướng sát mép bờ, trên
đỉnh có treo cờ và rồi, hai chớp đèn pin nháy dài đánh tín hiệu trả lời.
– Đúng
rồi! Đúng tàu ta rồi! Chúng tôi reo to, ôm chầm lấy nhau sung sướng!
Hoan hô! Tàu ông Dĩa đã về! Chúng tôi tiếp tục đánh tín hiệu đèn pin, ra
lệnh: “Anh đi theo tôi!” Chiếc tàu lù lù, lừng lững đi vào hướng bến,
tới rạch Chùm Gọng.
Chuyến
vận chuyển vũ khí đầu tiên vào miền Nam đã thành công. Mọi người nghẹn
ngào, ùa đến, tay bắt mặt mừng, ôm hôn thắm thiết thuyền trưởng Lê Văn
Một, chính trị viên Bông Văn Dĩa, thợ máy Năm Sao, Sáu Lai, Năm Kỷ…
những người con anh hùng của đồng bào miền Nam, đã vượt qua vòng vây
phong tỏa của giặc thù, qua phong ba bão tố chở vũ khí cho đồng bào miền
Nam đánh Mỹ. Niềm hạnh phúc thật lớn lao! Hàng chục chiếc ghe, xuồng
lập tức ghé tới bốc hàng. Những thùng vũ khí còn nguyên mùi sơn mới, mùi
khét dầu mỡ, nhanh chóng được vận chuyển cất giấu ở nơi khác. Suốt 3
ngày đêm vất vả mới vận chuyển hết số hàng và vũ khí tàu Phương Đông 1
chở về.
Vậy là
con đường biển nối liền hậu phương lớn với tiền tuyến lớn không còn là
dự định, là mong ước mà đã trở thành hiện thực. Chuyến đầu tiên thắng
lợi làm tiền đề cho những chuyến đi tiếp đó thành công. Chúng tôi đã
liên tục đón thêm 3 chuyến tàu nữa tại đây. Đồng chí Tư Đức – người phụ
trách bến vui mừng khôn xiết, xúc động nói với các cán bộ, thuyền viên:
“Các đồng chí không chỉ đưa vũ khí vào cho chúng tôi, mà còn mang cả
tình thương của Đảng, của Bác, của đồng bào miền Bắc với miền Nam ruột
thịt; tiếp sức để miền Nam chiến đấu giải phóng quê hương”.
Một năm
sau, tôi ra Bắc nhận nhiệm vụ mới và đã trải qua nhiều chuyến đi, nhiều
trận chiến đấu, tôi đã trưởng thành, từ một chiến sĩ trở thành thuyền
trưởng của Đoàn tàu Không số anh hùng và huyền thoại trên Biển Đông.
14:30 2014/2/5 – Trịnh Dũng – Thu Hương
Các thuyền trưởng tàu không số (Kỳ 4)
21
tuổi nhập ngũ, 35 tuổi hy sinh, đó là những dòng tiểu sử ngắn ngủi,
bình dị của Trung úy, Thuyền trưởng tàu Hải quân Nguyễn Phan Vinh
(1933-1968). Năm 1970, anh đã được Nhà nước truy tặng danh hiệu Anh hùng
LLVT nhân dân. Một hòn đảo thuộc quần đảo Trường Sa đã được mang tên
anh, đảo Phan Vinh.
Kỳ 4: Nguyễn Phan Vinh, bản hùng ca bất tử
Gia đình người anh hùng
Trong
cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, chúng ta đã có một con đường xẻ dọc
Trường Sơn mà hễ nhắc đến là lại liên tưởng tới những sự tích thần kỳ.
Song, ngoài con đường ấy, còn có một con đường khác nữa, đó là con đường
vận chuyển vũ khí từ Bắc vào Nam trên Biển Đông với một nét độc đáo,
sáng tạo như thần thoại, với biết bao kỳ tích cảm động về lòng dũng cảm,
sự hy sinh quên mình của những người chiến sĩ Đoàn tàu không số và tình
cảm gắn bó keo sơn với quân dân các bến đỗ ở miền Nam. Đó là con đường
huyền thoại: Đường Hồ Chí Minh trên biển và tên tuổi Nguyễn Phan Vinh
gắn liền với tên con đường ấy.
Anh hùng LLVT nhân dân Nguyễn Phan Vinh. Ảnh tư liệu.
Nguyễn
Phan Vinh là người con ưu tú của mảnh đất Điện Nam, Điện Bàn, Quảng Nam
(cũ) sinh ra trong một gia đình cách mạng. Tháng 3-1968, anh hy sinh ở
Hòn Hèo thì cuối năm ấy, cha của anh, người du kích tên là Nguyễn Đức
Mẫn cũng hy sinh trong một trận chống càn tại quê nhà. Mẹ anh mất trước
đó 5 năm, (năm 1963) vì bị địch bắt, đánh đập, tra khảo dã man.
Năm bà
ra đi cũng là năm người con trai thứ hai, Nguyễn Đức Lân ngã xuống trên
chiến trường QuảngNam. Người duy nhất còn lại trong gia đình là anh
Nguyễn Đức Xử. Một người bạn của tôi trong đợt đi làm phim về “Tàu không
số” kể chuyện đã được nghe anh Xử nói về người em trai của mình: “Phan
Vinh tuy là con út trong gia đình, nhưng ngay từ nhỏ đã là người cứng
cỏi, quyết đoán, và đặc biệt là giàu lý tưởng”.
Có lẽ
chính từ cái cứng cỏi, quyết đoán và giàu lý tưởng cách mạng đó đã làm
nên một Phan Vinh với chiến công oanh liệt trên vùng biển Hòn Hèo.
Tàu 235 – bản anh hùng ca bất tử trên vùng biển Hòn Hèo
Hòn Hèo
là tên chung chỉ vùng biển và dãy núi chạy qua hai xã Ninh Phước, Ninh
Vân thuộc tỉnh Khánh Hòa. Hòn Hèo cách Nha Trang khoảng hơn 10km đường
biển. Nơi đây, Thuyền trưởng Nguyễn Phan Vinh và đồng đội đã hy sinh
cùng Tàu 235 vào năm 1968.
Thời kỳ
đó, kẻ địch đã tìm mọi cách ngăn chặn con đường vận chuyển trên biển mà
chúng gọi là con đường “cực kỳ nguy hiểm” này. Không quân, Hải quân Mỹ
và quân ngụy Sài Gòn tung lực lượng khá mạnh để chăng lưới bủa vây trên
mặt biển đón bắt những con tàu cảm tử chở vũ khí chi viện cho chiến
trường miềnNam. Trên biển, chúng chia từng tổ bố trí tàu chiến ngăn chặn
và lắp đặt ra-đa quét sóng đêm ngày. Trên trời và trong đất liền cả đêm
lẫn ngày, chúng cho lính và máy bay trinh sát, tuần tra, canh phòng.
Ông Long An, một trong 5 người sống sót đã kể lại chuyến đi của Tàu 235.
– 11 giờ
30 phút ngày 27-2-1968, Tàu 235 xuất phát chở hơn 14 tấn vũ khí vào bến
Hòn Hèo. Đây là bến hết sức khó vào, luồng hẹp, nhiều đá ngầm. Một tài
liệu của Pháp viết rằng, tàu muốn ra vào Hòn Hèo phải có những tay
thuyền trưởng lão luyện, với trên dưới 20 năm tuổi nghề.
Trung úy
Nguyễn Phan Vinh tuy chưa có tuổi nghề cao nhưng được tin cậy chỉ huy
con tàu này. Tàu có 21 cán bộ, chiến sĩ; Chính trị viên: Nguyễn Tương,
Thuyền phó 1: Đoàn Văn Nhi, Thuyền phó 2: Võ Tá Tu, máy trưởng: Trương
Văn Mùi. Tôi là thợ máy trên Tàu 235.
Trước
giờ nhổ neo, chiến sĩ Ngô Văn Dầu bị viêm phổi phải vào viện nên đội
hình còn lại 20 người. Chúng tôi đi hai ngày đêm trên vùng biển quốc tế.
Tối 29-2, tàu đến ngang vùng biển Nha Trang và chuyển hướng vào bờ.
Phát hiện ra tàu ta, địch lập tức huy động 3 tàu chiến: Ngọc Hồi, 12,
617 và 4 tàu khác của Duyên đoàn 25 đến vùng biển Nha Trang với ý định
bắt sống…
Biết đã
bị lộ, Thuyền trưởng Phan Vinh khôn khéo điều khiển Tàu 235 luồn lách
qua đội hình tàu địch và đến được bến Ninh Phước lúc 0 giờ 30 phút ngày
1-3-1968. Anh quyết định thực hiện phương án 2, cho thả hàng xuống nước
để quân dân ở bến mò vớt sau. Các kiện hàng được bao gói đặc biệt lần
lượt lăn xuống biển. Lúc đó, chừng 1 giờ 30 phút, 3 tàu loại lớn và 4
tàu loại nhỏ của địch khép chặt vòng vây ở phía sau, phía trước là núi.
Phan
Vinh cho tàu chạy ven bờ xuôi xuống bến Ninh Vân chừng độ mươi hải lý,
nhằm mục đích giữ bí mật không để lộ vị trí thả vũ khí. Tàu địch lập tức
đuổi theo, nã đạn dữ dội rồi bật đèn pha và gọi máy bay đến thả pháo
sáng, bắn rốc-két. Trong lửa đạn, Nguyễn Phan Vinh bình tĩnh chỉ huy anh
em chiến đấu và điều khiển tàu chạy sát bờ. Các thủy thủ Thật, Phong
liên tiếp dùng DKZ và 14 ly 5 bắn về phía tàu địch, một chiếc bốc cháy
khiến chúng không dám vào gần.
Cuộc
chiến đấu mỗi lúc một ác liệt. Hỏa lực của địch liên tục bắn vào tàu ta.
5 cán bộ, chiến sĩ trên tàu đã hy sinh, 2 người bị thương nặng, 7 người
bị thương nhẹ. Thuyền trưởng Phan Vinh cũng bị mảnh đạn xượt qua đầu.
Anh tự băng bó và vẫn đứng trong buồng lái động viên mọi người chiến
đấu. Anh có ý định phá vòng vây bởi ngoài khơi dễ cơ động, nếu cần thì
áp sát tàu địch và cho nổ tàu tiêu diệt bọn chúng. Nhưng rất không may,
lúc đó máy tàu hỏng nặng. Ý định phá vòng vây không thành.
Anh chỉ
huy cho tàu di chuyển vào sát bờ. Lúc đó chừng 2 giờ 20 phút, tàu cách
bờ hơn 100m, anh tổ chức đưa người đã hy sinh và bị thương vào bờ, sau
đó ra lệnh chuẩn bị điểm hỏa cho nổ tàu. Anh Vinh, Thứ và tôi cài kíp nổ
ở khoang máy, các vị trí khác do Khung, Thật, Mai đảm nhiệm. Kiểm tra
xong lần cuối, chúng tôi nhảy xuống nước bơi vào bờ. Tôi được giao nhiệm
vụ nếu tàu không nổ phải quay lại kiểm tra các kíp nổ.
20 phút
sau, lúc 2 giờ 40 phút, ngày 1-3, một cột lửa bùng lên, kế đó là tiếng
nổ dữ dội, chấn động tới Nha Trang. Sức công phá của khối thuốc nổ khiến
Tàu 235 đứt đôi, một nửa chìm xuống biển, một nửa văng lên lưng chừng
núi Bà Nam, xã Ninh Vân. Sau những phút giây bàng hoàng, địch gọi máy
bay đến bắn phá ven biển, nhằm dọn đường cho bộ binh bao vây, bắt sống
các thủy thủ Tàu 235. Số thủy thủ rút lên bờ còn lại 9 người. Địch lập
tức đổ quân lùng sục.
Thuyền
trưởng Vinh và thợ máy Thứ chốt ở đó, kiên cường chống trả, đánh lui
nhiều đợt tấn công của địch, và cuối cùng, lực kiệt, vết thương ngày một
nặng, súng không còn đạn, các anh đã hy sinh. Số thủy thủ của Tàu 235
còn lại 7 người, đó là Thuyền phó Nhi và 6 thủy thủ: Mai, Thật, Phong,
Khung, Tuyến và tôi. Tất cả đều thương tích đầy mình. Anh em cố gắng dìu
nhau di chuyển khắp vùng núi đá Hòn Hèo.
Mười
ngày phơi dưới nắng, không lương thực, không nước uống, chúng tôi kiệt
sức. Ngày thứ 11, Khung đi tìm nước uống, rồi không trở về. Sau này mới
hay, Khung bị địch bắt. Ngày thứ 12, chúng tôi liên lạc được với du kích
ở bến. Mọi người quay lại đón anh Nhi đang nằm trong rừng. Nhưng anh
không còn ở đó nữa, chỉ thấy mảnh áo rách và cuốn băng cá nhân, máu đã
khô…
Về sự
kiện này, tạp chí Lướt sóng của Hải quân ngụy Sài Gòn viết: “Mười hai
chiến hạm và hàng chục hải thuyền của Hoa Kỳ cùng quân lực Việt Nam cộng
hòa có phi cơ yểm trợ, đụng độ ác liệt với một tiểu đoàn Việt Cộng
(thực chất chỉ có 20 thủy thủ) gan góc và thiện chiến trên con tàu chở
vũ khí từ Bắc Việt thâm nhập và tiếp tế cho Mặt trận Giải phóng. Họ đã
nổ súng đến viên đạn cuối cùng, đến người cuối cùng và hy sinh với con
tàu bằng khối lượng hàng tấn bộc phá do chính tay họ tự hủy, không để
lại một dấu vết”…
Kể đến đây, ông Long An lặng đi, đôi mắt đỏ hoe. Đưa tay gạt những giọt nước mắt, ông nói tiếp:
– Phan
Vinh là một thuyền trưởng giỏi, anh đã có 11 chuyến vận chuyển vũ khí
thành công, dũng cảm, quyết đoán, sống chân thành, được anh em quý mến.
Tôi chỉ tiếc chẳng giữ được chút kỷ vật nào của người thuyền trưởng anh
hùng ấy.
Những dòng thư đầy ắp niềm tin và lý tưởng cách mạng
Điều mà
ông Long An day dứt phần nào đã được giải tỏa bởi tại Bảo tàng Hải quân
hiện còn lưu giữ những bức thư của Phan Vinh gửi người bạn thân là Trần
Phong (đồng chí Trần Phong – nguyên Quyền đoàn trưởng Đoàn 125 Hải
quân). Trần Phong và Phan Vinh là đôi bạn thân. Họ cùng quê, cùng tập
kết ra Bắc, cùng học ở Trung Quốc và cùng về Quân chủng Hải quân làm
thuyền trưởng. Những lá thư anh viết khi đang ở tại căn cứ trên nước
bạn, chuẩn bị cho những chuyến đi.
Lá thư Trần Phong nhận ngày 26-10-1967, có đoạn:
“Chúng
ta phải là những con lạc đà trên bãi sa mạc, mỗi bước đi, mỗi vết chân
của chúng ta vì sự nghiệp của Đảng, chúng ta phải là những chiếc cầu
chì, vui vẻ và lạc quan mà nhận lấy công tác ở những nơi nguy hiểm nhất.
Và khi cần thiết, ta hy sinh sinh mạng mình cho Đảng, cho nhân dân.
Thời gian, thời gian sẽ ủng hộ chúng ta…”.
Lá thư
gửi tháng 1-1968, trước khi anh hy sinh một tháng, có đoạn: “Phong thân!
Mình không ngờ đến nơi đây. Mùa hè đã qua mà nóng ghê, nhưng đâu có
nóng bằng cõi lòng người chiến sĩ. Mọi việc ở đây diễn ra bình thường,
rất mong ngày “thượng lộ”, ấy thế mà cứ ăn chực nằm chờ mãi, kể cũng ê.
Còn những gì tiếp theo nữa thì để lịch sử trả lời. Hẹn gặp Phong vào một
ngày vinh quang, điều đó khẳng định… Phong hãy giúp mình biên thư cho
anh Xử. Khi nào có dịp mình sẽ biên thư sau, hoặc sẽ có dịp gặp. Mình
không muốn biên thư vì mình nghĩ rằng mọi riêng tư lúc này sẽ làm con
người ta khó bước tới. Tình cảm đó có lẽ để dành cho sau chiến tranh.
Bây giờ thì mình chỉ có một tình cảm duy nhất là hãy bước tới và xông
vào cuộc cách mạng vĩ đại, con người hoàn toàn không sợ ràng buộc bởi
những mối dây nào khác. Tạm gác lại những tình cảm riêng tư để dồn cho
điều duy nhất đó là bước tới và xông vào cuộc cách mạng vĩ đại, với niềm
tin vững chắc vào thắng lợi”.
Phan
Vinh và thế hệ thanh niên của đất nước đã đi vào chiến trận với tinh
thần lạc quan bởi họ luôn nung nấu một lý tưởng cao đẹp, một niềm tin
chắc chắn rằng, sự hy sinh vì nghĩa của mình sẽ được nối tiếp, và sẽ
thành công. Trong số các anh, có người không còn nữa, nhưng niềm tin và
lý tưởng mà các anh tâm nguyện còn sống mãi.
14:41 2014/2/5 – Trịnh Dũng – Thu Hương
Các thuyền trưởng tàu không số (Kỳ 5)
Làng
biển Nam Sơn (Nghi Sơn, Tĩnh Gia, Thanh Hóa) những ngày đầu năm 2011.
Từ tinh mơ mờ đất, cha con ông Đồng Xuân Chế đã vác lưới ra biển. Ông đi
đến đâu là đánh thức bà con đến đấy bởi giọng nói hào sảng. Đã bước
sang tuổi 75 nhưng ông vẫn còn nhanh nhẹn lắm. Tay ông vẫn thoăn thoắt
thả lưới, bắt chẻo, câu mực…, vẫn lăn lộn với sóng gió để mang về cho vợ
con miếng cơm manh áo.
Kỳ 5: Đồng Xuân Chế: “Biển gọi tôi suốt cuộc đời”
Ông bảo:
“Biển gọi tôi suốt cuộc đời”. Có lẽ thế mà tuổi già đã không ngăn cản
được bước chân ông. Các con ông cũng muốn bố nghỉ ngơi nhưng ông thì
không muốn. Bởi một ngày không làm việc với ông thật xa xỉ.
Sau một ngày đầu năm đi biển lấy may, ông trở về trong tâm trạng phấn khởi nên vừa gặp chúng tôi, ông đã hồ hởi bắt chuyện.
– 35 năm trước, khi mới rời quân ngũ trở về làng, tôi đã được dân làng tín nhiệm bầu là Chủ nhiệm hợp tác xã liên hiệp nghề cá.
Thuyền trưởng Đồng Xuân Chế. Ảnh Trịnh Dũng.
Thời
chiến tranh, quê tôi là túi đạn bom của giặc Mỹ, làng mạc bị tàn phá,
cuộc sống gặp rất nhiều khó khăn, ngư cụ khai thác cá biển thiếu thốn đủ
bề… Trước tình hình đó, tôi đã cùng với chi ủy, chi bộ ra sức động viên
nhân dân khắc phục khó khăn đẩy mạnh sản xuất, nâng cao đời sống. Rồi
tôi bàn với anh em bạn hữu động viên dân làng, hãy bám biển mà sống, bỏ
biển, bỏ làng là có tội với Đảng và Chính phủ. Nhân dân lắng nghe, họ
chủ động đóng thuyền, vá lưới ra biển đánh cá. Chẳng bao lâu, cuộc sống
nhân dân được cải thiện đáng kể. Lúc này, xã có chủ trương cho 30 lao
động trong thôn đi học cơ khí và khai thác cá biển để về phục vụ sản
xuất. Sau khi chúng tôi đi học về đã trực tiếp hướng dẫn bà con cách
đánh bắt, sử dụng ngư lưới cụ và các phương tiên thông tin đi biển.
Chúng tôi bắt tay vào đánh bắt, các đoàn tàu đi biển thu về từng khoang
cá đầy. Nhân dân phấn khởi, làng biển lúc nào cũng rộn vang tiếng cười.
Ông cho
chúng tôi xem những tấm huân huy chương đã nhuốm màu thời gian, nói như
khoe: “Đây là những tài sản quý giá nhất của đời tôi. Mỗi lần nhìn nó,
tôi thấy đồng đội mình đang ở đó, thấy những cung đường biển đầy sóng và
gió mà một thời chúng tôi đã vượt qua”.
Rồi như chạm vào mạch nguồn cảm xúc, ông kể:
… Tháng
9-1970, tôi được điều động về Tàu 54-Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 125 làm
thuyền phó 1, nhận lệnh chở 70 tấn vũ khí đi Rạch Gốc (Cà Mau). Chuyến
đi này khung cán bộ có anh Hai Đặng là thuyền trưởng, anh Hai Hiệu là
Chính trị viên, tôi và anh Chử Thái Bình làm thuyền phó.
Chúng
tôi xuất phát tại cảng K35 Hải Phòng. Để tạo yếu tố bí mật, bất ngờ, tàu
đã thẳng hướng sang đảo HảiNam(Trung Quốc), đi dọc phía Đông quần đảo
Trường Sa tiếp giáp Phi-líp-pin. Khi đang ở vùng biển Phi-líp-pin thì
cơn bão số 8 xuất hiện, tàu nằm trong tâm bão, một cơn bão mạnh cấp 12.
Con tàu nhỏ nhoi oằn mình giữa cơn cuồng phong của biển cả. Hòm đạn súng
B41, đạn ĐKZ cố định trên mặt boong đều bị bật tung, liệng đi liệng lại
trên mặt boong, 2 bộ phận giảm lắc của tàu bị sóng đánh gãy nên tàu rất
tròng trành.
Do bão
nên việc xác định vị trí tàu bằng thiên văn không thể tiến hành được,
buộc chúng tôi phải dùng phương pháp tính nhích dần để xác định vị trí
tàu. Để chống chọi với bão lớn, phần đông cán bộ, chiến sĩ đã ngậm sâm
làm việc, qua mấy chục giờ mọi người gần như kiệt sức. Hơn một ngày một
đêm chiến đấu vật lộn với bão tố, tưởng chừng có lúc bão đã nhấn chìm
con tàu nhỏ bé xuống đáy đại dương. Nhưng cũng do có bão lớn nên kẻ thù
đã nới lỏng kiểm soát trên biển, vì vậy chúng tôi đã vượt qua vòng kiểm
soát của địch.
Chúng
tôi chuyển hướng về phía bến nhưng vì thời tiết quá phức tạp không xác
định được vị trí tàu, chúng tôi phải chuyển sang xác định vị trí tàu
bằng phương pháp nhích dần. Dự tính 3 giờ sáng thì tàu vào bến, song 4
giờ đến 5 giờ, 6 giờ, tàu vẫn chưa phát hiện được bến. Đến 7 giờ sáng
thì tàu phơi lưng ở ven bờ Cà Mau. Tình huống nguy hiểm ngoài dự kiến do
người ở bến đón dẫn đường chúng tôi chờ quá thời gian hiệp đồng đã rút
đi, tàu nằm chềnh ềnh ở ven bờ, nếu địch phát hiện được thì vô cùng nguy
hiểm. Không có người dẫn đường, chúng tôi đã nhanh chóng tự tìm rạch để
vào. Đang cơ động vào bến, bỗng có máy bay địch ở sân bay Bạc Liêu gần
đó cất cánh đi tuần ven biển, toàn tàu sẵn sàng chiến đấu. Nếu địch phát
hiện được tàu ta thì đây sẽ là tình huống vô cùng nguy hiểm. Nhưng thật
may, địch không phát hiện ra chúng tôi. Hơn một tiếng sau, chúng tôi
nhanh chóng đưa tàu vào bến an toàn và tiến hành ngụy trang. Mọi người
ai nấy đều thở phào nhẹ nhõm và phấn khởi vì đã đưa được vũ khí vào tận
tay đồng bào, chiến sĩ miềnNam.
Kể đến
đây, giọng ông phấn chấn hẳn: Một tuần ở bến bốc xong vũ khí, chúng tôi
được lệnh trở về miền Bắc. Tình huống bất ngờ nguy hiểm khác lại đến, đó
là vào lúc 19 giờ, tàu được lệnh gỡ ngụy trang, một thuyền máy đuôi tôm
B10 của bến chuyển cho chúng tôi một ít hàng. Đang chuyển hàng thì bỗng
dưng thuyền máy bị bốc cháy, đạn nổ, tỏa ra một quầng lửa sáng rực.
Nghe tiếng đạn nổ và vùng lửa sáng, máy bay địch gần đó đã nhanh chóng
cất cánh lùng sục. Lưỡng lự không xử lý nhanh lúc này tàu sẽ trở thành
mồi cho đạn bom của giặc. Ban chỉ huy chúng tôi hội ý chớp nhoáng và
quyết định cho tàu khẩn trương rời khỏi khu vực nguy hiểm. Nổ máy tăng
tốc độ vừa ra khỏi rạch thì máy bay địch ở sân bay Bạc Liêu bám theo sát
chúng tôi, ngoài biển thấy đèn tàu địch thấp thoáng, hình như địch đã
phát hiện ra chúng tôi và đang đón lõng để bắt sống hoặc tiêu diệt tàu.
Chúng tôi báo động toàn tàu sẵn sàng chiến đấu và khôn khéo cho tàu bám
bờ đi theo hướng Ghềnh Hào để lợi dụng tuyến bờ che lấp tránh ra đa của
địch phát hiện. Khoảng 1 giờ 30 phút sau, quả nhiên địch bị mất mục
tiêu, máy bay không bám theo, ngoài biển cũng không thấy tàu và đèn thấp
thoáng nữa, chúng tôi nhanh chóng chuyển hướng cho tàu đi về hướng Đông
Đông Bắc, 6 giờ sáng thì ra đến hải phận quốc tế. 7 giờ sáng chúng tôi
lại thấy một tàu lạ bám theo cả ngày và sau đó đêm thì một chiếc máy bay
thay tàu bám theo. Chúng tôi bình tĩnh tiếp tục hành trình coi như
không có gì xảy ra.
Đây thực
sự là một chuyến đi đầy khó khăn, gian khổ, tàu đã phải vượt qua bão tố
và sự truy cản của kẻ địch để chở hàng chi viện cho chiến trường
miềnNam. Chuyến đi hơn một tháng đã vắt kiệt sức. Tôi và anh Bình thuyền
phó phải đi nằm viện chữa bệnh. Sau khi ra viện tôi nhận quyết định của
Đoàn điều động về tàu 56 ở Tiểu đoàn 2 nhận nhiệm vụ mới và sau đó đổi
số tàu thành 649-Tiểu đoàn 2, Trung đoàn 125.
Trung
tuần tháng 8-1971, Tàu 649 nhận nhiệm vụ chở 70 tấn vũ khí vào chiến
trường miền Nam. Trên tàu, ngoài 18 cán bộ, chiến sĩ còn có 3 đồng chí
của Đoàn 126 Đặc công. Đầu tháng 11 tàu xuất phát, đi xuyên qua phía Nam
đảo Hải Nam để tạo yếu tố bí mật, bất ngờ đánh lừa Hạm đội 7 của Mỹ,
chúng tôi đã lựa chọn cách đi trên các bãi cạn của quần đảo Hoàng Sa,
Trường Sa. Trong chuyến đi này biển lặng nhưng căng thẳng nhất là phải
đi lách trên các bãi đá ngầm Hoàng Sa, Trường Sa nên yêu cầu xác định vị
trí tàu bằng thiên văn và lái tàu phải thật chuẩn xác, chỉ cần sơ suất
một chút là tàu có thể cưỡi lên đá ngầm. Vượt qua nhiều bãi đá ngầm, bãi
cạn san hô và ra khỏi quần đảo Trường Sa, xuống phíaNamtàu lách về phía
vùng biển Phi-líp-pin.
Đến cuối
tháng 11-1971, vào gần đến nơi theo kế hoạch, ban chỉ huy tàu họp bàn
nhận định: Đây là thời cơ tốt cần nhanh chóng cơ động vào bến ngay trong
đêm thứ bảy, vì lúc đó địch thường hay mất cảnh giác. Nếu đi theo kế
hoạch cũ thì sang tối chủ nhật mới vào bến và thả hàng được. Cấp trên
nhất trí theo phương án của chi ủy và chỉ huy tàu. 23 giờ chúng tôi đến
vùng biển Thái Lan và chuyển hướng về đảo Cô Công (Cam-pu-chia). Chúng
tôi bắt liên lạc thả vũ khí, nhưng bến lại trả lời sai tín hiệu. Thời
gian thả hàng đã quá gấp, không thể chờ đợi thêm được nữa. Chúng tôi cử
đồng chí Phan Đình Nhu và đồng chí Nhật, cùng 2 đồng chí đặc công người
nhái tập kích bắt sống người đánh tín hiệu trả lời của bến. Hóa ra đúng
là người của ta. Chúng tôi cấp tốc về bến thả hàng, lúc đó là 0 giờ 10
phút, tàu phân công 9 đồng chí trực chiến đấu, còn lại 9 đồng chí bốc vũ
khí từ dưới hầm hàng có độ cao 4m và thả xuống biển. Tàu không thả neo,
chúng tôi thả hàng thành 2 đống với tốc độ của tinh thần thần tốc. Chỉ
với 9 người và trong 3 giờ 10 phút chúng tôi đã đưa lên mặt boong và thả
xuống bến 70 tấn vũ khí, trung bình mỗi đồng chí bốc gần 8 tấn vũ khí.
Sau khi chúng tôi hoàn thành nhiệm vụ trở về, đồng chí Lê Duẩn đã đánh
giá: “Đây là sức mạnh diệu kỳ”.
Suốt
cuộc đời quân ngũ, ông Chế luôn cố gắng phấn đấu hoàn thành các nhiệm vụ
được giao. Bản thân ông được Nhà nước tặng thưởng nhiều huân chương và
được tặng ảnh Bác Hồ. Giờ đây, cuộc đời ông đã bắt đầu được hưởng những
quả ngọt cuối mùa. Ông khoe với tôi: “Cháu à. Bác thông báo một tin vui
đây. Ban liên lạc Cựu chiến binh Đoàn tàu Không số tỉnh Thanh Hóa vừa
họp và đề nghị Quân chủng Hải quân xây dựng nhà tình nghĩa cho bác đấy.
Bác cũng vừa nhận được chế độ trợ cấp hằng tháng đối với người phục vụ
trong quân ngũ trên 15 năm”.
14:46 2014/2/5 – Trịnh Dũng – Thu Hương
Các thuyền trưởng tàu không số (Kỳ 6)
Có
biết bao câu chuyện cảm động về tình cảm, tấm lòng của quân dân miền
Nam nơi bến bãi với cán bộ, chiến sĩ Đoàn tàu không số làm nhiệm vụ chở
vũ khí chi viện cho chiến trường. Chuyện về nắm đất Vũng Rô – hiện vật
đang được lưu giữ tại Bảo tàng Hải quân do Thuyền trưởng Hồ Đắc Thạnh
trao tặng là một trong những câu chuyện đó.
Kỳ 6: Nắm đất của Thuyền trưởng Hồ Đắc Thạnh
Chúng
tôi gặp ông Hồ Đắc Thạnh – người thuyền trưởng Tàu không số nổi tiếng
của tỉnh Phú Yên ngay tại Hải Phòng. Dường như chất lính vẫn còn đọng
lại rất nhiều trong ông ở dáng dấp nhanh nhẹn, âm giọng Phú Yên dõng dạc
và đôi mắt sắc sảo… đôi khi làm chúng tôi bối rối. Tôi gợi lại chuyện,
hỏi thêm về nắm đất năm xưa ông đã trao tặng Bảo tàng Hải quân… Ông ồ
lên: “Nhớ chứ, quên sao được…! Đó là câu chuyện cảm động, gắn với những
chuyến hàng cảm tử vào Vũng Rô của chúng tôi mà…”.
Ông Hồ
Đắc Thạnh thuộc lớp thuyền trưởng đầu tiên của Hải quân nhân dân Việt
Nam được đào tạo bài bản để phục vụ cho con đường vận chuyển chiến lược
bí mật sau này. Thuở nhỏ, lúc Hồ Đắc Thạnh chuẩn bị vào lớp nhất thì
Cách mạng Tháng Tám 1945 nổ ra ở thị xã Tuy Hòa. Lập tức, ông xếp bút
nghiên tham gia đoàn biểu tình chống Pháp, đi diễu hành khắp phố phường.
Sau một thời gian làm trinh sát cho thị đội Tuy Hòa, ông vào lực lượng
bộ đội chính quy và tập kết ra Bắc trên chuyến tàu cuối cùng, chuyến tàu
thứ 7 xuất phát từ cảng Quy Nhơn.
Ông Hồ Đắc Thạnh (ngoài cùng, bên phải) cùng đồng đội tại Bến k15 Đồ Sơn (Hải Phòng).
Ông kể:
“Tôi đặt chân lên đất Thanh Hóa ngày 19-5-1955 và được biên chế vào
Trung đoàn 90, Sư đoàn 324 đóng tại thị trấn Còng của huyện Tĩnh Gia,
làm nhiệm vụ chống địch cưỡng ép giáo dân di cư vào Nam”. Sau khi cùng
sư đoàn hành quân về Đô Lương (Nghệ An) và xây dựng doanh trại tại đây,
Hồ Đắc Thạnh được điều về trường huấn luyện hạ sĩ quan của Sư đoàn để
đào tạo. Ông nhớ rõ: “Giữa năm 1958, khi tôi đang học được nửa khóa đào
tạo trung đội trưởng thì được Quân chủng Hải quân về tuyển chọn, toàn Sư
đoàn chỉ có 6 đồng chí được chọn. Chúng tôi được đưa xuống Hải Phòng và
theo yêu cầu của Cục Phòng thủ bờ biển (tiền thân của Bộ tư lệnh Hải
quân), anh em tôi được đi tuyển quân về huấn luyện thành bộ đội hải
quân”.
Tại Hải
Phòng, Hồ Đắc Thạnh đã trải qua nhiều khóa huấn luyện đào tạo từ hàng
hải đến phóng ngư lôi và những chiến thuật chiến đấu khác trên biển. Đầu
1960, khi Trường Sĩ quan Hải quân được thành lập tại Quảng Yên, Thuyền
trưởng dự bị tàu phóng lôi Hồ Đắc Thạnh được điều về học trường này.
Trong
cuộc đời chiến đấu của mình, Hồ Đắc Thạnh cũng là một trong những người
bạn thân thiết của Anh hùng Tàu không số Nguyễn Phan Vinh. Kể chuyện với
chúng tôi, ông Thạnh luôn tự hào mình đã có 12 chuyến chở vũ khí vào
các bến ở Bến Tre, Trà Vinh, Cà Mau, Quảng Ngãi và Phú Yên. Ông bảo, lần
đầu tiên đưa vũ khí vào Nam Bộ, gặp những anh chị em dân công đi len
lỏi trong rừng đước, bốc dỡ vũ khí, ông cảm thấy niềm vui khó tả vì đã
trực tiếp góp sức vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Có thể
nói, hạnh phúc lớn nhất, kỷ niệm sâu sắc nhất của Thuyền trưởng Hồ Đắc
Thạnh là 3 chuyến chở vũ khí về quê hương. Những chuyến đi thật sâu nặng
nghĩa tình. Đáng nhớ là lần ăn Tết trên con tàu không số và đó cũng là
kỷ niệm liên quan đến câu chuyện về “Nắm đất Vũng Rô”.
– Đó là
khoảng cuối năm 1964, đầu năm 1965. Ông Thạnh nhớ lại. Có thể nói, đây
là giai đoạn “hoàng kim” của con đường vận chuyển trên biển. Tàu 41
chúng tôi liên tiếp được giao nhiệm vụ vận chuyển vũ khí vào bến Vũng Rô
thuộc chiến trường Khu V. Vũng Rô khi đó được coi là điểm đổ hàng lý
tưởng vì đây là một vịnh nước sâu, kín gió, nằm ngay dưới chân đèo Cả.
Tuy Vũng Rô không có nơi trú ẩn như các bến bãi miền Tây Nam Bộ, từ đây
ra biển chỉ có một cửa, lại nằm trong tầm kiểm soát từ xa của địch, nguy
hiểm luôn rình rập, nhưng Vũng Rô tạo được yếu tố bất ngờ cho công tác
vận chuyển. Chuyến thứ nhất, rồi chuyến thứ hai, mọi việc đều thuận lợi,
Tàu 41 đều lọt vào bến trong đêm an toàn. Hàng hóa, vũ khí được xử lý
kịp thời bảo đảm tàu rời bến trước khi trời sáng.
Cũng
phải kể thêm, những lần vào bến, anh em tôi luôn day dứt bởi điều kiện
sinh hoạt, ăn uống của quân dân ở đây rất thiếu thốn. Do địch khống chế
Quốc lộ 1A, cắt hết chi viện nên anh em thường xuyên phải ăn khoai mì và
quả sung. Chính vì vậy, chuyến tàu thứ hai, ngoài 60 tấn vũ khí chúng
tôi còn chở thêm 3 tấn gạo tám thơm của Bộ tư lệnh Hải quân gửi tặng dân
quân Vũng Rô…
Chuyến
đi thứ ba vào Vũng Rô được tiến hành đầu tháng 11-1964. Sau một chuyến
hàng thành công từ Cà Mau trở về, ông Thạnh được Bộ tư lệnh Quân chủng
Hải quân thông báo kế hoạch đưa vũ khí vào chiến trường Khu V, nơi chiến
sự đang diễn ra ác liệt nhưng lại vô cùng thiếu thốn vũ khí. Chuyến đi
này được dự báo là cam go, bởi địa điểm này rất dễ bị địch phát hiện do
không có nơi trú ẩn an toàn, lại chỉ có một cửa ngõ ra Biển Đông duy
nhất, đó là khoảng giữa Mũi Điện và Hòn Nưa, nếu địch dùng tàu chặn thì
coi như không còn đường ra. Thêm nữa, hệ thống ra-đa Cù lao Ré và Chóp
Chài gần như “quét” đầy đủ mọi ngóc ngách trên địa bàn. “Sau khi nghiên
cứu kỹ hải đồ và tính toán chi tiết, Bộ tư lệnh quyết định chỉ đưa tàu
vào lúc giữa đêm, tiến hành bốc dỡ vũ khí ngay và quay trở ra hải phận
quốc tế vào lúc 3 giờ sáng” – ông Thạnh nhớ lại. Đó là phương án tối ưu,
bởi nếu ở miền Nam, những rừng đước, rừng tràm rậm rịt chính là nơi có
thể đưa tàu vào nghỉ ngơi, ở đây chỉ có biển và núi.
Tàu 41
nhận lệnh cập bến Vũng Rô đúng đêm Giao thừa Tết Nguyên đán Ất Tỵ. Kể
sao hết niềm vui sướng của anh em tàu và bến được nhận vũ khí vào thời
khắc bước sang năm mới cùng lời chúc Tết của Bác Hồ kính yêu qua chiếc
ra-đi-ô trên tàu. Mọi người tranh thủ liên hoan đón Tết. Bánh chưng, trà
Thái Nguyên, bia Trúc Bạch, thuốc lá Điện Biên do anh em tàu chuẩn bị
trước chuyến đi (đã được bóc hết nhãn mác để bảo đảm bí mật) được bày
lên. Trong lúc đang liên hoan vui vẻ thì cô gái dân quân Nguyễn Thị Tản
lặng lẽ đến bên Thuyền trưởng Hồ Đắc Thạnh và trao cho ông một nắm đất
bọc trong một cái khăn mùi xoa rất đẹp: “Em xin gửi nắm đất Phú Yên theo
tàu các anh đi ra Bắc. Xin hứa với các anh, với Đảng và Bác Hồ, dù mảnh
đất này bom cày, đạn xới nhiều lần nhưng chúng em vẫn giữ vững niềm tin
chiến thắng vì đã có vũ khí của Đảng, của Bác từ miền Bắc chi viện”.
Thuyền
trưởng Thạnh đón nhận nắm đất từ tay người con gái và chuyền nắm đất cho
từng đồng đội. Khó có thể nói hết được tâm trạng anh em Tàu 41 lúc này.
Mọi người càng nhận thấy trách nhiệm lớn lao của mình với mảnh đất và
người dân nơi đây, với nhiệm vụ giải phóng quê hương, giải phóng miền
Nam.
Đó là kỷ
niệm sâu sắc nhất trong cuộc đời quân ngũ của Thuyền trưởng Hồ Đắc
Thạnh. Hình ảnh xúc động đó đã theo ông trên khắp chặng đường binh
nghiệp và cho tới tận bây giờ – khi ông đã trở về với đời thường tại
thành phố Tuy Hòa (Phú Yên). Nắm đất của cô dân quân Nguyễn Thị Tản đã
được cán bộ, thủy thủ Tàu 41 nâng niu, gìn giữ suốt chặng đường trở về
miền Bắc và sau này ông Thạnh đã trao tặng cho Bảo tàng Hải quân. Hình
ảnh người nữ dân quân Nguyễn Thị Tản trao nắm đất cho vị thuyền trưởng
sau này đã được tái hiện bằng nghệ thuật điêu khắc tượng đồng đặt tại
Nhà truyền thống Lữ đoàn 125 anh hùng.
Sau ngày
miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất, Thuyền trưởng Tàu
không số Hồ Đắc Thạnh tiếp tục công tác trong Quân chủng Hải quân. Năm
1984, đang đảm nhiệm chức vụ Phó tham mưu trưởng Vùng 3 Hải quân thì ông
xin nghỉ hưu sớm để lo toan công việc gia đình… Nhiều đồng chí, đồng
đội muốn làm hồ sơ đề nghị phong tặng danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân
cho ông nhưng ông đã cảm ơn và nói muốn dành danh hiệu đó để tặng các
liệt sĩ, đồng đội đã hy sinh trên con đường huyền thoại. Ông nói: “Tôi
còn sống để chứng kiến đất nước thay da đổi thịt sau 36 năm giải phóng
đã là điều rất mãn nguyện rồi”. 14:51 2014/2/5 – Trịnh Dũng – Thu Hương
Các thuyền trưởng tàu không số (Kỳ 7)
Theo
lời hẹn trước, chúng tôi đến thăm gia đình Thuyền trưởng tàu Không số
Lưu Đình Lừng vào một ngày chủ nhật đẹp trời. Trong ánh nắng ấm áp buổi
sớm đầu thu, ông đón chúng tôi với nụ cười rạng rỡ, chân thành như bản
tính hiếu khách của người dân miền biển Đồ Sơn. Ở tuổi xưa nay hiếm, tóc
đã bạc, da đã nhăn nhưng bước đi hoạt bát, và ánh mắt tinh tường thì
vẫn vẹn nguyên.
Kỳ 7: Thuyền trưởng Lưu Đình Lừng và niềm tự hào về Tàu 42
Ngôi nhà
khang trang nằm sâu trong hẻm 171, phường Ngọc Hải, thị xã Đồ Sơn, tổ
ấm của gia đình ông với bốn thế hệ cùng chung sống hạnh phúc. Trong căn
phòng khách rộng rãi và thoáng mát, rất nhiều bức ảnh chụp những con tàu
không số – khi ông và đồng đội làm nhiệm vụ vận chuyển vũ khí chi viện
cho chiến trường miền Nam được phóng to, treo trang trọng trên tường.
Trà xanh được rót ra mời khách. Ông cười và chỉ tay vào bức ảnh được
phóng to nhất:
– Hình
ảnh con tàu 42 đấy. Đây là con tàu anh hùng. Tôi đã có 10 chuyến đi trên
con tàu này, và chỉ ở tàu này mà thôi – Giọng ông từ tốn vang lên rành
rọt, sang sảng của người miền biển.
Câu
chuyện của chúng tôi xoay quanh con tàu 42. Những ký ức sâu thẳm, tha
thiết trong cuộc đời binh nghiệp của ông bừng thức, ào ào dữ dội như
sóng biển khơi, nhấp nhô, ẩn hiện hình ảnh con tàu và những người thủy
thủ, mưu trí, dũng cảm, vượt qua giông bão, vượt qua tuyến phòng thủ dày
đặc của địch, mang cả tình thương của miền Bắc, đưa từng khẩu súng,
viên đạn… tới miền Nam ruột thịt, góp sức tiêu diệt quân thù.
– Năm
1964, tôi nhập ngũ vào Đoàn tàu Không số, là thủy thủ của Tàu 42. Đời
tôi thật may mắn khi được đi trên con tàu này, được làm việc với một
người chỉ huy thông minh, trí tuệ, dũng cảm như thuyền trưởng Nguyễn Văn
Cứng.
Thuyền trưởng Lưu Đình Lừng Một thoáng buồn hiển hiện trên khuôn mặt
hiền hậu, sạm nắng gió của ông khi nói về người thuyền trưởng năm xưa
giờ không còn nữa. Sự xúc động như được đè nén trong ánh mắt đang nhìn
xa xăm kia. Ngưng một lát, ông tiếp tục:
– Thuyền
trưởng Nguyễn Văn Cứng đi hàng hải thiên văn giỏi lắm. Anh em đã học
tập được nhiều điều từ người thuyền trưởng ấy. Những lúc khó khăn, nguy
hiểm mới thấy cái tài của người thuyền trưởng này. Ông điều động tàu
tránh địch rất giỏi, biết lợi dụng sơ hở của địch vượt qua sự kiểm soát
chặt chẽ trên biển của chúng. Trên mỗi chặng, địch xây dựng các trạm
ra-đa quan sát chặt chẽ. Có lần, thuyền trưởng Cứng đã đưa tàu đi qua
giao điểm vùng quét ra-đa của hai trạm. Bọn địch đều phát hiện được
nhưng trạm nọ tưởng trạm kia báo cáo về sở chỉ huy, ỷ vào nhau, thế là
tàu chạy thoát. Thật là tài, chi tiết này không phải ai cũng biết.
Một trong những chuyến đi mà tôi nhớ mãi đó là chuyến đi năm 1965, sau khi xảy ra sự kiện Vũng Rô.
Sự kiện
Vũng Rô, ai cũng biết, con đường vận chuyển đã bị lộ. 8 tháng nằm im chờ
đợi, tìm phương thức vận chuyển mới, ngày 15-10-1965, tại bến K15-Đồ
Sơn (Hải Phòng), Tàu 42 được cải dạng thành tàu đánh cá nước ngoài, nhổ
neo ra khơi. Tàu có 16 thủy thủ do thuyền trưởng Nguyễn Văn Cứng và
Chính trị viên Trần Ngọc Ẩn chỉ huy, đi theo phương pháp hàng hải thiên
văn, tức là đi theo các vì sao. Nhiệm vụ được giao là nghiên cứu tuyến
đường vận chuyển mới, làm tiền đề cho những chuyến sau nhưng phải bảo
đảm bí mật, bất ngờ. Chuyến đi này ngoài 60 tấn vũ khí tàu còn chở thêm 4
quả thủy lôi KB, mỗi quả nặng tới một tấn. Dưới tàu còn găm hàng tấn
thuốc nổ, nếu bị địch phát hiện thì tất cả anh em sẽ điểm hỏa và cảm tử
cùng tàu để giữ bí mật cho con đường.
Mọi đồ
dùng cá nhân phải xóa hết dấu vết, tuýp đánh răng Ngọc Lan, vỏ bao thuốc
lá… phải cạo hết nhãn mác. Mấy khẩu súng đằng trước, đằng sau đều được
ngụy trang. Mọi người đều mang mặc trang phục dân đánh cá nước ngoài.
Trông con tàu của chúng tôi chẳng khác gì một tàu câu cá song. Vậy mà
anh em vẫn không khỏi lo lắng bởi đây là chuyến mở đường sau một thời
gian dài ngừng vận chuyển, địch lại phong tỏa chặt chẽ con đường. Chúng
xây dựng hàng loạt trạm ra-đa ngày đêm quan sát chặt chẽ vùng biển.
Ngoài khơi, Hải quân Mỹ thực hiện việc ngăn chặn. Hải quân ngụy thực
hiện tuần tiễu ven bờ. Để dễ bề quản lý và phân định trách nhiệm,
Mỹ-ngụy chia vùng biển Việt Nam làm 9 khu vực chiến sự. Ở mỗi khu vực,
hải quân Mỹ-ngụy giành quyền kiểm soát mọi tàu, thuyền qua lại, kể cả
tàu buôn nước ngoài. Tình hình bến bãi, luồng lạch thay đổi ra sao, khó
mà lường hết được!
Từ bến
K15, tàu chúng tôi vượt qua Long Châu đi về phía đảo Hải Nam. Đêm đó
sóng rất lớn, gió cấp 6, cấp 7, những con sóng lớn chồm lên như muốn
nhấn chìm chúng tôi xuống biển. Suốt một ngày đêm vật lộn với sóng gió,
ai cũng mệt nhoài vì say sóng, đêm sau tàu đến eo biển Hải Nam. Gần tới
khu vực quần đảo Trường Sa bị máy bay Mỹ phát hiện, chúng vòng đi vòng
lại hai lần, theo dõi hoạt động của tàu. Thuyền trưởng cho tàu giảm tốc
độ, chạy vào hướng đảo Trường Sa để câu cá. Mọi người tất bật kéo lưới,
gỡ cá như dân đánh cá thực thụ. Khi máy bay đi khỏi chúng tôi liền thay
biển số, chuyển hướng vào Cà Mau. Gần tới khu vực Hòn Khoai, chúng tôi
phát hiện thấy vệt sáng đèn di chuyển phía trước. Tất cả vào vị trí
chiến đấu. Các vị trí quan sát đều báo cáo trước mũi tàu, sau lái tàu,
bên trái, bên phải đều có ánh đèn và cứ 400-500m lại có một chiếc tàu
đỗ. Vậy là Tàu 42 đã lọt vào giữa vòng vây của địch. Một cuộc hội ý chớp
nhoáng trong cấp ủy và quyết định: Tàu giảm tốc độ, chạy theo hướng
Đông, chạy vòng theo hướng bao vây của tàu địch, khi tới gần bờ, thuyền
trưởng hạ lệnh tắt đèn hành trình, quặt tay lái tăng tốc chuyển hướng
vào bờ…
Những
lúc thế này anh em mới thấy hết tài thao lược, mưu trí đặc biệt của
thuyền trưởng Nguyễn Văn Cứng. Khi Tàu 42 lọt vào trong cửa Bồ Đề, nhìn
xa xa thấy vài tàu địch đậu ở đó… Người trong bến cho xuồng ra đón, sau
khi phát tín hiệu nhận nhau, tàu chúng tôi được đưa vào bến Rạch Kiến
Vàng an toàn. Ngoài súng đạn, cũng là lần đầu tiên chúng tôi đưa được
thủy lôi sừng chạm vào cho bộ đội đặc công thủy, góp phần làm nên những
trận đánh rung chuyển các căn cứ Hải quân Mỹ-ngụy. Chuyến này đi, chúng
tôi đã đi hơn 1.200 hải lý, cả đi lẫn về 20 ngày.
Chuyến
đi mở đường thắng lợi của Tàu 42 trong tình hình địch phong tỏa ác liệt
có một ý nghĩa hết sức quan trọng. Ta đã nắm được quy luật hoạt động
ngoài khơi và gần bờ của địch để tìm cách ứng phó linh hoạt. Tiếp đó, ta
đã tổ chức hai chuyến tiếp theo đều thắng lợi.
Sau
chuyến đi này, ban chỉ huy tàu vinh dự được báo cáo kết quả chuyến đi
với Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng; được Đảng và Quốc hội tặng
thưởng Huân chương Quân công hạng ba và được Bác Hồ tặng mấy tút thuốc
lá có ghi dòng chữ “Bác Hồ tặng”.
Với bề
dày thành tích, qua 7 năm liên tục, Tàu 42 luôn hoàn thành xuất sắc mọi
nhiệm vụ, giữ vững quyết tâm, anh dũng, mưu trí, linh hoạt, khắc phục
vượt khó khăn trong mọi tình huống, gặp địch đã chiến đấu kiên cường,
dũng cảm. Ngày 8-10-1972, Tàu 42 vinh dự được Đảng, Nhà nước ta tặng
danh hiệu cao quý: “Đơn vị Anh hùng LLVT nhân dân”.
Và năm
2005, Thuyền trưởng Nguyễn Văn Cứng, người đã trực tiếp chỉ huy 15
chuyến đi thành công, được truy tặng danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân.
Tàu anh hùng, thuyền trưởng anh hùng. Còn vinh dự nào hơn!
Còn ông
Lưu Đình Lừng, trong suốt 10 năm gắn bó với con tàu 42, ông đã đi 10
chuyến vận chuyển trên con đường biển mang tên Bác Hồ (5 chuyến thành
công, 5 chuyến bị địch phát hiện phải quay về), từ một thủy thủ đã trở
thành một thuyền trưởng dạn dày kinh nghiệm. Nhưng theo ông, những ngày
được làm việc bên người thuyền trưởng Nguyễn Văn Cứng, được sống trong
một tập thể đoàn kết, anh dũng, đó là những tháng ngày quý báu để ông
học hỏi, trưởng thành và vững bước trên con đường đời sau này. 14:55 2014/2/5 – Trịnh Dũng – Thu Hương
Trong
chuyến chở vũ khí chi viện cho quân và dân ta tham gia Tổng tiến công
nổi dậy Tết Mậu thân 1968, bốn con tàu mang số hiệu 43, 56, 235, 165 của
Lữ đoàn 125 đêm 29-2, rạng ngày 1-3 đều gặp địch. Chỉ còn tàu 56 trở
về. Cũng như tàu 43 và 235, tàu 165 của Thuyền trưởng Nguyễn Chánh Tâm
đã chiến đấu anh dũng và đi vào huyền thoại. 18 cán bộ, thủ thủy đã ra
đi, không để lại một dấu vết…
Kỳ 8: Nguyễn Chánh Tâm, người anh hùng sống mãi
Quyết tử giữa biển khơi
Đêm
25-2, từ căn cứ A2, tàu 165 được lệnh xuất phát, chở hàng vào bến Vàm
Lũng (Cà Mau). Cán bộ, thủy thủ gồm: Thuyền trưởng Nguyễn Chánh Tâm;
Chính trị viên Nguyễn Ngọc Lương; Thuyền phó Hoàng Văn Thuyết và Nguyễn
Văn Thông; Chính trị viên phó Nguyễn Văn Danh; Thợ máy Nguyễn Văn Thị,
Trần Văn Dựng, Nguyễn Duy Tạo; Báo vụ: Lý Khánh Hồng và Vương Văn Diêng;
Thủy thủ trưởng: Nguyễn Kính; Hàng hải: Nguyễn Văn Em và Mai Đức Long; Y
tá Nguyễn Đình Văn; Thủy thủ: Trần Văn Quồi, Phạm Văn Phương, Trần Văn
Bé; Cơ yếu: Vũ Hữu Nghị.
Theo
tuyến đường của những chuyến đi trước, tàu 165 đi qua Hoàng Sa, Trường
Sa, hòa vào dòng tàu buôn nước ngoài ngược xuôi trên biển quốc tế, hướng
về phía Nam. Thông tin giữa tàu và Sở chỉ huy và bến vẫn giữ liên lạc
tốt. Ngay tại hải phận quốc tế tàu đã bị địch theo dõi. Thuyền trưởng
Nguyễn Chánh Tâm bình tĩnh, mưu trí cùng anh em vượt qua vòng phong tỏa
của địch. Đêm 29-2, tàu đến vùng biển Cà Mau, chuẩn bị chuyển hướng. Mọi
phương án đón tàu ở bến được chuẩn bị chu đáo, kể cả trong “trường hợp
xấu nhất”, bến sẵn sàng “chia lửa” với tàu.
Nhưng
dự định đó đã không thành hiện thực. Trời biển Cà Mau đêm đó đã chứng
kiến trận đấu quyết tử của những người lính “Tàu không số” với gần chục
tàu chiến và máy bay địch. Con tàu 165 nhỏ nhoi đã hóa thân vào biển
không để lại một dấu vết gì ngoài hai bức điện cuối cùng gửi về sở chỉ
huy trong đêm 29-2 rạng ngày 1-3-1968. Bức điện thứ nhất đề lúc 18 giờ
ngày 29-2: “Chuyển vào. Gặp máy bay trinh sát đi qua tàu-Lương (tức
Chính trị viên Nguyễn Ngọc Lương). Bức điện thứ hai, ngày 1-3: “Chúng
tôi gặp 8 tàu địch bao vây, quyết cảm tử!”. Đó là hai lời nhắn nhủ cuối
cùng trước lúc tàu 165, Thuyền trưởng Nguyễn Chánh Tâm và 17 thủy thủ đi
vào huyền thoại.
Các
anh đã chiến đấu, đã hy sinh như thế nào, đến nay cũng chưa ai biết rõ.
Nhớ lần chúng tôi tới thăm cựu chiến binh Khưu Ngọc Bảy tại Thành phố
Cần Thơ, ông Bảy đã bùi ngùi kể cho tôi nghe về sự kiện bi hùng này: Đêm
đó, tất cả chúng tôi đã sẵn sàng, chuẩn bị đón tàu. Bỗng thấy máy bay
địch lượn nhiều. Hình như chúng báo động. Trên bờ, ngóng ra biển ai cũng
nơm nớp lo âu… Rồi chừng hơn một giờ sáng, phía ngoài khơi nhiều ánh
lửa và đường đạn vạch lên trời… Chừng 20 phút sau, loáng lên những tia
chớp và một ngọn lửa hình nấm vọt lên kèm theo tiếng nổ lớn trùm xuống
biển…
Chúng
tôi vẫn tin anh em còn sống và tìm đón nhiều ngày dọc ven biển. Nhưng
chỉ còn hai báng súng K44, vài mảnh chiếc đài màu nâu đỏ, một đoạn cột
ăng ten tàu và một mảnh áo phao… Tất cả chỉ còn vậy. Tàu 165, Thuyền
trưởng Nguyễn Chánh Tâm và 17 thủy thủ đoàn đã vĩnh viễn ra đi. Các anh
mãi mãi nằm lại vùng biển Tây Nam của Tổ quốc-vùng biển Cà Mau… không
bao giờ trở lại.
Anh còn sống mãi
Với
thành tích 8 chuyến đi chở hơn 600 tấn vũ khí chi viện cho chiến trường
miền Nam trong điều kiện hết sức khó khăn, gian khổ, năm 2005, Thuyền
trưởng Nguyễn Chánh Tâm được Nhà nước truy tặng danh hiệu Anh hùng LLVT
nhân dân. Hơn 40 năm đã trôi qua, những ký ức về anh-người thuyền trưởng
anh hùng, dũng cảm, người bạn thủy chung vẫn khắc ghi mãi trong lòng
bạn bè và những người thân của anh.
Bà
Đỗ Thị An, tuổi ngoài 90, hiện ở Ngõ Cấm, thành phố Hải Phòng khi nhắc
đến tên người con rể với con cháu hiện nay vẫn rưng rưng xúc động: “Bố
các cháu là người nhân hậu, sống có nghĩa, có tình, cứ mỗi lần công tác
về là có quà cho mọi người, tranh thủ giúp gia đình, vợ con mọi việc lớn
nhỏ… Nhớ mãi chuyến đi lần cuối của bố các cháu. Tối đó mấy bố con cứ
quấn quýt mãi bên nhau. Sáng ra, Tâm dậy sớm, chắp tay: “Chào mẹ, con đi
công tác, chưa biết bao giờ mới về…”. Ba bà cháu tiễn bố ra ngõ, bịn
rịn. “Mẹ về đi!”. Tâm động viên tôi. Hai cháu Tuấn, Tú cứ ôm chặt lấy
bố, mãi không rời… Ba Tâm xoa đầu hai con, nựng: “Các con ở nhà ngoan
ngoãn, nghe lời bà và mẹ, vài bữa nữa ba về… Tôi cũng không thể ngờ rằng
đó là lần chia tay cuối cùng!”.
Với
Đại tá, Anh hùng LLVT nhân dân Nguyễn Đắc Thắng, hiện ở Thành phố Cần
Thơ thì Chánh Tâm là “người bạn thân thiết, thủy chung, ngay từ ngày đầu
vào bộ đội”.
Đôi
bạn Đắc Thắng-Chánh Tâm đều sinh năm 1935 tại Cần Thơ. 19 tuổi hai ông
cùng nhập ngũ vào bộ đội và tập kết ra Bắc, sau đó được đi học lớp
thuyền trưởng Hải quân. Tốt nghiệp, Đắc Thắng được điều về Đoàn 759
(tiền thân Đoàn 125 ngày nay), còn Chánh Tâm về Đoàn tàu tuần tiễu ở căn
cứ 2. Sau chiến thắng trận đầu 5-8-1964, Nguyễn Chánh Tâm được điều về
Đoàn tàu Không số làm thuyền trưởng tàu 165. Đôi bạn ngày xưa lại được
chung một nhiệm vụ vẻ vang và tình bạn của họ ngày càng thắm thiết. “Tâm
là một người bạn nhiệt tình, sống hết mình với bạn bè. Anh ấy còn là
“nhịp cầu” tình yêu của tôi và Sáu Thùy, người vợ yêu quý của tôi sau
này”. Ông Thắng bồi hồi nhớ lại.
Về
câu chuyện tình của Thuyền trưởng Nguyễn Đắc Thắng và nữ y tá Huỳnh
Biên Thùy đến nay không kể hết bao nhiêu bài báo đã viết về họ. Đó là
mối tình xuyên Biển Đông. Mối tình rất “nổi tiếng” của Đoàn tàu Không
số. Chuyện là, trong một chuyến chở hàng vào Cà Mau, Thuyền trưởng Đắc
Thắng đã “phải lòng” cô “nuôi quân” kiêm y tá Huỳnh Biên Thùy có giọng
ca cải lương ngọt ngào. Tình yêu của họ chỉ chờ ngày sum họp sau khi anh
ra Bắc báo cáo tổ chức, sau đó sẽ trở lại bến làm đám cưới. Thế rồi
nhiệm vụ vận chuyển bí mật, những chuyến đi mở bến mới ở miền Trung…
Thuyền trưởng Đắc Thắng không còn cơ hội trở lại bến xưa để “kết tóc se
duyên” với người nữ y tá. Lúc này, Thuyền trưởng Nguyễn Chánh Tâm với
những chuyến đi vào Cà Mau đã trở thành sợi dây liên lạc tình cảm giữa
hai người. Sáu Thùy vẫn thường xuyên nhận được “quà của người yêu” gửi
vào. Khi thì cuốn sách “Ruồi Trâu”, “Thép đã tôi thế đấy”, khi là chiếc
nón bài thơ xinh xắn. Sáu Thùy cũng nhờ Chánh Tâm chuyển tới người yêu
những món quà đầy ý nghĩa như món tóc thề hay những chiếc khăn thêu…
Tình yêu của họ vì thế vẫn được kết nối, tình cảm ngày càng thêm gắn bó.
Mãi sau này, khi thành vợ chồng, cô Thùy mới biết những món quà cô vẫn
đều đặn nhận được trong những ngày xa cách đó đều là của Thuyền trưởng
Nguyễn Chánh Tâm mua tặng. “Anh ấy tốt lắm, mỗi chuyến trở về Bắc tàu
anh ấy còn tặng lại chúng tôi rất nhiều lương khô để “dùng khi giặc càn”
– cô Sáu Thùy kể lại. “Ngày nghe tin tàu nổ trên biển, ngỡ là anh
Thắng, tôi đã khóc ròng ròng, rồi lập bàn thờ để tang anh. Sau này mới
biết đó là anh Chánh Tâm. Tôi đã khóc rất nhiều thương tiếc anh…”.
Hơn
40 năm đã trôi qua, đất nước đã thanh bình và biển xanh đã xóa đi tất
cả. “Sóng xóa đi dấu vết, biển vẫn con đường mòn…”. Thuyền trưởng Nguyễn
Chánh Tâm và đồng đội tàu 165 đã ra đi… không để lại một dấu vết. Nhưng
dấu ấn về một con đường vận tải trên biển, con đường của những huyền
thoại và những chiến công thầm lặng của những người lính biển anh hùng
vẫn sống mãi với dân tộc Việt Nam.
Nỗi Buồn Hoa Phượng - Ý Linh (Thần Tượng Bolero 2017) [MV Official] NGẬM SẦU Sầu ta chẳng biết sầu gì Cứ như cơn sốt li bì mê man Lê la đã khắp trần gian Mà nào gặp thuốc uống tan nỗi sầu... Sầu ta chẳng biết tại sao Càng cười ha hả càng đau thấu tình Đã từng trải hết phiêu linh Tưởng là bệnh khỏi, hóa trên đỉnh sầu. Ai ơi cứu được ta nào Ta xin hậu tạ một chầu sầu riêng... Trần Hanh Thu Hạ Thương - Hồ Phương Liên (Á Quân Thần Tượng Bolero 2017) [MV Official] 【Top】Những Hình Ảnh Buồn Về Tình Yêu Hay Và Ý Nghĩa Nhất By Hoàng Trung Văn Nghĩa - 26 Tháng Mười, 2019 0 1595 Share ...
(ĐC sưu tầm trên NET) Bản tin 113 online cập nhật ngày 14/3: Bắt phó giám đốc dùng tài liệu giả tham gia đấu thầu | ANTV TRỰC TIẾP: Thời sự quốc tế 15/3 | Nga lập thế trận siết vòng vây 3000 quân Kiev, Ukraine run rẩy Tin tức thời sự mới nhất hôm nay | Bản tin sáng ngày 14-3-2024 Các quan chức cộng sản cấp cao biến mất | Trung Quốc Không Kiểm Duyệt THIÊN TRANG - Chỉ Hai Đứa Mình Thôi Nhé || Nhạc Vàng Xưa Bất Hủ Thêm 162 người nhập viện sau khi ăn cơm gà ở Nha Trang 8 giờ trước Việt Nam đề nghị Trung Quốc tôn trọng và tuân thủ hiệp định về phân định vịnh Bắc Bộ 9 giờ trước Khoảnh khắc một căn nhà bị sông Cầu 'nuốt chửng' ở Bắc Ninh 5 giờ trước Hà Nội: Cô bán trứng bất ngờ "được" ném nhầm bọc tiền hơn 1 tỷ vào xe 17 giờ trước Vũ khí đặc biệt trong gói viện trợ của Mỹ dành cho Ukraine 12 giờ trước Video quân đội Nga bắn nổ 2 trực thăng của Ukraine ở Donetsk 18 giờ trước Ông Trump vượt Tổng thống Biden về tỉ lệ ủng hộ trong thăm dò dư luận 11 giờ trước Làm...
Mùa Chim Én Bay - Giảng Viên Thanh Nhạc | Đặng Hồng Nhung MỌC CÁNH Em ơi em, mọc cánh bao giờ thế Định bay đi đâu mà nhìn ra đại dương? Tìm nguồn hạnh phúc bên kia thế giới Ở đó đang chờ một tình yêu thương? Thôi bay đi em, đừng áy náy, vấn vương Đừng lưu luyến kẻ dưng, người cũ Bay đi em, về phương trời quyến rũ Ở đó có tình sâu nặng đợi chờ! Bay đi em, đến xứ sở ước mơ Về chao liệng trên bến bờ hi vọng Thỏa khao khát những nỗi niềm vui sống Của một hồn thơ dào dạt yêu thương! Trần Hạnh Thu Câu Đợi Câu Chờ - Giảng Viên Thanh Nhạc | Đặng Hồng Nhung Dương Hiểu Ngọc bay cao với đôi cánh "Thiên thần tình yêu 09:26 05/04/2014 Chắp "đôi cánh thiên thần", người đẹp Dương Hiểu Ngọc sẽ bay cao, bay xa trong nghệ thuật với những nỗ lực không ngừng. Xuất hiện liên tục trên ...
Nhận xét
Đăng nhận xét