KIẾP GIANG HỒ 166 (Lâm Sang)
(ĐC sưu tầm trên NET)
Vào thời điểm cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, những tổ chức Thiên Địa hội phản Thanh phục Minh ở miền đất Nam Việt Nam đã mất phương hướng hoạt động vì mục tiêu không còn tồn tại. Họ trở thành những băng đảng giang hồ. Băng đảng giang hồ Lâm Sang ở Gò Công là một ví dụ.
Lưu manh bến xe ngựa
Phan Thanh Sắc - Cựu giáo viên, nhà nghiên cứu văn hóa Gò Công, tác giả của một số bộ sách khảo cứu Gò Công xưa cho biết: "Ngày xưa ở Gò Công cũng có phong trào Thiên Địa hội. Nhưng trong tiềm thức những người xưa, Thiên Địa hội chỉ là một băng đảng cướp có tổ chức. Vào đầu thế kỷ 20, ở Gò công có băng đảng Lò Sang hay còn gọi là Lò Cheng. Ông Việt Cúc có viết về Lò Sang trong quyển “Gò Công - Cảnh cũ người xưa".
Trong ký ức những người vào tuổi xưa nay hiếm ở Gò Công cũng chỉ
biết vào những năm 1920, tại Gò Công có một nhóm Thiên Địa hội phản
Thanh phục Minh do một người tên Lâm Sang làm thủ lĩnh. Y tự xưng là Lò
Sang. Người dân thường gọi là Chệt Cheng hoặc Chệt Xèng, Chệt Sang.
Lâm Sang là người Việt gốc Hoa. Cha của Sang là một thành viên của Thiên Địa hội phản Thanh phục Minh ở Bạc Liêu. Người ta quen gọi ông ta là Chệt Lâm. Không có tài liệu nào cho biết lý do vì sao cha của Sang trôi về tận xứ Gò Công mở tiệm hủ tiếu tại chợ Tổng Châu (bây giờ là chợ Tân Tây, Gò Công Đông, Tiền Giang).
Cũng có dòng truyền khẩu cho rằng, Chệt Lâm là thuộc hạ cũ của Nguyễn Ngọc Chấn, người thôn Tân Niên Tây, huyện Kiến Hòa, trấn Định Tường (nay là xã Tân Tây, huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang).
Năm 1859, ông Chấn tham gia khởi nghĩa Trương Định, lập được nhiều chiến công, nên được phong chức Đốc binh, do đó, mọi người quen gọi là Đốc binh Chấn. Trong quá trình chiến đấu, ông là một trong những cộng sự thân tín nhất và được Trương Định đặc biệt tin cậy. Ngày 20-8-1864, trong trận phản công cuộc tập kích bất ngờ của việt gian Huỳnh Văn Tấn, ông đã bị trọng thương. Quân Pháp đã đày ông ra Côn Đảo suốt 9 năm. Sau khi được Pháp trả tự do ông về quê nhà mở trường dạy học và lập đền thờ Trương Định. Năm 1907, do tuổi cao sức yếu, ông qua đời tại Giồng Tháp (Gò Công).
Đời Gia Long, thôn Tân Niên Tây thuộc tổng Hòa Bình, năm 1836 thuộc tổng Hòa Lạc và đến đời Tự Đức thì thuộc tổng Hòa Lạc Thượng.
Chệt Lâm lấy nghề bán hủ tiếu làm kế sinh nhai và dốc hết tâm huyết vào việc dạy cho đứa con trai duy nhất là Lâm Sang tất cả những tuyệt kỹ võ công của mình. Ông không mong con trai trở thành 1 lãnh tụ phục Minh. Với ông, tổ chức Thiên Địa hội không còn tác dụng "phục Minh" thì võ nghệ chỉ là 1 phương tiện phòng thân.
Lâm Sang học võ rất nhanh nhưng không thể nhét được 1 bài toán cộng trong đầu. Suốt thời gian bám lưng cha, Sang chỉ biết bưng bê hủ tiếu cho khách và rửa tô chén. Tuy rất cưng chiều nhưng Chệt Lâm rất nghiêm khắc trước những lỗi lầm nhỏ nhặt của con trai. Ông thường xuyên đánh đập tàn nhẫn mỗi khi Lâm Sang làm ông phật ý.
Năm 1910, Sang (đã 18 tuổi) được cha sai đi Chợ Lớn mua bột ngọt
(mỳ chính) và một số nguyên liệu đặc biệt đế nấu nước súp hủ tiếu theo
công thức gia truyền. Sang đi xe lửa từ ga Mỹ Tho đến ga Chợ Lớn. Rồi từ
ga Chợ Lớn, Sang tiếp tục lên xe ngựa đến nơi bán nguyên liệu. Khi xe
ngựa đi ngang một sân đấu võ đài, Sang tò mò vào xem.
Sang háo hức ghi danh thi đấu. Do lần đầu tiên thượng đài thiếu kinh nghiệm giao đấu, Sang thua cuộc. Khi kết thúc trận đấu thì chuyến xe lửa cuối cùng đã xuất bến. Sang đành thuê chiếu ngủ tại một bến xe ngựa. Đêm đó trộm cuỗm mất chiếc túi rút đựng tiền. Không dám về nhà, Sang đành xin các phu xe ngựa chân sai vặt để có cơm ăn hàng ngày.
Thế là Sang trở thành phu xe ngựa ở bến xe Chợ Lớn.
Thời ấy, xe xích lô bắt đầu xuất hiện nên xe ngựa dần ế ẩm. Các phu xe ngựa phải giành giật nhau từng người khách. Với vốn võ nghệ, Sang trở thành một đầu gấu thứ thiệt ở bến xe ngựa Chợ Lớn. Sang không thèm làm phu xe ngựa nữa mà đứng bến phân chia tài chuyến cho phu. Xe ngựa muốn đậu ở bến phải chung tiền "xâu xếp tài" cho Sang. Lâm Sang thu phục thêm nhiều đàn em để tăng sức mạnh băng nhóm. Sang tự nhận mình là thành viên Thiên Địa hội phản Thanh phục Minh để quy tụ đàn em.
Năm 1916, cuộc khởi nghĩa của Phan Xích Long (Thiên Địa hội phản Pháp phục Việt) thất bại, quân Pháp ráo riết truy bắt tất cả ai mang danh nghĩa Thiên Địa hội. Tuy không liên quan đến phong trào Phan Xích Long, Lâm Sang vẫn không dám cư trú ở Chợ Lớn mà trốn về quê Gò Công. Khi trở về Gò Công, Sang mới biết cha mình đã chết sau một cơn bạo bệnh.
Côn đồ chợ huyện
Để có cơm ăn, Lâm Sang dùng danh nghĩa Thiên Địa hội của cha mở lò dạy võ ở phía bờ đối diện bến chợ Tổng Châu.
Ai đến xin học, Lâm Sang đều lập hương án buộc tuyên bố xin gia
nhập vào Thiên Địa hội. Ngoài những bài luyện võ, Lâm Sang dạy thêm về
những quy định, luật định bí mật của Thiên Địa hội. Ngoài ra, Lâm Sang
còn dạy cho học trò huyền thuật, bùa chú, ngải truật mà mình được học
trong thời gian tham gia Hội Kín.
Những quy định, luật lệ của Lâm Sang có vẻ như ẩn chứa tinh thần nghĩa hiệp, "giang hồ tứ hải giai huynh đệ" đã đánh trúng vào tâm lý hào sảng của thanh niên địa phương. Những nội quy bí mật đã khêu gợi trí tò mò của mọi người. Chỉ một thời gian ngắn, khắp vùng Gò Công người ta rỉ tai lan truyền: Lâm Sang là thủ lĩnh thừa kế Thiên Địa hội vùng Gò Công. Từ đó, hàng trăm thanh niên bỏ gia đình, bỏ ruộng nương ùn ùn kéo đến xin gia nhập hội. Lâm Sang bắt đầu xưng danh "lò". Vì vậy người ta gọi hắn là "Lò Cheng" hoặc "Lò Sang".
Đệ tử xin gia nhập càng lúc càng đông, Lâm Sang bắt đầu cắt đặt một số đệ tử thân tín ở hàng thứ nhất đứng ra chỉ huy từng nhóm. Những nhóm nhỏ này, Lâm Sang gọi là bang (người dân miền Nam nói trại ra thành "băng"). Người đứng đầu băng gọi là băng chủ.
Suốt ngày Lò Sang ngồi chễm chệ trên chiếc ngai sơn son thếp vàng, chạm rồng như ngai vua. Chiếc ngai đặt trên một bàn hương án giống như bàn thờ, thắp hương nghi ngút ngày đêm. Hai bên ngai luôn túc trực 2 đệ tử thân tín nhất. 2 đệ tử này luôn mặc võ phục, tay khoanh trước ngực, mặt hầm hầm như muốn ăn tươi nuốt sống mọi người.
Hắn cho các băng chủ gia tăng việc "luộc", "nấu", "hấp" hội viên mới. Đệ tử mới phải được đệ tử cũ giới thiệu bảo lãnh mới được tham gia công đoạn này. Sau khi hoàn tất giai đoạn "hấp", tân đệ tử phải làm lễ gia nhập hội gồm nghi thức cúng tổ, ra mắt Lâm Sang.
Muốn gia nhập hội, đệ tử phải sắm lễ vật gồm 1 cặp gà trống thiến, 1 bình rượu thuốc, một gói tiền và 1 mâm trái cây. Mỗi lần tổ chức lễ gia nhập hội viên mới, nhờ số lượng đông, có khi số lượng gà cúng lên đến hàng trăm con, đám đệ tử ăn nhậu linh đình. Hứng lên, Lâm Cheng còn bỏ tiền thuê đoàn hát hồ quảng về phục vụ.
Tại lễ gia nhập hội, những đệ tử mới phải ở trần, quỳ trước hương án (gọi là bàn thờ tổ) sụp lạy Lâm Sang rồi dùng dao tự cắt tay trích máu hòa vào chậu rượu, miệng đọc bài chú thề thốt đã học thuộc lòng trước đó. Bài chú thề có nội dung tuyệt đối trung thành, tuân thủ mệnh lệnh lãnh tụ, sống chết có nhau, ai phản bội chấp nhận người đồng băng xử tử thê thảm. Thề xong, người đệ tử cũ giới thiệu, bảo lãnh đứng ra đấm đệ tử mới mấy cú gọi là "chào sân". Sau khi ăn mấy cú đánh chí tử, có khi hộc máu mồm, đệ tử mới chính thức được công nhận là đã nhập băng.
Cũng tại lễ này, đệ tử mới sẽ được phân "phái". Phái xanh còn gọi là "hiện" chuyên hành động. Phái vàng còn gọi là "mật" chuyên hoạt động bí mật.
Kết thúc buổi lễ, đệ tử mới được xâm 1 ký hiệu trên vai gọi là xâm bùa hộ mệnh. Hình xâm này có 2 mục đích: 1/ Ai mang hình xâm sẽ được thần linh hỗ trợ, thật ra là ký hiệu để nhận ra nhau. 2/ Thần linh trong lá bùa sẽ theo dõi nhất cử nhất động của đệ tử, nếu vi phạm lời thề thần linh sẽ quở phạt. Nhưng thật ra chỉ mang mục đích hù dọa để đệ tử không phản bội.
Chỉ những đệ tử cao cấp mới được xăm hình đầu cọp nhe nanh, rồng quấn quanh người. Đệ tử cao cấp theo phái "mật" sẽ được xăm hình rồng quấn. Đệ tử cao cấp theo phái "hiện" được xăm hình đầu cọp nhe nanh.
Người trong băng chỉ nói với nhau bằng tiếng lóng.
Những băng giang hồ lưu manh thế hệ sau cũng bắt chước Lò Sang cắt máu, ăn thề, chào sân, xăm mình, nói tiếng lóng nhưng… không theo luật lệ quy tắc nào cả.
Thời điểm đó chợ Tổng Châu là nơi các thương nhân người Việt gốc Hoa chọn làm chợ đầu mối thu mua sỉ hàng nông sản, thủy sản từ các tàu, xuồng của thương hồ từ khắp vùng Đồng bằng Sông Cửu Long đổ về.
Nhận thấy chợ Tổng Châu là nguồn thu dồi dào, Lâm Sang lùa các đệ tử đi gặp từng tiểu thương để thu tiền "bảo kê" hàng ngày. Ai không nộp hoặc nộp chậm sẽ bị đánh đập.
Việc đòi tiền xâu của Lâm Sang đã chạm vào "chén cơm manh áo" của Hai Liếp.
Hai Liếp mồ côi từ nhỏ, sống vạ vật lề đường xó chợ, ai thuê gì làm nấy. Đến tuổi trưởng thành, Hai Liếp nhận bốc vác hàng hóa tại bến sông. Tuy chưa xưng danh là đại ca bến bãi nhưng thân hình vạm vỡ của Hai Liếp khiến ít người dám gây sự. Bản tính ít nói, thật thà, Hai Liếp chỉ biết bán sức lao động kiếm cơm.
Một hôm, Hai Liếp vác khoai lang từ 1 chiếc tàu hàng của thương hồ Bạc Liêu lên chợ. Do chủ tàu hàng chưa nộp tiền xâu nên Lâm Sang đã chặn Hai Liếp ở giữa đòn dài (đòn dài là tấm ván gỗ có bề ngang vừa đủ 2 bàn chân bắt làm cầu từ be tàu, xuồng lên bờ để đi). Hai Liếp bỏ bao hàng xuống nghênh chiến.
Trận đấu tay đôi bất phân thắng bại khiến địa bàn bảo kê của Lâm Sang chỉ thu hẹp trong phạm vi chợ.
Hai Liếp nghiễm nhiên trở thành đại ca bảo kê bến sông. Những khách thương hồ không muốn Lâm Sang gây sự chỉ việc thuê Hai Liếp bốc vác. Một mình không làm xuể, Hai Liếp lôi kéo một số thanh niên có sức vóc lập đội bốc vác. Hai Liếp chỉ đứng trên bờ đếm thẻ, ăn tiền đầu công.
Nông Huyền Sơn
Số Phận Đại Ca Giang Hồ LÂM SANG Khét Tiếng Nam Kỳ Trước 1975
Giai thoại về Lâm Sang – Giang hồ đất Gò Công
10:33 31/05/2016Vào thời điểm cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, những tổ chức Thiên Địa hội phản Thanh phục Minh ở miền đất Nam Việt Nam đã mất phương hướng hoạt động vì mục tiêu không còn tồn tại. Họ trở thành những băng đảng giang hồ. Băng đảng giang hồ Lâm Sang ở Gò Công là một ví dụ.
Kỳ 1: Mượn mác thiên Thiên Địa Hội
Thiên Địa hội là tổ chức kháng chiến
lưu vong của những người Hoa gốc nhà Minh chống đối nhà Thanh trôi dạt
đến vùng đất phương Nam của Việt Nam. Những người yêu nước kháng Pháp đã
sử dụng phương thức hoạt động bí mật của Thiên Địa Hội để quy tụ nghĩa
quân. Vì vậy, một số người nhầm tưởng Thiên Địa Hội Việt Nam kháng Pháp
(hoặc Thiên Địa Hội phản Pháp phục Việt) là Thiên Địa Hội phản Thanh
phục Minh.
Vào thời điểm cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, những tổ chức Thiên Địa hội phản Thanh phục Minh ở miền đất Nam Việt Nam đã mất phương hướng hoạt động vì mục tiêu không còn tồn tại. Họ trở thành những băng đảng giang hồ. Băng đảng giang hồ Lâm Sang ở Gò Công là một ví dụ.
Lưu manh bến xe ngựa
Phan Thanh Sắc - Cựu giáo viên, nhà nghiên cứu văn hóa Gò Công, tác giả của một số bộ sách khảo cứu Gò Công xưa cho biết: "Ngày xưa ở Gò Công cũng có phong trào Thiên Địa hội. Nhưng trong tiềm thức những người xưa, Thiên Địa hội chỉ là một băng đảng cướp có tổ chức. Vào đầu thế kỷ 20, ở Gò công có băng đảng Lò Sang hay còn gọi là Lò Cheng. Ông Việt Cúc có viết về Lò Sang trong quyển “Gò Công - Cảnh cũ người xưa".
Nhà nghiên cứu Phan Thanh Sắc. |
Lâm Sang là người Việt gốc Hoa. Cha của Sang là một thành viên của Thiên Địa hội phản Thanh phục Minh ở Bạc Liêu. Người ta quen gọi ông ta là Chệt Lâm. Không có tài liệu nào cho biết lý do vì sao cha của Sang trôi về tận xứ Gò Công mở tiệm hủ tiếu tại chợ Tổng Châu (bây giờ là chợ Tân Tây, Gò Công Đông, Tiền Giang).
Cũng có dòng truyền khẩu cho rằng, Chệt Lâm là thuộc hạ cũ của Nguyễn Ngọc Chấn, người thôn Tân Niên Tây, huyện Kiến Hòa, trấn Định Tường (nay là xã Tân Tây, huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang).
Năm 1859, ông Chấn tham gia khởi nghĩa Trương Định, lập được nhiều chiến công, nên được phong chức Đốc binh, do đó, mọi người quen gọi là Đốc binh Chấn. Trong quá trình chiến đấu, ông là một trong những cộng sự thân tín nhất và được Trương Định đặc biệt tin cậy. Ngày 20-8-1864, trong trận phản công cuộc tập kích bất ngờ của việt gian Huỳnh Văn Tấn, ông đã bị trọng thương. Quân Pháp đã đày ông ra Côn Đảo suốt 9 năm. Sau khi được Pháp trả tự do ông về quê nhà mở trường dạy học và lập đền thờ Trương Định. Năm 1907, do tuổi cao sức yếu, ông qua đời tại Giồng Tháp (Gò Công).
Đời Gia Long, thôn Tân Niên Tây thuộc tổng Hòa Bình, năm 1836 thuộc tổng Hòa Lạc và đến đời Tự Đức thì thuộc tổng Hòa Lạc Thượng.
Chệt Lâm lấy nghề bán hủ tiếu làm kế sinh nhai và dốc hết tâm huyết vào việc dạy cho đứa con trai duy nhất là Lâm Sang tất cả những tuyệt kỹ võ công của mình. Ông không mong con trai trở thành 1 lãnh tụ phục Minh. Với ông, tổ chức Thiên Địa hội không còn tác dụng "phục Minh" thì võ nghệ chỉ là 1 phương tiện phòng thân.
Lâm Sang học võ rất nhanh nhưng không thể nhét được 1 bài toán cộng trong đầu. Suốt thời gian bám lưng cha, Sang chỉ biết bưng bê hủ tiếu cho khách và rửa tô chén. Tuy rất cưng chiều nhưng Chệt Lâm rất nghiêm khắc trước những lỗi lầm nhỏ nhặt của con trai. Ông thường xuyên đánh đập tàn nhẫn mỗi khi Lâm Sang làm ông phật ý.
Báo Lục Tỉnh Tân Văn phát hành năm 1912 viết về những băng đảng Thiên Địa Hội mất tôn chỉ phản Thanh phục Minh thoái hóa thành hoàng hồ. |
Sang háo hức ghi danh thi đấu. Do lần đầu tiên thượng đài thiếu kinh nghiệm giao đấu, Sang thua cuộc. Khi kết thúc trận đấu thì chuyến xe lửa cuối cùng đã xuất bến. Sang đành thuê chiếu ngủ tại một bến xe ngựa. Đêm đó trộm cuỗm mất chiếc túi rút đựng tiền. Không dám về nhà, Sang đành xin các phu xe ngựa chân sai vặt để có cơm ăn hàng ngày.
Thế là Sang trở thành phu xe ngựa ở bến xe Chợ Lớn.
Thời ấy, xe xích lô bắt đầu xuất hiện nên xe ngựa dần ế ẩm. Các phu xe ngựa phải giành giật nhau từng người khách. Với vốn võ nghệ, Sang trở thành một đầu gấu thứ thiệt ở bến xe ngựa Chợ Lớn. Sang không thèm làm phu xe ngựa nữa mà đứng bến phân chia tài chuyến cho phu. Xe ngựa muốn đậu ở bến phải chung tiền "xâu xếp tài" cho Sang. Lâm Sang thu phục thêm nhiều đàn em để tăng sức mạnh băng nhóm. Sang tự nhận mình là thành viên Thiên Địa hội phản Thanh phục Minh để quy tụ đàn em.
Năm 1916, cuộc khởi nghĩa của Phan Xích Long (Thiên Địa hội phản Pháp phục Việt) thất bại, quân Pháp ráo riết truy bắt tất cả ai mang danh nghĩa Thiên Địa hội. Tuy không liên quan đến phong trào Phan Xích Long, Lâm Sang vẫn không dám cư trú ở Chợ Lớn mà trốn về quê Gò Công. Khi trở về Gò Công, Sang mới biết cha mình đã chết sau một cơn bạo bệnh.
Côn đồ chợ huyện
Để có cơm ăn, Lâm Sang dùng danh nghĩa Thiên Địa hội của cha mở lò dạy võ ở phía bờ đối diện bến chợ Tổng Châu.
Ngày xưa ngôi chợ Tân Tây là Chợ Tổng Châu - Nơi băng đảng của Lò Sang hoành hành. |
Những quy định, luật lệ của Lâm Sang có vẻ như ẩn chứa tinh thần nghĩa hiệp, "giang hồ tứ hải giai huynh đệ" đã đánh trúng vào tâm lý hào sảng của thanh niên địa phương. Những nội quy bí mật đã khêu gợi trí tò mò của mọi người. Chỉ một thời gian ngắn, khắp vùng Gò Công người ta rỉ tai lan truyền: Lâm Sang là thủ lĩnh thừa kế Thiên Địa hội vùng Gò Công. Từ đó, hàng trăm thanh niên bỏ gia đình, bỏ ruộng nương ùn ùn kéo đến xin gia nhập hội. Lâm Sang bắt đầu xưng danh "lò". Vì vậy người ta gọi hắn là "Lò Cheng" hoặc "Lò Sang".
Đệ tử xin gia nhập càng lúc càng đông, Lâm Sang bắt đầu cắt đặt một số đệ tử thân tín ở hàng thứ nhất đứng ra chỉ huy từng nhóm. Những nhóm nhỏ này, Lâm Sang gọi là bang (người dân miền Nam nói trại ra thành "băng"). Người đứng đầu băng gọi là băng chủ.
Suốt ngày Lò Sang ngồi chễm chệ trên chiếc ngai sơn son thếp vàng, chạm rồng như ngai vua. Chiếc ngai đặt trên một bàn hương án giống như bàn thờ, thắp hương nghi ngút ngày đêm. Hai bên ngai luôn túc trực 2 đệ tử thân tín nhất. 2 đệ tử này luôn mặc võ phục, tay khoanh trước ngực, mặt hầm hầm như muốn ăn tươi nuốt sống mọi người.
Hắn cho các băng chủ gia tăng việc "luộc", "nấu", "hấp" hội viên mới. Đệ tử mới phải được đệ tử cũ giới thiệu bảo lãnh mới được tham gia công đoạn này. Sau khi hoàn tất giai đoạn "hấp", tân đệ tử phải làm lễ gia nhập hội gồm nghi thức cúng tổ, ra mắt Lâm Sang.
Muốn gia nhập hội, đệ tử phải sắm lễ vật gồm 1 cặp gà trống thiến, 1 bình rượu thuốc, một gói tiền và 1 mâm trái cây. Mỗi lần tổ chức lễ gia nhập hội viên mới, nhờ số lượng đông, có khi số lượng gà cúng lên đến hàng trăm con, đám đệ tử ăn nhậu linh đình. Hứng lên, Lâm Cheng còn bỏ tiền thuê đoàn hát hồ quảng về phục vụ.
Tại lễ gia nhập hội, những đệ tử mới phải ở trần, quỳ trước hương án (gọi là bàn thờ tổ) sụp lạy Lâm Sang rồi dùng dao tự cắt tay trích máu hòa vào chậu rượu, miệng đọc bài chú thề thốt đã học thuộc lòng trước đó. Bài chú thề có nội dung tuyệt đối trung thành, tuân thủ mệnh lệnh lãnh tụ, sống chết có nhau, ai phản bội chấp nhận người đồng băng xử tử thê thảm. Thề xong, người đệ tử cũ giới thiệu, bảo lãnh đứng ra đấm đệ tử mới mấy cú gọi là "chào sân". Sau khi ăn mấy cú đánh chí tử, có khi hộc máu mồm, đệ tử mới chính thức được công nhận là đã nhập băng.
Cũng tại lễ này, đệ tử mới sẽ được phân "phái". Phái xanh còn gọi là "hiện" chuyên hành động. Phái vàng còn gọi là "mật" chuyên hoạt động bí mật.
Kết thúc buổi lễ, đệ tử mới được xâm 1 ký hiệu trên vai gọi là xâm bùa hộ mệnh. Hình xâm này có 2 mục đích: 1/ Ai mang hình xâm sẽ được thần linh hỗ trợ, thật ra là ký hiệu để nhận ra nhau. 2/ Thần linh trong lá bùa sẽ theo dõi nhất cử nhất động của đệ tử, nếu vi phạm lời thề thần linh sẽ quở phạt. Nhưng thật ra chỉ mang mục đích hù dọa để đệ tử không phản bội.
Chỉ những đệ tử cao cấp mới được xăm hình đầu cọp nhe nanh, rồng quấn quanh người. Đệ tử cao cấp theo phái "mật" sẽ được xăm hình rồng quấn. Đệ tử cao cấp theo phái "hiện" được xăm hình đầu cọp nhe nanh.
Người trong băng chỉ nói với nhau bằng tiếng lóng.
Những băng giang hồ lưu manh thế hệ sau cũng bắt chước Lò Sang cắt máu, ăn thề, chào sân, xăm mình, nói tiếng lóng nhưng… không theo luật lệ quy tắc nào cả.
Thời điểm đó chợ Tổng Châu là nơi các thương nhân người Việt gốc Hoa chọn làm chợ đầu mối thu mua sỉ hàng nông sản, thủy sản từ các tàu, xuồng của thương hồ từ khắp vùng Đồng bằng Sông Cửu Long đổ về.
Nhận thấy chợ Tổng Châu là nguồn thu dồi dào, Lâm Sang lùa các đệ tử đi gặp từng tiểu thương để thu tiền "bảo kê" hàng ngày. Ai không nộp hoặc nộp chậm sẽ bị đánh đập.
Việc đòi tiền xâu của Lâm Sang đã chạm vào "chén cơm manh áo" của Hai Liếp.
Hai Liếp mồ côi từ nhỏ, sống vạ vật lề đường xó chợ, ai thuê gì làm nấy. Đến tuổi trưởng thành, Hai Liếp nhận bốc vác hàng hóa tại bến sông. Tuy chưa xưng danh là đại ca bến bãi nhưng thân hình vạm vỡ của Hai Liếp khiến ít người dám gây sự. Bản tính ít nói, thật thà, Hai Liếp chỉ biết bán sức lao động kiếm cơm.
Một hôm, Hai Liếp vác khoai lang từ 1 chiếc tàu hàng của thương hồ Bạc Liêu lên chợ. Do chủ tàu hàng chưa nộp tiền xâu nên Lâm Sang đã chặn Hai Liếp ở giữa đòn dài (đòn dài là tấm ván gỗ có bề ngang vừa đủ 2 bàn chân bắt làm cầu từ be tàu, xuồng lên bờ để đi). Hai Liếp bỏ bao hàng xuống nghênh chiến.
Trận đấu tay đôi bất phân thắng bại khiến địa bàn bảo kê của Lâm Sang chỉ thu hẹp trong phạm vi chợ.
Hai Liếp nghiễm nhiên trở thành đại ca bảo kê bến sông. Những khách thương hồ không muốn Lâm Sang gây sự chỉ việc thuê Hai Liếp bốc vác. Một mình không làm xuể, Hai Liếp lôi kéo một số thanh niên có sức vóc lập đội bốc vác. Hai Liếp chỉ đứng trên bờ đếm thẻ, ăn tiền đầu công.
(Còn nữa)
Nông Huyền Sơn
Hội Tam Hoàng và những biến thể ma quái
14:00 18/07/2015Là một hội kín bắt nguồn ở tỉnh Phúc Kiến thời Khang Hy, Trung Quốc, khi ấy Thiên Địa hội - hay còn gọi là Hồng Hoa hội (Hồng môn) hoặc Tam Điểm hội - được một nhóm nhà sư ở chùa Thiếu Lâm lập ra với mục đích "phản Thanh phục Minh" (đánh đuổi quân Mãn Thanh ra khỏi bờ cõi, khôi phục giang sơn của nhà Minh).
Bốn câu thơ nghe như trong truyện kiếm hiệp: "Tam điểm ám tàng
cách mệnh tông. Nhập ngã Hồng môn mạc thống phong. Dưỡng thành nhuệ thế
tùng cừu nhật. Thệ diệt Thanh triều nhất tảo không" lại chính là một
đoạn bài "Tam Điểm cách mệnh thi", một bài thơ phản ánh đường lối hoạt
động của tổ chức này…
Theo thời gian, cùng với những thiên tai, biến động chính trị ở Trung Hoa đại lục, các thành viên của Thiên Địa hội như những người tha hương khác, di cư đến nhiều nơi trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Do yếu tố địa lý, văn hóa, cộng với việc người Pháp cho tự do buôn bán, hút thuốc phiện nên Thiên Địa hội - sau này đổi tên thành Hội Tam Hoàng - nhanh chóng nhìn ra món lợi béo bở. Từ đó, một nhánh của Thiên Địa hội bắt đầu hình thành và cắm rễ - chủ yếu tại miền Nam Việt Nam.
Khởi đầu, lúc mới thành lập ở Trung Quốc, về mặt tổ chức thì người
đứng đầu Thiên Địa hội được gọi là Tổng đàn chủ. Dưới trướng Tổng đàn
chủ có hai bộ phận là Tiền ngũ phòng và Hậu ngũ phòng, mỗi "phòng" chịu
trách nhiệm một tỉnh, chẳng hạn như Nhất phòng ở Phúc Kiến, Nhị phòng ở
Quảng Đông, Tam phòng ở Vân Nam, Tứ phòng ở Hồ Nam, Ngũ phòng ở Triết
Giang. Ngoài ra còn 5 phân đàn nhỏ ở Cam Túc, Quảng Tây, Tứ Xuyên, Hồ
Bắc, Giang Tây.
Theo sự phân công của Tổng đàn chủ, Tiền ngũ phòng lo việc ngoại giao, kinh tài, trong đó "Hoạt vụ Phòng" chịu trách nhiệm ám sát các quan chức Mãn Thanh, phục kích những đoàn xe chở quân lương, vũ khí, còn Hậu ngũ phòng lo việc thông tin liên lạc, tuyển mộ người cùng các công tác hậu cần, phổ biến chủ trương, chính sách của Thiên Địa hội đến các "đàn". Nói là mỗi đàn phụ trách một tỉnh nhưng thật ra, đại đa số người thuộc Thiên Địa hội đều tập trung ở những thành phố lớn như Nam Kinh, Bắc Kinh, Thượng Hải, Hàng Châu…
Đứng đầu mỗi đàn là Sơn chủ (hay còn gọi là Hoàng Long - Rồng vàng) và Phó sơn chủ. Dưới trướng Sơn chủ là Hương chủ lo về tổ chức, kết nạp hội viên. Dưới nữa có Hồng côn (gậy đỏ) thuộc ban võ, phụ trách lực lượng vũ trang; Bạch chỉ phiến (quạt chỉ trắng) thuộc ban văn, phụ trách việc tham mưu, lập kế hoạch; Thảo hài (giày cỏ) làm nhiệm vụ thông tin liên lạc, trinh sát.
Thiên Địa hội thờ trời làm cha, thờ đất làm mẹ, lấy "phản Thanh phục Minh" làm tôn chỉ, lấy tinh thần "Đào viên kết nghĩa" làm nền tảng. Trên bàn thờ có bài vị của 5 người, gọi là "Hồng môn ngũ tổ", gồm Thái Đức Trung, Phương Đại Hồng, Mã Siêu Hưng, Hồ Đức Đế và Lý Thức Khai. Mật hiệu để những hội viên Thiên Địa hội nhận ra nhau là khi đưa tẩu thuốc mời nhau chẳng hạn, người đưa cầm bằng ngón cái và ngón trỏ, đưa cả hai tay, hai ngón cái hướng lên, nếu người nhận cũng nhận bằng hai tay, ép ngón cái của mình vào ngón cái của người đưa tẩu thuốc thì đúng là người trong hội.
Còn nếu mời uống trà thì người mời dùng ngón cái và ngón trỏ cầm ngang miệng chén, ngón giữa chạm vào đáy chén, nếu người kia cũng nâng chén như vậy thì đó chính là đồng hội, hoặc khi mời ăn, người mời đặt đôi đũa nằm ngang trên mấy đầu ngón tay xoè ra để mời, nếu khách chưa nhận đũa ngay mà đẩy bát ra xa thì ắt là hội viên chính hiệu.
Khi Cách mạng Tân Hợi (10/10/1911) nổ ra rồi ngày 12/2/1912, hoàng đế Mãn Thanh thoái vị thì sứ mệnh chính trị của Thiên Địa hội xem như đã hoàn tất. Tuy nhiên, các bang hội sinh ra từ Thiên Địa hội hoặc chịu ảnh hưởng của nó vẫn tồn tại với hệ thống tổ chức rất quy mô, chặt chẽ, chỉ có điều là mục tiêu lúc này không còn là "phản Thanh phục Minh" nữa, mà đơn thuần là những băng nhóm xã hội đen, coi việc kiếm tiền bằng cách buôn ma túy, tổ chức sòng bạc, tiệm hút thuốc phiện, bảo kê, giết mướn là ưu tiên hàng đầu.
Một trong những băng nhóm nổi tiếng nhất, thoát thai từ Thiên Địa hội là băng 14K. Khởi đầu, nó mang tên "Hội Hồng Môn trung nghĩa", sáng lập bởi một viên tướng thuộc Quốc dân đảng Trung Quốc là Cát Triệu Hoàng. Năm 1949, khi Đảng Cộng sản Trung Quốc giải phóng đại lục, Hồng Môn trung nghĩa chạy sang Hồng Kông rồi đổi tên là 14K.
Một số tài liệu cho rằng khi chạy sang Hồng Kông rồi tập hợp lại, Hội Hồng Môn trung nghĩa chỉ gồm 14 người và đều là người của Quốc dân đảng nên nó được đặt tên là 14K. Tuy nhiên, cũng có một số tài liệu khác khẳng định 14 là số nhà, nơi đặt tổng hành dinh cũ của Hồng Môn trung nghĩa ở đường Bảo Hoa, TP Quảng Châu, còn chữ "K" là Kuomintang - nghĩa là Quốc dân đảng.
Cùng với 14K, các băng nhóm khác như Thanh hội, Hòa Thắng Hòa, Hòa Hợp Đào cũng lần lượt ra đời rồi trở thành 4 nhóm xã hội đen lớn nhất ở Hồng Kông (gọi là tứ đại hắc bang), trong đó 14K được xem là mạnh nhất. Đầu những năm 50 của thế kỷ 20, 14K bành trướng sang Macao, Đài Loan và các khu vực khác trên thế giới như Tây Âu, Bắc Mỹ, Australia và Đông Nam Á… Nó có liên hệ mật thiết với nhóm Yamaguchi-gumi ở Nhật Bản, với Trúc Liên bang, Tứ Hải bang ở Đài Loan, nhóm Hoa Thanh ở Mỹ và Hội Tứ ở Đông Nam Á…
Năm 1952, xảy ra cuộc chiến giành lãnh địa giữa Thanh hội và Hòa Thắng Hòa, Hòa Hợp Đào. Khi ấy, 14K áp dụng chiến lược "ngọa sơn quan hổ đấu" - ngồi trên núi xem cọp đánh nhau. Kết quả Thanh hội bị xóa sổ còn Hòa Thắng Hòa, Hòa Hợp Đào cũng bươu đầu sứt trán nên thế lực của 14K cũng vì vậy mà mạnh hơn, nhất là sau lưng nó có một số nhân vật trong Quốc dân đảng đỡ đầu.
Theo tài liệu thuộc địa lưu trữ của chính quyền Anh quốc, cuối những
năm 80 của thế kỷ 19, số lượng thành viên Hội Tam Hoàng ở Hồng Kông lên
đến gần 20.000 người, có mặt trong khắp các lĩnh vực, từ một nhân viên
thuộc một cơ quan hành chính nào đó hay một viên chức tòa án, thậm chí
còn là cảnh sát. Cũng vào thời điểm này, Trung Quốc đại lục rơi vào cảnh
thiên tai, loạn lạc nên nhiều người bỏ sang Hồng Kông, làm nghề khuân
vác, bốc xếp, thồ hàng hoặc kéo xe ở các bến tàu, trên đường phố để mong
tìm được cuộc sống tốt đẹp hơn.
Ở nơi đất khách quê người, họ cũng cần một tổ chức đứng ra bảo vệ cho quyền lợi cho mình nên vì vậy, họ tình nguyện gia nhập Hội Tam Hoàng. Trong cuốn sách "Giai thoại Hồng Kông", tác giả Lu Yan viết: "Thời kỳ đầu, Hội Tam Hoàng là tổ chức đầu tiên đoàn kết mọi người lại với nhau và mục đích là giới thiệu việc làm cho người nhập cư. Khi trở thành hội viên của Hội, họ sẽ được hội bố trí địa bàn làm việc. Đổi lại, mỗi tháng họ tự nguyện trích một phần từ đồng lương ít ỏi của mình, nộp cho Hội, gọi là "hội phí".
Đứng trước làn sóng nhập cư ồ ạt, chính quyền Hồng Kông không thể kịp thời cung cấp điện, nước và các dịch vụ công cộng khác. Lợi dụng cơ hội này, Hội Tam Hoàng đã cho xây các trạm cấp điện, cấp nước, mạng lưới xe khách, nhà hộ sinh tư để thu lợi. Chẳng những không phản đối, người nhập cư còn mong được đóng tiền để sử dụng các dịch vụ của Hội Tam Hoàng. Đối với họ, nộp phí cho Hội Tam Hoàng đồng nghĩa với việc họ được công nhận là "người của Hội", và được Hội bảo vệ.
Dần dà, từ việc thu tiền tự nguyện của dân nhập cư, Hội Tam Hoàng
chuyển sang hình thức dùng bạo lực để bắt ép người dân - nhất là những
người ăn nên làm ra - hằng tháng phải nộp một khoản tiền, gọi là tiền
bảo kê. Với số tiền này, Tam Hoàng đầu tư vào các nhà chứa gái, sòng
bạc, các tiệm hút thuốc phiện…
Và mặc dù chính quyền Hồng Kông nhận ra sự lũng đoạn của Hội Tam Hoàng nhưng cảnh sát lại không thể quét sạch tổ chức này vì thế lực của Tam Hoàng đã bám rễ vào sâu trong nhiều tầng lớp xã hội. Nó gắn liền với kế sinh nhai của quá nhiều người nên việc họ chủ động khai báo với cảnh sát về những "hoạt động đen" của Hội là việc không tưởng!
Năm 1955, K. Hawins, một viên chức thuộc Phòng Nội vụ người Hoa ở Hồng Kông đã viết trong một báo cáo nội bộ: "Có thể nói, Hội Tam Hoàng đã gây tổn hại lớn cho xã hội Hong Kong. Hành vi tống tiền diễn ra công khai ở khắp mọi nơi và ngày càng nhiều người trở thành mục tiêu của băng nhóm này. Rất nhiều người di cư đến Hồng Kông phải sống trong những điều kiện dưới mức cơ bản nhưng rất khó động viên họ tham gia chiến dịch bài trừ Hội Tam Hoàng vì họ sợ trả thù. Trong khi đó, một số cảnh sát biến chất còn bắt tay với Hội Tam Hoàng, thông tin cho Hội những kế hoạch triệt hạ xã hội đen của chính quyền để hằng tháng nhận tiền "hụi chết".
Ngày 10/10/1956, tại Cửu Long (Kowloon) và một số khu vực khác ở Hồng Kông xảy ra bạo loạn, có sự tham gia tích cực của Hội Tam Hoàng. Vì vậy, ngay sau khi dập tắt cuộc bạo loạn, chính quyền Hồng Kông đã đề ra những chính sách đặc biệt và thành lập một ủy ban điều tra nhằm trấn áp Hội Tam Hoàng. Trong vòng 10 năm từ 1956 đến 1966, hơn 10.000 thành viên Tam Hoàng bị bắt, buộc tội, truy tố. Thế nhưng, tự mãn với những thành tích đã đạt được, chính quyền Hồng Kông thẳng tay cắt giảm chi phí cho công tác trấn áp nên Hội Tam Hoàng vẫn sống sót.
Tuy nhiên, đó là những chuyện xảy ra ở xứ người. Còn bây giờ, chúng ta hãy quay lại với Thiên Địa hội ở Việt Nam.
Thiên Địa hội ở Việt Nam
Như chúng tôi đã nói ở phần trên, trong số những di dân Trung Quốc bỏ xứ ra đi tìm miền đất mới thì nhiều người là thành viên của Thiên Địa hội. Theo tài liệu của Sở mật thám Đông Dương, dưới thời Pháp thuộc, những năm từ 1914 đến 1918 - là giai đoạn diễn ra Chiến tranh thế giới lần thứ nhất - ở miền Nam Việt Nam (người Pháp gọi là Nam Kỳ) có khoảng 70 đến 80 "hội kín". Mục đích chủ yếu của những hội này là chống Pháp, chống đám quan lại tàn bạo, tham ô, chống sưu cao thuế nặng, cường hào ác bá…
Hầu hết những "hội kín" đều sử dụng tôn giáo và phép thuật để chiêu mộ hội viên. Một báo cáo của Văn phòng mật thám Nam Kỳ viết: "Họ - tức các hội kín - tổ chức cắt ngón tay lấy máu pha rượu, uống để thề trung thành. Có hội phát cho mỗi hội viên một lá bùa với lời tuyên truyền "gươm đâm không thủng, đạn bắn không xuyên".
Có hội cầm đầu bởi một thầy pháp (thầy cúng)… Họ có những dấu hiệu riêng để nhận ra nhau. Trong liên lạc, họ dùng tiếng lóng và những đám giỗ, đám cưới, đám ma là bức bình phong che giấu những cuộc họp. Những địa phương có nhiều hội kín nhất ở Nam Kỳ là Sài Gòn, Chợ Lớn, Gia Định, Biên Hòa, Thủ Dầu Một, Bến Tre, Bạc Liêu, Châu Đốc, Long Xuyên...".
Không thể đứng ngoài những "hội kín" ấy, Thiên Địa hội vào cuộc. Đầu tiên, họ nhắm đến những người đánh xe ngựa (xe thổ mộ) - là phương tiện giao thông chủ yếu ở Nam Kỳ thời bấy giờ. Để thống lĩnh ngành vận tải thô sơ này, những người cầm đầu Thiên Địa hội tại Sài Gòn lập ra "Hội Vạn Xe", căn cứ đặt ngay bến Bình Đông (nay thuộc quận 8), là nơi ghe thuyền từ các tỉnh miền Tây chở nông sản thực phẩm, hoa quả lên cung cấp cho các chợ đầu mối ở Sài Gòn…
KỲ I: THIÊN ĐỊA HỘI VÀ HỘI VẠN XE
Lịch sử Thiên Địa hộiTheo thời gian, cùng với những thiên tai, biến động chính trị ở Trung Hoa đại lục, các thành viên của Thiên Địa hội như những người tha hương khác, di cư đến nhiều nơi trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Do yếu tố địa lý, văn hóa, cộng với việc người Pháp cho tự do buôn bán, hút thuốc phiện nên Thiên Địa hội - sau này đổi tên thành Hội Tam Hoàng - nhanh chóng nhìn ra món lợi béo bở. Từ đó, một nhánh của Thiên Địa hội bắt đầu hình thành và cắm rễ - chủ yếu tại miền Nam Việt Nam.
Lễ cắt máu ăn thề của hội viên Tam Hoàng. |
Theo sự phân công của Tổng đàn chủ, Tiền ngũ phòng lo việc ngoại giao, kinh tài, trong đó "Hoạt vụ Phòng" chịu trách nhiệm ám sát các quan chức Mãn Thanh, phục kích những đoàn xe chở quân lương, vũ khí, còn Hậu ngũ phòng lo việc thông tin liên lạc, tuyển mộ người cùng các công tác hậu cần, phổ biến chủ trương, chính sách của Thiên Địa hội đến các "đàn". Nói là mỗi đàn phụ trách một tỉnh nhưng thật ra, đại đa số người thuộc Thiên Địa hội đều tập trung ở những thành phố lớn như Nam Kinh, Bắc Kinh, Thượng Hải, Hàng Châu…
Đứng đầu mỗi đàn là Sơn chủ (hay còn gọi là Hoàng Long - Rồng vàng) và Phó sơn chủ. Dưới trướng Sơn chủ là Hương chủ lo về tổ chức, kết nạp hội viên. Dưới nữa có Hồng côn (gậy đỏ) thuộc ban võ, phụ trách lực lượng vũ trang; Bạch chỉ phiến (quạt chỉ trắng) thuộc ban văn, phụ trách việc tham mưu, lập kế hoạch; Thảo hài (giày cỏ) làm nhiệm vụ thông tin liên lạc, trinh sát.
Thiên Địa hội thờ trời làm cha, thờ đất làm mẹ, lấy "phản Thanh phục Minh" làm tôn chỉ, lấy tinh thần "Đào viên kết nghĩa" làm nền tảng. Trên bàn thờ có bài vị của 5 người, gọi là "Hồng môn ngũ tổ", gồm Thái Đức Trung, Phương Đại Hồng, Mã Siêu Hưng, Hồ Đức Đế và Lý Thức Khai. Mật hiệu để những hội viên Thiên Địa hội nhận ra nhau là khi đưa tẩu thuốc mời nhau chẳng hạn, người đưa cầm bằng ngón cái và ngón trỏ, đưa cả hai tay, hai ngón cái hướng lên, nếu người nhận cũng nhận bằng hai tay, ép ngón cái của mình vào ngón cái của người đưa tẩu thuốc thì đúng là người trong hội.
Còn nếu mời uống trà thì người mời dùng ngón cái và ngón trỏ cầm ngang miệng chén, ngón giữa chạm vào đáy chén, nếu người kia cũng nâng chén như vậy thì đó chính là đồng hội, hoặc khi mời ăn, người mời đặt đôi đũa nằm ngang trên mấy đầu ngón tay xoè ra để mời, nếu khách chưa nhận đũa ngay mà đẩy bát ra xa thì ắt là hội viên chính hiệu.
Khi Cách mạng Tân Hợi (10/10/1911) nổ ra rồi ngày 12/2/1912, hoàng đế Mãn Thanh thoái vị thì sứ mệnh chính trị của Thiên Địa hội xem như đã hoàn tất. Tuy nhiên, các bang hội sinh ra từ Thiên Địa hội hoặc chịu ảnh hưởng của nó vẫn tồn tại với hệ thống tổ chức rất quy mô, chặt chẽ, chỉ có điều là mục tiêu lúc này không còn là "phản Thanh phục Minh" nữa, mà đơn thuần là những băng nhóm xã hội đen, coi việc kiếm tiền bằng cách buôn ma túy, tổ chức sòng bạc, tiệm hút thuốc phiện, bảo kê, giết mướn là ưu tiên hàng đầu.
Một trong những băng nhóm nổi tiếng nhất, thoát thai từ Thiên Địa hội là băng 14K. Khởi đầu, nó mang tên "Hội Hồng Môn trung nghĩa", sáng lập bởi một viên tướng thuộc Quốc dân đảng Trung Quốc là Cát Triệu Hoàng. Năm 1949, khi Đảng Cộng sản Trung Quốc giải phóng đại lục, Hồng Môn trung nghĩa chạy sang Hồng Kông rồi đổi tên là 14K.
Một số tài liệu cho rằng khi chạy sang Hồng Kông rồi tập hợp lại, Hội Hồng Môn trung nghĩa chỉ gồm 14 người và đều là người của Quốc dân đảng nên nó được đặt tên là 14K. Tuy nhiên, cũng có một số tài liệu khác khẳng định 14 là số nhà, nơi đặt tổng hành dinh cũ của Hồng Môn trung nghĩa ở đường Bảo Hoa, TP Quảng Châu, còn chữ "K" là Kuomintang - nghĩa là Quốc dân đảng.
Cùng với 14K, các băng nhóm khác như Thanh hội, Hòa Thắng Hòa, Hòa Hợp Đào cũng lần lượt ra đời rồi trở thành 4 nhóm xã hội đen lớn nhất ở Hồng Kông (gọi là tứ đại hắc bang), trong đó 14K được xem là mạnh nhất. Đầu những năm 50 của thế kỷ 20, 14K bành trướng sang Macao, Đài Loan và các khu vực khác trên thế giới như Tây Âu, Bắc Mỹ, Australia và Đông Nam Á… Nó có liên hệ mật thiết với nhóm Yamaguchi-gumi ở Nhật Bản, với Trúc Liên bang, Tứ Hải bang ở Đài Loan, nhóm Hoa Thanh ở Mỹ và Hội Tứ ở Đông Nam Á…
Năm 1952, xảy ra cuộc chiến giành lãnh địa giữa Thanh hội và Hòa Thắng Hòa, Hòa Hợp Đào. Khi ấy, 14K áp dụng chiến lược "ngọa sơn quan hổ đấu" - ngồi trên núi xem cọp đánh nhau. Kết quả Thanh hội bị xóa sổ còn Hòa Thắng Hòa, Hòa Hợp Đào cũng bươu đầu sứt trán nên thế lực của 14K cũng vì vậy mà mạnh hơn, nhất là sau lưng nó có một số nhân vật trong Quốc dân đảng đỡ đầu.
Một thành viên của tổ chức 14K. |
Ở nơi đất khách quê người, họ cũng cần một tổ chức đứng ra bảo vệ cho quyền lợi cho mình nên vì vậy, họ tình nguyện gia nhập Hội Tam Hoàng. Trong cuốn sách "Giai thoại Hồng Kông", tác giả Lu Yan viết: "Thời kỳ đầu, Hội Tam Hoàng là tổ chức đầu tiên đoàn kết mọi người lại với nhau và mục đích là giới thiệu việc làm cho người nhập cư. Khi trở thành hội viên của Hội, họ sẽ được hội bố trí địa bàn làm việc. Đổi lại, mỗi tháng họ tự nguyện trích một phần từ đồng lương ít ỏi của mình, nộp cho Hội, gọi là "hội phí".
Đứng trước làn sóng nhập cư ồ ạt, chính quyền Hồng Kông không thể kịp thời cung cấp điện, nước và các dịch vụ công cộng khác. Lợi dụng cơ hội này, Hội Tam Hoàng đã cho xây các trạm cấp điện, cấp nước, mạng lưới xe khách, nhà hộ sinh tư để thu lợi. Chẳng những không phản đối, người nhập cư còn mong được đóng tiền để sử dụng các dịch vụ của Hội Tam Hoàng. Đối với họ, nộp phí cho Hội Tam Hoàng đồng nghĩa với việc họ được công nhận là "người của Hội", và được Hội bảo vệ.
Để chứng tỏ mình là Tam Hoàng, Sun Yee On không ngần ngại kéo áo lên khoe hình xăm trong một quán ăn. |
Và mặc dù chính quyền Hồng Kông nhận ra sự lũng đoạn của Hội Tam Hoàng nhưng cảnh sát lại không thể quét sạch tổ chức này vì thế lực của Tam Hoàng đã bám rễ vào sâu trong nhiều tầng lớp xã hội. Nó gắn liền với kế sinh nhai của quá nhiều người nên việc họ chủ động khai báo với cảnh sát về những "hoạt động đen" của Hội là việc không tưởng!
Năm 1955, K. Hawins, một viên chức thuộc Phòng Nội vụ người Hoa ở Hồng Kông đã viết trong một báo cáo nội bộ: "Có thể nói, Hội Tam Hoàng đã gây tổn hại lớn cho xã hội Hong Kong. Hành vi tống tiền diễn ra công khai ở khắp mọi nơi và ngày càng nhiều người trở thành mục tiêu của băng nhóm này. Rất nhiều người di cư đến Hồng Kông phải sống trong những điều kiện dưới mức cơ bản nhưng rất khó động viên họ tham gia chiến dịch bài trừ Hội Tam Hoàng vì họ sợ trả thù. Trong khi đó, một số cảnh sát biến chất còn bắt tay với Hội Tam Hoàng, thông tin cho Hội những kế hoạch triệt hạ xã hội đen của chính quyền để hằng tháng nhận tiền "hụi chết".
Ngày 10/10/1956, tại Cửu Long (Kowloon) và một số khu vực khác ở Hồng Kông xảy ra bạo loạn, có sự tham gia tích cực của Hội Tam Hoàng. Vì vậy, ngay sau khi dập tắt cuộc bạo loạn, chính quyền Hồng Kông đã đề ra những chính sách đặc biệt và thành lập một ủy ban điều tra nhằm trấn áp Hội Tam Hoàng. Trong vòng 10 năm từ 1956 đến 1966, hơn 10.000 thành viên Tam Hoàng bị bắt, buộc tội, truy tố. Thế nhưng, tự mãn với những thành tích đã đạt được, chính quyền Hồng Kông thẳng tay cắt giảm chi phí cho công tác trấn áp nên Hội Tam Hoàng vẫn sống sót.
Tuy nhiên, đó là những chuyện xảy ra ở xứ người. Còn bây giờ, chúng ta hãy quay lại với Thiên Địa hội ở Việt Nam.
Thiên Địa hội ở Việt Nam
Như chúng tôi đã nói ở phần trên, trong số những di dân Trung Quốc bỏ xứ ra đi tìm miền đất mới thì nhiều người là thành viên của Thiên Địa hội. Theo tài liệu của Sở mật thám Đông Dương, dưới thời Pháp thuộc, những năm từ 1914 đến 1918 - là giai đoạn diễn ra Chiến tranh thế giới lần thứ nhất - ở miền Nam Việt Nam (người Pháp gọi là Nam Kỳ) có khoảng 70 đến 80 "hội kín". Mục đích chủ yếu của những hội này là chống Pháp, chống đám quan lại tàn bạo, tham ô, chống sưu cao thuế nặng, cường hào ác bá…
Hầu hết những "hội kín" đều sử dụng tôn giáo và phép thuật để chiêu mộ hội viên. Một báo cáo của Văn phòng mật thám Nam Kỳ viết: "Họ - tức các hội kín - tổ chức cắt ngón tay lấy máu pha rượu, uống để thề trung thành. Có hội phát cho mỗi hội viên một lá bùa với lời tuyên truyền "gươm đâm không thủng, đạn bắn không xuyên".
Có hội cầm đầu bởi một thầy pháp (thầy cúng)… Họ có những dấu hiệu riêng để nhận ra nhau. Trong liên lạc, họ dùng tiếng lóng và những đám giỗ, đám cưới, đám ma là bức bình phong che giấu những cuộc họp. Những địa phương có nhiều hội kín nhất ở Nam Kỳ là Sài Gòn, Chợ Lớn, Gia Định, Biên Hòa, Thủ Dầu Một, Bến Tre, Bạc Liêu, Châu Đốc, Long Xuyên...".
Không thể đứng ngoài những "hội kín" ấy, Thiên Địa hội vào cuộc. Đầu tiên, họ nhắm đến những người đánh xe ngựa (xe thổ mộ) - là phương tiện giao thông chủ yếu ở Nam Kỳ thời bấy giờ. Để thống lĩnh ngành vận tải thô sơ này, những người cầm đầu Thiên Địa hội tại Sài Gòn lập ra "Hội Vạn Xe", căn cứ đặt ngay bến Bình Đông (nay thuộc quận 8), là nơi ghe thuyền từ các tỉnh miền Tây chở nông sản thực phẩm, hoa quả lên cung cấp cho các chợ đầu mối ở Sài Gòn…
(Còn tiếp)
Vũ CaoHoạt động đen của Thiên Địa hội ở Nam Kỳ
07:15 21/07/2015Không chỉ "làm luật" những gánh hát bội, Thiên Địa hội kiểm soát luôn những động mại dâm, những tiệm hút thuốc phiện để thu tiền bảo kê của gái, của chủ chứa, chủ động. Ai có gan báo mã tà thì sớm muộn gì cũng lãnh đủ bằng nhiều hình thức, chẳng hạn như động chứa gái đột nhiên cháy rụi, tiệm thuốc phiện có cả chục khách vào nhưng chỉ kêu một "bi" thuốc rồi nằm lì từ sáng đến chiều.
Đã vậy, Thiên Địa hội còn bày trò "lạc quyên" vào những dịp lễ, tết.
Cứ đến tết Đoan Ngọ, tết Trung thu, tết Nguyên đán, những đội múa lân
không mời mà gặp, tự động sồng sộc vào cửa nhà người ta, trống gõ thùng
thùng, thanh la não bạt chập cheng loẻng xoẻng, con lân chạy tới chạy
lui, ông Địa khề khà vẫy quạt một lát rồi… đòi tiền.
Từ hoạt động bảo kê…
Ngược dòng thời gian, cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, sau khi phong trào Cần Vương thất bại và cuộc khởi nghĩa lớn nhất ở 6 tỉnh miền Tây Nam Bộ (lục tỉnh) do Võ Duy Dương và Thủ khoa Huân lãnh đạo bị thực dân Pháp dập tắt thì Thiên Địa hội ở Nam Kỳ bắt đầu phát triển mạnh, nhất là tại Gia Định, Biên Hòa, Trà Vinh, Sóc Trăng, Vĩnh Long, Bạc Liêu... nơi có nhiều Hoa kiều cư ngụ.
Khi ấy, nó gồm 2 nhóm lớn: Nhóm Nghĩa Hưng - hay còn gọi là Đồng
Hưng, Nhân Hưng, Kèo Xanh, Kèo Đỏ, chủ yếu là người Hoa gốc Phúc Kiến,
hoạt động tại Sài Gòn - Chợ Lớn, có xu hướng hoạt động chính trị rõ rệt.
Họ liên kết với quân "Cờ Đen" của Lưu Vĩnh Phúc - là thuộc hạ của tướng
Ngô Côn trong phong trào Thái Bình Thiên Quốc, từng phối hợp với quân
triều Nguyễn giết chết hai sĩ quan Pháp là Francis Garnier và Henri
Rivière. Nhóm thứ hai là Nghĩa Hòa, tức Kèo Vàng của người Hoa gốc Triều
Châu, hoạt động chủ yếu ở Sóc Trăng, Bạc Liêu, Long Xuyên. Ngoài ra còn
nhóm của người Hẹ (Khách trú) nhưng vì ít người nên quy mô tổ chức cũng
nhỏ hơn.
Lúc này, số đông người Việt ở Nam Kỳ có tham gia "hội kín" hoặc có cảm tình với các "hội kín" nhìn thấy một sức mạnh tiềm tàng nơi Thiên Địa hội, có thể dựa dẫm được. Phương cách hoạt động thần bí của Thiên địa hội lại rất phù hợp với bản tính liều lĩnh, can đảm, sùng bái thần quyền, ưa phiêu lưu mạo hiểm, tin vào bùa ngải của họ. Vì vậy, khi gia nhập Thiên Địa hội, họ vẫn giữ các truyền thống do người Hoa lập nên, như trộn lẫn phép thuật, bùa chú, uống máu ăn thề với việc dùng tiếng lóng, dấu hiệu riêng để liên lạc…, nhưng thay đổi mục tiêu "phản Thanh phục Minh" của người Hoa thành "phản Pháp phục Nam".
Để chiêu binh mãi mã, khởi đầu những người lãnh đạo Thiên Địa hội ở Sài Gòn, Chợ Lớn nhắm vào số phu xe ngựa và thành lập "Hội Vạn Xe". Theo nhà nghiên cứu Vương Hồng Sển, "vạn" là một hình thức nghiệp đoàn, như "vạn chài", "vạn cấy". Người trong một "vạn" liên kết với nhau rất chặt chẽ dưới sự chỉ huy, điều động của "vạn trưởng". Nếu một người trong "vạn" bị ức hiếp, đánh đập hoặc tài sản bị chiếm giữ thì lập tức cả "vạn" ồ ạt kéo đến bênh vực, trả thù. Khi bị chính quyền Pháp bắt, hầu như họ không bao giờ khai báo về tổ chức của "vạn" hoặc chỉ khai phần ngọn. Nếu phải ở tù, gia đình người tù sẽ được "vạn" giúp đỡ rồi khi ra tù, "vạn" lại tiếp tục giao cho họ công việc và phương tiện mà trước đó họ đã làm.
Địa bàn hoạt động của Hội Vạn Xe khi ấy kéo dài từ bến Bình Đông ra khu vực Phú Lâm, từ đình Minh Phụng sang cầu Xóm Chỉ, từ chợ Nancy xuống khu An Bình, Chợ Lớn. Ở vùng Sài Gòn, Hội Vạn Xe làm chủ rạch Bến Nghé, bến Bạch Đằng, các kho hàng bên Khánh Hội và các con đường nay là Lê Lợi, Nguyễn Huệ, Đồng Khởi… Sự thống nhất về giá cả, về sự liên kết - nhất là khi một thủy thủ người Pháp say rượu từ đường Lê Lai thuê xe về bến Bạch Đằng, đã chẳng những không trả tiền mà còn tát tai người phu xe khiến cả chục "vạn phu" kéo đến, đánh cho gã thủy thủ một trận thừa sống thiếu chết khiến những "Hộ trưởng" (là người đứng đầu một khu phố - tương tự như chủ tịch phường bây giờ), hoảng hốt. Lập tức, các Hộ trưởng bẩm báo với chính quyền, nhưng người Pháp khi ấy bỏ ngoài tai vì cho rằng "đây chỉ là hành động tự phát của một nhóm phu xe khi thấy đồng nghiệp bị hiếp đáp".
Mặc dù người Pháp cũng mở cuộc điều tra, nhưng chỉ điều tra cho có lệ bởi lẽ họ chẳng khai thác được gì nơi những người "Vạn Xe". Tất cả đều "không biết, không nghe, không thấy, không tham gia". Được nước, Lý Vỹ, kẻ cầm đầu Thiên Địa hội vùng Sài Gòn, Chợ Lớn dấn thêm một bước: Không chỉ phu xe ngựa, Vỹ ra lệnh cho hội viên, bằng hình thức này hay hình thức khác, mỗi người phải kết nạp thêm 3 người trong giới bồi bếp, người phục vụ ở các nhà hàng, quán ăn, công nhân các xưởng sản xuất thủ công, làm thuê cho các hiệu buôn…, những hội viên mới này cứ đóng tiền "hội phí" hằng tháng là được Thiên Địa hội che chở…
Theo báo cáo của mật thám Sài Gòn, cuối năm 1889, số lượng thành viên của Hội Vạn Xe vào khoảng 6.000 người, được tổ chức thống nhất từ trên xuống dưới, đứng đầu là một người Việt tên Bạch - thường được gọi là "Cai" Bạch. Xuất thân từ một phu lục lộ (công nhân làm đường giao thông), do mẫn cán nên Bạch được cất nhắc lên làm "cai", trông coi 1 tổ gồm 40 người, chịu trách nhiệm trong việc rải đá dăm, nấu nhựa đường. Được một người Hoa tên Phóng móc nối, Bạch gia nhập Thiên Địa hội rồi chỉ một thời gian ngắn sau, cả 40 người trong tổ của Bạch cũng trở thành hội viên Thiên Địa hội.
Việc cai Bạch trở thành người lãnh đạo Hội Vạn Xe đã khiến Ngọc "Móng
Cái" bất bình. Là người Hoa gốc Nùng, Ngọc từ Móng Cái, Quảng Ninh tha
hương vào Sài Gòn làm nghề đánh xe ngựa kiếm sống. Lúc chưa có sự xuất
hiện của cai Bạch, Ngọc "Móng Cái" là người cầm đầu hơn 300 phu xe ngựa,
xe kéo. Tới hồi bị hất cẳng, lại thêm sự khích bác của đồng nghiệp,
Ngọc phát tín hiệu, đề nghị cai Bạch tỉ thí để phân định chủ, tớ.
Trận tỉ thí diễn ra suốt 6 ngày, mỗi ngày đánh nhau 1 tiếng, địa điểm là trước dãy nhà kho bến Hàm Tử trước sự cổ vũ của các phu xe ngựa, xe kéo, công nhân bốc vác. Do cả hai đều giỏi võ nên 5 ngày đầu bất phân thắng bại. Đến chiều ngày thứ 6, bằng một cú đá liên hoàn, cai Bạch dồn Ngọc "Móng Cái" vào vách tường rồi tung ra đòn quyết định là cú đấm móc ngược từ dưới hàm lên. Dính đòn hiểm, Ngọc "Móng Cái" choáng váng. Và khi cai Bạch định kết thúc bằng một cú đấm nữa thì Ngọc giơ tay xin hàng.
Trở thành người lãnh đạo Hội Vạn Xe, theo chỉ đạo của Lý Vỹ, cai Bạch ra lệnh cho các phu xe rằng nếu như trước kia, một cuốc xe từ chợ Nancy đến Nhà hát lớn chẳng hạn, phu xe đòi 2 cắc nhưng sẵn sàng đồng ý 1 cắc rưỡi nếu khách trả giá thì bây giờ, 2 cắc rưỡi là 2 cắc rưỡi, khách không đi thì thôi trong lúc cứ mỗi cuối ngày, phu xe vẫn phải nộp tiền "hụi chết" cho Thiên Địa hội.
Để có tiền nộp, phu xe phải nghĩ ra những trò bất lương như chở khách đi vòng vèo rồi đòi thêm tiền. Nếu khách có nhiều hành lý, giữa đường phu xe than nặng, ngựa kéo không nổi rồi tăng giá. Gặp khách phản ứng, phu xe quăng hết hành lý của khách xuống và đợi một xe khác chạy ngang qua rồi ra dấu là chỉ một lúc sau, sẽ có hàng chục chiếc xe ngựa kéo đến gây áp lực.
Với những người làm nghề bồi bàn, bồi bếp, thợ thủ công, hình thức thu tiền "hụi chết" được Thiên Địa hội nói thẳng với chủ tiệm, chủ nhà hoặc chủ xưởng. Cuối tháng, người của Thiên Địa hội đến gặp chủ tiệm rồi sau khi thu tiền bảo kê cho tiệm, chủ tiệm phải trả luôn tiền bảo kê cho những bồi bàn, công nhân làm trong tiệm, xưởng của mình. Phần tiền này sẽ được trừ vào lương. Ông Nhơn, năm nay 76 tuổi, nhà ở trong một con hẻm trên đường Lê Quang Sung, quận 6 cho biết: "Hồi đó tôi nghe ba tôi kể là mỗi lần đình Minh Phụng có gánh hát bội về hát là Thiên Địa hội cử người đến thu tiền bảo kê. Có lần, một gánh dưới Lục tỉnh lên, nghe Thiên Địa hội đòi tiền thì họ không đưa, mà họ báo "mã tà" (cảnh sát). Tới hồi gần đến giờ mở màn, bà con chuẩn bị vô xem thì ngay ở cửa, hàng chục phu xe ngựa đứng dồn cục, tay cầm roi bện bằng da, cố tình chắn lối. Mã tà chỉ có một người nên bất lực. Cuối cùng, chủ gánh phải bấm bụng xì ra một ít tiền mới xong".
Bảo kê cho người sống chưa đủ, Thiên Địa hội còn bảo kê cho cả… người chết bằng cách lập ra những "hội tương tế" mà thực chất là bán hòm, tổ chức tang ma hậu sự. Một báo cáo của Sở Mật thám Nam Kỳ viết: "Không thể bắt quả tang bọn này vì khi hỏi, gia chủ luôn luôn trả lời là họ tự nguyện chứ không bị ép buộc. Một "lính kín" (nghĩa là người chỉ điểm) của ta cài vào nhóm Thiên Địa hội ở bến Bình Đông suốt 3 tháng không moi được tin tức gì, mà sau đó lại chết đuối(?!). Ở nhiều nơi, dân không nghe theo hội trưởng, mà răm rắp tuân lời chánh hội, phó hội, hương chủ…, là những chức vụ ngầm do Thiên Địa hội đặt ra".
Thế lực ngầm ngày càng phát triển và do không đủ nhân lực nên dần dà, một số người Việt trở thành lãnh đạo Thiên Địa hội, người Hoa chỉ còn đóng vai trò cố vấn, phụ trách nghi lễ. Thành phần tham gia Thiên Địa hội đông nhất là nông dân và dân nghèo thành thị, hầu hết ở tuổi thanh niên. Khi gia nhập hội, họ phải đọc 36 lời thề, nội dung hết lòng với huynh đệ, sống chết không phản bội, không lấy công làm tư, không tham lam gian tà, không dụ dỗ vợ của hội viên khác… nếu sai lời sẽ bị muôn đao phanh thây xẻ xác. Trích máu ăn thề xong, hội viên sẽ được cấp cho một lá bùa "Hồng môn hộ mạng", vừa để bảo vệ thân thể trước súng đạn, lại vừa dễ nhận ra nhau..
Thiên Địa hội ở lục tỉnh Nam Kỳ
"Ở đâu có người Hoa là ở đó có Thiên Địa hội". Báo cáo của Sở Mật thám Đông Dương khẳng định. Nhất là ở những vùng quê, những xóm chợ ven sông, một tiệm thuốc Bắc mà ông thầy xem mạch là người Hoa, hoặc một quán mì, quán trà đều có thể là đầu não chỉ huy hội viên Thiên Địa hội tại vùng đó.
Vai trò của Thiên Địa hội xuất hiện rõ nét nhất là ở tỉnh Bạc Liêu. Lúc ấy, khu vực chợ Bạc Liêu xảy ra bệnh dịch tả nên viên chủ tỉnh (tương tự như chủ tịch tỉnh ngày nay) ra lệnh cho tất cả các tiệm ăn phải quét dọn sạch sẽ và đặc biệt là cấm khạc nhổ, đi tiêu bừa bãi nơi công cộng nếu ai vi phạm sẽ bị phạt. Trước lệnh này, chủ các tiệm ăn, quán trà, chủ các sạp hàng buôn bán trong chợ là người Hoa đồng loạt đóng cửa tiệm, đóng cửa sạp hàng để phản đối. Báo cáo của viên chủ tỉnh gửi Toàn quyền Đông Dương có đoạn viết: "Chúng tôi tịch thu được nhiều loại giấy tờ có đóng dấu đỏ với những ký hiệu rất lạ, với những lời lẽ và con số giống như nói về chuyện tiền bạc. Một lính kín mà chúng tôi cài vào làm công cho tiệm mì Huê Ký ở chợ Bạc Liêu khẳng định rằng đó là lệnh bãi thị của Thiên Địa hội… Gửi trát đòi mấy chủ tiệm người Hoa lên hỏi thì họ trả lời rằng họ không phải là người viết tờ giấy đó, và nội dung của nó chỉ là giấy tính tiền mua hàng ở Sài Gòn mà thôi".
Trước những hoạt động bí ẩn của Thiên Địa hội, người Pháp rơi vào trận hỏa mù. Những tài liệu mật thám Pháp thu được ở Sài Gòn Chợ Lớn, ở các tỉnh miền Tây đều na ná như nhau. Đó là vài thanh gươm, cán có chạm chữ "Thiên", vài bộ truyện Tàu, những tờ giấy "dó" - một loại giấy làm theo phương pháp thủ công trong đó loằng ngoằng những ký tự tiếng Hoa và những con số giống y như đơn đặt hàng hay biên lai tính tiền.
Một báo cáo viết năm 1909 của Henri Dusson, Chánh án Nam Kỳ đã mô tả về sự phát triển Thiên Địa hội ở Long Xuyên như sau: "Khi đưa những người trong phong trào Duy Tân ở Mỹ Tho do Trần Chánh Chiếu cầm đầu ra tòa vào tháng 4/1909, chính quyền thuộc địa đã kết án quá nhẹ. Trần Chánh Chiếu cùng một số đồng phạm khác trắng án khiến dân Long Xuyên tin rằng nếu gia nhập "hội kín" thì chẳng ai làm gì được…".
Từ hoạt động bảo kê…
Ngược dòng thời gian, cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, sau khi phong trào Cần Vương thất bại và cuộc khởi nghĩa lớn nhất ở 6 tỉnh miền Tây Nam Bộ (lục tỉnh) do Võ Duy Dương và Thủ khoa Huân lãnh đạo bị thực dân Pháp dập tắt thì Thiên Địa hội ở Nam Kỳ bắt đầu phát triển mạnh, nhất là tại Gia Định, Biên Hòa, Trà Vinh, Sóc Trăng, Vĩnh Long, Bạc Liêu... nơi có nhiều Hoa kiều cư ngụ.
Xe ngựa trước chợ Bến Thành. |
Lúc này, số đông người Việt ở Nam Kỳ có tham gia "hội kín" hoặc có cảm tình với các "hội kín" nhìn thấy một sức mạnh tiềm tàng nơi Thiên Địa hội, có thể dựa dẫm được. Phương cách hoạt động thần bí của Thiên địa hội lại rất phù hợp với bản tính liều lĩnh, can đảm, sùng bái thần quyền, ưa phiêu lưu mạo hiểm, tin vào bùa ngải của họ. Vì vậy, khi gia nhập Thiên Địa hội, họ vẫn giữ các truyền thống do người Hoa lập nên, như trộn lẫn phép thuật, bùa chú, uống máu ăn thề với việc dùng tiếng lóng, dấu hiệu riêng để liên lạc…, nhưng thay đổi mục tiêu "phản Thanh phục Minh" của người Hoa thành "phản Pháp phục Nam".
Để chiêu binh mãi mã, khởi đầu những người lãnh đạo Thiên Địa hội ở Sài Gòn, Chợ Lớn nhắm vào số phu xe ngựa và thành lập "Hội Vạn Xe". Theo nhà nghiên cứu Vương Hồng Sển, "vạn" là một hình thức nghiệp đoàn, như "vạn chài", "vạn cấy". Người trong một "vạn" liên kết với nhau rất chặt chẽ dưới sự chỉ huy, điều động của "vạn trưởng". Nếu một người trong "vạn" bị ức hiếp, đánh đập hoặc tài sản bị chiếm giữ thì lập tức cả "vạn" ồ ạt kéo đến bênh vực, trả thù. Khi bị chính quyền Pháp bắt, hầu như họ không bao giờ khai báo về tổ chức của "vạn" hoặc chỉ khai phần ngọn. Nếu phải ở tù, gia đình người tù sẽ được "vạn" giúp đỡ rồi khi ra tù, "vạn" lại tiếp tục giao cho họ công việc và phương tiện mà trước đó họ đã làm.
Địa bàn hoạt động của Hội Vạn Xe khi ấy kéo dài từ bến Bình Đông ra khu vực Phú Lâm, từ đình Minh Phụng sang cầu Xóm Chỉ, từ chợ Nancy xuống khu An Bình, Chợ Lớn. Ở vùng Sài Gòn, Hội Vạn Xe làm chủ rạch Bến Nghé, bến Bạch Đằng, các kho hàng bên Khánh Hội và các con đường nay là Lê Lợi, Nguyễn Huệ, Đồng Khởi… Sự thống nhất về giá cả, về sự liên kết - nhất là khi một thủy thủ người Pháp say rượu từ đường Lê Lai thuê xe về bến Bạch Đằng, đã chẳng những không trả tiền mà còn tát tai người phu xe khiến cả chục "vạn phu" kéo đến, đánh cho gã thủy thủ một trận thừa sống thiếu chết khiến những "Hộ trưởng" (là người đứng đầu một khu phố - tương tự như chủ tịch phường bây giờ), hoảng hốt. Lập tức, các Hộ trưởng bẩm báo với chính quyền, nhưng người Pháp khi ấy bỏ ngoài tai vì cho rằng "đây chỉ là hành động tự phát của một nhóm phu xe khi thấy đồng nghiệp bị hiếp đáp".
Mặc dù người Pháp cũng mở cuộc điều tra, nhưng chỉ điều tra cho có lệ bởi lẽ họ chẳng khai thác được gì nơi những người "Vạn Xe". Tất cả đều "không biết, không nghe, không thấy, không tham gia". Được nước, Lý Vỹ, kẻ cầm đầu Thiên Địa hội vùng Sài Gòn, Chợ Lớn dấn thêm một bước: Không chỉ phu xe ngựa, Vỹ ra lệnh cho hội viên, bằng hình thức này hay hình thức khác, mỗi người phải kết nạp thêm 3 người trong giới bồi bếp, người phục vụ ở các nhà hàng, quán ăn, công nhân các xưởng sản xuất thủ công, làm thuê cho các hiệu buôn…, những hội viên mới này cứ đóng tiền "hội phí" hằng tháng là được Thiên Địa hội che chở…
Theo báo cáo của mật thám Sài Gòn, cuối năm 1889, số lượng thành viên của Hội Vạn Xe vào khoảng 6.000 người, được tổ chức thống nhất từ trên xuống dưới, đứng đầu là một người Việt tên Bạch - thường được gọi là "Cai" Bạch. Xuất thân từ một phu lục lộ (công nhân làm đường giao thông), do mẫn cán nên Bạch được cất nhắc lên làm "cai", trông coi 1 tổ gồm 40 người, chịu trách nhiệm trong việc rải đá dăm, nấu nhựa đường. Được một người Hoa tên Phóng móc nối, Bạch gia nhập Thiên Địa hội rồi chỉ một thời gian ngắn sau, cả 40 người trong tổ của Bạch cũng trở thành hội viên Thiên Địa hội.
Các hội viên Thiên Địa hội thề trước bàn thờ Ngũ tổ. Ảnh minh họa. |
Trận tỉ thí diễn ra suốt 6 ngày, mỗi ngày đánh nhau 1 tiếng, địa điểm là trước dãy nhà kho bến Hàm Tử trước sự cổ vũ của các phu xe ngựa, xe kéo, công nhân bốc vác. Do cả hai đều giỏi võ nên 5 ngày đầu bất phân thắng bại. Đến chiều ngày thứ 6, bằng một cú đá liên hoàn, cai Bạch dồn Ngọc "Móng Cái" vào vách tường rồi tung ra đòn quyết định là cú đấm móc ngược từ dưới hàm lên. Dính đòn hiểm, Ngọc "Móng Cái" choáng váng. Và khi cai Bạch định kết thúc bằng một cú đấm nữa thì Ngọc giơ tay xin hàng.
Trở thành người lãnh đạo Hội Vạn Xe, theo chỉ đạo của Lý Vỹ, cai Bạch ra lệnh cho các phu xe rằng nếu như trước kia, một cuốc xe từ chợ Nancy đến Nhà hát lớn chẳng hạn, phu xe đòi 2 cắc nhưng sẵn sàng đồng ý 1 cắc rưỡi nếu khách trả giá thì bây giờ, 2 cắc rưỡi là 2 cắc rưỡi, khách không đi thì thôi trong lúc cứ mỗi cuối ngày, phu xe vẫn phải nộp tiền "hụi chết" cho Thiên Địa hội.
Để có tiền nộp, phu xe phải nghĩ ra những trò bất lương như chở khách đi vòng vèo rồi đòi thêm tiền. Nếu khách có nhiều hành lý, giữa đường phu xe than nặng, ngựa kéo không nổi rồi tăng giá. Gặp khách phản ứng, phu xe quăng hết hành lý của khách xuống và đợi một xe khác chạy ngang qua rồi ra dấu là chỉ một lúc sau, sẽ có hàng chục chiếc xe ngựa kéo đến gây áp lực.
Với những người làm nghề bồi bàn, bồi bếp, thợ thủ công, hình thức thu tiền "hụi chết" được Thiên Địa hội nói thẳng với chủ tiệm, chủ nhà hoặc chủ xưởng. Cuối tháng, người của Thiên Địa hội đến gặp chủ tiệm rồi sau khi thu tiền bảo kê cho tiệm, chủ tiệm phải trả luôn tiền bảo kê cho những bồi bàn, công nhân làm trong tiệm, xưởng của mình. Phần tiền này sẽ được trừ vào lương. Ông Nhơn, năm nay 76 tuổi, nhà ở trong một con hẻm trên đường Lê Quang Sung, quận 6 cho biết: "Hồi đó tôi nghe ba tôi kể là mỗi lần đình Minh Phụng có gánh hát bội về hát là Thiên Địa hội cử người đến thu tiền bảo kê. Có lần, một gánh dưới Lục tỉnh lên, nghe Thiên Địa hội đòi tiền thì họ không đưa, mà họ báo "mã tà" (cảnh sát). Tới hồi gần đến giờ mở màn, bà con chuẩn bị vô xem thì ngay ở cửa, hàng chục phu xe ngựa đứng dồn cục, tay cầm roi bện bằng da, cố tình chắn lối. Mã tà chỉ có một người nên bất lực. Cuối cùng, chủ gánh phải bấm bụng xì ra một ít tiền mới xong".
Bảo kê cho người sống chưa đủ, Thiên Địa hội còn bảo kê cho cả… người chết bằng cách lập ra những "hội tương tế" mà thực chất là bán hòm, tổ chức tang ma hậu sự. Một báo cáo của Sở Mật thám Nam Kỳ viết: "Không thể bắt quả tang bọn này vì khi hỏi, gia chủ luôn luôn trả lời là họ tự nguyện chứ không bị ép buộc. Một "lính kín" (nghĩa là người chỉ điểm) của ta cài vào nhóm Thiên Địa hội ở bến Bình Đông suốt 3 tháng không moi được tin tức gì, mà sau đó lại chết đuối(?!). Ở nhiều nơi, dân không nghe theo hội trưởng, mà răm rắp tuân lời chánh hội, phó hội, hương chủ…, là những chức vụ ngầm do Thiên Địa hội đặt ra".
Thế lực ngầm ngày càng phát triển và do không đủ nhân lực nên dần dà, một số người Việt trở thành lãnh đạo Thiên Địa hội, người Hoa chỉ còn đóng vai trò cố vấn, phụ trách nghi lễ. Thành phần tham gia Thiên Địa hội đông nhất là nông dân và dân nghèo thành thị, hầu hết ở tuổi thanh niên. Khi gia nhập hội, họ phải đọc 36 lời thề, nội dung hết lòng với huynh đệ, sống chết không phản bội, không lấy công làm tư, không tham lam gian tà, không dụ dỗ vợ của hội viên khác… nếu sai lời sẽ bị muôn đao phanh thây xẻ xác. Trích máu ăn thề xong, hội viên sẽ được cấp cho một lá bùa "Hồng môn hộ mạng", vừa để bảo vệ thân thể trước súng đạn, lại vừa dễ nhận ra nhau..
Thiên Địa hội ở lục tỉnh Nam Kỳ
"Ở đâu có người Hoa là ở đó có Thiên Địa hội". Báo cáo của Sở Mật thám Đông Dương khẳng định. Nhất là ở những vùng quê, những xóm chợ ven sông, một tiệm thuốc Bắc mà ông thầy xem mạch là người Hoa, hoặc một quán mì, quán trà đều có thể là đầu não chỉ huy hội viên Thiên Địa hội tại vùng đó.
Vai trò của Thiên Địa hội xuất hiện rõ nét nhất là ở tỉnh Bạc Liêu. Lúc ấy, khu vực chợ Bạc Liêu xảy ra bệnh dịch tả nên viên chủ tỉnh (tương tự như chủ tịch tỉnh ngày nay) ra lệnh cho tất cả các tiệm ăn phải quét dọn sạch sẽ và đặc biệt là cấm khạc nhổ, đi tiêu bừa bãi nơi công cộng nếu ai vi phạm sẽ bị phạt. Trước lệnh này, chủ các tiệm ăn, quán trà, chủ các sạp hàng buôn bán trong chợ là người Hoa đồng loạt đóng cửa tiệm, đóng cửa sạp hàng để phản đối. Báo cáo của viên chủ tỉnh gửi Toàn quyền Đông Dương có đoạn viết: "Chúng tôi tịch thu được nhiều loại giấy tờ có đóng dấu đỏ với những ký hiệu rất lạ, với những lời lẽ và con số giống như nói về chuyện tiền bạc. Một lính kín mà chúng tôi cài vào làm công cho tiệm mì Huê Ký ở chợ Bạc Liêu khẳng định rằng đó là lệnh bãi thị của Thiên Địa hội… Gửi trát đòi mấy chủ tiệm người Hoa lên hỏi thì họ trả lời rằng họ không phải là người viết tờ giấy đó, và nội dung của nó chỉ là giấy tính tiền mua hàng ở Sài Gòn mà thôi".
Trước những hoạt động bí ẩn của Thiên Địa hội, người Pháp rơi vào trận hỏa mù. Những tài liệu mật thám Pháp thu được ở Sài Gòn Chợ Lớn, ở các tỉnh miền Tây đều na ná như nhau. Đó là vài thanh gươm, cán có chạm chữ "Thiên", vài bộ truyện Tàu, những tờ giấy "dó" - một loại giấy làm theo phương pháp thủ công trong đó loằng ngoằng những ký tự tiếng Hoa và những con số giống y như đơn đặt hàng hay biên lai tính tiền.
Một báo cáo viết năm 1909 của Henri Dusson, Chánh án Nam Kỳ đã mô tả về sự phát triển Thiên Địa hội ở Long Xuyên như sau: "Khi đưa những người trong phong trào Duy Tân ở Mỹ Tho do Trần Chánh Chiếu cầm đầu ra tòa vào tháng 4/1909, chính quyền thuộc địa đã kết án quá nhẹ. Trần Chánh Chiếu cùng một số đồng phạm khác trắng án khiến dân Long Xuyên tin rằng nếu gia nhập "hội kín" thì chẳng ai làm gì được…".
(Còn tiếp)
Vũ Cao Cái chết của kẻ giang hồ đất Gò Công Lâm Sang
13:10 02/06/2016Chỉ sau 1 năm khởi phát, Lò Sang "nổi" lên như một vị chúa trong vùng và cho đàn em đổ về Chợ Lớn lập lò dạy võ để chiêu nạp thêm đệ tử. Gã mua 1 miếng đất cất dinh thự rộng lớn ở đối diện chợ Tổng Châu. Trong dinh thự, gã cắt đặt người hầu, kẻ hạ. Đệ tử thay nhau mặc võ phục đứng gác trong ngoài.
Kết nghĩa huynh đệ với cò quận
Dạo đó, mỗi khi nhắc đến Thiên Địa hội, người dân vùng Gò Công lắc đầu ngao ngán. Sự việc được báo về dinh quận. Cò trưởng quận cho người đến tận nhà Lò Sang điệu cổ về bót.
Không hiểu vì sao, ngay trong buổi chiều Lâm Sang được cò quận thả về. Từ đó trở về sau, cứ mỗi cuối tuần người ta lại thấy viên cò quận đánh xe đến tận dinh thự Lò Sang. Mỗi lần cò quận đến, Lò Sang tổ chức yến tiệc linh đình. Có khi Lò Sang còn đi đón đoàn hát Hồ Quảng từ Cần Thơ về phục vụ. Cò quận trở thành anh em kết nghĩa với Lò Sang.
Mối tình huynh đệ đó đã giúp cò quận Gò Công triệt phá được nhiều
vụ trộm cắp, giết người dù bí ẩn đến đâu. Cò quận phá án giỏi nhờ biết
sử dụng lực lượng mật báo viên của Thiên Địa hội Lò Sang.
Được cò quận "tăng bo", Lò Sang không còn biết sợ trời đất là gì. Tuy vậy, cái gai trước mắt của Lò Sang là Hai Liếp vẫn còn đó.
Với quyền lực hiện tại, Lò Sang chỉ cần lùa đàn em ào xuống bến sông tấn công đám đàn em bốc vác thuê của Hai Liếp là có thể chiếm được lãnh địa béo bở. Thậm chí, Lò Sang chỉ cần ra lệnh cho đám đệ tử kèo vàng bí mật ám sát Hai Liếp là lấy lại được món nợ xưa. Nhưng Lò Sang không muốn như vậy.
Lò Sang thu phục được đệ tử là nhờ tiếng trượng nghĩa, cho dù đó chỉ là ngụy danh. Nếu hành xử như vậy, các đệ tử sẽ nhận ra bản chất ngụy quân tử của gã. Vả lại, bây giờ băng của Hai Liếp cũng đã quy tụ được vài trăm đệ tử trung thành.
Muốn gây sự với Hai Liếp, Lò Sang cần một cái cớ hợp lý. Gã quyết định chơi một ván cờ.
Lò Sang cho 1 đệ tử ra Mỹ Tho thuê 1 chiếc tàu hàng giả làm dân thương hồ buôn khoai. Gã đệ tử đánh tàu cặp vào bến sông Tổng Châu rồi thuê đám Hai Liếp bốc vác. Chờ cho đệ tử Hai Liếp bốc vác xong, gã "thương hồ" vu vạ rằng đám bốc xếp ăn cắp mất 2 sọt khoai. Bị vu oan, đệ tử Hai Liếp nổi nóng xáng cho gã "thương hồ" mấy tát tai. Thế là gã "thương hồ" nằm lăn ra sàn tàu ăn vạ.
Ngay lập tức, không biết phục kích từ khi nào, một đám "người thân" của gã "thương hồ" xách dao, tầm vông ào xuống đuổi đánh đám bốc vác. Thấy ồn ào, Hai Liếp bước ra toan thu xếp. Hai Liếp chưa nói được câu nào thì lính cò bất ngờ xuất hiện. Hai Liếp và vài đàn em bị lính cò trói ngược cánh khuỷu giải về đồn.
Đích thân viên cò quận xuống tận phòng giam mời Hai Liếp lên văn phòng uống trà. Hai Liếp vừa ngồi xuống ghế, viên cò quận nói ngắn gọn: "Mấy anh kết đảng toan làm phản đáng đưa ra tòa đi đày ở Côn Lôn. Giờ muốn sống yên thân, tôi chỉ cho các anh 2 lựa chọn. Một, anh giải tán đám bốc vác bến sông. Hai, anh kết nghĩa với người này". Từ phòng bên, Lò Sang bước vào bắt tay Hai Liếp nói: "Một cây tùng đứng giữa trời, coi chừng có lúc bị ông trốt (lốc xoáy) quật ngã. Hai cây tùng, ba cây tùng, bốn cây tùng đứng cạnh nhau thì trốt ông, trốt bà (ý nói lốc xoáy lớn như bão) cũng khó quật ngã".
Từ một "Lục Vân Tiên" trượng nghĩa thật, Hai Liếp gia nhập Thiên Địa hội Lò Sang.
Ông “vua” chốn giang hồ
Thu phục được Hai Liếp là thu phục được hàng trăm phu bốc vác và nguồn thu ở bến sông, Lò Sang cho lập đàn tế lễ ăn mừng. Tại buổi tế lễ, Lò Sang phong cho Hai Liếp là phó tướng, tước hiệu Đái Mã công. Hai đệ tử khác là Ba Phát, tước hiệu Hồng Đẳng Công, phò loan cánh hữu; Bảy Bang, tước hiệu Bạch Đẳng Công, phò loan cảnh tả. Mỗi khi ra khỏi dinh thự, Lò Sang cho đệ tử đứng xếp hàng hai bên hô to "Đại ca xuất giá!". Khi trở về, hai hàng đệ tử hô "Đại ca nhập cung!".
Trong dinh thự, các đệ tử Lò Sang đều mặc võ phục, thắt đai lưng nhiều màu để phân biệt ngôi thứ. Hai Liếp mang đai da có cẩn kim tuyến. Ba Phát mang đai vải màu đỏ (hồng đai). Bảy Bang mang đai vải màu trắng (bạch đai). Dưới bạch đai là các màu theo từ tự nhỏ dần: Thanh đai (màu xanh), hoàng đai (màu vàng), hắc đai (màu đen).
Lò Sang sống như chúa tể trong vùng, được cung phụng đủ thứ trưởng giả, đài các. Hắn làm thơ, đặt liễn đối trong nhà để ca tụng bản thân:
Lò Sang chạm một cặp liễn gỗ sơn son thếp vàng: "Thiên thai Minh đê, triều tân quắc/ Địa hội nhân hoà, cách cựu bang". Trong phòng khách có những câu liễn: "Tư lệnh thập điều chính nghĩa/ Anh hùng thải vi gia"; "Vị tri Thiên địa, đoàn hoà trường/ Ngọc xích Lỗ Ban, tự độ lường/ Lượng đắc bất đa, hoà bất thiểu/ Văn hậu Minh chúa lập đê bang".
Lò Sang cho treo những câu liễn thể hiện tính mã thượng, trượng nghĩa như vậy nhưng bản chất lưu manh lộ rõ trong hoạt động thường ngày. Ngoài việc thu tiền bảo kê, ngày tết, chúng lập đội lân đi múa từng nhà để lấy tiền lì xì. Nhà nào từ chối hoặc cho phong bao lì xì ít, chúng gây sự.
Trong quyển "Gò Công - cảnh cũ người xưa" của tác giả Việt Cúc kể rằng: "Vợ Bảy Phát chết, Lò Sang tổ chức đám ma rất lớn rồi cho đệ tử đi từng nhà buộc người dân phải đi phúng điếu. Vì sợ thù oán, dân chúng và các nhà giàu phải tới cúng tiền, rồi lạy trước linh cữu. Số tiền thu được rất nhiều. Ngày đưa ma, dân chúng tụ tập hai bên đường từ nhà đến huyệt. Đám ma đi qua, Hồng Đẳng theo sau, có tả hữu hộ vệ theo cầm quạt hầu. Chôn cất rồi, ngày ngày Hồng Đẳng ngồi trên một chiếc xe song mã, chạy từ nhà ra mồ rồi trở về như thăm viếng và rước linh hồn người chết, có cờ xí trang hoàng lộng lẫy như bậc công khanh thời xưa".
Nhiều lần đệ tử của Lò Sang ngang nhiên đánh chết người nhưng cò quận không thụ lý. Quá bức xúc, một vài người dân lén viết đơn kiện nặc danh gửi đến… cò quận. Nhận được đơn, nếu không giải quyết, cò quận e ngại dân sẽ kiện lên tỉnh. Gã vờ cho lính xuống bắt vài thành viên Thiên Địa hội Lò Sang về bót. Những tên giết người này được đưa về Sài Gòn gia nhập vào đội ngũ mật thám của chính quyền Pháp.
Cho vay và bán số ngầu đề
Sau vụ này, Lò Sang không cho đàn em thu tiền bảo kê nữa. Gã nghĩ ra cách thu tiền khác lợi hại hơn. Đó là cho vay tiền góp và bán số ngầu đề.
Dù dân buôn không có nhu cầu về tiền, các đệ tử của Lò Sang cũng
mang tiền đến tận nhà buộc phải vay với lãi suất 20%. Sau khi vay tiền,
con nợ phải góp hàng ngày cho đến khi nào dứt nợ gốc lẫn lãi. Chỉ cần
chậm góp tiền một ngày, đệ tử Lò Sang sẽ đến tận nhà siết nợ. Nợ 1 đồng
sẽ bị siết món đồ 10 đồng. Muốn chuộc món đồ đó, nạn nhân phải bỏ ra 100
đồng.
Gã cho đệ tử tung tin là cần quyên góp tiền để cứu dân nghèo để bán số xí ngầu. Người bình dân gọi là ngầu đề. Có lẽ đó là nguyên thủy của số đề ngày nay. Nếu giả thiết này đúng thì Lò Sang chính là "ông tổ" của nạn lô đề cũng nên (?!).
Mỗi sáng, các đệ tử Lò Sang đi từng nhà bán biên lai ngầu đề cho đến 11 giờ. Mỗi biên lai có 2 chữ số được bán với giá 1 đồng bạc (gần tương đương 1 giạ lúa). Con số trong biên lai ngầu đề được giới hạn từ số 1 đến số 8 tương ứng 8 mặt của hột xí ngầu. Đến đúng ngọ (12 giờ trưa), Lò Sang đặt 1 hột xí ngầu trên cái đĩa bằng vàng rồi lấy một chiếc bát vàng úp đậy lại. Bộ đĩa, bát và hột xí ngầu được gọi là "bộ đề" được đặt trên một bàn hương án nghi ngút khói nhang. Lò Sang vận đồ như triều phục chắp tay lâm râm khấn vái trời đất một hồi rồi mất ngờ chộp lấy bộ đề lắc leng keng cả phút.
Sau khi lắc chán chê, Lò Sang đặt bộ đề xuống rồi "khui đề", tức mở chiếc bát úp ra. Lò Sang xướng con số mặt ngửa của hột xí ngầu thật to, các đệ tử đang xếp hàng đọc lan truyền ra đến tận cửa. Sau 2 lần "khui đề" ai cầm tấm biên lai có 2 con số trùng khớp sẽ được nhận 10 đồng trúng thưởng. Xem như mỗi lần khui đề, Lò Sang lãi đến 90%.
Để thu hút dân chơi số ngầu đề, các đệ tử của Lò Sang bày ra trò mê tín. Họ tung tin rằng, đêm trước sổ xố ngầu đề, Lò Sang sẽ nhập vào giấc mộng của những người tin tưởng, thờ phụng Lò Sang để cho số sắp sổ. Trong giấc mộng, Lò Sang không cho con số cụ thể mà ẩn dưới ý nghĩa nào đó. Người nằm mộng tự giải đoán con số ẩn hoặc nhờ đệ tử Lò Sang giải đoán. Chẳng khác gì các thể loại "thơ" đề bây giờ vậy.
Chỉ sau một thời gian ngắn, phong trào ngầu đề lan nhanh về Chợ Lớn, Sài Gòn và khắp Nam Kỳ. Nguồn thu quá lớn, đến nỗi gã phải xây riêng một nhà kho để chứa tiền.
Gã bắt đầu vươn vòi ra buôn á phiện - một loại ma túy thời thượng lúc đó. Và đó là lý do Lò Sang chết.
Năm 1922, Lò Sang cho đệ tử sang Quảng Châu, Trung Hoa lấy thuốc phiện sơ chế đem về nấu thành phẩm rồi phân phối lẻ khắp Chợ Lớn. Chỉ thực hiện được vài phi vụ, Lò Sang đã bị đích thân giám đốc sở Mật thám của Pháp tại Sài Gòn chỉ huy một chiến dịch hốt gọn bang hội.
Thời điểm đó, Hãng Régie Opium của Pháp được kinh doanh á phiện độc quyền tại Đông Dương. Lâm Cheng đã chạm vào nguồn thu cực lớn của chính quyền thực dân.
Lò Sang bị bắt, cò trưởng quận Gò Công cũng bị bắt. Cò trưởng quận nhận bản án 10 năm tù. Không ai sau đó biết số phận Lò Sang ra sao. Có người cho rằng gã bị trục xuất về Trung Hoa? Có người đoán gã bị đày ra đảo Côn Lôn! Cũng có nguồn tin cho rằng, trên đường dẫn giải từ Gò Công về Sài Gòn, Lò Sang bị bắn chết rồi đẩy xác xuống một khúc sông vắng.
Một số đệ tử của Lò Sang bị bắt đày ra Côn Đảo, số khác lẩn trốn biệt xứ. Từ đó, Thiên Địa hội Gò Công biến mất.
Nông Huyền Sơn
Dạo đó, mỗi khi nhắc đến Thiên Địa hội, người dân vùng Gò Công lắc đầu ngao ngán. Sự việc được báo về dinh quận. Cò trưởng quận cho người đến tận nhà Lò Sang điệu cổ về bót.
Không hiểu vì sao, ngay trong buổi chiều Lâm Sang được cò quận thả về. Từ đó trở về sau, cứ mỗi cuối tuần người ta lại thấy viên cò quận đánh xe đến tận dinh thự Lò Sang. Mỗi lần cò quận đến, Lò Sang tổ chức yến tiệc linh đình. Có khi Lò Sang còn đi đón đoàn hát Hồ Quảng từ Cần Thơ về phục vụ. Cò quận trở thành anh em kết nghĩa với Lò Sang.
Nơi đây là bến Chợ Tổng Châu, ngày xưa tàu, xuồng thương hồ tấp nập. |
Được cò quận "tăng bo", Lò Sang không còn biết sợ trời đất là gì. Tuy vậy, cái gai trước mắt của Lò Sang là Hai Liếp vẫn còn đó.
Với quyền lực hiện tại, Lò Sang chỉ cần lùa đàn em ào xuống bến sông tấn công đám đàn em bốc vác thuê của Hai Liếp là có thể chiếm được lãnh địa béo bở. Thậm chí, Lò Sang chỉ cần ra lệnh cho đám đệ tử kèo vàng bí mật ám sát Hai Liếp là lấy lại được món nợ xưa. Nhưng Lò Sang không muốn như vậy.
Lò Sang thu phục được đệ tử là nhờ tiếng trượng nghĩa, cho dù đó chỉ là ngụy danh. Nếu hành xử như vậy, các đệ tử sẽ nhận ra bản chất ngụy quân tử của gã. Vả lại, bây giờ băng của Hai Liếp cũng đã quy tụ được vài trăm đệ tử trung thành.
Muốn gây sự với Hai Liếp, Lò Sang cần một cái cớ hợp lý. Gã quyết định chơi một ván cờ.
Lò Sang cho 1 đệ tử ra Mỹ Tho thuê 1 chiếc tàu hàng giả làm dân thương hồ buôn khoai. Gã đệ tử đánh tàu cặp vào bến sông Tổng Châu rồi thuê đám Hai Liếp bốc vác. Chờ cho đệ tử Hai Liếp bốc vác xong, gã "thương hồ" vu vạ rằng đám bốc xếp ăn cắp mất 2 sọt khoai. Bị vu oan, đệ tử Hai Liếp nổi nóng xáng cho gã "thương hồ" mấy tát tai. Thế là gã "thương hồ" nằm lăn ra sàn tàu ăn vạ.
Ngay lập tức, không biết phục kích từ khi nào, một đám "người thân" của gã "thương hồ" xách dao, tầm vông ào xuống đuổi đánh đám bốc vác. Thấy ồn ào, Hai Liếp bước ra toan thu xếp. Hai Liếp chưa nói được câu nào thì lính cò bất ngờ xuất hiện. Hai Liếp và vài đàn em bị lính cò trói ngược cánh khuỷu giải về đồn.
Đích thân viên cò quận xuống tận phòng giam mời Hai Liếp lên văn phòng uống trà. Hai Liếp vừa ngồi xuống ghế, viên cò quận nói ngắn gọn: "Mấy anh kết đảng toan làm phản đáng đưa ra tòa đi đày ở Côn Lôn. Giờ muốn sống yên thân, tôi chỉ cho các anh 2 lựa chọn. Một, anh giải tán đám bốc vác bến sông. Hai, anh kết nghĩa với người này". Từ phòng bên, Lò Sang bước vào bắt tay Hai Liếp nói: "Một cây tùng đứng giữa trời, coi chừng có lúc bị ông trốt (lốc xoáy) quật ngã. Hai cây tùng, ba cây tùng, bốn cây tùng đứng cạnh nhau thì trốt ông, trốt bà (ý nói lốc xoáy lớn như bão) cũng khó quật ngã".
Từ một "Lục Vân Tiên" trượng nghĩa thật, Hai Liếp gia nhập Thiên Địa hội Lò Sang.
Ông “vua” chốn giang hồ
Thu phục được Hai Liếp là thu phục được hàng trăm phu bốc vác và nguồn thu ở bến sông, Lò Sang cho lập đàn tế lễ ăn mừng. Tại buổi tế lễ, Lò Sang phong cho Hai Liếp là phó tướng, tước hiệu Đái Mã công. Hai đệ tử khác là Ba Phát, tước hiệu Hồng Đẳng Công, phò loan cánh hữu; Bảy Bang, tước hiệu Bạch Đẳng Công, phò loan cảnh tả. Mỗi khi ra khỏi dinh thự, Lò Sang cho đệ tử đứng xếp hàng hai bên hô to "Đại ca xuất giá!". Khi trở về, hai hàng đệ tử hô "Đại ca nhập cung!".
Trong dinh thự, các đệ tử Lò Sang đều mặc võ phục, thắt đai lưng nhiều màu để phân biệt ngôi thứ. Hai Liếp mang đai da có cẩn kim tuyến. Ba Phát mang đai vải màu đỏ (hồng đai). Bảy Bang mang đai vải màu trắng (bạch đai). Dưới bạch đai là các màu theo từ tự nhỏ dần: Thanh đai (màu xanh), hoàng đai (màu vàng), hắc đai (màu đen).
Lò Sang sống như chúa tể trong vùng, được cung phụng đủ thứ trưởng giả, đài các. Hắn làm thơ, đặt liễn đối trong nhà để ca tụng bản thân:
Lò Sang chạm một cặp liễn gỗ sơn son thếp vàng: "Thiên thai Minh đê, triều tân quắc/ Địa hội nhân hoà, cách cựu bang". Trong phòng khách có những câu liễn: "Tư lệnh thập điều chính nghĩa/ Anh hùng thải vi gia"; "Vị tri Thiên địa, đoàn hoà trường/ Ngọc xích Lỗ Ban, tự độ lường/ Lượng đắc bất đa, hoà bất thiểu/ Văn hậu Minh chúa lập đê bang".
Lò Sang cho treo những câu liễn thể hiện tính mã thượng, trượng nghĩa như vậy nhưng bản chất lưu manh lộ rõ trong hoạt động thường ngày. Ngoài việc thu tiền bảo kê, ngày tết, chúng lập đội lân đi múa từng nhà để lấy tiền lì xì. Nhà nào từ chối hoặc cho phong bao lì xì ít, chúng gây sự.
Trong quyển "Gò Công - cảnh cũ người xưa" của tác giả Việt Cúc kể rằng: "Vợ Bảy Phát chết, Lò Sang tổ chức đám ma rất lớn rồi cho đệ tử đi từng nhà buộc người dân phải đi phúng điếu. Vì sợ thù oán, dân chúng và các nhà giàu phải tới cúng tiền, rồi lạy trước linh cữu. Số tiền thu được rất nhiều. Ngày đưa ma, dân chúng tụ tập hai bên đường từ nhà đến huyệt. Đám ma đi qua, Hồng Đẳng theo sau, có tả hữu hộ vệ theo cầm quạt hầu. Chôn cất rồi, ngày ngày Hồng Đẳng ngồi trên một chiếc xe song mã, chạy từ nhà ra mồ rồi trở về như thăm viếng và rước linh hồn người chết, có cờ xí trang hoàng lộng lẫy như bậc công khanh thời xưa".
Nhiều lần đệ tử của Lò Sang ngang nhiên đánh chết người nhưng cò quận không thụ lý. Quá bức xúc, một vài người dân lén viết đơn kiện nặc danh gửi đến… cò quận. Nhận được đơn, nếu không giải quyết, cò quận e ngại dân sẽ kiện lên tỉnh. Gã vờ cho lính xuống bắt vài thành viên Thiên Địa hội Lò Sang về bót. Những tên giết người này được đưa về Sài Gòn gia nhập vào đội ngũ mật thám của chính quyền Pháp.
Cho vay và bán số ngầu đề
Sau vụ này, Lò Sang không cho đàn em thu tiền bảo kê nữa. Gã nghĩ ra cách thu tiền khác lợi hại hơn. Đó là cho vay tiền góp và bán số ngầu đề.
Bìa quyển sách "Gò Công - Cảnh cũ người xưa" của tác giả Việt Cúc. |
Gã cho đệ tử tung tin là cần quyên góp tiền để cứu dân nghèo để bán số xí ngầu. Người bình dân gọi là ngầu đề. Có lẽ đó là nguyên thủy của số đề ngày nay. Nếu giả thiết này đúng thì Lò Sang chính là "ông tổ" của nạn lô đề cũng nên (?!).
Mỗi sáng, các đệ tử Lò Sang đi từng nhà bán biên lai ngầu đề cho đến 11 giờ. Mỗi biên lai có 2 chữ số được bán với giá 1 đồng bạc (gần tương đương 1 giạ lúa). Con số trong biên lai ngầu đề được giới hạn từ số 1 đến số 8 tương ứng 8 mặt của hột xí ngầu. Đến đúng ngọ (12 giờ trưa), Lò Sang đặt 1 hột xí ngầu trên cái đĩa bằng vàng rồi lấy một chiếc bát vàng úp đậy lại. Bộ đĩa, bát và hột xí ngầu được gọi là "bộ đề" được đặt trên một bàn hương án nghi ngút khói nhang. Lò Sang vận đồ như triều phục chắp tay lâm râm khấn vái trời đất một hồi rồi mất ngờ chộp lấy bộ đề lắc leng keng cả phút.
Sau khi lắc chán chê, Lò Sang đặt bộ đề xuống rồi "khui đề", tức mở chiếc bát úp ra. Lò Sang xướng con số mặt ngửa của hột xí ngầu thật to, các đệ tử đang xếp hàng đọc lan truyền ra đến tận cửa. Sau 2 lần "khui đề" ai cầm tấm biên lai có 2 con số trùng khớp sẽ được nhận 10 đồng trúng thưởng. Xem như mỗi lần khui đề, Lò Sang lãi đến 90%.
Để thu hút dân chơi số ngầu đề, các đệ tử của Lò Sang bày ra trò mê tín. Họ tung tin rằng, đêm trước sổ xố ngầu đề, Lò Sang sẽ nhập vào giấc mộng của những người tin tưởng, thờ phụng Lò Sang để cho số sắp sổ. Trong giấc mộng, Lò Sang không cho con số cụ thể mà ẩn dưới ý nghĩa nào đó. Người nằm mộng tự giải đoán con số ẩn hoặc nhờ đệ tử Lò Sang giải đoán. Chẳng khác gì các thể loại "thơ" đề bây giờ vậy.
Chỉ sau một thời gian ngắn, phong trào ngầu đề lan nhanh về Chợ Lớn, Sài Gòn và khắp Nam Kỳ. Nguồn thu quá lớn, đến nỗi gã phải xây riêng một nhà kho để chứa tiền.
Gã bắt đầu vươn vòi ra buôn á phiện - một loại ma túy thời thượng lúc đó. Và đó là lý do Lò Sang chết.
Năm 1922, Lò Sang cho đệ tử sang Quảng Châu, Trung Hoa lấy thuốc phiện sơ chế đem về nấu thành phẩm rồi phân phối lẻ khắp Chợ Lớn. Chỉ thực hiện được vài phi vụ, Lò Sang đã bị đích thân giám đốc sở Mật thám của Pháp tại Sài Gòn chỉ huy một chiến dịch hốt gọn bang hội.
Thời điểm đó, Hãng Régie Opium của Pháp được kinh doanh á phiện độc quyền tại Đông Dương. Lâm Cheng đã chạm vào nguồn thu cực lớn của chính quyền thực dân.
Lò Sang bị bắt, cò trưởng quận Gò Công cũng bị bắt. Cò trưởng quận nhận bản án 10 năm tù. Không ai sau đó biết số phận Lò Sang ra sao. Có người cho rằng gã bị trục xuất về Trung Hoa? Có người đoán gã bị đày ra đảo Côn Lôn! Cũng có nguồn tin cho rằng, trên đường dẫn giải từ Gò Công về Sài Gòn, Lò Sang bị bắn chết rồi đẩy xác xuống một khúc sông vắng.
Một số đệ tử của Lò Sang bị bắt đày ra Côn Đảo, số khác lẩn trốn biệt xứ. Từ đó, Thiên Địa hội Gò Công biến mất.
Nông Huyền Sơn
Nhận xét
Đăng nhận xét