Một nước Mỹ đang mải miết với những dự án vũ khí hủy diệt bỗng bừng tỉnh sau cú đánh mang tên "Sputnik" của Liên Xô.
19:28' ngày 4/10/1957, mọi con mắt đổ dồn lên bầu trời. Khoảnh khắc Liên Xô phóng thành công vệ tinh nhân tạo đầu tiên trên thế giới Sputnik 1 lên quỹ đạo Trái Đất, cả thế giới ngỡ ngàng! Nước Mỹ ám ảnh!
Hình ảnh vệ tinh nhân tạo đầu tiên trên thế giới của Liên Xô: Sputnik 1.
Hồ sơ của
NASA có bài viết về:
Lịch
sử đã thay đổi vào ngày 4/10/1957 khi Liên Xô phóng thành công Sputnik
1. Vệ tinh nhân tạo đầu tiên trên thế giới có kích thước bằng một quả
bóng bãi biển (đường kính 58 cm), chỉ nặng 83,6 kg và mất khoảng 98 phút
để thực hiện một vòng quay quanh Trái Đất theo đường elip.
Sputnik
1 mở ra những phát triển chính trị, quân sự, công nghệ và khoa học mới,
đánh dấu sự khởi đầu của Kỷ nguyên Vũ trụ (Space Age) và cuộc đua công
nghệ không gian tốn kém hàng tỷ đô giữa Mỹ và Liên Xô về sau.
Câu
chuyện bắt đầu vào năm 1952, khi Hội đồng Khoa học Quốc tế (ISC) quyết
định thiết lập một dự án khoa học quốc tế có sự tham gia của 67 quốc
gia, mang tên "Năm Vật lý Địa cầu Quốc tế (IGY)", kéo dài từ 1/7/1957
đến 31/12/1958.
Sở dĩ, ISC quyết định chọn khoảng thời
gian này là vì từ ngày 1/7/1957 đến 31/12/1958 là thời kỳ đạt đỉnh của
chu kỳ Mặt Trời 19 (Solar cycle 19). Đây là thời điểm lý tưởng để các
nhà khoa học quốc tế nghiên cứu 11 ngành khoa học Trái Đất thuộc dự
án Năm Vật lý Địa cầu Quốc tế (IGY): Hừng đông và bức xạ tầng cao
(airglow), tia vũ trụ, địa từ trường, trọng lực, vật lý tầng điện ly,
xác định kinh độ và vĩ độ (lập bản đồ chính xác), khí tượng, hải dương
học, địa chấn học, và các hoạt động của Mặt Trời.
Sputnik 1 của Liên Xô mở ra Kỷ nguyên Vũ trụ của loài người.
Tháng
7/1955, Nhà Trắng công bố kế hoạch phóng một vệ tinh nhân tạo quay
quanh Trái Đất cho IGY; đồng thời kêu gọi các cơ quan thuộc chính phủ
phát triển dự án vệ tinh nhân tạo.
Tháng 9/1955, đề xuất
vệ tinh Vanguard của Phòng thí nghiệm Nghiên cứu Hải quân đã được chọn
để làm đại diện cho Mỹ trong báo cáo với IGY. Nhưng, chỉ 2 năm ngắn ngủi
sau đó, Sputnik 1 của Liên Xô ra đời và thực hiện sứ mệnh thành công
đầu tiên của một vệ tinh nhân tạo quay quanh Trái Đất đã thay đổi mọi
thứ.
Là một thành tựu kỹ thuật đột phá chưa từng có
trong lịch sử, Sputnik 1 thu hút mọi sự chú ý của thế giới. Người Mỹ
nhanh chóng bị lu mờ.
Các
chỉ số của Sputnik 1 ấn tượng hơn con số 1,6 kg của vệ tinh Vanguard mà
Mỹ dự định xây dựng hơn rất nhiều. Khi công chúng Mỹ chưa hết lo ngại
rằng, khả năng phóng vệ tinh của Liên Xô hoàn toàn có thể cho phép nước
này phóng tên lửa đạn đạo mang vũ khí hạt nhân tấn công từ châu Âu đến
Mỹ, thì Liên Xô lại tiếp tục với "cú hích vũ trụ" thứ hai là
phóng Sputnik 2 (phi thuyền có trọng tải nặng hơn nhiều, và còn mang
theo một con vật sống đầu tiên) lên quỹ đạo ngày 3/11/1957.
Ngay sau khi Sputnik 1 của Liên Xô ra đời, Bộ Quốc phòng Mỹ giải trình một dự án khác, nhằm thay thế Vanguard.
Ngày
31/1/1958, cuộc chơi đổi chiều về phía Mỹ khi nước này phóng thành công
vệ tinh nhân tạo Explorer 1. Thành tựu đáng nhớ nhất của Explorer 1
chính là việc phát hiện ra Vành đai bức xạ Van Allen (khu vực tập trung
mật độ cao các hạt điện tử, proton từ Mặt Trời). Sau 12 năm phục vụ,
Explorer 1 "chết" phía trên bầu khí quyển ở Thái Bình Dương vào ngày
31/3/1970 sau hơn 58.000 lần miệt mài quay quanh quỹ đạo Trái Đất.
Ngày 31/1/1958, Mỹ phóng thành công vệ tinh nhân tạo Explorer 1.
Tuy
đã tạm thời lấy được thế cân bằng với Liên Xô - địch thủ của Mỹ trong
Chiến tranh Lạnh, nhưng sự kiện Sputnik 1 khiến một phần lịch sử nước Mỹ
thay đổi mãi mãi. Bởi Sputnik 1 là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến việc
thành lập Cơ quan Hàng không và Vũ trụ Quốc gia Mỹ (NASA).
Vào
tháng 7/1958, Quốc hội Mỹ thông qua Đạo luật Hàng không và Vũ trụ Quốc
gia (thường được gọi là "Đạo luật Không gian"), thành lập NASA vào ngày
1/10/1958 từ Ủy ban Cố vấn Hàng không Quốc gia (NACA) và các cơ quan
chính phủ khác.
Đối với thế giới, sự góp mặt của Mỹ và
Liên Xô trong dự án "Năm Vật lý Địa cầu Quốc tế (IGY)" đã mang cuộc cách
mạng thực sự trong hành trình nghiên cứu vũ trụ và chinh phục vũ trụ.
Không
chỉ phóng thành công vệ tinh nhân tạo đầu tiên của thế giới lên quỹ đạo
Trái Đất, không chỉ tìm ra Vành đai bức xạ Van Allen, IGY còn đạt được
những thành tựu đáng kể như khám phá ra rặng núi ngầm dưới đại dương
(một xác nhận quan trọng về các mảng kiến tạo); phát hiện bức xạ Mặt
Trời có thể gây nguy hiểm cho những chuyến bay vũ trụ có người lái về
sau...
Đối
với hai đối thủ của Chiến tranh Lạnh, việc Liên Xô giành vị thế thương
phong trong cuộc đua mới của Kỷ nguyên Vũ trụ khiến Mỹ bừng tỉnh giấc.
Một nước Mỹ đang mải miết với những dự án vũ khí hủy diệt (vũ khí nguyên
tử) bỗng lo sợ hơn bao giờ hết về khả năng phóng tên lửa xuyên lục địa
mang theo đầu đạn hạt nhân có thể xóa sạch Mỹ bất cứ lúc nào ở khoảng
cách cực xa.
Sputnik khiến nước Mỹ vốn đã hồ nghi lo sợ
về tiềm năng hạt nhân "không thể tưởng tượng" của Liên Xô lại càng thêm
ám ảnh. Mỹ một mặt, bí mật thực hiện các dự án vũ khí và vũ trụ, một mặt
bí mật điều tra tiềm năng của địch thủ.
Thời Chiến
tranh Lạnh, bí mật chính là yếu tố sống còn trong cuộc đua trên quỹ đạo.
Không một siêu cường nào muốn địch thủ của mình nắm rõ những bí mật ấy.
Đó là lý do, chỉ riêng về phía Liên Xô, có 5 bí mật không gian Liên Xô
xếp vào hàng "bí mật quốc gia" mà chỉ khi sụp đổ năm 1991, Mỹ và phần
còn lại của thế giới mới nắm rõ.
Bài viết sử dụng nguồn: Science.howstuffwork, History.NASA.GOV
Ảnh: Internet
Có thể nói,
Chiến tranh Lạnh xảy ra giữa Mỹ và
Liên Xô hồi
thế kỷ 20 là một câu chuyện dài về những đối đầu căng thẳng trong các
lĩnh vực chính trị, ngoại giao, vũ khí và công nghệ. Trong cuộc đua "cân
não" giữa hai cường quốc, Bí Mật chính là "con át chủ bài" mà Mỹ và
Liên Xô đều rất coi trọng trong việc đảm bảo sức mạnh và tiếng tăm với
địch thủ.
Xét riêng về lĩnh vực công nghệ vũ trụ, Liên Xô
là quốc gia đi tiên phong và mở ra Kỷ nguyên Vũ trụ cho loài người bằng
hai thành tựu rất đáng nhớ trong lịch sử nhân loại: (1) Phóng vệ
tinh nhân tạo đầu tiên trên thế giới - Sputnik 1 - lên quỹ đạo Trái Đất;
và (2) Đưa người lần đầu tiên thoát khỏi lực hút của Trái Đất bay vào
không gian do phi hành gia Yuri Gagarin thực hiện ngày 12/4/1961.
Để
có được thành tích "vô tiền khoáng hậu" đó, Liên Xô đã đổ rất nhiều
chất xám, tiền của, thậm chí là chính mạng sống của nhiều phi hành gia
quả cảm. Tuy nhiên, trong hành trình bảo vệ tiếng tăm của một quốc gia
tiên phong trong lĩnh vực vũ trụ, Liên Xô đã phải giấu nhẹm những sự
cố/tai nạn và xếp chúng vào hàng "bí mật quốc gia", "tuyệt mật". Và chỉ
đến khi tan rã năm 1991, các bí mật này mới được Mỹ và thế giới biết
đến.
Sau
thành công của Sputnik 1 ngày 4/10/1957, khiến Mỹ chính thức phải bước
vào cuộc đua công nghệ không gian thời Chiến tranh Lạnh - Liên Xô tiếp
tục phóng Sputnik 2.
Lần phóng này, Liên Xô mang theo chú chó "phi hành gia"
Laika - một chú chó giống cái, lai giữa husky và spitz, từng sống lang thang vô chủ trên đường phố Moskva.
Bí
mật mà Liên Xô cất giữ chính là về cái chết của chú chó tròn 3 tuổi.
Những gì Laika trải qua trong sứ mệnh bay chưa một sinh vật nào thực
hiện được (đó là hoàn thành nhiệm vụ bay vòng quanh Trái Đất) khiến
không ít người xót thương.
Laika đã chết cô độc thế nào?
Ngày
3/11/1957, tàu vũ trụ Sputnik 2 được phóng lên quỹ đạo Trái Đất, mang
theo Laika lên đường thực hiện sứ mệnh "đo" những tác động của việc
phóng tàu và môi trường vũ trụ lên cơ thể sống.
Laika trước khi lên đường thực hiện sứ mệnh cảm tử. Ảnh: Getty Images
Khoảnh
khắc tàu vũ trụ phóng đi, Laika đã phải chịu đựng trọng lực gấp 5 lần
bình thường. Không những thế, tiếng ồn khủng khiếp của động cơ phản lực
đã khiến chú chó Laika hoảng loạn. Dữ liệu truyền về mặt đất về sau tiết
lộ, nhịp tim của Laika mạnh gấp 3 lần so với bình thương, nhịp thở mạnh
gấp 4 lần.
Khi Sputnik 2 đạt được trạng thái phi trọng
lực, nhịp tim của chú giảm đột ngột. Dẫu vậy, chú chó từng sống vô chủ
ấy vẫn vượt qua được thử thách khắc nghiệt ấy để hoàn thành sứ mệnh cùng
con tàu bay vòng quanh Trái Đất ở độ cao 3000km trong 103 phút.
Điều
đáng sợ chưa đến. Sputnik 2 không được thiết kế để chống cháy và không
được thiết kế để trở về Trái Đất. Điều này có nghĩa là, Laika
và Sputnik 2 đang thực hiện sứ mệnh cảm tử.
Với nguồn
thức ăn và oxy chỉ đủ cho Laika sống 7 ngày ngoài không gian, người ta
hy vọng Laika có thể chết vì thiếu dưỡng khí. Tuy nhiên, vì không có tấm
chắn nhiệt, Sputnik 2 nhanh chóng trở thành bó đuốc khổng lồ nặng 500kg
lao vô định về Trái Đất.
Laika chết! Tan vĩnh viễn cùng
con tàu mang sứ mệnh tự sát của nó. Không một tấm huân chương nào có thể
vinh danh hết sự can đảm và miêu tả được cái chết đau đớn mà Laika phải
trải qua những giây cuối cùng. Nhờ Laika, lịch sử Liên Xô mới có được
ngày 12/4/1961 huy hoàng ấy!
Trong
thập niên những năm 1950, 1960, Liên Xô đã che đậy cái chết của một số
phi hành gia trong nỗ lực thực hiện các chuyến bay thử nghiệm vào quỹ
đạo Trái Đất.
Các sự cố thiệt mạng về người được cho là
diễn ra trước chuyến bay đi vào lịch sử của Yuri Gagarin, phi hành gia
được công nhận là người đầu tiên trong lịch sử thể giới bay vào vũ trụ
ngày 12/4/1961.
Thông tin về những cái chết của các phi
hành gia Liên Xô được chính phủ nước này giấu kín vào hàng tuyệt mật.
Mãi về sau, người ta mới biết về số phận thực sự của họ. Một trong những
"tài năng vũ trụ" của Liên Xô hy sinh khi đang làm nhiệm vụ chính là
phi hành gia 24 tuổi
Valentin Bondarenko.
Gia đình nhỏ của Valentin Bondarenko.
Là
một trong 20 tài năng vũ trụ được tuyển chọn kỹ lưỡng khắp cả
nước, Valentin Bondarenko cùng đồng đội luyện tập bất kể ngày đêm cho sứ
mệnh đưa tàu Vostok (Phương Đông) có người lái ra ngoài vũ trụ đầu tiên
trong lịch sử đất nước mình.
Ngày 23/3/1961 định mệnh ấy
là ngày thứ 10 Valentin Bondarenko thực hiện chuỗi thử nghiệm độ bền
kéo dài 15 ngày trong buồng áp suất thấp đặt tại một viện khoa học ở
Moskva.
Thảm
kịch xảy đến khi anh vừa hoàn tất ngày thử nghiệm của mình và chuẩn bị
ra khoảng buồng áp suất. Do bất cẩn, miếng bông tẩm cồn anh dùng để lau
cơ thể bỗng rơi vào đĩa hâm (dụng cụ làm nóng nước) khiến cho miếng bông
nhanh chóng bốc cháy trong buồng kín chứa 68% oxy tinh khiết.
Vì
cho rằng đó là lỗi chủ quan, Valentin Bondarenko không báo cho bên
ngoài và tự xoay sở với ngọn lửa. Tuy nhiên, mọi thứ diễn ra quá nhanh
khiến toàn thân của anh đều bị bỏng. Da, tóc và mắt của anh đều bị ngọn
lửa oan nghiệt hủy hoại.
Sau 8 giờ chiến đấu với thần chết, Valentin Bondarenko vĩnh biệt đồng đội, trước đó, trong cơn mê sảng anh không ngừng rên rỉ: "Tôi xin lỗi... Là lỗi của tôi... Lỗi của tôi..."
Mãi đến năm 1989, thế giới mới phát hiện ra Liên Xô thực tế đã cố gắng lên Mặt Trăng. Điều duy nhất họ thiếu? - Tên lửa.
Giấc mộng chinh phục Mặt Trăng của Liên Xô bị lụi tàn vì không đủ sức tạo tên lửa đẩy đổ bộ Mặt Trăng. Nguồn: Getty Images
"Chúng
ta phải đưa người đổ bộ được Mặt Trăng trong thập kỷ này." - Đó là lời
hiệu triệu của Tổng thống Mỹ John F. Kennedy ngày 12/9/1962. 7 năm sau,
khát vọng không gian ấy đã thành sự thực. Ngày 20/7/1969, nước Mỹ ghi
danh mình vào lịch sử thế giới với sự kiện
phi hành gia Neil Armstrong cùng đồng đội đặt những bước chân đầu tiên lên Mặt Trăng.
Nếu
như người Mỹ "lao tâm khổ tứ" rất nhiều với chương trình Apollo đưa
người lên Mặt Trăng thì Liên Xô lại "hững hờ" với vệ tinh tự nhiên duy
nhất và lớn nhất của Trái Đất.
Nguyên nhân của sự "hững
hờ" này chỉ được tiết lộ khi một nhóm các nhà khoa học Mỹ được phép thăm
các di tích của Chương trình Mặt Trăng có người lái mà Liên Xô đã từng
thực hiện trong hai thập niên 1960 và 1970.
Hóa ra, người
Liên Xô không hề bỏ ngoài cuộc đua lên Mặt Trăng với Mỹ. Tuy nhiên, thứ
mà họ không sánh kịp với người Mỹ chính là Tên lửa đẩy.
Thời
đó, Liên Xô không có khả năng phóng thiết bị tên lửa đẩy với độ phức
tạp cần thiết cho một cuộc đổ bộ thành công lên Mặt Trăng. Các chuyến
bay thử nghiệm đều bất thành. Đứng trước thành tích "vô tiền khoáng hậu"
của địch thủ trên Mặt Trăng, Liên Xô đã chính thức khép lại cuộc đua
lên vệ tinh này vào những năm 1970.
Bất
chấp luật pháp quốc tế, cấm quân sự hóa không gian, khẩu súng thần công
Rikhter R-23 được bí mật gắn trên trạm vũ trụ Salyut 3, được phóng vào
năm 1974. Nguồn: Getty Images
Đầu những năm
1960, Liên Xô triển khai Chương trình Almaz - Trạm trinh sát không gian
quân sự tuyệt mật. Đến thập niên 1970, nước này nhanh chóng phát triển
và phóng 3 trạm trinh sát không gian là Salyut 2, Salyut 3 và Salyut 5
vào quỹ đạo Trái Đất dưới cái tên là Trạm vũ trụ dân sự Salyut.
Lo
sợ Mỹ nhanh chóng "đánh hơi" được mục đích quân sự thực sự của Salyut
và rồi phát triển chương trình vũ khí chống vệ tinh, Liên Xô cấp bách
cần biện pháp tự vệ và chống trả.
Năm
1964, Liên Xô phát triển thành công khẩu súng thần công Rikhter
R-23. Rikhter R-23 có thể bắn 950 đến 5.000 viên đạn 14,5 mm mỗi phút
với tốc độ 2.414 km/giờ, tấn công mục tiêu ở khoảng cách 3,2 km.
Bất
chấp luật pháp quốc tế, cấm quân sự hóa không gian, khẩu súng thần
công Rikhter R-23 được bí mật gắn trên trạm vũ trụ Salyut 3, được phóng
vào năm 1974.
Chỉ sau khi Liên Xô sụp đổ năm 1991, thế giới mới
phát hiện ra rằng nước này thực sự đã bắn thử R-23 trong không gian vào
ngày 25/1/1975. Vì lý do an toàn, kiểm soát mặt đất của Liên Xô đã đợi
cho đến khi phi hành đoàn cuối cùng rời khỏi trạm vũ trụ rồi mới tiến
hành bắn thử bằng cách bắn 20 phát đạn, khi trạm đang hoạt động ở chế độ
không người lái.
Tàu con thoi của Liên Xô. Nguồn: Getty Images
Một
trong những ví dụ đầu tiên về gián điệp trực tuyến chính là việc Liên
Xô đột nhập vào cơ sở dữ liệu của chính phủ Mỹ để lấy thông tin về
chương trình tàu con thoi của địch thủ.
Chúng ta đều quen thuộc với thế hệ tàu con thoi của Mỹ - một
hệ thống tàu vũ trụ quỹ đạo thấp của Trái Đất có thể tái sử dụng, được
vận hành bởi NASA, tổng cộng được phóng 135 lần từ năm 1981 đến năm 2011 - mà ít để ý rằng Liên Xô cũng có tàu con thoi.
Khi
Liên Xô nắm được thông tin tình báo rằng Mỹ đang phát triển chương
trình tàu con thoi từ năm 1969, họ lo ngại rằng Mỹ sẽ sử dụng phương
tiện này cho một cuộc đua vũ trang trên vũ trụ. Để đáp lại, tình báo
Liên Xô bắt đầu lên kế hoạch đánh cắp thiết kế và nghiên cứu về tàu con
thoi của Mỹ.
Việc
đánh cắp dữ liệu không hề dễ dàng dưới thời chính quyền Tổng thống
Reagan, do đó, Liên Xô chuyển sang hack các cơ sở dữ liệu máy tính của
chính phủ, trường đại học của Mỹ. Đây được xem là một trong những ví dụ
đầu tiên về gián điệp trực tuyến.
Nhờ việc hack thành
công, Liên Xô đã phát triển thế hệ tàu con thoi đầu tiên của mình có tên
Buran (Bão tuyết). Mặc dù có ngoại hình gần giống với tàu con thoi của
Mỹ, Buran có một số khác biệt chính mà theo một số chuyên gia, thế hệ
tàu con thoi Liên Xô "nhỉnh" hơn Mỹ.
Mặc dù Buran không
có động cơ nào có thể tái sử dụng (không giống như tàu của Mỹ, có ba
động cơ được lắp vào đuôi), nhưng Buran có một hệ thống tên lửa vượt
trội có khả năng chở một lượng hàng hóa đáng kinh ngạc lên đến 95 tấn
(86 tấn) so với con số 26 tấn của tàu con thoi Mỹ.
Ngày 15/11/1988
là ngày bay đầu tiên và cũng là cuối cùng của Bão tuyết vào quỹ đạo.
Bởi sau khi Liên Xô sụp đổ, do cạn kiện nguồn tài trợ nên tổng thống Nga
đã hủy bỏ chương trình này vào năm 1993 trước khi nó bắt chuyến bay thứ
hai vào quỹ đạo Trái Đất.
Đọc các bài hồ sơ khác về Liên Xô,
tại đây.
Bài viết sử dụng nguồn: Science.howstuffworks
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét