KÝ ỨC QUÁ HỔ THẸN
-Sai lầm chiến lược của bất tài quân sự Nguyễn Văn Thiệu.
-Sự ngu muội và hèn nhát của quân tướng VNCH trong cuộc rút chạy khỏi Tây Nguyên năm 1975.
-Một lũ hổ lốn, thất bại là phải!
--------------------------------------------------------------------
(ĐC sưu tầm trên NET)
Những đoàn xe khổng lồ tháo chạy khỏi Cao nguyên
-Sự ngu muội và hèn nhát của quân tướng VNCH trong cuộc rút chạy khỏi Tây Nguyên năm 1975.
-Một lũ hổ lốn, thất bại là phải!
--------------------------------------------------------------------
(ĐC sưu tầm trên NET)
NGUYỄN VĂN THIỆU Nỗ Lực Tái Chiếm BUÔN MA THUỘT Và Sai Lầm Của PHẠMVĂN PHÚ VNCH Ở Tây Nguyên 1975
Trận nghi binh ngoạn mục chiến dịch Tây Nguyên 1975
(Kiến Thức) - Trước khi nổ ra chiến cuộc Xuân 1975, trên chiến trường Tây Nguyên ta đã ép địch từ hai phía.
2
giờ sáng ngày 10/3, ta nổ súng tiến công Buôn Ma Thuột. Mãi đến 4 giờ
sáng, khi xe tăng ta đã tiến vào Buôn Ma Thuột, Phạm Văn Phú, Tư lệnh
Quân đoàn 2 mới biết Buôn Ma Thuột là mục tiêu chính của ta, thì đã quá
muộn. Ta đã tiến hành trận nghi binh ngoạn mục.
Nghi binh 2 hướng
Bàn về
cách đánh Buôn Ma Thuột, Tổng Tư lệnh - Đại tướng Võ Nguyên Giáp nêu hai
phương án và đặc biệt nhấn mạnh trong cả hai trường hợp, đều phải thực hiện nghi binh thật tốt, gồm nghi binh hướng Trị - Thiên và hướng Kon Tum, Plâycu.
Bộ chỉ
huy chiến dịch và các đơn vị trên toàn mặt trận quán triệt chủ trương
trên, thực hiện tốt việc nghi binh đánh lạc hướng phán đoán của địch,
đưa địch vào “mê hồn trận”, mắc sai lầm dẫn đến kết cục thảm bại.
Trước
khi nổ ra chiến cuộc Xuân 1975, trên chiến trường Tây Nguyên ta đã ép
địch từ hai phía. Phía Bắc, Sư đoàn 10 áp sát Bắc thị xã Kon Tum đến Võ
Định. Phía Tây, Sư đoàn 320 áp sát thị xã Plâycu. Để hình thành thế bao
vây, chia cắt địch, trước khi tiến công Tây Nguyên, ta đã cắt cả hai
tuyến đường huyết mạch nối đồng bằng với Tây Nguyên là đường 19 và 21 ở
phía Đông, chia cắt đường 14 ở phía Nam. Địch chỉ còn đường tiếp tế chi
viện trên không, nhưng các sân bay Kon Tum, Plâycu đã nằm trong tầm pháo
và sân bay Hoà Bình, đã nằm trong kế hoạch tiến công của đặc công và bộ
binh ta. Các khu vực có thể đổ bộ đường không thì đã được các đơn vị
chuẩn bị sẵn sàng phương án tác chiến.
Cơ động như đèn cù
Bộ Tư
lệnh chiến dịch Tây Nguyên được tăng cường 2 sư đoàn bộ binh: Sư đoàn
968 từ Nam Lào sang thay thế Sư đoàn 10 và Sư đoàn 320 ở Bắc Kon Tum và
Tây Plâycu. Sư đoàn 316 từ miền Bắc vào để tham gia tiến công mục tiêu
then chốt Buôn Ma Thuột. Cùng với Sư đoàn 3, các trung đoàn đang chiến
đấu ở Tây Nguyên và lực lượng vũ trang địa phương. Trước nổ súng, lực
lượng ta vượt trội so với địch. Về sư đoàn bộ binh: ta 4, địch 1, nếu
tính cả Sư đoàn 3 bộ binh tham gia cắt đường 19 ở Bình Định thì tỷ lệ đó
là 5/1; trung đoàn bộ binh là 1,5/1.
Trên
hướng mục tiêu then chốt Buôn Ma Thuột, ta có Sư đoàn 316, các trung
đoàn 95B và 24, Trung đoàn 198 và Tiểu đoàn 27 đặc công, Trung đoàn
thiết giáp 273, hai trung đoàn pháo binh 40, 675, hai trung đoàn cao xạ
232 và 234, hai trung đoàn công binh và lực lượng vũ trang Đăk Lăk. Như
vậy, ta đã tạo ưu thế áp đảo so với địch. Tuy vậy, nếu quá trình cài
thế, địch phát hiện được ý định ta, tăng cường lực lượng cho Buôn Ma
Thuột, thì sẽ gây ra rất nhiều khó khăn cho ta. Vì vậy, để kìm chắc lực
lượng địch ở Bắc Tây Nguyên, ta đã tiến hành các biện pháp nghi binh,
lừa địch, làm cho cả tình báo Mỹ, Tổng thống và Bộ Tổng Tham mưu quân
đội Sài Gòn luôn tin chắc là Xuân 1975, Việt Cộng sẽ tiến công ở Bắc Tây
Nguyên.
Theo cố Thượng Tướng, Giáo sư Hoàng Minh Thảo - Tư lệnh chiến dịch Tây Nguyên: Muốn đánh Buôn Ma Thuột thắng nhanh, phải nghi binh đánh Plâycu để Buôn Ma Thuột vẫn yếu như cũ.
Sư đoàn
10 và Sư đoàn 320 nhiều năm chiến đấu và “có tiếng” ở chiến trường Tây
Nguyên, nên Quân đoàn 2 quân đội Sài Gòn đặc biệt chú ý theo dõi hoạt
động của hai sư đoàn này. Chúng cho rằng, hai sư đoàn này có mặt ở đâu
là ở đó sẽ có tác chiến lớn. Vì vậy, việc bảo đảm bí mật sự di chuyển
hai sư đoàn cùng các đơn vị binh chủng kĩ thuật vào nam Tây Nguyên là
hết sức khó khăn. Ta phải cho các sư đoàn này cơ động như “đèn cù” nhiều
lần rồi mới di chuyển chính thức; đồng thời đã để lại toàn bộ điện đài
và nhân viên báo vụ của hai sư đoàn ở vị trí cũ, chỉ dùng điện thoại của
Bộ Tư lệnh Trường Sơn. Địch thấy ta không hề có dấu hiệu chuyển quân.
Trong khi đó Sư đoàn 10 và Sư đoàn 320 đã hành quân về hướng Buôn Ma
Thuột rồi.
(còn nữa)
Tướng V.N.C.H PHẠM VĂN PHÚ - Phận Tay Sai Cho Mỹ Qúa Nhục Phải Tự "Hóa Kiếp" Để Giải Thoát
Vì sao Nguyễn Văn Thiệu quyết định rút khỏi Tây Nguyên?
50 năm trước, Nguyễn Văn Thiệu quyết định rút lui khỏi mảnh đất chiến lược Tây Nguyên. Vì sao vậy?
Từ bỏ cao nguyên
Trong suốt lịch sử chiến tranh xâm lược Việt Nam, cả người Pháp và người Mỹ đều đánh giá Tây Nguyên là nóc nhà của Đông Dương.
Đó là một vùng có giá trị chiến lược quân sự quan trọng, ai làm chủ
được Tây Nguyên sẽ làm chủ được Đông Dương. Tuy nhiên, những ngày này
của 40 năm trước, quân đội Sài Gòn đã quyết định rút khỏi vùng đất chiến
lược này. Đó không phải một đợt lui binh chiến thuật mà là một cuộc rút lui quy mô lớn
với cả một quân đoàn được trang bị hiện đại gồm hàng ngàn xe pháo và
các trang bị cồng kềnh. Quyết định rút lui này được đưa ra sau khi quân
đội Sài Gòn để mất thành phố Buôn Ma Thuột.
Theo lời khai của viên Đại tá Phạm Duy
Tất - Chỉ huy trưởng biệt động quân thuộc Quân khu 2 (VNCH) được tướng
Văn Tiến Dũng trích trong hồi ký Đại thắng mùa xuân, ngày 14/3/1975,
Tổng thống chính quyền Sài Gòn Nguyễn Văn Thiệu đã có cuộc họp với các
tướng lĩnh ở Cam Ranh để bàn về bước đi sau khi thất trận ở Buôn Ma
Thuột.
Trong cuộc họp đó, Thiệu hỏi tướng Cao Văn Viên có còn quân trù bị
để tăng cường cho Tây Nguyên không thì nhận được câu trả lời không còn.
Thiệu lại hỏi Phạm Văn Phú – Tư lệnh Quân đoàn 2 rằng nếu không có tăng
viện thì giữ được bao lâu. Phú trả lời giữ được 1 tháng với điều kiện
được yểm trợ không quân tối đa, tiếp tế đường không đầy đủ để bù đắp
thiệt hại của những trận vừa qua. Phú thề sẽ tử thủ ở Pleiku nếu được
đáp ứng các điều kiện trên.
Tuy nhiên ông Thiệu nói ngay cả việc tiếp tế đường không cũng không
thể đáp ứng và kết luận rằng phải rút khỏi Kon Tum, Pleiku để bảo toàn
lực lượng, lấy quân đưa về giữ đồng bằng ven biển, tiếp tế thuận lợi
hơn.
Vấn đề rút theo đường nào cũng được đưa ra bàn bạc. Tướng Cao Văn
Viên nói rằng trong lịch sử chiến tranh Đông Dương, chưa có lực lượng
nào rút theo đường 19 mà không bị diệt còn đường 14 thì càng không thể
được. Những người dự họp cho rằng chỉ có đường số 7 từ lâu không dùng
đến, tuy xấu nhưng như vậy có thể tạo yếu tố bất ngờ giúp cuộc rút lui
an toàn.
Ngày 15/3 Quân đoàn 2 VNCH bắt đầu rút khỏi Tây Nguyên với liên
đoàn biệt động số 6, liên đoàn biệt động số 23 và lữ đoàn kỵ binh số 2
làm nhiệm vụ bảo vệ đường, liên đoàn công binh đi trước để chữa đường,
bắc cầu. Trước đó, vào đêm 14 rạng ngày 15/3, Bộ Chỉ huy tiền phương
Quân đoàn 2 VNCH đã rút về Nha Trang bằng máy bay.
Tuy nhiên, cuộc rút lui sau đó bị thất bại. Theo "Lịch sử kháng
chiến chống Mỹ" tập 8, Quân đoàn 2 VNCH bị chặn lại thị xã Cheo Reo và
bị đánh tan tại đây. Phần lớn vũ khí và phương tiện của quân đoàn này
hoặc bị phá hủy hoặc bị quân giải phóng chiếm được.
Mặc dù một số lượng lớn bộ binh của Quân đoàn 2 chạy thoát về phía
đồng bằng ven biển nhưng tinh thần hoang mang và các vũ khí nặng đã mất
hết nên quân đoàn này cơ bản đã bị loại khỏi vòng chiến. Mặt khác, các
nhóm tàn quân rút được về đồng bằng không những không thể tăng cường
thêm sức phòng thủ mà thậm chí chỉ làm tăng thêm không khí hoang mang
cho những kẻ chưa bị tấn công.
Vì sao Thiệu quyết rút khỏi cao nguyên?
Nhận xét về quyết định rút khỏi Tây Nguyên của quân đội Sài Gòn, trong hồi ký "Đại thắng mùa xuân", Đại tướng Văn
Tiến Dũng viết: “…trong ký ức tôi hiện lên nhiều hình ảnh rút chạy của
địch trong cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ: cảnh tháo chạy của
Sáctông và Lơpagiơ trên đường số 4 hồi Chiến dịch Giải phóng Biên giới,
cảnh tháo chạy của Trung đoàn thuỷ quân lục chiến Mỹ ở Khe Sanh năm
1968, của Sư đoàn 1, các lữ đoàn dù và lữ thuỷ quân lục chiến nguỵ ở
Đường 9-Nam Lào năm 1971, của Sư đoàn 3 nguỵ ở Quảng Trị năm 1972. Địch
đã nhiều phen rút chạy trước sức tiến công của ta và thường áp dụng
những thủ đoạn nghi binh khác nhau khi rút.Nhưng giờ đây, cả một quân
đoàn chủ lực của nguỵ rút chạy hộc tốc, bỏ cả Tây Nguyên - một địa bàn
chiến lược rất quan trọng thì vì sao? Theo lệnh ai? Hai đòn sấm sét ta
đánh ở nam Tây Nguyên đã làm rung động quân địch đến thế kia ư? Đúng là
đòn đánh trúng huyệt, địch bắt đầu ngấm, chỉ sau có mấy ngày. Đúng là
địch đã choáng váng và rối loạn về chiến lược. Lại một sai lầm nữa rất
lớn về chiến lược của chúng”
Người quyết ý rút bỏ cao nguyên là Tổng thống chính quyền Sài Gòn
Nguyễn Văn Thiệu. Là một sĩ quan lục quân được đào tạo bài bản theo
chương trình của Pháp trước khi bước vào chính trường Thiệu không thể
không hiểu vị trí chiến lược của Tây Nguyên. Vậy thì vì sao ông ta đã
quyết định đi một nước cờ như vậy?
Trong cuốn sách "Khi đồng minh tháo chạy", ông Nguyễn Tiến Hưng –
phụ tá của ông Thiệu đã cố gắng trả lời câu hỏi này dựa trên các sự kiện
liên quan. Theo ông Hưng, ảnh hưởng lớn nhất cho quyết định này là tình
hình viện trợ quân sự của Mỹ.
Giữa tháng 8/1974, Quốc hội Mỹ duyệt mức chuẩn chi viện trợ quân sự
cho Việt Nam Cộng hòa ở con số 700 triệu USD. Cũng thời điểm đó, theo
tính toán của Bộ Tổng tham mưu quân đội VNCH, dự trữ đạn dược và xăng
dầu đã gần cạn, nếu không có bổ sung, dự trữ đạn tồn kho chỉ đủ cung ứng
được từ 30 đến 45 ngày. Tướng Cao Văn Viên nói rằng: “Số đạn tồn kho sẽ
hết vào tháng 6/1975 nếu không nhận được thêm viện trợ”.
Trên cơ sở đó, một số tướng lĩnh Sài Gòn dưới sự cố vấn của sĩ quan
Mỹ đã đề xuất lên ông Thiệu ý tưởng rút bỏ cao nguyên nếu quân giải
phóng tổng tấn công. Ông Nguyễn Tiến Hưng kể lại rằng trong một cuộc họp
hồi cuối năm 1974, ông đã đọc được một tài liệu phân tích ảnh hưởng của
các mức viện trợ quân sự tới khả năng chiến đấu và phân chia theo từng
quân, binh chủng. Theo đó, nếu mức viện trợ quân sự là 1,4 tỷ USD thì có
thể giữ được tất cả những khu đông dân cư của cả 4 vùng chiến thuật.
Nếu là 1,1 tỷ thì vùng I phải bỏ. Nếu là 900 triệu thì khó lòng giữ được
vùng I và vùng II chiến thuật. Nếu là 750 triệu thì chỉ có thể phòng
thủ vài khu vực chọn lọc. Nếu dưới 600 triệu thì chỉ còn giữ được Sài
Gòn và vùng châu thổ sông Cửu Long.
Ngoài ra, từ 1/8/1974, một nhóm nghiên cứu của quân đội Sài Gòn
được Chuẩn tướng về hưu Ted Sarong của Australia cố vấn đã đi đến kết
luận là quân đội Sài Gòn nên bỏ vùng I và vùng II và tập trung lại để
chỉ giữ một tuyến từ Tây Ninh tới Nha Trang.
Như vậy, quyết định rút khỏi cao nguyên của ông Thiệu ít nhất đã
được xem xét từ trước đó vài tháng nhưng không phải dựa trên những cân
nhắc chiến lược chiến thuật quân sự mà chỉ dựa trên số lượng viện trợ
quân sự Mỹ. Qua đó cho thấy rõ tính chất phụ thuộc của quân đội Sài Gòn
vào Mỹ.
Cao Văn Viên - Viên Tướng VNCH Kỳ Lạ Nhất SG Với Lời Thú Nhận Muộn Màng Trước Lúc Lâm Chung
Cuộc tháo chạy bi thảm của quân đội Sài Gòn (Bài 1): Sai lầm không thể cứu vãn
(PLO) - Trước sức mạnh của Quân Giải phóng miền Nam (QGP) trong
Chiến dịch Tây Nguyên (từ 4/3 – 3/4/1975), những nỗ lực tái chiếm Buôn
Ma Thuột của Quân lực Việt Nam Cộng hòa (VNCH) trong các trận phản công
đều thất bại.
Ngày
14/3/1975, Nguyễn Văn Thiệu đã có một bước đi hết sức sai lầm khi ông ta
quyết định rút quân trên toàn địa bàn Tây Nguyên để về giữ miền duyên
hải Trung bộ. Ba ngày sau đó, hầu như toàn bộ Quân đoàn II quân VNCH tử
trận và tan rã trong cuộc rút quân hỗn loạn trên con đường số 7 định
mệnh.
Cuộc triệt thoái này của quân đội Sài
Gòn đã tạo nên một lỗ hổng rất lớn trong tuyến phòng thủ quân sự, mở đầu
cho những thất bại quân sự không thể cứu vãn nổi của VNCH. Ngay trong
hồi ký, hồi ức của những sĩ quan VNCH và các nhà bình luận quân sự, điều
này đều được thừa nhận.
Đọc quân sử thế giới, người ta thấy một
định nghĩa chung về “hành quân triệt thoái”: Đó là hình thức hành quân
khó nhất và nản lòng nhất. Đội quân nào được kể là thiện chiến nhất trên
thế giới cũng vẫn e ngại khi phải thực hiện hành quân triệt thoái khi
đang giao tranh với đối phương.
Kế hoạch triệt thoái thiết lập thật tỉ
mỉ, sự thi hành kế hoạch phải thật nghiêm chỉnh và đúng. Phải có sự lưu
thông rất cao. Đó là những đòi hỏi căn bản để thực hiện tốt đẹp một cuộc
triệt thoái.
Trên bản đồ thì triệt thoái chỉ có nghĩa
là một vài nét vạch bằng viết chì giải thích nhu cầu gom quân lại để có
thêm lực lượng dự bị, để rút ngắn đường tiếp tế hòng lập một kế hoạch
phòng thủ hữu hiệu hơn, hoặc một mục đích khác.
Nhưng áp dụng VNCH năm 1975, các nhận
xét trên đây không dùng được. Cuộc triệt thoái được thiết kế thật tồi
tệ, thời gian triệt thoái sai lầm một cách tai hại, thi hành kế hoạch
thật nghèo nàn từ cấp lãnh đạo cao nhất ở Sài Gòn cho đến cấp tiểu đoàn.
Thiên tài quân sự thế giới Napoleon có
nói đến hai điều áp dụng rất đúng cho sự tan rã của quân lực VNCH mùa
xuân năm 1975. Một là “không có những trung đoàn tồi mà chỉ có những đại
tá tồi”. Hai là “trong chiến tranh, tinh thần cần thiết hơn vũ khí theo
tỷ lệ bốn trên một”.
Lệnh triệt thoái vô trách nhiệm với cấp dưới
Hãy nhìn lại cuộc triệt thoái từ cao
nguyên đến Tuy Hòa 7 ngày 7 đêm trên quãng đường 300km này. Ai ra lệnh
triệt thoái? Triệt thoái để làm gì? Cuộc triệt thoái được thi hành như
thế nào?
Lúc 11h32’ ngày 14/3/1975, Nguyễn Văn
Thiệu chủ tọa một phiên họp tại Cam Ranh, trong tòa nhà màu trắng nguy
nga như một lâu đài. Tòa nhà này từng được làm trong thời gian cực ngắn,
tốn phí một triệu USD để tổng thống Mỹ London Johnson tới làm việc và
nghỉ có đúng một đêm.
Nhật ký hành quân của thiếu tá VNCH Phạm
Huấn, sĩ quan tùy viên của tướng Phạm Văn Phú, ghi có những nhân vật
sau đây dự buổi họp với Thiệu: Tướng Trần Thiện Khiêm (Thủ tướng VNCH),
tướng Cao Văn Viên (Tổng tham mưu trưởng quân lực VNCH), tướng Đặng Văn
Quang (Phụ tá An ninh Quân sự của Thiệu) và tướng Phạm Văn Phú (Tư lệnh
Quân khu 2 và Quân đoàn 2).
Một binh sĩ VNCH gục đầu chán nản |
Buổi họp kéo dài từ 11h32’ đến 13h29’.
Vẫn theo nhật ký của thiếu tá Phạm Huấn, Thiệu đã ra những chỉ thị quái
gở sau đây trong buổi họp.
Thiệu ra lệnh cho tướng Phú: “Tôi ra
lệnh cho các anh mang chủ lực quân, chiến xa, đại bác, máy bay về phòng
thủ duyên hải và tổ chức hành quân tái chiếm Ban Mê Thuột.
Có nghĩa là các lực lượng Địa phương
quân vẫn ở lại chiến đấu. Các cơ sở hành chính ba tỉnh Pleiku, Kontum,
Phú Bổn (trước 1975 VNCH chia Pleiku ra hi tỉnh Pleiku và Phú Bổn. Từ
năm 1976, tỉnh được nhập vào tỉnh Đắk Lắk, sau đó phần lớn diện tích lại
được nhập sang tỉnh Gia Lai - Kon Tum - NV) vẫn tiếp tục làm việc cùng
với tỉnh trưởng, quận trưởng như thường lệ.
Quyết định mang tất cả chủ lực quân,
chiến xa, pháo binh, máy bay của quân đoàn 2 khỏi Pleiku, Kontum, tôi đã
thảo luận với các tướng lãnh. Đây cũng là một quyết định chung của Hội
đồng Tướng lãnh như quyết định hôm qua cho tướng Trưởng ngoài Quân đoàn
I”.
Tướng Phú bỗng hỏi Thiệu:
“Thưa tổng thống, nếu chủ lực quân thiết
giáp, pháo binh rút đi, làm sao địa phương quân chống đỡ nổi khi đối
phương đánh? Còn hàng chục ngàn dân, gia đình anh em binh sĩ?.
Thiệu trả lời:
“Tôi “cho” đối phương số dân đó. Với
tình hình nặng nề hiện tại, mình phải lo phòng thủ, giữ được những vùng
dân cư đông đúc, màu mỡ… hơn là bị kẹt quá nhiều quân trên vùng cao
nguyên”.
Cao Văn Viên, Trần Thiện Khiêm và Đặng
Văn Quang đều im lặng, cái im lặng mặc nhiên xác nhận sự đồng lõa của họ
trong quyết định liều lĩnh kiểu “điếc không sợ súng” của Thiệu.
Khi bàn về lộ trình rút, tướng Phú đề
nghị cho liên tỉnh lộ số 7 để rút quân vì ông cho rằng trên trục lộ ấy,
“hiện không có chủ lực quân của đối phương”.
Tổng tham mưu Cao Văn Viên trả lời như
sau, khi được Thiệu hỏi ý kiến về sự lựa đường số 7 để rút: “Trình Tổng
thống, nếu sử dụng được tỉnh lộ 7, sẽ có yếu tố bất ngờ và hi vọng thành
công hơn Quốc lộ 19, nối liền Pleiku - Qui Nhơn”.
Và đây là chỉ thị chót của Thiệu cho
tướng Phú: “Thiếu tướng Phú, tôi cho anh toàn quyền tổ chức và quyết
định về cuộc hành quân để mang tất cả chủ lực quân, chiến xa, pháo binh,
máy bay của Quân đoàn 2 về phòng thủ duyên hải, và tái chiếm Buôn Mê
Thuột.
Vì tính cách vô cùng quan trọng của
cuộc hành quân này, và để giữ được yếu tố bất ngờ với đối phương, anh
chỉ cho các tướng lãnh, cấp chỉ huy biết từng phần của lệnh này, và ra
lệnh tuyệt đối giữ bí mật với dân chúng”.
Kế hoạch sơ sài, người chỉ huy thiếu kinh nghiệm
Cần nhắc lại rằng lúc Thiệu ban hành
lệnh triệt thoái một cách rất vô trách nhiệm này thì trên lãnh thổ Quân
đoàn 2, quân lực VNCH còn có quân số tới 179 ngàn người. Trong số này,
có sư đoàn 22 Bộ binh, sư đoàn 23 Bộ binh, sáu Liên đoàn Biệt Động quân,
bốn Trung đoàn Kỵ binh Thiết giáp, và 12 tiểu đoàn pháo binh. Số quân
xa tổng cộng lên tới 4000 chiếc lớn nhỏ. Đó là chưa kể số máy bay của
Không quân VNCH.
Tướng Phú làm thế nào mà giữ được bất
ngờ nếu cả trăm ngàn quân sĩ và 4000 quân xa đủ loại kia ào ào kéo nhau
di chuyển trên liên tỉnh lộ 7? Phải chăng ông ta tin rằng đối phương sẽ
ngồi yên cho phía VNCH an toàn mang chủ lực Quân đoàn 2 về duyên hải, và
lại cũng sẽ ngồi yên cho Quân đoàn ấy tổ chức hành quân tái chiếm Buôn
Mê Thuột, như lời Thiệu đã nói trong cuộc họp tại Cam Ranh buổi trưa
14/3/1975?
Tầm vóc và kích thước nỗi bi thảm của sự
sụp đổ mau lẹ của VNCH càng ngày càng hiện rõ trước các lệnh mới của
Thiệu, và trước các hành động của cấp thừa hành.
Một thông tin khác cũng do thiếu tá Phạm
Huấn, sĩ quan tùy viên tướng Phú nêu ra, đã giúp người ta hiểu được một
phần lý do đã đưa tới sự tan rã mau lẹ của cả một Quân đoàn:
“...Lại thêm một cái lệnh, một biến
chuyển vô cùng quan trọng nữa mà tôi không thể hiểu nổi. 23h đêm
11/3/1975, tổng thống Thiệu gọi cho tướng Phú để chỉ thị tránh sa lầy,
sử dụng quá nhiều quân vào một mặt trận. Toàn quyền linh động, có thể bỏ
Ban Mê Thuột.
Nhưng ngay sáng hôm sau, 12/3/1975, các
hệ thống truyền thanh, truyền hình và báo chí khai thác tối đa lệnh tái
chiếm Ban Mê Thuột của tổng thống Thiệu. Tất cả lực lượng trực thăng bốn
quân khu của VNCH đã được tập trung để thực hiện cuộc đổ quân tăng viện
tái chiếm Ban Mê Thuột, rồi thất bại. Và rồi ngày 14/3/1975, tổng thống
Thiệu bay ra Cam Ranh cùng với Hội đồng tướng lãnh gần như bắt buộc Tư
lệnh Quân đoàn 2 phải rút bỏ cao nguyên...
Tướng Phú trong buổi họp tại Cam Ranh,
và trên đường về, nói với tôi, thề quyết sẽ tử thủ Pleiku. Nhưng chỉ mấy
giờ sau, ông họp Bộ Tham mưu thiết kế lệnh triệt thoái. Và sáng hôm
nay, ông đã bỏ đi như một người chạy trốn, một cấp chỉ huy không có
trách nhiệm”.
Ở đoạn trên, thiếu tá Phạm Huấn đã nói
đến lực lượng trực thăng gom từ bốn Quân khu về Pleiku để đổ quân tăng
viện trong cái ý định gọi là tái chiếm Ban Mê Thuột. Thế nhưng phân tích
chi tiết này, người ta sẽ thấy chưa bao giờ sự yếu kém của quân VNCH
hiện rõ như lúc này. Phải mất gần ba ngày, quân lực VNCH mới chuyển được
gần sáu tiểu đoàn tới sân bay Phước An.
Một con số khác cũng cần được nhắc lại ở
đây để làm rõ thêm số phận của một quân đội được huấn luyện theo binh
pháp nhà giàu, rồi bỗng bị bỏ rơi một mình ôm cái lý thuyết nhà giàu ấy
để áp dụng bằng những phương tiện nhà nghèo: Chỉ riêng trong trận Ia
Drang, quân lực Mỹ đã dùng tới toàn thể 450 chiếc trực thăng của Sư đoàn
Kỵ binh Không vận Mỹ, chưa kể hàng trăm vận tải cơ lớn nhỏ của không
lực Mỹ để chở cùng một lúc sáu tiểu đoàn dù VNCH nhảy xuống vùng biên
giới ranh giới tỉnh Pleiku.
Nhật ký hành quân của Quân đoàn 2 ghi
rằng kế hoạch triệt thoái được thảo xong trong vòng có hai ngày. Mọi
nguyên tắc căn bản và sơ đẳng để thiết kế và điều khiển một cuộc hành
quân triệt thoái cấp chiến lược đã hoàn toàn bị gạt sang một bên.
Khu vực trung tâm Kontum nhìn từ máy bay đầu năm 1975 |
Sĩ quan được chọn lựa để điều khiển cuộc
hành quân lịch sử này là đại tá Phạm Duy Tất (chỉ huy trưởng các đơn vị
Biệt động quân của Quân khu 2). Không ai chối cãi rằng đại tá Tất là
một sĩ quan cấp tá giỏi và can đảm, nhưng ngoài nhiệm vụ chỉ huy các
liên đoàn ở cấp quân khu, ông ta chưa có vinh dự thử lửa để điều khiển
một cuộc hành quân cấp sư đoàn và cấp cao hơn nữa.
Binh sĩ tức giận bắn lên máy bay Tư lệnh mặt trận
Buổi chiều 14/3/1975, tướng Phạm Văn Phú
họp Bộ Tham mưu Quân đoàn, long trọng “thừa ủy nhiệm Tổng thống, Tổng
Tư lệnh Tối cao Quân lực VNCH” đặc cách thăng cấp Chuẩn tướng cho Đại tá
Phạm Duy Tất (lúc ấy là Tư lệnh Mặt trận Kontum). Gắn lon cho Đại tá
Tất xong, tướng Phú chỉ định chuẩn tướng Tất điều khiển tổng quát cuộc
triệt thoái.
Vụ gắn lon cấp tướng theo tinh thần khẩn
cấp này làm buồn lòng không ít sĩ quan trong bộ tham mưu của tướng Phú.
Nhưng mọi người đã tìm được một lời giải thích không mấy vẻ vang: “Ai
cũng biết đại tá Tất trước kia cùng ở Lực lượng Đặc biệt, và là đàn em
thân tín của tướng Phú.”
Tình trạng vô kỷ luật bắt đầu diễn ra từ
đây. Khi được chỉ định làm tân tư lệnh sư đoàn 23 Bộ binh, Tỉnh trưởng
Nha Trang là đại tá Lý Bá Phẩm từ chối. Sau đó, ông ta lại được tướng
Phú ra lệnh “chịu trách nhiệm về quốc lộ 21 từ Khánh Dương về Nha Trang,
và tổ chức tuyến phòng thủ thứ 3 tại Dục Mỹ. Người ta có thể đoán trước
số phận của “tuyến thứ 3” sẽ ra sao trong tình thế này rồi.
ADVERTISEMENT
Vào
buổi chiều ngày đầy hỗn loạn này, viên tổng lãnh sự Mỹ ở Nha Trang đến
gặp tướng Phú. Phía Mỹ đã biết là VNCH muốn rút bỏ cao nguyên, nhưng họ
phàn nàn là “không được thông báo và không được sự hợp tác của phía
VNCH”. Do đó họ đành phải “tự lo liệu di tản nhân viên và các hồ sơ mật
tại ba tỉnh Kontum, Pleiku và Phú Bổn.”
Một đoàn xe tăng VNCH tìm đường rút quân |
Trước khi cuộc triệt thoái bắt đầu, nhật ký hành quân của Quân đoàn 2 ghi những chi tiết này:
1. Hai Liên đoàn Biệt động quân của Quân
đoàn 2 (mang số 25 và 47) đang phòng thủ ở tuyến xa nhất của mặt trận
nam Pleiku thì được lệnh rút mà không được bảo vệ. Tướng Tất gọi về Quân
đoàn xin oanh tạc để yểm trợ cuộc rút của hai liên đoàn kia.
Một sĩ quan cùng ngồi trên chiếc trực
thăng chỉ huy của tướng Tất tiết lộ rằng “khi Tư lệnh Mặt trận bay trên
đầu cánh quân này, phía dưới đã bắn lên. Tất cả các cấp của hai liên
đoàn này đều rất tức giận vì cuộc rút quân diễn ra mau quá, họ cảm thấy
như bị bỏ rơi”.
2. Lúc gần chiều tối, phi trường Cù Hanh
ở Pleiku bị pháo, nhưng báo cáo lại khác nhau. Phụ tá hành quân của
tướng Phú và tham mưu trưởng của Quân đoàn 2 báo cáo rằng sân bay chỉ bị
pháo nhẹ, trong khi Tư lệnh Sư đoàn 6 Không quân lại báo cáo rằng sân
bay bị pháo nặng.
Phi trường rất hỗn loạn. Tại Pleiku, khi
tướng Phú đi rồi, bốn người có quyền hành nhất là tướng Tất, tướng Cẩm,
tướng Sang và đại tá Lý. Không ai phục ai. Mọi việc đều được quyết định
theo kiểu tự do và chỉ có mục đích có lợi cho phe nhóm, cho em út dưới
quyền.
3. Khoảng 20h. Tướng Phú gọi Tư lệnh Sư
đoàn 23 và Tỉnh trưởng Nha Trang ra lệnh phải bảo vệ tối đa quốc lộ 21
(Khánh Dương - Nha Trang) không để cho đối phương đóng chốt, và đề phòng
sự xáo trộn, hỗn loạn trong thị xã.
4, Sau đó, tướng Phú ra lệnh cho tướng
Cẩm ủy nhiệm các tỉnh trưởng Kontum và Pleiku phải giữ hai tỉnh ấy sau
khi Bộ Tư lệnh Quân đoàn đã rút đi.
5, Tướng Phú ra lệnh cho tỉnh trưởng
tỉnh Quảng Đức (địa bàn tỉnh Quảng Đức gần như là địa bàn tỉnh Đắk Nông
ngày nay - NV) là phải giữ tỉnh ấy “bằng mọi giá,” dầu cho có phải chết
tại đó.
Người ta có thể tóm tắt lệnh của tướng
Phú như sau: “Quân đoàn rút đi, còn các tỉnh địa đầu như Kontum, Quảng
Đức phải tử thủ. Các đơn vị Địa phương quân tuy chỉ được trang bị toàn
súng hạng nhẹ lại được giao trọng trách ở lại đương đầu với lực lượng
chủ lực của QGP, chưa kể là QGP còn được tăng cường nhiều đơn vị chiến
xa và pháo binh”.
Tình cảnh “thượng bất chính, hạ tắc loạn”
Tin Quân đoàn 2 rút khỏi cao nguyên
chẳng còn gì gọi là bí mật nữa. Hai ngày trước khi cuộc triệt thoái bắt
đầu, những người sống ở thị xã Pleiku (dân cũng như quân) đều biết. Hậu
quả đầu tiên và không tránh được là cướp phá, bắn giết và hỗn loạn ở
trong và ngoài thị xã.
Tình hình hỗn loạn không kém tại các phi trường |
Trong cái không khí đượm màu bại trận
ấy, người ta còn phải chứng kiến sự chia rẽ, bất mãn và thù hận lẫn nhau
trong Bộ Tham mưu Quân đoàn 2 trước và trong lúc triệt thoái.
Thiếu tá Phạm Huấn ghi lại các báo cáo
“chọi” nhau của các giới hữu trách quân đội VNCH. Tham mưu trưởng của
Quân đoàn 2 (đại tá Lê Khắc Lý) báo cáo về phòng 3 Bộ Tổng Tham mưu rằng
Pleiku rất hỗn loạn trong ngày 16/3/1975. Dân chúng và gia đình binh sĩ
tràn vào sân bay Cù Hanh dữ dội quá đến nỗi lực lượng an ninh không cản
được.
Nhưng Tỉnh trưởng Pleiku là đại tá Nhu
lại báo cáo với tướng Phú (lúc này có mặt tại Nha Trang) rằng tình hình
có rối loạn nhưng không trầm trọng lắm.
Vì Tỉnh trưởng Pleiku được coi như tiếng
nói chính thức đại diện cho tướng Phạm Duy Tất (Tư lệnh cuộc triệt
thoái) nên tướng Phú tin ở báo cáo của ông ta và tường trình với phòng 3
Bộ Tổng Tham mưu rằng “đại tá Lý mất bình tĩnh nên báo cáo không đúng
sự thật”.
Nhân chứng Phạm Huấn nhận xét rằng, đại
tá Lý là một sĩ quan tham mưu tài giỏi, nhưng ông ta bất mãn vì đã từng
được tướng Phú hứa cho thăng cấp tướng, rồi lại chứng kiến cảnh cho
thăng cấp tướng “khẩn cấp” cho đại tá Tất. Vì sự bất mãn này, cho nên
sau khi tướng Phú đi khỏi Pleiku, đại tá Lý đã bất chấp mọi mệnh lệnh
của những cấp chỉ huy trực tiếp của ông.
Nhân chứng Phạm Huấn làm cho người đọc
có thể hiểu lầm rằng đại tá Lý quá bất mãn về vụ không được thăng cấp
tướng nên đã bất phục tùng, nhưng Thiếu tá Phạm Huấn đã cho người ta một
cái nhìn thẳng thắn về sự bối rối của toàn thể bộ tham mưu của Quân
đoàn 2, từ Tư lệnh Quân đoàn Phạm Văn Phú cho đến Tham Mưu trưởng Lê
Khắc Lý và các sĩ quan cao cấp khác.
Từ nhận xét của Phạm Huấn, người đọc sẽ
nhận ra một cuộc triệt thoái chiến lược lại được thiết kế một cách cẩu
thả gần như vô trách nhiệm như vậy. Cấp lãnh đạo Quân đoàn lại còn mắc
vào cái lỗi sơ đẳng là “thượng bất chính, hạ tắc loạn” nữa.
Mời bạn đọc đón đọc tiếp kỳ sau.
Tiểu Sử Số Phận 5 Đại Tướng Cấp Cao Của Chế Độ VNCH Trước Và Sau Năm 75
Quân Sài Gòn không lường trước được sự hư hại của liên tỉnh lộ 7B
Súng ống bị binh sĩ VNCH ném lại
Cuộc tháo chạy bi thảm của quân đội Sài Gòn (Bài 2): Đoàn xe 2.000 chiếc nằm chờ cầu
(PLO) - Viết về cuộc triệt thoái từ cao nguyên đến Tuy Hòa của quân
đội Sài Gòn, còn có hai tác giả Mỹ Clark Dougan và David Fulghum, từng
viết cả một quyển sách về sự sụp đổ của chế độ VNCH. Điều đáng chú ý ở
cuốn sách của hai tác giả này là họ đã căn cứ vào tài liệu của hai bên
để vẽ lại bức tranh ảm đạm của quân Việt Nam Cộng hòa (VNCH) trên chiến
trường từ tháng 1/1975 cho đến tháng 4/1975.
Về phía VNCH, có nhiều nhân vật quân sự
cao cấp thường hay được hai tác giả trích dẫn, nhất là trích dẫn nhiều
lần tuyên bố của tướng Cao Văn Viên. Điều đặc biệt khác là tham mưu
trưởng của tướng Phạm Văn Phú, Đại tá Lê Khắc Lý, cũng được nhắc tới
nhiều không kém.
Quên cả Địa phương quân
Dưới đây là nhận xét của hai tác giả nói
trên về lệnh và sự chuẩn bị cuộc triệt thoái. Theo đó thì tướng Phú lựa
liên tỉnh lộ 7B để triệt thoái từ cao nguyên về Tuy Hòa vì ông ta tin
là Quân Giải phóng (QGP) không ngờ rằng cả một quân đoàn với cả mấy ngàn
chiếc quân xa lớn nhỏ, với cả trăm ngàn binh sĩ lại dám lựa một lộ
trình táo bạo như vậy. Liên tỉnh lộ này đã bị bỏ hoang từ nhiều năm.
Đó chỉ là sự ước tính lạc quan của tướng
Phú. Thực tế thì đã có sẵn nhiều trở ngại. Ví dụ không có một ai trong
Bộ Tham mưu của Quân đoàn 2 biết rõ tình trạng của liên tỉnh lộ 7 tồi tệ
đến mức nào. Người ta chỉ được biết là một cây cầu lớn trên sông Ba đã
bị phá hủy, và rằng 30km số đường trước khi đến Tuy Hòa đã bị quân lực
Đại Hàn đặt mìn trong thời kì quân Đại Hàn tham chiến tại Nam Việt Nam.
Tuy vậy tướng Phú tin rằng nếu Bộ Tổng
Tham mưu cung cấp đủ phương tiện để vượt sông thì ông ta tin là có thể
an toàn đưa Quân đoàn 2 ra khỏi vùng Cao nguyên, trong khi Địa phương
quân (ĐPQ) chặn đối phương tại Pleiku và dọc lộ trình rút lui.
Điều kỳ lạ nhất là khi thiết lập vội
vàng kế hoạch triệt thoái, Quân đoàn 2 đã quên hẳn các đơn vị ĐPQ. Quân
đoàn không cho ĐPQ biết gì về cuộc rút quân nhưng lại tin tưởng là ĐPQ
sẽ đắc lực yểm trợ cuộc rút quân ấy.
Nói một cách khác, Quân đoàn muốn ĐPQ
phải bảo vệ cuộc rút quân tuy rằng ĐPQ không hề biết chút nào về việc
rút quân ấy. Có thể đây là một trong những điều kỳ quái nhất và đáng xấu
hổ nhất của lịch sử lãnh đạo chính trị và quân sự VNCH.
Tướng Phú chỉ chú ý tới có một điều là
làm sao triệt thoái cho thật mau. Do đó, bộ tham mưu của ông ta chỉ có
đúng hai ngày để lập kế hoạch. Và ông ta dự trù chỉ cần bốn ngày là
triệt thoái xong. Một ngày sẽ có một quân đoàn xa khoảng 250 chiếc ra
khỏi Pleiku để theo liên tỉnh lộ 7 tiến xuống Tuy Hòa.
Liên đoàn 21 công binh chiến đấu sẽ dẫn
đầu đoàn quân xa thứ nhất để khai quang và sửa chữa cầu cống, đường xá.
Tướng Phú ước lượng rằng công binh chỉ cần hai ngày là có thể làm cho
quãng đường 200km từ ngoại ô Pleiku tới Tuy Hòa dùng tốt rồi. Và sự phân
chia thứ tự triệt thoái theo tướng Phú là công binh chiến đấu đi trước.
Đoàn xe và người hướng về phía Tuy Hòa |
Ở khúc giữa là pháo binh, quân y, bộ
tham mưu Quân đoàn và các đơn vị còn lại của sư đoàn 23 Bộ binh. Hai bên
sườn được Trung đoàn 21 Thiết giáp bảo vệ. Ở đoạn hậu của quân đoàn xa
triệt thoái là các đơn vị của tướng Phạm Duy Tất. Các đơn vị chỉ nhận
được lệnh khởi hành một giờ trước khi lên đường.
Vì chỉ có hai ngày để thi hành mệnh lệnh
cho nên Sư đoàn Không quân tại Pleiku không thể lo cung cấp sự yểm trợ
cho đoàn quân xa sắp rút. Các đơn vị Không quân còn phải lo chuyển máy
bay, nhân viên và gia đình binh sĩ ra khỏi Cao nguyên. Sự việc này là
một bất lợi và nguy hiểm lớn cho các đoàn quân xa nếu QGP chặn đánh trên
lộ trình rút lui.
Tướng Phú chỉ định đại tá Lý đi theo các
quân đoàn xa. Ông ta nói với đại tá Lý: “Chúng sẽ từ Nha Trang lập kế
hoạch tái chiếm Ban Mê Thuột”.
Khi đại tá Lý hỏi về kế hoạch rút các
đơn vị ĐPQ ra khỏi Pleiku thì tướng Phú trả lời: “Hãy quên họ đi. Nếu
ông nói cho họ biết về cuộc triệt thoái thì ông sẽ không kiểm soát được
họ và ông sẽ không thể tới được Tuy Hòa vì sẽ có hỗn loạn”.
Tướng Phạm Duy Tất chỉ huy đoàn quân
triệt thoái. Đại tá Lý chỉ huy Bộ tham mưu của Quân đoàn và các đơn vị
tiếp cận. Nhưng tướng Phú lại còn chỉ định phụ tá hành quân của ông ta
là tướng Trần Văn Cẩm làm “giám sát” cuộc triệt thoái. Mọi người, kể cả
tướng Cẩm, đều không ai hiểu rõ ý định của tướng Phú về cơ cấu điều
khiển cuộc rút quân này.
Thấy phải chia sẻ quyền chỉ huy với
tướng Tất, tướng Cẩm giận dữ và sau khi tướng Phú đi khỏi Pleiku, tướng
Cẩm lẳng lặng dúng máy bay về Tuy Hòa.
Khi liên lạc với tướng Tất để nhận lệnh
thì đại tá Lý được nhân viên của tướng Tất trả lời rằng tướng Tất còn
đang lo điều động để rút các đơn vị Biệt động quân ra khỏi Pleiku và
chuẩn bị cuộc triệt thoái. Rồi tướng Tất ra lệnh cho đại tá Lý lập kế
hoạch rút quân. Đại tá Lý tuân hành nhưng các đơn vị sắp rút không được
bảo vệ trước khi rút vì lẽ giản dị là ĐPQ không được thông báo về cuộc
triệt thoái.
Tỉnh trưởng cũng… không biết tin
Tin về cuộc rút lui lan truyền đến mọi
cấp chỉ huy, và từ đó, mọi người đều chỉ biết lo cho sự rút lui của
chính bản thân. Viên Tỉnh trưởng Kontum chỉ được biết có cuộc triệt
thoái khi ông ta thấy có đơn vị Biệt động quân ở gần đó rút đi. Ông ta
vội nhảy lên một xe Jeep và nhập được vào đoạn cuối của đoàn quan xa.
Nhưng ông ta đã tử trận trước khi tới
Pleiku vì đoàn xe lọt vào một ổ phục kích. Khi cấp chỉ huy của ĐPQ phải
tháo chạy như vậy thì các đơn vị ĐPQ không còn ai điều khiển nữa, và
không thể nào chờ đợi rằng các đơn vị ĐPQ sẽ đánh cầm chân quân đối
phương để các đơn vị chính quy của VNCH rút lui an toàn.
Trong giới hạn khả năng của mình lúc ấy,
đại tá Lý cố gắng loan báo cuộc triệt thoái. Ông ta thông báo cho các
cơ quan của Mỹ và các tổ chức khác tại Pleiku. Đại tá Lý nói rằng:
“Thoạt đầu, họ không tin lời của tôi là có cuộc rút lui thật nhưng tôi
bảo họ cứ là đi đi và đừng nói nữa”.
Đến 10h sáng ngày 15/3/1975 thì tin về
cuộc triệt thoái đã được người Mỹ tại Pleiku chuyển về Sài Gòn. Và đến
buổi trưa cùng ngày thì sứ quán Mỹ ra lệnh cho mọi người Mỹ phải ra khỏi
vùng cao nguyên. Trong vòng bốn giờ rưỡi, 450 nhân viên (Mỹ và người
Việt làm việc cho cơ quan Mỹ tại Pleiku) đã được các máy bay của Air
America (là hãng máy bay phục vụ cho cơ quan tình báo CIA của Mỹ tại
Việt Nam) chở ra khỏi Pleiku.
Trực thăng bốc các đơn vị quân Sài Gòn rời khỏi nơi đóng quân |
Mặc dù sứ quán Mỹ và chính quyền Mỹ tại
Washington bị bất ngờ về cuộc triệt thoái này, nhưng trước đó ít ngày,
chính quyền Thiệu đã thăm dò ý người Mỹ về vụ rút quân này. Được biết
vào ngày 11/3/1975, Thiệu cho Tổng trưởng Kinh tế tới gặp cố vấn sứ quán
Mỹ là Dan Ellerman để hỏi xem đại sứ Mỹ “có tán thành một cuộc giảm bớt
lãnh thổ của VNCH không?”.
Vì lúc ấy đại sứ Mỹ Graham Martin không
có mặt tại Sài Gòn cho nên Ellerman và thường vụ sứ quán Mỹ là Wolfgang
Lehmann trả lời rằng quyết định cắt bớt lãnh thổ phải là quyết định của
VNCH chứ không thể là quyết định của đại sứ Mỹ.
Ngày 16/3/1975, khi tin tức về cuộc
triệt thoái truyền tới Washington, phụ tá cố vấn an ninh quốc gia của
tổng thống Mỹ là Brent Scowcròt tiếp xúc với đại sứ Mỹ Graham Martin lúc
ấy đang chữa răng tại nhà riêng thuộc tiểu bang North Carilina. Martin
nói rằng trước đây khi rời Sài Gòn thì ông ta có được thông báo rằng
Quân đoàn 2 phải di chuyển tới vùng bờ biển nhưng ông ta nói rằng chỉ
biết có bấy nhiêu thôi.
Tin Ban Mê Thuột lọt vào tay QGP đến với
ngoại trưởng Mỹ Kissingers lúc đang ở trên một chuyến bay tới vùng
Trung Đông. Vì không có ý kiến của đại sứ Mỹ Martin, Kissingers quyết
định tuyên bố rằng sự thất thủ ấy không phải là cuộc khủng hoảng thật
sự. Kissingers nói với các phụ tá cho rằng đây là bước đầu tiên của
Thiệu để củng cố lực lượng để chuẩn bị một tuyến phòng thủ vững chắc
hơn.
Mãi tới hai ngày sau, phía Mỹ mới được
biết cái lập luận của VNCH. Buổi tối ngày 17/3/1975, trong bữa ăn tại
nhà riêng của trùm CIA tại Sài Gòn là Thomas Polgar, với sự có mặt của
một số nhân vật Việt và Mỹ, cố vấn an ninh của Thiệu là tướng Đặng Văn
Quang đã mang lịch sử ra để giải thích quyết định rút lui của Thiệu.
Quang nói rằng “cũng giống như khi người
Nga đã tiêu diệt quân của Napoleon năm 1812 bằng cách đổi lãnh thổ lấy
thời gian, VNCH cũng sẽ đánh bại QGP. Có lẽ mùa mưa cũng sẽ giúp chúng
tôi, cũng như mùa đông đã giúp người Nga khi trước”.
Đại tá chỉ huy phải bỏ xe đi bộ
Nhưng ở vùng cao nguyên, người ta không
chờ những lời biện bạch của Quang và của Thiệu, họ chỉ biết hành động
dựa theo thực tế. Khi thấy các đơn vị quân đội VNCH bắt đầu rút khỏi các
vị trí ở Pleiku, và khi thấy các máy bay thay nhau chuyên chở binh sĩ
làm nhiều đợt suốt ngày đêm thì người dân bảo nhau rằng đã đến lúc rút
lui theo quân đội.
Đến đêm Chủ nhật, đoàn quân xa đầu tiên
ra khỏi Pleiku, đèn xe nào cũng mở rất sáng. Một bài báo ghi rằng người
bên ngoài nhìn đoàn xe di chuyển cách ấy sẽ nghĩ rằng “đây là một đoàn
xe đi nghỉ cuối tuần trở về”. Ở phía sau của đoàn xe là những tiếng nổ
lớn vang dội, đánh dấu cuộc phá hủy đạn dược của quân VNCH và bầu trời
nồng nặc mùi nhiên liệu của các kho xăng bị quân VNCH đốt trước khi rút.
Theo sau đoàn quân xa cát bụi ngập trời
là một đoàn người dân dài tưởng như bất tận, theo sát. Trong vòng ba
ngày đầu (từ 16 - 18/3/1975), cuộc triệt thoái diễn ra tốt đẹp, đến nỗi
từ Sài Gòn chính quyền Thiệu đánh điện khen Quân đoàn 2. Từng đoàn xe
nối đuôi nhau ra khỏi Pleiku và các đoàn xe dân sự cũng nối đuôi nhau đi
xen kẽ vào các đoàn quân xa. Nhưng sự yên tĩnh ấy chỉ là sự báo trước
đại họa sắp đến.
Súng đạn quân VNCH ném lại trên đường phố |
Đến nửa đường từ cao nguyên đến Tuy Hòa
thì đoàn người và xe dài uốn khúc như một con rắn khổng lồ bị khựng lại
vì phải chờ công binh Quân đoàn 2 hoàn tất một cây cầu bắc ngang con
song Eapa ở cách Cheo Reo vài cây số về phía Đông Nam. Cheo Reo còn gọi
là Hậu Bổn, là tỉnh lị của tỉnh Phú Bổn (trước 1975 VNCH chia Pleiku ra
hai tỉnh Pleiku và Phú Bổn.
ADVERTISEMENT
Từ
năm 1976, tỉnh được nhập vào tỉnh Đắk Lắk, sau đó phần lớn diện tích
lại được nhập sang tỉnh Gia Lai - Kon Tum - NV). Như vậy là tướng Phú đã
quá lạc quan khi ông ta tiên đoán rằng mọi sự sửa chữa trên liên tỉnh
lộ 7 chỉ cần hai ngày. Bây giờ, lo được một cây cầu lớn đầu tiên trên
liên tỉnh lộ sinh tử ấy đã mất hết 3 ngày.
Đến tối ngày 18/3/1975, sau ba ngày di
chuyển thật mệt mỏi, đoàn người và quân xa chen chúc đã tự động ngưng
lại ở quanh Cheo Reo, một thị trấn quá nhỏ để có thể chứa hàng chục
nghìn binh sĩ, thường dân và xe cộ đủ loại.
Ngoài những sự rối loạn không tránh được
trong một tình thế phức tạp như lúc ấy điều nguy hiểm nhất là đám dân
chúng hoang mang, sợ sệt, cố bám lấy cái sống một cách tuyệt vọng đã là
cản trở lớn nhất, khiến cho các đơn vị quân lực VNCH không thể thiết lập
được một sự bố trí hữu hiệu để bảo vệ ngay chính những thường dân ấy.
Trong tình thế nguy kịch lúc ấy của Cheo
Reo, nhu cầu khẩn cấp là phải có cấp chỉ huy để tổ chức cuộc phòng thủ
tối thiểu. Nhưng người chỉ huy tổng quát là tướng Phạm Duy Tất còn kẹt ở
phía sau để lo cho các đoàn Biệt động quân của ông ta, đồng thời, ông
ta còn giữ nhiệm vụ nặng nề là bảo vệ đoạn hậu của cuộc triệt thoái. Các
loại xe nằm ngổn ngang làm nghẽn lối, khiến cho đại tá Lê Khắc Lý phải
bỏ quân xa, xuống xe đi bộ để tới đài chỉ huy đặt tại Cheo Reo.
Điều động kiểu… chặt đầu rắn
Sự việc diễn ra sau đó cho thấy rằng,
trong ba ngày đầu của cuộc triệt thoái, sự dự đoán của tướng Phú đúng.
Nghĩa là quả thật phía QGP không thể ngờ rằng Quân đoàn 2 của VNCH dám
dùng một liên tỉnh lộ bỏ hoang từ nhiều năm để rút về phía bờ biển.
Nhưng QGP đã không bỏ qua một cơ hội để
tìm cách loại khỏi vòng chiến đấu cả một quân đoàn của VNCH. Do đó, sự
yên tĩnh của đoàn quân triệt thoái chỉ kéo dài được có ba ngày.
Phía quân lực VNCH thì vẫn hi vọng rằng
sẽ được thêm vài ngày nữa để được tới Tuy Hòa. Nhưng đến chiều tối ngày
18/3/1975, QGP bắt đầu tấn công vào đoàn quân xa đang ứ đọng trên liên
tỉnh lộ 7. Đường triệt thoái của quân Sài Gòn không còn là một điều bí
mật đối với QGP nữa.
Những đơn vị tiên phong của Sư đoàn 320
QGP đuổi kịp được Quân đoàn 2 VNCH trong đêm 18/3/1975 tại Cheo Reo.
Cũng trong ngày này, các đơn vị khác của QGP đã đuổi kịp và tấn công
Biệt động quân VNCH tại thị trấn Thanh An nằm giao điểm quốc lộ 14 và
tỉnh lộ 7B.
Lệnh triệt thoái của quân Sài Gòn bị đánh giá là vội vàng, thiếu chuẩn bị, thiếu phối hợp |
Cặm cụi đi bộ theo đoàn người di chuyển,
rốt cuộc đại tá Lý cũng về được đài chỉ huy tại Cheo Reo vừa kịp để
giúp Liên đoàn 23 Biệt động quân bố trí định chặn cuộc tấn công của QGP
đang nhắm vào đèo Ban Bleik ở phía Tây của Cheo Reo.
Trong khi đó, QGP bắn vào đoàn quân xe,
lúc ấy nằm trải dài ra rất xa, đến nỗi có những xe chỉ mới rời Pleiku
vài cây số. Quân xa đủ loại bị hư hại hoặc bị bỏ lại trên đường. Một phi
công trực thăng của VNCH kể: “Khi tôi bay xuống thấp, tôi nhìn thấy rõ
ngổn ngang những chiếc quân xa bốc cháy trên đường”.
Tuy rằng QGP đã chiếm được sân bay của
tỉnh Phú Bổn nhưng Liên đoàn 23 Biệt động quân VNCH vẫn còn kiểm soát
được ngọn đèo và rồi công binh của Quân đoàn 2 VNCH cũng đã làm xong cây
cầu ở phía đông nam của tỉnh lỵ.
Khi chiếc cầu được hoàn thành thì đoàn
quân VNCH cảm thấy nhẹ nhõm đôi chút. Đại tá Lý và các viên tiểu đoàn
trưởng quanh ông ta lại cố gắng cho đoàn quân xa lên đường, mặc dù lúc
ấy có tới 2000 chếc xe ứ đọng.
Nhưng đoạn xe bẳt đầu chuyển bánh thì
tướng Phạm Văn Phú đột nhiên ra lệnh cho đại tá Lý phải dùng trực thăng
gấp rút ra khỏi Cheo Reo. Trong khi đó, tướng Tất vẫn còn đang lo điều
khiển cuộc triệt thoái. Từ 19/3/1975 trở đi chỉ còn trưởng và tiểu đoàn
trưởng cố gắng điều khiển các binh sĩ nào còn chịu tuân theo mệnh lệnh
của họ.
(Còn tiếp)
Khi quân VNCH bắt đầu vào liên tỉnh lộ 7 để rút về bờ biển thì phía
QGP, tướng Văn Tiến Dũng vẫn còn tìm hiểu ý định của VNCH trong cuộc
chuyển quân. Tướng Dũng đã nhiều lần hỏi Tư lệnh Sư đoàn 320 xem những
con đường nào có thể được các đơn vị VNCH dùng tới.
Cho đến lúc ấy tướng Dũng vẫn chưa kết luận rằng cuộc chuyển quân quy mô của Quân đoàn 2 VNCH là một hành động thế thủ (rút) hay để tăng cường rồi phản công để chiếm lại Ban Mê Thuột.
Cũng cần nhắc lại là ngay từ khi còn họp tại Hà Nội những tuần lễ cuối của năm 1974, chính tướng Văn Tiến Dũng đã tỏ thái độ dè dặt khi bàn về kế hoạch giải phóng miền Nam. Trong hồi ký “Đại thắng mùa Xuân”, tướng Văn Tiến Dũng kể lại kế hoạch đề ra rất thận trọng, không coi thường phản ứng của quân lực VNCH.
Đầu tiên, khi được cấp dưới đoán rằng liên tỉnh lộ 7 không thể dùng được, tướng Dũng nhận định con đường ấy không thể là đường rút lui hoặc là đường tăng cường của quân lực VNCH.
Nhưng tướng Dũng đã có một cái nhìn khác sau khi tình báo QGP thu lượm tin tức từ các nguồn tin báo chí, truyền hình Tây phương, kể cả tin tức do các đơn vị dò hỏi được từ các thường dân. Tình báo QGP cũng nghe được các mẩu đối thoại vô tuyến truyền tin trong các đơn vị VNCH về các chuyến bay đi từ Pleiku đi Nha Trang.
Rồi đến ngày 16/3/1975, tướng Dũng được mật điện từ Hà Nội gửi vào, xác nhận Bộ Tham mưu và bản doanh của Quân đoàn 2 VNCH đã chuyển từ cao nguyên về vùng bờ biển. Từ khi ấy, tướng Dũng nghĩ đến sự rút lui của quân VNCH khỏi cao nguyên và dự đoán xem các đơn vị quân VNCH sẽ rút theo ngả nào.
Đến 4h chiều ngày 16/3/1975, tình báo QGP báo tin đã phát hiện được một đoàn quân xa rất dài từ Pleiku di chuyển về phía nam hướng về Ban Mê Thuột. QGP lại giải đoán mục tiêu của cuộc di chuyển này. Câu hỏi vẫn là quân Sài Gòn sẽ rút lui hay là sẽ phản công?
Sau đó thì QGP tìm được câu trả lời khi tình báo báo cáo là quân VNCH đã phá hủy các kho đạn và kho xăng ở Pleiku, và đoàn xe dài đã tách khỏi quốc lộ để quẹo về liên tỉnh lộ 7B, hướng về tỉnh Phú Bổn.
Trong đêm hôm ấy, Bộ tham mưu của tướng Văn Tiến Dũng làm việc thâu đêm để tìm các ngả đường chặn cuộc rút lui. Trong hồi ký, tướng Văn Tiến Dũng viết rằng đã suy nghĩ rất nhiều về ý nghĩa chiến lược của sự rút bỏ cao nguyên: “Khi cả một quân đoàn của VNCH với súng đạn và đồ trang bị tối tân mà rút khỏi một vùng chiến lược quan trọng thì việc ấy sẽ gây ra những phản ứng dây chuyền có thể lan tới cả nước Mỹ nữa”.
Tướng Dũng ra lệnh cho Sư đoàn 320 đang hoạt động dọc quốc lộ 14 tiến về phía đông bắc cùng với pháo và xe tăng để tấn công vào bên sườn của đoàn quân xa VNCH trên liên tỉnh lộ 17.
Sư đoàn 320 có nhiệm vụ làm chậm lại cuộc rút quân của nam VN, trong khi sư đoàn 968 sẽ ra khỏi Pleiku để đánh vào phía sau của đoàn quân VNCH đang triệt thoái. Sau cùng, tướng Dũng ra lệnh cho các đơn vị ở gần bờ biển tìm cách chặn không cho các đơn vị quân đội VNCH tiến được tới Tuy Hòa.
Cho đến lúc ấy tướng Dũng vẫn chưa kết luận rằng cuộc chuyển quân quy mô của Quân đoàn 2 VNCH là một hành động thế thủ (rút) hay để tăng cường rồi phản công để chiếm lại Ban Mê Thuột.
Cũng cần nhắc lại là ngay từ khi còn họp tại Hà Nội những tuần lễ cuối của năm 1974, chính tướng Văn Tiến Dũng đã tỏ thái độ dè dặt khi bàn về kế hoạch giải phóng miền Nam. Trong hồi ký “Đại thắng mùa Xuân”, tướng Văn Tiến Dũng kể lại kế hoạch đề ra rất thận trọng, không coi thường phản ứng của quân lực VNCH.
Đầu tiên, khi được cấp dưới đoán rằng liên tỉnh lộ 7 không thể dùng được, tướng Dũng nhận định con đường ấy không thể là đường rút lui hoặc là đường tăng cường của quân lực VNCH.
Nhưng tướng Dũng đã có một cái nhìn khác sau khi tình báo QGP thu lượm tin tức từ các nguồn tin báo chí, truyền hình Tây phương, kể cả tin tức do các đơn vị dò hỏi được từ các thường dân. Tình báo QGP cũng nghe được các mẩu đối thoại vô tuyến truyền tin trong các đơn vị VNCH về các chuyến bay đi từ Pleiku đi Nha Trang.
Rồi đến ngày 16/3/1975, tướng Dũng được mật điện từ Hà Nội gửi vào, xác nhận Bộ Tham mưu và bản doanh của Quân đoàn 2 VNCH đã chuyển từ cao nguyên về vùng bờ biển. Từ khi ấy, tướng Dũng nghĩ đến sự rút lui của quân VNCH khỏi cao nguyên và dự đoán xem các đơn vị quân VNCH sẽ rút theo ngả nào.
Đến 4h chiều ngày 16/3/1975, tình báo QGP báo tin đã phát hiện được một đoàn quân xa rất dài từ Pleiku di chuyển về phía nam hướng về Ban Mê Thuột. QGP lại giải đoán mục tiêu của cuộc di chuyển này. Câu hỏi vẫn là quân Sài Gòn sẽ rút lui hay là sẽ phản công?
Sau đó thì QGP tìm được câu trả lời khi tình báo báo cáo là quân VNCH đã phá hủy các kho đạn và kho xăng ở Pleiku, và đoàn xe dài đã tách khỏi quốc lộ để quẹo về liên tỉnh lộ 7B, hướng về tỉnh Phú Bổn.
Trong đêm hôm ấy, Bộ tham mưu của tướng Văn Tiến Dũng làm việc thâu đêm để tìm các ngả đường chặn cuộc rút lui. Trong hồi ký, tướng Văn Tiến Dũng viết rằng đã suy nghĩ rất nhiều về ý nghĩa chiến lược của sự rút bỏ cao nguyên: “Khi cả một quân đoàn của VNCH với súng đạn và đồ trang bị tối tân mà rút khỏi một vùng chiến lược quan trọng thì việc ấy sẽ gây ra những phản ứng dây chuyền có thể lan tới cả nước Mỹ nữa”.
Tướng Dũng ra lệnh cho Sư đoàn 320 đang hoạt động dọc quốc lộ 14 tiến về phía đông bắc cùng với pháo và xe tăng để tấn công vào bên sườn của đoàn quân xa VNCH trên liên tỉnh lộ 17.
Sư đoàn 320 có nhiệm vụ làm chậm lại cuộc rút quân của nam VN, trong khi sư đoàn 968 sẽ ra khỏi Pleiku để đánh vào phía sau của đoàn quân VNCH đang triệt thoái. Sau cùng, tướng Dũng ra lệnh cho các đơn vị ở gần bờ biển tìm cách chặn không cho các đơn vị quân đội VNCH tiến được tới Tuy Hòa.
Cuộc tháo chạy bi thảm (Bài 3): 'Hợp đồng tác chiến' kiểu máy bay VNCH oanh kích… quân Sài Gòn
(PLO) - Sang ngày 19/3/1975 thì đơn vị tiền phong của quân VNCH
trong đoàn quân triệt thoái tới gần con sông chỉ còn cách bờ biển chừng
40km. Nhưng ở phía sau của đoàn quân, khoảng cách giữa Cheo Reo và con
sông nói trên, QGP lại nhắm đánh vào sườn của đoàn quân triệt thoái, khu
vực quận lỵ Phú Túc (nay thuộc huyện Krông Pa, Gia Lai).
Quân VNCH gọi xin không quân yểm
trợ để giúp chặn cuộc tấn công. Nhưng khi phi tuần chiến đấu cơ của
không quân VNCH tới thì thay vì nhắm oanh kích QGP, phi tuần ấy lại nhằm
vào các đơn vị thuộc Liên đoàn 7 Biệt Động quân.
Đoàn quân triệt thoái qua được Cheo Reo
thì đến ngày 21/3/1975, QGP phá vỡ phòng tuyến của Liên đoàn 23 Biệt
Động quân, vượt lên để chiếm tỉnh lỵ Phú Bổn và cắt đứt đường giao
thông. Liên đoàn 8 và Liên đoàn 25 bị cắt đứt với đơn vị còn lại của Sư
đoàn 23 VNCH.
Sau khi báo cáo với tướng Phú, tướng Tất
được phép ra lệnh cho các đơn vị VNCH đang bị cô lập vứt bỏ mọi vũ khí
và chiến cụ nặng nề để tìm lấy sự thoát thân khỏi Phú Bổn. Lúc này,
tướng Tất vẫn còn ở phía sau của đoàn quân. Rất nhiều binh sĩ VNCH chạy
vào trong rừng.
Thách thức sông Ba
Trong khi đoạn hậu của đoàn quân triệt
thoái chịu áp lực nặng nề của QGP thì đoạn đầu chỉ còn cách Tuy Hòa có
20km và chỉ còn đương đầu với trở ngại lớn sau chót. Đó là sông Ba.
Tướng Cao Văn Viên đã cho chở cây cầu tới vùng này đúng hẹn nhưng QGP đã
dựng lên những chướng ngại vật không cho các đơn vị VNCH qua được sông
để tiến tới Tuy Hòa.
Những đoạn rời của cây cầu không thể chở
bằng xe qua bờ sông bên kia. Về sau, quân VNCH phải mượn bốn trực thăng
khổng lồ loại CH-47 của vùng IV để chở từng phần của cây cầu qua bên
kia sông.
Ngày 22/3/1975, đúng một tuần sau khi
đoàn xe ra khỏi Pleiku, cây cầu lớn trên sông Ba đã được ráp xong. Ngay ở
giờ đầu tiên, vì số người và xe đi trên cầu quá nhiều nên một nhịp bị
sập, đưa luôn cả người và xe cộ xuống sông. Công binh lại sửa chữa, và
đến buổi chiều thì cây cầu mới lại đưa được người và xe sang sông.
Chiến đấu cơ của không quân VNCH đã oanh kích nhầm vào các đơn vị thuộc Liên đoàn 7 Biệt Động quân đang rút khỏi Tây Nguyên |
Nhưng đến đây thì thời tiết bỗng trở nên
rất tồi tệ. Thay cho cái nắng cháy da thịt của những ngày trước, bây
giờ là mưa và lạnh. Thời tiết này không phải chỉ tai hại cho đoàn quân,
mà còn tai hại cho cả sự yểm trở của không quân, trong khi sự yểm trở ấy
rất là sinh tử cho sự sống còn của các đơn vị quân lực VNCH trên đường
sắp tới Tuy Hòa.
QGP đóng nhiều chốt rải rác dài theo con
đường đi của đoàn quân triệt thoái. Thời tiết xấu khiến cho không quân
VNCH không thể yểm trở đắc lực, do đó, các binh sĩ VNCH phải tìm cách
xoay sở, không được một phút nào nghỉ ngơi.
Từ ngày 22/3/1975 trở về sau, liên đoàn 6
Biệt Động quân phải giao tranh rất ác liệt với QGP. Lúc này thì đoạn
đầu của đoàn quân triệt thoái đã tới được bờ phía nam sông Ba. Các đơn
vị thuộc đoạn đầu này bắt đầu phá các chướng ngại do QGP dựng lên.
Sau khi bị thiệt hại nặng vì không quân
VNCH đánh lầm vài ngày trước đó, các đơn vị còn lại của Liên đoàn 7 đã
cố gắng sử dụng trên 10 chiếc thiết vận xa M-113 trong đoàn xe triệt
thoái để “mở đường máu”, gặp được các đơn vị Địa phương quân VNCH cũng
từ bên trong Tuy Hòa tiến ra.
Trong tổng số 179 ngàn quân nhân của
Quân đoàn 2 VNCH lúc QGP mở đầu trận đánh vào Ban Mê Thuột, còn được bao
nhiêu về tới Tuy Hòa? Thông cáo sau đó của Bộ tổng Tham mưu quân VNCH
nghe thật não lòng. Trong tổng số 20 ngàn binh sĩ thuộc các đơn vị yểm
trợ và tiếp vận, chỉ có 5000 tới Tuy Hòa.
Trong tổng số 7000 binh sĩ Biệt Động
quân của Quân đoàn II, chỉ còn 900 người tới được bản doanh mới của Quân
đoàn II tại Nha Trang... Tướng Cao Văn Viên buồn bã tuyên bố với báo
chí: “75% số quân chiến đấu của Quân đoàn II, kể cả Sư đoàn 23 Bộ binh,
Biệt Động quân, Thiết giáp, Pháo binh, Công binh và Truyền tin đã bị
loại một cách bi thảm trong khoảng từ ngày 10 - 25/3/1975”.
Tướng Viên không chịu nói thêm cho rõ
hơn nữa, là trong tổng số 179 ngàn quân nhân của Quân đoàn II, gần phân
nửa bị loại khỏi vòng chiến mà không phải vì giao tranh! Riêng Sư đoàn
23 chỉ còn 700 người về được tới Nha Trang.
Thiệu tắt mọi ảo tưởng
Sau thông cáo ảm đạm nói trên, người ta không còn nghe Nguyễn Văn Thiệu nói gì tới sự “hành quân tái chiếm Ban Mê Thuột” nữa.
Người ta không được biết rõ là tướng Cao
Văn Viên đã than thở hoặc tâm sự những gì với các nhà báo hoặc tác giả
ngoại quốc sau cuộc triệt thoái bi đát này. Tuy nhiên hai tác giả Clark
Dougan và David Fulghum có trích lại nhận định của tướng Viên về trách
nhiệm của tướng Phú trong cuộc triệt thoái ấy.
Trụ sở Bộ tư lệnh Không quân VNCH |
Tướng Viên nói rằng liên tỉnh lộ 7B mà
tướng Phú chọn làm đường rút quân có thể là con đường tốt, nếu các cây
cầu trên tỉnh lộ ấy được làm xong, hoặc sửa chữa xong kịp thời. Về điểm
này thì tướng Viên nói rằng tướng Phú, và chỉ một mình tướng Phú, chịu
trách nhiệm.
Tướng Viên cho rằng, lẽ ra tướng Phú
phải hoãn ngày rút quân thêm ít ngày để công binh có thời giờ làm xong
những cây cầu, và sự hoãn thời gian ấy còn cho phép lập một kế hoạch thô
sơ (chữ thô sơ ở đây làm cho người ta càng có thêm cảm tưởng là như vậy
có nghĩa tướng Phú không có kế hoạch nào hết, dù là một kế hoạch thô
sơ).
Đi tìm những lời phê bình cuộc triệt
thoái tại hai này, hai tác giả Clark Dougan và David Fulghum trích dẫn
nhận xét của một tướng lãnh Mỹ “hiểu nhiều về tướng lãnh của quân lực
VNCH”. Hai tác giả này không ghi rõ tướng Mỹ kia tên là gì, và chỉ ghi
rằng tướng Mỹ kia cho là “vấn đề ở đây không phải là việc tướng Phú có
lập kế hoạch hay không, mà là cá nhân của chính tướng Phú, và đường lối
chỉ huy của tướng Phú”.
Clark Dougan và David Fulgrum còn ghi
nhận được ý kiến của một sĩ quan Mỹ giữ vai trò liên lạc giữa giới quân
sự Mỹ tại Nam Việt Nam và quân lực VNCH. Sĩ quan Mỹ này nói: “Một tư
lệnh Quân đoàn mạnh bạo như tướng Toàn (tướng Nguyễn Văn Toàn là tư lệnh
Quân đoàn II trước khi bị tướng Phạm Văn Phú thay thế) phản công để tái
chiếm Ban Mê Thuột, dùng mọi lực lượng có trong tay, cùng với hỏa lực
yểm trợ tối đa của không quân thì có lẽ có thể chặn được đối phương ở
cao nguyên, và tránh được sự thảm bại thêm một năm nữa”.
Người ta có thể tóm tắt nhận định về
cuộc triệt thoái tai hại của Quân đoàn 2 vào mấy hàng sau đây: Không có
kế hoạch để rút, mệnh lệnh thì luôn trái ngược nhau, do đó cuộc triệt
thoái đã biến thành một cuộc tháo chạy theo đúng nghĩa dễ hiểu nhất của
người trần tục.
Như đã nêu ở các bài trước, ngoài một kế
hoạch thiết lập thật kỹ, tỉ mỉ, cuộc triệt thoái còn phải được thi hành
trong kỷ luật triệt để, được bảo vệ tối đa về quân sự để có thể rút
từng chặng, và rút nhưng vẫn yểm trợ lẫn nhau, và điều tối kỵ là không
thể để cho thường dân xen lẫn vào các đơn vị triệt thoái.
Những lãnh đạo chính trị và quân sự của
VNCH đều hiểu rằng liên tỉnh lộ 7B đã bị bỏ hoang từ nhiều năm. Họ cũng
biết rằng cầu cống trên tỉnh lộ ấy hoặc bị hư nát, hoặc không có cầu bắc
ngang một số sông nữa.
Nhưng rồi họ vẫn đi tới quyết định là cứ
dùng liên tỉnh lộ 7B, nói rằng hi vọng “bất ngờ” làm cho QGP không kịp
tấn công. Từ sự lựa chọn này, người ta bắt buộc phải kết luận rằng liên
tỉnh lộ ấy được chọn lựa để làm đường tháo chạy, để chạy trốn, chứ không
phải để triệt thoái theo đúng ngôn ngữ quân sự.
Tướng hồi hưu của Úc là Serong đã từng
khuyến cáo Nguyễn Văn Thiệu về việc nên bỏ bớt lãnh thổ để có thể rút
ngắn đường tiếp vận, có thể tiết kiệm lực lượng và làm cho hệ thống
phòng thủ của VNCH hữu hiệu hơn.
Đoàn người và xe bị tắc nghẽn trước chiếc cầu bắc qua sông Ba |
Bộ tổng Tham mưu quân lực VNCH đã biết
các ý kiến này của Serong nhưng không dám thuyết phục Thiệu cho thi hành
kế hoạch rút bớt lãnh thổ ấy khi còn đủ thời gian để thảo một kế hoạch
kỹ lưỡng và có thể có đủ ngày giờ để thi hành kế hoạch ấy trong sự an
toàn và không gây tai họa.
Một tác giả nhận xét: “Thiệu bám lấy cái
chủ trương “bốn không” (Không liên hiệp, Không nhượng bộ đất đai, Không
đầu hàng, Không thương lượng) ấu trĩ cho đến cùng. Cho đến phút chót
Thiệu vẫn còn ôm lấy ảo tưởng là không bị nước Mỹ bỏ rơi. Vì bản chất
ngoan cố tham lam cũng như lưu manh, Thiệu bám lấy địa vị lãnh đạo cho
đến ngày biết VNCH không thể tự cứu được nữa thì mới từ chức để ra đi
thảnh thơi”.
Chỉ huy sai lầm, binh sĩ lãnh họa
Lệnh rút lui vô trách nhiệm của
Thiệu đã đưa hậu họa tới hàng chục ngàn binh sĩ VNCH. Từ cấp chỉ
huy cao nhất đến cấp thấp, không ai muốn nghĩ đến an toàn cho
binh sĩ thuộc cấp nữa, vì đó là giờ phút: “Mỗi người chỉ
biết tự lo cho mình, sống chết mặc bay.”
Sự tan rã của cả một đội Biệt Động
quân VNCH tại Pleiku trước giờ triệt thoái là một minh chứng về
sự bất tài của Thiệu và của những sĩ quan có trách nhiệm lãnh
đạo quân sự tại Quân đoàn II. Đây là một đại đội có quân số
120 người, do một đại úy làm đại đội trưởng.
Đại đội này giữ một vị trí ở
cách thị xã Pleiku gần 10km về phía Tây, không xa căn cứ Holloway
cũ của quân đội Mỹ trước đó. Lúc một đơn vị đặc công của QGP
chuẩn bị tấn công vào vị trí của đại đội này thì viên đại
úy VNCH đang ra lệnh cho binh sĩ của mình trước tin đồn rằng thị
xã Pleiku sẽ bị bỏ ngỏ.
Lệnh rút lui ở đây không phải là
lệnh trực tiếp mà chỉ là thứ lệnh “truyền cho nhau nghe”. Hôm
Chủ nhật, một binh sĩ của đại đội này về thăm gia đình ở thị
xã. Là một quân nhân kỉ luật, anh ta về thăm gia đình, và cũng
là để giúp tìm cho gia đình có chỗ trên chuyến bay lánh nạn
về Sài Gòn.
Anh ta kể lại rằng đã phải “dùng
tới mũi súng” của anh ta để hăm dọa những người xung quanh nên
mới lấy được chỗ cho gia đình. Khi chiếc máy bay cất cánh rồi,
anh ta trở lại đơn vị, và nói cho các binh sĩ khác biết cảnh
hỗn loạn đang diễn ra tại thị xã Plieku.
ADVERTISEMENT
Thoạt
đầu, viên đại đội trưởng của anh ta không tin là Pleiku bị bỏ
nhỏ, và càng không tin là đại đội của mình cũng bị bỏ rơi
luôn. Nhưng đến khoảng nửa đêm thì viên trung úy đại đội phó hớt
hải từ trên chiếc jeep vừa từ thị xã trở về, nhảy xuống cho
biết, quả thật Pleiku đang hỗn loạn, ai cũng tháo chạy, phi
trường thì đóng cửa. Viên trung úy này không tìm được một sĩ
quan cao cấp nào để hỏi thăm tình hình, và có thể là các sĩ
quan cao cấp ấy cũng đã tháo chạy sạch rồi.
Binh sĩ Sài Gòn tháo chạy bằng mọi loại phương tiện |
Viên đại đội trưởng chỉ kịp suy
nghĩ trong vòng năm phút để có một quyết định. Sau đó, ông ta
ra lệnh cho binh sĩ dưới quyền chuẩn bị để gấp rút ra khỏi
Pleiku. Mọi quân xa lớn nhỏ chạy được đều phải chứa vũ khí,
đạn dược để ba tiếng sau lên đường. Viên đại đội trưởng tin rằng
vào khoảng 3h sáng là đại đội của ông ta sẵn sàng ra đi.
Trong khi đại đội này chuẩn bị để
lên đường rút lui vào 3h sáng thì nửa tiếng trước đó, nghĩa là
vào lúc 2h30, đơn vị đặc công QGP bắt đầu tấn công vị trí của
đại đội Biệt Động quân. QGP tiến tới cách hàng rào kẽm gai của
vị trí đại đội Biệt Động quân chưa tới 700m mà không gặp một
phản ứng nào. QGP dừng lại để chờ màn hỏa lực bắn súng cối và
hỏa tiễn.
Hai trinh sát QGP bò sát vị trí của
đối phương để nghe ngóng rồi trở về báo cáo rằng có một điều
gì rất kì lạ ở bên trong vị trí: Quân xa nào cũng chất đầy
đồ và thùng. Chỉ có một binh sĩ VNCH đang đứng canh gác “tượng
trưng” tại mặt nguy hiểm nhất của vị trí.
Người chỉ huy đơn vị đặc công QGP
không hiểu tại sao đối phương lại sắp rút đi, nhưng hiểu rằng
nếu tấn công ngay thì có nhiều hi vọng tiêu tán được toàn thể
đại đội này. Do đó người chỉ huy quyết định rút ngắn thời gian
bắn chuẩn bị là 3 phút thay vì từ 10 - 15 phút như dự trù.
Và quả thật là sau khi QGP nổ súng
thì toàn thể đại đội Biệt Động quân bị hoàn toàn bất ngờ.
Chỉ có chừng 20 người, trong đó có viên đại úy đại đội
trưởng, là chạy thoát được ra ngoài.
Tướng lãnh kiểu… bói toán rồi mới hành quân
Sau Nguyễn Văn Thiệu, cần nói đến
trách nhiệm của hai kẻ khác là tướng Cao Văn Viên và tướng Phan
Văn Phú, vì những sĩ quan khác chỉ là những kẻ thừa hành,
những nạn nhân của một hệ thống lãnh đạo nghèo nàn của VNCH
trong giờ phút nguy kịch nhất.
Tùy viên của tướng Phú là thiếu
tá Phạm Huấn ghi nhận rằng lúc tới Cam Ranh họp “chiến lược”
với Thiệu và Khiêm, tướng Cao Văn Viên “rất ngoan ngoãn, gần như
không giám nói điều gì trái ý của Thiệu”. “Tài thao lược” của
ông ta được biểu lộ trong lời tán thành của lựa liên tỉnh lộ
7B làm đường rút lui.
Giày dép tư trang của binh sĩ ném lại trên đường |
Nếu quả thật tướng Viên có tài
lãnh đạo quân sự thì đó là lúc phải nói cho Thiệu biết rằng
rút lui khi đang giao tranh với đối phương mà thiếu chuẩn bị tức
là tự sát. Cao Văn Viên mà có được một chút khí phách để nói
cho Thiệu biết rằng rút lui lúc ấy là nguy cho quân VNCH, thì
có thể tình thế sự việc không tồi tệ với quân VNCH quá mau như
vậy.
Một tác giả nhận xét: “Nhưng tướng Viên
là người khôn ngoan, theo nghĩa trong ngôn ngữ Việt Nam là “ngậm
miệng ăn tiền”. Trong sáu bảy năm ngồi ghế Tổng Tham Mưu trưởng,
ông ta đã rất im hơi lặng tiếng, đến nỗi bên ngoài phải kết
luận rằng Bộ tổng Tham mưu của ông ta chỉ là một “hộp thư khổng
lồ” của quân lực VNCH.
Thất bại lớn nhất của tướng Viên
là trong nhiều năm ngồi ở đây, ông ta không thuyết phục được
Thiệu lập một Bộ tổng Tư lệnh cho quân lực VNCH. Thiệu không
lập cơ cấu ấy vì muốn tự mình trực tiếp điều khiển luôn cả
nỗ lực quân sự quân VNCH nữa”.
Lúc mặt trận Ban Mê Thuột ác liệt
nhất, tướng Viên chỉ làm được một việc là ra lệnh cho máy bay
thả tướng Lê Trung Tường xuống sân bay Phước An để chỉ huy các
đơn vị còn lại của Sư đoàn 23. Tướng Viên có biết tướng Lê
Trung Tươờng là người thế nào không?
Thiếu tá Phạm Huấn đi cùng tướng
Phú tới thăm bản doanh sư đoàn 23 của tướng Tường, chứng kiến việc
viên tướng này còn có thói quen… bói toán rồi mới hành quân.
Đó là thứ tướng lãnh mà tướng Cao Văn Viên tin là có thể điều
khiển nỗ lực “tái chiến Ban Mê Thuột”.
Thiếu tá Phạm Huấn nhận xét: “Thiệu
chịu trách nhiệm tổng quát về cái lệnh rút lui tai hại là
điều dễ hiểu, nhưng chính tướng Cao Văn Viên trong chức vụ Tổng
tham Mưu trưởng của quân lực VNCH cũng không thể tránh được phần
trách nhiệm nặng nề của ông ta, nếu không muốn để bên ngoài
nghĩ rằng ông chỉ là một tướng lãnh công chức và nô bộc cho
Thiệu.
Đoàn quân “triệt thoái” bỏ lại sau lưng những đám cháy đốt kho tàng, nhiên liệu |
Thiệu và Viên đã cho tướng Phú một
mệnh lệnh vô cùng tổng quát mà không cho tướng Phú thêm một sự hướng
dẫn tối thiểu nào khác. Đến khi cuộc triệt thoái cao nguyên thất bại
hoàn toàn, tướng Viên còn trút hết trách nhiệm lên đầu tướng Phú. Tướng
Viên đã không có thái độ quân tử tối thiểu để can đảm nhận trước dư luận
phần trách nhiệm của mình”.
Một tác giả nhận xét: “Thiếu tá Phạm
Huấn đã gay gắt lên án tướng Phú vì quá hấp tấp ra lệnh rời bỏ cao
nguyên. Lời trách cứ này rất xác đáng vì người ta nhớ rằng lúc tướng Phú
ra lệnh gấp rút tháo chạy thì Pleiku chưa đến nỗi ở trong cảnh sắp bị
QGP chiếm.
Lời buộc tội ghê gớm nhất của Thiếu tá
Phạm Huấn là tướng Phú đã thua luôn cả chí khí của một người đàn bà. Bà
vợ của tướng Phú không muốn thấy tướng Phú là “một viên tướng bại trận”.
Bà ta muốn rằng, ít ra tướng Phú cũng phải ở lại để “đánh một trận thư
hùng” với đối phương trước đã. Nhưng tướng Phú quá ngoan ngoãn tuân theo
lệnh của Thiệu, dù rằng lệnh đó tai hại đến đâu”.
“Thiếu tá Phạm Huấn và nhiều người khác
đã uổng phí khá nhiều thời giờ để kết án tướng Phạm Văn Phú trong việc
rút khỏi cao nguyên. Các người ấy sẽ tiết kiệm được thời giờ, nếu nghĩ
tới khả năng của tướng Phú trước tình thế quân sự đen tối của quân VNCH
tháng 3/1975: Tướng Phạm Văn Phú đã giữ một vai trò vượt quá khả năng
của ông ta rất nhiều.
Người ta cũng nên làm như vậy khi kết
luận về Thiệu, Khiêm và Viên nhắm mắt ra lệnh rút vô trách nhiệm trong
ngày 14/3/1975, những kẻ ấy cũng lại đã giữ một vai trò vượt quá khả
năng của mình rất nhiều”.
(Còn tiếp)
Nhận xét
Đăng nhận xét