CÂU CHUYỆN LỊCH SỬ 80/10 (Máy bay & chiến tranh)
(ĐC sưu tầm trên NET)
1. Công nghệ không người lái
Chiến tranh trong tương lai sẽ chuyển sang một mô hình chiến tranh hoàn toàn mới, vũ khí không người lái sẽ đóng vai trò trung tâm. Hiện nay, quân đội của hơn 60 quốc gia đã được trang bị Robot quân dụng, với hơn 150 loại khác nhau. Dự kiến đến năm 2040, quân đội Mỹ có thể sẽ có một nửa chiến binh là Robot. Ngoài Hoa Kỳ ra, Nga, Anh, Đức, Nhật, Hàn Quốc cũng đang đẩy mạnh nghiên cứu “chiến binh” người máy của mình.
2. Công nghệ tốc độ siêu âm
Công nghệ tốc độ siêu âm có ý nghĩa quan trọng trong quân sự, vũ khí tốc độ siêu âm có hành trình xa, tốc độ nhanh, có thể tấn công các mục tiêu ở xa với tốc độ cực nhanh. Được chuyên gia quân sự mệnh danh là thành quả mang tính cách mạng lần 3 trong lịch sử hàng không sau công nghệ động cơ cánh quạt và động cơ phản lực. Quốc hội Mỹ đã thông qua dự toán 25 triệu USD cho dự án “Tấn công chớp nhoáng toàn cầu” trong năm tài khóa 2015 và quyết định bổ sung ngân sách chi cho dự án tên lửa tốc độ siêu âm của lục quân. Tháng 3-2015, Thứ trưởng quốc phòng Nga cũng cho biết, nước này đã nghiên cứu một nhiên liệu mới có thể làm cho vũ khí bay với tốc độ Mach 5 trở lên, một khi nó được đưa vào ứng dụng thực tế, sẽ làm cho vũ khí của Nga chiếm được ưu thế trong cạnh tranh vũ khí siêu âm với các nước khác trên thế giới.
3. Công nghệ dẫn đường chính xác
Công nghệ dẫn đường chính xác là một trong những dự án quan trọng của Mỹ, nó là hệ thống tác chiến có thể tấn công tiêu diệt mục tiêu xuyên lục địa từ trong lãnh thổ Hoa Kỳ. Hệ thống này được hình thành dựa trên nền tảng của vũ khí siêu âm, thời gian triển khai tác chiến chưa đầy 2 giờ đồng hồ, dự tính năm 2025 sẽ được Mỹ đưa vào trang bị cho quân đội. Ngày 17-11, một quan chức quân đội Nga cũng tiết lộ cho biết, năm 2016 Moscow sẽ tiến hành thử nghiệm tên lửa hành trình hạng nặng thế hệ mới Сармат. Loại tên lửa này có thể xuyên thủng mọi hệ thống chống tên lửa của đối phương, thậm chí có thể dùng để đối phó với “Hệ thống tấn công chớp nhoáng toàn cầu” sử dụng đầu đạn thông thường của Mỹ.
4. Công nghệ máy bay chiến đấu tàng hình
Máy bay thế hệ mới có khả năng tàng hình là xu hướng phát triển trong lĩnh vực khoa học công nghệ hàng không của mọi quốc gia. Thời gian gần đây, Mỹ đã có kế hoạch phát triển máy bay ném bom chiến lược thế hệ mới cho không quân. Loại máy bay này được mệnh danh là “máy bay ném bom 2018”; là loại máy bay tàng hình tốc độ siêu âm, có thể bay với hành trình 9.300km mà không cần tiếp nhiên liệu. Dự kiến siêu máy bay ném bom thế hệ mới này sẽ được đưa vào phục vụ không quân Mỹ trong năm 2025.
5. Công nghệ đánh chặn tên lửa
Công nghệ đánh chặn tên lửa phòng không là công nghệ đánh chặn tên lửa chiến lược bay trên không trung và ở quỹ đạo không gian. Hệ thống này bao gồm tên lửa đánh chặn, thiết bị phóng và radar. Công ty Raytheon của Mỹ tuyên bố, họ đã hoàn thành việc đánh giá giai đoạn một của dự án “vũ khí sát thương nhiều mục tiêu”, tức là hệ thống vũ khí được trang bị khả năng đánh chặn tên lửa xuyên lục địa nhiều đầu đạn. Để cân bằng với Mỹ, Nga cũng tích cực phát triển hệ thống đánh chặn tên lửa của mình; đã đẩy nhanh tiến độ thay mới một loạt trang bị từ S-300, S-400 cho đến S-500.
6. Công nghệ không gian quân sự
Mỹ là quốc gia duy nhất có khả năng tác chiến chống vệ tinh. Năm 2008, Washington đã sử dụng tên lửa “SM-3” phá hủy một quả vệ tinh trong điều kiện thực chiến. Ngoài ra, nước này còn làm chủ được nhiều loại công nghệ chống vệ tinh như: Gây nhiễu, đánh lừa, tấn công các vệ tinh nhỏ, làm tê liệt vệ tinh bằng laser.
7. Công nghệ vũ khí khái niệm mới (vũ khí laser)
Công nghệ vũ khí khái niệm mới là một loại vũ khí sử dụng công nghệ cao để nâng cao hiệu quả tác chiến, như vũ khí định hướng, vũ khí động năng… Tháng 9 năm 2015, Hải quân Mỹ cho biết, họ đang nghiên cứu một hệ thống vũ khí công năng mới được gọi là “Star Wars” (chiến tranh giữa các vì sao), không chỉ có khả năng tác chiến hạm đối hạm, mà còn có khả năng phòng vệ không gian.
8. Công nghệ tác chiến mạng
Công nghệ tác chiến mạng là một lĩnh vực tác chiến mới. Không gian mạng là môi trường đóng vai trò quan trọng của chiến tranh công nghệ cao trong tương lai. Hoa Kỳ là cường quốc về công nghệ mạng tiêu biểu, do đó, nước này rất tích cực phát triển công nghệ để đối phó với các cuộc tấn công mạng kiểu mới; đi sâu nghiên cứu công nghệ tấn công mạng; tăng cường phát triển theo hướng linh hoạt hóa và vũ khí hóa.
9. Công nghệ in 3D
Mỹ không ngừng đẩy mạnh phát triển công nghệ in 3D, họ hy vọng thông qua sự vượt trội về vật liệu và khả năng chế tạo của mình để chiếm lấy ưu thế về quân sự. Điển hình, ngày 14-1-2015, Công ty Sciaky – nhà chế tạo thiết bị điện tử nổi tiếng của Mỹ tuyên bố, họ đã làm chủ được công nghệ in 3D. Công nghệ này sẽ được ứng dụng để in ấn nhiều linh kiện của máy bay chiến đấu F-35 – máy bay thế hệ 5 của không quân Mỹ.
10. Công nghệ mô phỏng sinh vật
Công nghệ mô phỏng sinh vật là kết hợp công nghệ sinh vật hiện đại với lĩnh vực quân sự, vật lý, hóa học, vật liệu và thông tin. Chẳng hạn như: Vũ khí điều khiển bằng não bộ có thể giúp người lính kiểm soát từ xa Robot; phối hợp một cách đơn giản giữa người và trang bị. Cơ quan Dự án Nghiên cứu cao cấp quốc phòng Mỹ đã thành lập phòng công nghệ sinh vật, nhằm tích hợp sinh vật học, công trình học và khoa học máy tính, để phát triển công nghệ và trang bị thế hệ mới dựa trên khoa học đời sống. Chẳng hạn, gần đây Công ty IBM đã phát triển thành công chip xử lý mới mà họ gọi chip neurosynaptic đầu tiên trên thế giới, một bộ vi xử lý máy tính bắt chước khả năng bộ não của con người. Được biết đến với cái tên TrueNorth, con chip của IBM có thể nhồi nhét sức mạnh siêu máy tính vào một bộ vi xử lý có kích thước của một con tem, có khả năng cảm nhận, phân biệt và học tập như con người.
Xu hướng phát triển công nghệ không quân
Xu hướng phát triển của Không quân Việt Nam
Saturday, September 7, 2013
Lực lượng Không quân Việt Nam có vị trí
vai trò và nhiệm vụ bảo vệ vùng trời vùng biển thuộc chủ quyền đất nước.
Trên thực tế biên chế tổ chức trang bị, quân đội nhân dân Việt nam và
quân chủng hải quân không có lực lượng tấn công chủ lực bảo vệ biển đảo,
đất liền và bờ biển. Những nhiệm vụ tấn công chủ lực hiện nay hoàn toàn
thuộc về lực lượng Không quân tiêm kích ném bom.
Quá trình phát triển mạnh mẽ của Không quân Việt Nam như một lực lượng tác chiến độc lặp bắt đầu bằng biên chế các máy bay tiêm kích hiện đại MiG – 21F-13 và J-6 vào cuối năm 1965 và tháng 2. 1969. ngày 24.03.1967, Bộ Quốc phòng Việt Nam ra quyết định thành lập sư đoàn không quân 371 bao gồm các trung đoàn 921, 923 và 919 . Tiếp theo sư đoàn không quân đầu tiên này là sư đoàn không quân 372, thành lập ngày 15.09.1975 trong biên chế là các trung đoàn không quân 937, 918 và 917, tiếp theo là sư đoàn không quân 370 30.10.1975 với trung đoàn không quân tiêm kích 925, trung đoàn không quân hỗn hợp 917 và trung đoàn không quân các máy bay K2 (máy bay của Mỹ trước đấy. 31.03.1977, lực lượng Phòng không – Không quân được phân tách thành hai quân chủng riêng biệt. Nhưng đến 03.04. 1999, hai quân chủng đã hợp nhất trở thành Quân chủng Phòng không – Không quân ngày nay.
Nguyên tắc tuyển chọn lực lượng
Việt Nam duy trì chế độ nghĩa vụ quân sự, và mỗi năm có khoảng 3000 tân binh được nhận phục vụ trong lực lượng không quân, chỉ có 150 người được tham gia dự tuyển vào Trường sĩ quan không quân bậc đại học và chỉ 1/3 trong số này vượt qua những kỳ thi gắt gao về trình độ và thể chất để trở thành một phi công phản lực trong tương lai.
Quá trình huấn luyện và đào tạo phi công tiêm kích kéo dài 5 năm. Hai năm đầu tiên, các học viên được học về các môn học đại cương, các môn học ngành và chuyên ngành. Ba năm tiếp theo các phi công học bay thực tế và rèn luyện các kỹ thuật, kỹ năng của người phi công trên các loại máy bay có trong biên chế. Trong cơ sở vật chất huấn luyện của trung đoàn bay huấn luyện 920 mang tên Cam Ranh có 18 máy bay huấn luyện Yak-52 và 10 máy bay Iak – 52 được chế tạo từ hãng máy bay Aerostar S.A Rumani, được tặng vào năm 2009. Trên các máy bay này, các học viên phi công bắt đầu học những bài bay cơ bản đầu tiên. Sau khi tốt nghiệp khóa học bay thứ nhất, các phi công tương lai được chuyển đến căn cứ không quân Đông Tác, nơi có trường bay và trung đoàn không quân huấn luyện 910 “Julius Fucik”, trong biên chế học tập của trung đoàn có 23 máy bay huấn luyện chiến đấu L-39, trên các máy bay này, các học viên phi công học chuyên sâu về máy bay chiến đấu. Các máy bay huấn luyện được nhập về thành ba đợt. Đợt 1 vào năm 1984, không quân Việt Nam nhận 24 chiếc L-39C, vào năm 2002-2003, tiếp nhận thêm 10 chiếc máy bay huấn luyện chiến đấu, đến năm 2008, không đoàn lại tiếp nhân thêm 4 chiếc L-39C đã sẵn sàng cất cánh. Như vậy, số lượng máy bay huấn luyện bay chiến đấu ở Việt Nam là 38 chiếc. Vào năm 2011 theo các phương tiện thông tin đại chúng, công ty Aero Vodochody nhân được hợp đồng sửa chữa lớn và phục hồi hai chiếc L-39C đồng thời cung cấp trang thiết bị, phụ tùng thay thế cho toàn bộ số máy bay còn lại.
Khi các học viên phi công đã trải qua giai đoạn huấn luyện ban đầu (vượt rào) các nhóm phi công sẽ được chia theo chuyên ngành chiến đấu. Các phi công lái máy bay chiến đấu sẽ tiếp tục theo chương trình bay tại căn cứ. Các phi công chuyển loại sang lái máy bay trực thăng hoặc máy bay vận tải sẽ được huấn luyện lái Bell UH-1H Iroquois 917 thuộc trung đoàn huấn luyện không quân “Đồng Tháp”, hiện đang đóng quân ở sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất, hay trên máy bay vận tải An – 2, nằm trong biên chế của trung đoàn không vận số 918 “Hồng Hà” căn cứ tại sân bay Gia Lâm. Trung đoàn có 8 máy bay vận tải An – 2 thiết kế mới, được nhập về từ năm 2004, nhà sản xuất là tập đoàn chế tạo máy bay PZL Mielec. Cũng trên căn cứ này có 15 chiếc máy bay Аn-26 (số còn lại của 50 chiếc máy bay đã nhập khẩu vào những năm 1981-1984) và một máy bay không quân hải quân PZL Mielec M-28B Bryza 1R. Hai máy bay loại này đã được nhập khẩu vào năm 2005, nhưng một chiếc bị mất do tai nạn hàng không. Ngoài ra căn cứ còn được bổ xung thêm 3 máy bay CASA C212-400 của cảnh sát biển Việt Nam, được nhập vào từ tháng 8.2011 đến 2012.
Học thuyết chiến dịch chiến thuật
Lực lượng Không quân Việt Nam có vị trí vai trò và nhiệm vụ bảo vệ vùng trời vùng biển thuộc chủ quyền đất nước. Trên thực tế biên chế tổ chức trang bị, quân đội nhân dân Việt nam và quân chủng hải quân không có lực lượng tấn công chủ lực bảo vệ biển đảo, đất liền và bờ biển. Những nhiệm vụ tấn công chủ lực cho đến thời điểm này hoàn toàn thuộc về lực lượng Không quân tiêm kích ném bom. Ngoài ra, theo yêu cầu nhiệm vụ và biên chế tổ chức của quân chủng PK-KQ, nhiệm vụ tác chiến đường không tầm xa bảo vệ bầu trời cũng như các nhiệm vụ quản lý bầu trời cũng nằm trong chức năng nhiệm vụ của lực lượng không quân. Yêu cầu nhiệm vụ của lực lượng KQ Việt Nam trong giai đoạn mới rất nặng nề. Và đặc biệt quan trọng trong điều kiện phát triển kinh tế hải dương và bảo về chủ quyền trong khi tranh chấp đang nóng trên Biển Đông, những dấu hiệu về nguy cơ mất an ninh quốc tế và an ninh khu vực Đông Nam Á vẫn còn hiện hữu dưới nhiều hình thức khác nhau, mà nổi bật lên ở Khu vực Đông Nam Á là nguy cơ cướp biển và nguy cơ khủng bố quốc tế. Điều này đòi hỏi các lĩnh vực như Không quân tiêm kích và cường kích, không quân vận tải - đổ bộ đường không, không quân trực thăng – đặc biệt là trực thăng hải quân đều cần có sự phát triển cả về phương tiện hoạt động cũng như số lượng phi công. Đi kèm theo đó là các cơ sở hậu cần kỹ thuật và nghiên cứu phát triển khoa học công nghệ ứng dụng.
Do điều kiện tài chính còn hạn chế, nên nguồn lực cho Không quân Việt Nam phải được phân chia khá ngặt nghèo và thận trọng. Đồng thời công tác quản lý phương tiện bay cũng vẫn duy trì ở chế độ bảo mật và luân chuyển. Những số liệu chính xác về số lượng các máy bay của lực lượng và vị trí đóng quân hoàn toàn không được công bố, các máy bay không được mang ký hiệu của đơn vị trên thân, do đó để biết rõ được tình hình biên chế các phương tiện đường không và cơ cấu tổ chức của không quân Việt Nam thực sự rất khó. Các đối thủ tiềm năng chỉ có thể dựa trên những thông tin tình báo và không ảnh để ước đoán được số lượng sẵn sàng chiến đấu tại thời điểm nhất định.
Đây là phương hướng quản lý của lực lượng Không quân dựa trên cơ sở các kinh nghiệm tác chiến đường không có được từ chiến tranh chống Mỹ, bằng giải pháp này. Không quân Việt Nam dù số lượng rất ít nếu so với lực lượng KQ và KQHQ Mỹ, nhưng do cách điều chuyển lực lượng linh hoạt, nêu ở những khu vực chiến trường cần tập trung lực lượng, vẫn có thể tạo ra sức ép mà đối phương không lợi dụng thời điểm để công kích các khu vực đã giảm thiểu binh lực.
Hiện nay, Việt Nam xác định nguy cơ an ninh quốc gia và chủ quyền lãnh thổ nằm từ hướng biển Đông, đặc biệt trong các khu vực đảo và quần đảo đang có tranh chấp chủ quyền. Bằng các biện pháp khác nhau, không quân Việt Nam đang nỗ lực vô hiệu hóa những nguy cơ đến từ phía biển. Trong đó, nhiệm vụ quan trọng hàng đầu vẫn là kiểm soát chặt chẽ không gian biển và trên biển, xác định những khả năng tiềm ẩn có thể xảy ra xung đột, phát hiện nguy cơ xung đột và có giải pháp ngăn chặn, phản ứng kịp thời. Nhưng trong tương lai không xa, Không quân Việt Nam phải đáp ứng những yêu cầu thực tế của tác chiến không biển hiện đại theo những đặc điểm đặc thù của chiến tranh bảo vệ Tổ quốc Việt Nam và nghệ thuật quân sự truyền thống của Việt Nam. Trên không gian biển hiện nay, lực lượng công kích chủ lực đường không là các máy bay tiêm kích ném bom Su-22, được biên chế và lắp đặt các tên lửa chống tầu và các mục tiêu mặt đất khác nhau Kh – 25, thời gian có mặt trong biên chế đã hơn 30 năm và có nhiều hạn chế về tầm bắn cũng như tính năng kỹ thuật của đầu đạn tự dẫn laser bán chủ động. Để tăng cường khả năng tác chiến tầm xa, Không quân Việt Nam có xu hướng nhập khẩu các máy bay chiến đấu hiện đại đa nhiệm tiêm kích – tên lửa như Su – 27 và Su – 30 MK, có thể mang tên lửa Kh – 29 và Kh- 31, Kh – 35. Thực tế tác chiến không biển trong giới hạn học thuyết quân sự cấp chiến dịch – chiến thuật là phòng thủ đất nước, KQ Việt Nam không có xu hướng nhập khẩu các loại phương tiện bay hiện đại hơn Su- 30MK do không cần phải tác chiến trên tầm đại dương. Khoảng cách đến các mục tiêu cần bảo vệ của Không quân được giới hạn dưới 1000 km, do điều kiện số lượng máy bay thường ít hơn đối phương, sân bay ở đất liền và cũng gần hơn, có thể có nhiều sân bay dã chiến trên một vòng cung bờ biển, phương thức tác chiến thông thường là tấn công bất ngờ, thoát ly chiến trường nhanh và liên tục thay đổi hướng tấn công và cất cánh, không quân Việt Nam cần những phương tiện bay có giá thành rẻ hơn như Su – 27, Su – 30MK2 nhằm tạo ưu thế chủ động trên không bằng các sân bay mặt đất.
Cho đến hiện nay, lực lượng không quân tiêm kích vẫn sử dụng các loại máy bay tiêm kích MiG 21F đã có từ thời chiến tranh chống Mỹ ở Việt Nam, có một số dự án nâng cấp và cải tiến nhằm duy trì và nâng cao khả năng sử dụng của loại máy bay này, nhưng do những tính năng kỹ chiến thuật của MiG- 21F đã thua sút các loại tiêm kích hiện đại ngày nay như J-10 của Trung Quốc, phương án khai thác sử dụng khả năng sẽ chuyển hướng sang tấn công các mục tiêu bay thấp, máy bay không người lái và mang tên lửa chống hạm Kh- 31 theo mô hình nâng cấp của Ấn Độ MiG -21-93.
Nhẳm phối hợp tốt với các lực lượng phòng không và bảo vệ bờ biển, Không quân Việt Nam cũng tăng cường các loại máy bay tuần biển và chống ngầm, các phương tiện thông tin đại chúng về xuất nhập khẩu vũ khí cũng thông báo nhiều định hướng mua sắm các loại máy bay khác nhau của Việt Nam.
Hệ thống kiểm soát, tình báo và cảnh báo sớm trên không của Việt Nam là một hệ thống các đài radar kiểm soát không phận. Bộ tham mưu lực lượng Không quân Việt Nam kiểm soát một hệ thống quản lý tích hợp phòng không, được chia thành nhiều tuyến phòng ngự, các thê đội và các quân khu, cơ sở hạ tầng căn bản của hệ thống này là hơn 80 đài radars các chủng loại khác nhau, 24 đài radar là loại P-18, lắp đặt trên thân xe Ural, có tính năng cơ động và khả năng chia xẻ thông tin thông qua hệ thống quản lý, điều khiển thông tin trung tâm của bộ tham mưu không quân, có nhiều nguồn thông tin cho biết, Việt Nam sẽ tăng cường thêm khoảng 20 đài radar cơ động cao Vostoc – E. Trong điều kiện thời bình các đài radar hoạt động ở chế độ hạn chế, phân bổ theo từng khu vực và trong khu vực căn cứ không quân hoặc ở chế độ niêm cất, nhưng các đài radar đều được kết nối thông tin với các lực lượng phòng không mặt đất, đó là các sư đoàn tên lửa – pháo phòng không các cỡ nòng, hiện nay theo các thông tin không chính xác, Việt Nam có khoảng 3200 tên lửa các loại từ Strela – 2, S-75 Dvina, S-125 Pechora đến S-300PMU-1 với hàng ngàn súng pháo phòng không các cỡ nòng. Để tích hợp với hệ thống phòng không trên đất liền và bờ biển, đồng thời quản lý tốt vùng trời. Năm 2008 Việt Nam đã thành lập Lực lượng phòng thủ Bờ biển và lực lượng cảnh sát biển Việt Nam, trong biên chế đường không của Cảnh sát biển có các máy bay tuần biển loại CASA C212-400. Ngoài ra, còn được trang bị phối thuộc các máy bay trực thăng trên biển nhằm mục đích cứu hộ, yểm trợ và trinh sát chống ngầm EC-225S và Ka – 27, 31.
Định hướng phát triển tương lai
Trong giai đoạn mới, cùng với sự phát triển của nền kinh tế hải dương trên biển Đông, lực lượng không quân hải quân Việt Nam có định hướng trên một tầm cao mới. Bộ tư lệnh Không quân mong muốn có được khả năng quản lý toàn bộ không phận. hải phận và đường biên giới trên bộ với các nước láng giềng như Trung Quốc, Lào, Căm phu chia. Sự thay đổi tình hình kinh tế, chính trị trên trường thế giới, sự phát triển các lực lượng chiến đấu hiện đại như Hải quân, hải quân đánh bộ, đặc nhiệm đổ bộ đường không đòi hỏi Không quân phải có bước phát triển tích cực. Các binh chủng như Không quân Tiêm kích ném bom, không quân tiêm kích, không quân vận tải và đổ bộ đường không, chỉ huy trên không, tình báo, trinh sát và cảnh báo sớm, trực thăng chiến đấu ….đều đang có những nhu cầu cấp thiết phải tăng cường phương tiện,vũ khí trang bị và hiện đại hóa lực lượng.
Một phần lớn phụ thuộc vào tiềm lực kinh tế đất nước, hiện nay lực lượng Không quân đang có 4 trung đoàn được trang bị máy bay tiêm kích ném bom chủng loại Su bao gồm 45 chiếc Su- 27/30MK2 nhập khẩu từ Nga, các máy bay hiện đại này đóng vai trò chủ chốt trong lực lượng không quân tấn công chủ lực của KQ Việt Nam. Tương lai gần, để đảm bảo phòng thủ bờ biển, các vùng kinh tế biển và hải đảo, nếu đúng theo kế hoạch, KQ Việt Nam sẽ tiếp nhận máy bay cường kích Su – 34 với mục đích từng bước thay thế các máy bay Su – 22 đã lỗi thời, khi Su – 34 có được quy chế xuất khẩu.
Để thực hiện nhiệm vụ phòng không và bảo vệ không phận biển, lực lượng Không quân Việt Nam có nhiều định hướng phát triển máy bay tiêm kích tầm cao, trong đó MiG – 29 hiện đại hóa sâu cũng là một trong những loại máy bay tiêm kích tiềm năng do giá thành hạ và rất phù hợp với nghệ thuật tác chiến không quân Việt Nam. Ngoài ra, cũng có nhiều thông tin cho rằng Việt Nam có thể lựa chọn các loại máy bay khác có tính năng tương đương như JAS-39 Gripen của Thụy Điển và MiG 35 của Nga. Trong không quân Việt Nam, có nhiều ý kiến về việc lựa chọn các mẫu máy bay tiêm kích có khả năng đáp ứng yêu cầu kỹ chiến thuật và nghệ thuật tác chiến đường không của Việt Nam với xu hướng thiên về phòng thủ linh hoạt, nhưng có một điểm đáng chú ý là, các cán bộ lãnh đạo quân chủng PK-KQ Việt Nam hầu hết đều được đào tạo ở Nga, vũ khí trang bị tác chiến trên không và trên biển, nếu không muốn có một kho vũ khí đa chủng loại, cũng phần lớn có từ Liên xô cũ, quá trình tích hợp hệ thống điều khiển vũ khí đơn giản hơn rất nhiều lần. Nhưng cũng không loại trừ khả năng các nhà cung cấp sản phẩm quốc phòng như Thụy Điển có thể cung cấp thêm các cải tiến mới nhằm tương thích hóa các loại vũ khí hiện có của Việt Nam.
Bộ tư lệnh PK-KQ Việt Nam có mong muốn thay đổi loại máy bay huấn luyện mới, có khả năng đa nhiệm hơn nhằm tăng cường năng lực tác chiến đường không và huấn luyện chiến đấu. Nhà nước Việt Nam có xu hướng lựa chọn máy bay Yak 130 để thay thế dần các L-39 đã tương đối lỗi thời. Đã có kể hoạch nhập khẩu 12 chiếc Yak – 130 trong giai đoạn từ năm 2015 đến 2025. Nhưng các giảng viên – sĩ quan huấn luyện thì không thích loại Yak 130 lắm do đã thử nghiệm nó tại Nga vào năm 2011, do đó hiện nay đang có một cuộc cạnh tranh nhỏ giữa Yak và các máy bay huấn luyện cải tiển sâu của L-39 là máy bay huấn luyện chiến đấu L-159 ALCA, theo các chuyên gia phỏng đoán, thì L-159 có nhiều cơ hội hơn.
Hình thành lữ đoàn tàu ngầm và phòng tác chiến tàu ngầm thúc đẩy sự xuất hiện lực lượng chống ngầm và quản lý biển. Đó là các máy bay trinh sát chống ngầm và tác chiến chống ngầm thế hệ mới, có khả năng liên kết với lực lượng hải quân chống ngầm và bảo vệ tài nguyên khoáng sản thềm lục địa. Có nhiều thông tin cho rằng Việt Nam đang tăng cường năng lực chống ngầm của không quân bằng các máy bay chống ngầm P-3 Orion của Mỹ. Nhưng cũng có những ý kiến khác cho rằng, Việt Nam nên nhập máy bay chống ngầm P-1 của Nhật Bản do Nhật đã có kinh nghiệm sử dụng P-3 lâu năm và máy bay chống ngầm của Nhật Bản chắc chắn sẽ hoạt động tốt hơn nhiều so với P-3 Orion đã lỗi thời. Hiên nay đang có một cuộc cạnh tranh giữa Lockheed và Kawasaki trong cuộc chiến dành ưu thế về máy bay chống ngầm ở Đông Nam Á, Lockheed có ưu thế dựa trên cơ sở P-3 đã được khai thác sử dụng lâu năm và đã chứng minh được ưu thế của mình trên biển về sử dụng, Kawasaki đang cố gắng tận dụng ưu thế công nghệ và khả năng thích ứng của mình đối với mọi loại vũ khí, trang bị mà Việt Nam đang có trong biên chế, cũng như khả năng đáp ứng các yêu cầu về hậu cần kỹ thuật, vốn đã rất hạn chế ở một công ty nổi tiếng của P-3.
Trong giai đoạn gần đây, sự hình thành lực lượng KQHQ và lực lượng hải quân đánh bộ, lực lượng đặc nhiệm chống khủng bố được tăng cường thêm khả năng đổ bộ đường không (nhẩy dù) đã xuất hiện thêm yêu cầu mới của phương tiện vận tải đường không tấn công tầm xa, có khả năng trong tương lai gần, Việt Nam sẽ tiếp tục nhập khẩu các máy bay An- 26 hoặc các máy bay vận tải quân sự khác nhằm tăng cường khả năng độ bộ của các lực lượng nhảy dù đang từng bước hình thành và phát triển.
Sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của lực lượng KQ Việt Nam, trong đó có KQHQ và lực lượng tác chiến trên biển đòi hỏi Việt Nam phải có các máy bay tác chiến điện tử, trinh sát đường không và chỉ huy trên không. Theo những thông tin được cập nhật gần đây. Việt Nam đã từng sử dụng An- 26 như máy bay chỉ huy trên không trong các chuyến bay tuần tiễu biển và trong tương lai gần, sẽ cần đến ít nhất là 2 máy bay trinh sát điện tử, dẫn đường và điều hành tác chiến trên không AWACS. Xu hướng sẽ đặt hàng máy bay CASA EC-295 được coi là khả thi hơn tất cả các loại máy bay AWACS khác đang có trên thị trường thế giới.
Ngoài ra, Việt Nam đang tích cực nghiên cứu phát triển cũng như hợp tác với các nước khác, trong đó có Berarusia nhằm mua sắm, nghiên cứu và phát triển các máy bay không người lái tuần biển. Đã có những máy bay không người lái Việt Nam được thử nghiệm bay và tiến hành các hoạt động không ảnh trên vùng biển chủ quyền. Trong tương lai gần, có thể sẽ xuất hiện những đơn vị máy bay tuần tiễu, trinh sát, chống ngầm và cảnh báo sớm Không người lái.
Nhìn chung toàn cảnh phát triển của lực lượng Không quân Việt Nam, có thể nhận thấy, lực lượng KQ Việt Nam đang nỗ lực phát triển để trở thành một lực lượng KQ hùng mạnh, có trang thiết bị và công nghệ hiện đại, đáp ứng yêu cầu bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của đất nước.
Nguồn: Bình luận quân sự Nga .
Biên dịch: Trịnh Thái Bằng - QuocPhongAnNinh.edu.vn
Lãnh đạo Không quân Mỹ tuyên bố, việc phát triển vũ khí dạng mô-đun cho phép nâng cấp hoặc sửa chữa trang bị cũ không cần phải can thiệp sâu vào kết cấu phương tiện bay (yếu tố liên quan tới vòng đời sử dụng). Trong khi đó, kết cấu mở cho phép nhiều công ty cùng tham gia phát triển trang bị mới để kết hợp trong một kết cấu vũ khí, trang bị hoàn chỉnh (đơn giản hóa quá trình phát triển mới).
Hiện tại, Mỹ đang áp dụng quy trình phát triển vũ khí dạng
mô-đun và kết cấu mở trong dự án phát triển máy bay chỉ huy
và chỉ thị mục tiêu trên không mới thay thế loại E-8 JSTARS.
Nguyên tắc này cũng được áp dụng trong chương trình phát triển
máy bay huấn luyện thế hệ mới TX thay thế T-38 Talon.
Đánh giá về chiến lược trên, Tư lệnh Không quân Mỹ, Mark Welsh III nhấn mạnh, các công ty tham gia phát triển công nghệ hàng không mới nên cân nhắc ứng dụng cộng nghệ mới vào các phương tiện hàng không sẵn có để giảm chi phí vận hành. Ông M. Welsh III lấy chương trình phát triển động cơ phản lực AETD có khả năng thay đổi chu kỳ hoạt động làm ví dụ minh họa. Cụ thể, AETD thuộc dòng động cơ phản lực thế hệ thứ 6 của Mỹ. Khi được ứng dụng trên các máy bay quân sự hiện có của Không quân, nó giúp giảm 30-40% chi phí nhiên liệu khi máy bay ở tốc độ cận âm và siêu âm toàn phần. AETD đã minh chứng cho khả năng giảm chi phí hoạt động khi áp dụng công nghệ mô-đun và kết cấu mở.
Su-22M4 Không quân nhân dân Việt Nam
Quá trình phát triển mạnh mẽ của Không quân Việt Nam như một lực lượng tác chiến độc lặp bắt đầu bằng biên chế các máy bay tiêm kích hiện đại MiG – 21F-13 và J-6 vào cuối năm 1965 và tháng 2. 1969. ngày 24.03.1967, Bộ Quốc phòng Việt Nam ra quyết định thành lập sư đoàn không quân 371 bao gồm các trung đoàn 921, 923 và 919 . Tiếp theo sư đoàn không quân đầu tiên này là sư đoàn không quân 372, thành lập ngày 15.09.1975 trong biên chế là các trung đoàn không quân 937, 918 và 917, tiếp theo là sư đoàn không quân 370 30.10.1975 với trung đoàn không quân tiêm kích 925, trung đoàn không quân hỗn hợp 917 và trung đoàn không quân các máy bay K2 (máy bay của Mỹ trước đấy. 31.03.1977, lực lượng Phòng không – Không quân được phân tách thành hai quân chủng riêng biệt. Nhưng đến 03.04. 1999, hai quân chủng đã hợp nhất trở thành Quân chủng Phòng không – Không quân ngày nay.
Nguyên tắc tuyển chọn lực lượng
Việt Nam duy trì chế độ nghĩa vụ quân sự, và mỗi năm có khoảng 3000 tân binh được nhận phục vụ trong lực lượng không quân, chỉ có 150 người được tham gia dự tuyển vào Trường sĩ quan không quân bậc đại học và chỉ 1/3 trong số này vượt qua những kỳ thi gắt gao về trình độ và thể chất để trở thành một phi công phản lực trong tương lai.
Phi công tiêm kích Việt Nam
Quá trình huấn luyện và đào tạo phi công tiêm kích kéo dài 5 năm. Hai năm đầu tiên, các học viên được học về các môn học đại cương, các môn học ngành và chuyên ngành. Ba năm tiếp theo các phi công học bay thực tế và rèn luyện các kỹ thuật, kỹ năng của người phi công trên các loại máy bay có trong biên chế. Trong cơ sở vật chất huấn luyện của trung đoàn bay huấn luyện 920 mang tên Cam Ranh có 18 máy bay huấn luyện Yak-52 và 10 máy bay Iak – 52 được chế tạo từ hãng máy bay Aerostar S.A Rumani, được tặng vào năm 2009. Trên các máy bay này, các học viên phi công bắt đầu học những bài bay cơ bản đầu tiên. Sau khi tốt nghiệp khóa học bay thứ nhất, các phi công tương lai được chuyển đến căn cứ không quân Đông Tác, nơi có trường bay và trung đoàn không quân huấn luyện 910 “Julius Fucik”, trong biên chế học tập của trung đoàn có 23 máy bay huấn luyện chiến đấu L-39, trên các máy bay này, các học viên phi công học chuyên sâu về máy bay chiến đấu. Các máy bay huấn luyện được nhập về thành ba đợt. Đợt 1 vào năm 1984, không quân Việt Nam nhận 24 chiếc L-39C, vào năm 2002-2003, tiếp nhận thêm 10 chiếc máy bay huấn luyện chiến đấu, đến năm 2008, không đoàn lại tiếp nhân thêm 4 chiếc L-39C đã sẵn sàng cất cánh. Như vậy, số lượng máy bay huấn luyện bay chiến đấu ở Việt Nam là 38 chiếc. Vào năm 2011 theo các phương tiện thông tin đại chúng, công ty Aero Vodochody nhân được hợp đồng sửa chữa lớn và phục hồi hai chiếc L-39C đồng thời cung cấp trang thiết bị, phụ tùng thay thế cho toàn bộ số máy bay còn lại.
Máy bay huấn luyện L- 39
Khi các học viên phi công đã trải qua giai đoạn huấn luyện ban đầu (vượt rào) các nhóm phi công sẽ được chia theo chuyên ngành chiến đấu. Các phi công lái máy bay chiến đấu sẽ tiếp tục theo chương trình bay tại căn cứ. Các phi công chuyển loại sang lái máy bay trực thăng hoặc máy bay vận tải sẽ được huấn luyện lái Bell UH-1H Iroquois 917 thuộc trung đoàn huấn luyện không quân “Đồng Tháp”, hiện đang đóng quân ở sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất, hay trên máy bay vận tải An – 2, nằm trong biên chế của trung đoàn không vận số 918 “Hồng Hà” căn cứ tại sân bay Gia Lâm. Trung đoàn có 8 máy bay vận tải An – 2 thiết kế mới, được nhập về từ năm 2004, nhà sản xuất là tập đoàn chế tạo máy bay PZL Mielec. Cũng trên căn cứ này có 15 chiếc máy bay Аn-26 (số còn lại của 50 chiếc máy bay đã nhập khẩu vào những năm 1981-1984) và một máy bay không quân hải quân PZL Mielec M-28B Bryza 1R. Hai máy bay loại này đã được nhập khẩu vào năm 2005, nhưng một chiếc bị mất do tai nạn hàng không. Ngoài ra căn cứ còn được bổ xung thêm 3 máy bay CASA C212-400 của cảnh sát biển Việt Nam, được nhập vào từ tháng 8.2011 đến 2012.
Máy bay tuần biển PZL Mielec M-28B Bryza 1R
Học thuyết chiến dịch chiến thuật
Lực lượng Không quân Việt Nam có vị trí vai trò và nhiệm vụ bảo vệ vùng trời vùng biển thuộc chủ quyền đất nước. Trên thực tế biên chế tổ chức trang bị, quân đội nhân dân Việt nam và quân chủng hải quân không có lực lượng tấn công chủ lực bảo vệ biển đảo, đất liền và bờ biển. Những nhiệm vụ tấn công chủ lực cho đến thời điểm này hoàn toàn thuộc về lực lượng Không quân tiêm kích ném bom. Ngoài ra, theo yêu cầu nhiệm vụ và biên chế tổ chức của quân chủng PK-KQ, nhiệm vụ tác chiến đường không tầm xa bảo vệ bầu trời cũng như các nhiệm vụ quản lý bầu trời cũng nằm trong chức năng nhiệm vụ của lực lượng không quân. Yêu cầu nhiệm vụ của lực lượng KQ Việt Nam trong giai đoạn mới rất nặng nề. Và đặc biệt quan trọng trong điều kiện phát triển kinh tế hải dương và bảo về chủ quyền trong khi tranh chấp đang nóng trên Biển Đông, những dấu hiệu về nguy cơ mất an ninh quốc tế và an ninh khu vực Đông Nam Á vẫn còn hiện hữu dưới nhiều hình thức khác nhau, mà nổi bật lên ở Khu vực Đông Nam Á là nguy cơ cướp biển và nguy cơ khủng bố quốc tế. Điều này đòi hỏi các lĩnh vực như Không quân tiêm kích và cường kích, không quân vận tải - đổ bộ đường không, không quân trực thăng – đặc biệt là trực thăng hải quân đều cần có sự phát triển cả về phương tiện hoạt động cũng như số lượng phi công. Đi kèm theo đó là các cơ sở hậu cần kỹ thuật và nghiên cứu phát triển khoa học công nghệ ứng dụng.
Do điều kiện tài chính còn hạn chế, nên nguồn lực cho Không quân Việt Nam phải được phân chia khá ngặt nghèo và thận trọng. Đồng thời công tác quản lý phương tiện bay cũng vẫn duy trì ở chế độ bảo mật và luân chuyển. Những số liệu chính xác về số lượng các máy bay của lực lượng và vị trí đóng quân hoàn toàn không được công bố, các máy bay không được mang ký hiệu của đơn vị trên thân, do đó để biết rõ được tình hình biên chế các phương tiện đường không và cơ cấu tổ chức của không quân Việt Nam thực sự rất khó. Các đối thủ tiềm năng chỉ có thể dựa trên những thông tin tình báo và không ảnh để ước đoán được số lượng sẵn sàng chiến đấu tại thời điểm nhất định.
Đây là phương hướng quản lý của lực lượng Không quân dựa trên cơ sở các kinh nghiệm tác chiến đường không có được từ chiến tranh chống Mỹ, bằng giải pháp này. Không quân Việt Nam dù số lượng rất ít nếu so với lực lượng KQ và KQHQ Mỹ, nhưng do cách điều chuyển lực lượng linh hoạt, nêu ở những khu vực chiến trường cần tập trung lực lượng, vẫn có thể tạo ra sức ép mà đối phương không lợi dụng thời điểm để công kích các khu vực đã giảm thiểu binh lực.
Hiện nay, Việt Nam xác định nguy cơ an ninh quốc gia và chủ quyền lãnh thổ nằm từ hướng biển Đông, đặc biệt trong các khu vực đảo và quần đảo đang có tranh chấp chủ quyền. Bằng các biện pháp khác nhau, không quân Việt Nam đang nỗ lực vô hiệu hóa những nguy cơ đến từ phía biển. Trong đó, nhiệm vụ quan trọng hàng đầu vẫn là kiểm soát chặt chẽ không gian biển và trên biển, xác định những khả năng tiềm ẩn có thể xảy ra xung đột, phát hiện nguy cơ xung đột và có giải pháp ngăn chặn, phản ứng kịp thời. Nhưng trong tương lai không xa, Không quân Việt Nam phải đáp ứng những yêu cầu thực tế của tác chiến không biển hiện đại theo những đặc điểm đặc thù của chiến tranh bảo vệ Tổ quốc Việt Nam và nghệ thuật quân sự truyền thống của Việt Nam. Trên không gian biển hiện nay, lực lượng công kích chủ lực đường không là các máy bay tiêm kích ném bom Su-22, được biên chế và lắp đặt các tên lửa chống tầu và các mục tiêu mặt đất khác nhau Kh – 25, thời gian có mặt trong biên chế đã hơn 30 năm và có nhiều hạn chế về tầm bắn cũng như tính năng kỹ thuật của đầu đạn tự dẫn laser bán chủ động. Để tăng cường khả năng tác chiến tầm xa, Không quân Việt Nam có xu hướng nhập khẩu các máy bay chiến đấu hiện đại đa nhiệm tiêm kích – tên lửa như Su – 27 và Su – 30 MK, có thể mang tên lửa Kh – 29 và Kh- 31, Kh – 35. Thực tế tác chiến không biển trong giới hạn học thuyết quân sự cấp chiến dịch – chiến thuật là phòng thủ đất nước, KQ Việt Nam không có xu hướng nhập khẩu các loại phương tiện bay hiện đại hơn Su- 30MK do không cần phải tác chiến trên tầm đại dương. Khoảng cách đến các mục tiêu cần bảo vệ của Không quân được giới hạn dưới 1000 km, do điều kiện số lượng máy bay thường ít hơn đối phương, sân bay ở đất liền và cũng gần hơn, có thể có nhiều sân bay dã chiến trên một vòng cung bờ biển, phương thức tác chiến thông thường là tấn công bất ngờ, thoát ly chiến trường nhanh và liên tục thay đổi hướng tấn công và cất cánh, không quân Việt Nam cần những phương tiện bay có giá thành rẻ hơn như Su – 27, Su – 30MK2 nhằm tạo ưu thế chủ động trên không bằng các sân bay mặt đất.
MiG 21 của Việt Nam
Cho đến hiện nay, lực lượng không quân tiêm kích vẫn sử dụng các loại máy bay tiêm kích MiG 21F đã có từ thời chiến tranh chống Mỹ ở Việt Nam, có một số dự án nâng cấp và cải tiến nhằm duy trì và nâng cao khả năng sử dụng của loại máy bay này, nhưng do những tính năng kỹ chiến thuật của MiG- 21F đã thua sút các loại tiêm kích hiện đại ngày nay như J-10 của Trung Quốc, phương án khai thác sử dụng khả năng sẽ chuyển hướng sang tấn công các mục tiêu bay thấp, máy bay không người lái và mang tên lửa chống hạm Kh- 31 theo mô hình nâng cấp của Ấn Độ MiG -21-93.
Nhẳm phối hợp tốt với các lực lượng phòng không và bảo vệ bờ biển, Không quân Việt Nam cũng tăng cường các loại máy bay tuần biển và chống ngầm, các phương tiện thông tin đại chúng về xuất nhập khẩu vũ khí cũng thông báo nhiều định hướng mua sắm các loại máy bay khác nhau của Việt Nam.
Hệ thống kiểm soát, tình báo và cảnh báo sớm trên không của Việt Nam là một hệ thống các đài radar kiểm soát không phận. Bộ tham mưu lực lượng Không quân Việt Nam kiểm soát một hệ thống quản lý tích hợp phòng không, được chia thành nhiều tuyến phòng ngự, các thê đội và các quân khu, cơ sở hạ tầng căn bản của hệ thống này là hơn 80 đài radars các chủng loại khác nhau, 24 đài radar là loại P-18, lắp đặt trên thân xe Ural, có tính năng cơ động và khả năng chia xẻ thông tin thông qua hệ thống quản lý, điều khiển thông tin trung tâm của bộ tham mưu không quân, có nhiều nguồn thông tin cho biết, Việt Nam sẽ tăng cường thêm khoảng 20 đài radar cơ động cao Vostoc – E. Trong điều kiện thời bình các đài radar hoạt động ở chế độ hạn chế, phân bổ theo từng khu vực và trong khu vực căn cứ không quân hoặc ở chế độ niêm cất, nhưng các đài radar đều được kết nối thông tin với các lực lượng phòng không mặt đất, đó là các sư đoàn tên lửa – pháo phòng không các cỡ nòng, hiện nay theo các thông tin không chính xác, Việt Nam có khoảng 3200 tên lửa các loại từ Strela – 2, S-75 Dvina, S-125 Pechora đến S-300PMU-1 với hàng ngàn súng pháo phòng không các cỡ nòng. Để tích hợp với hệ thống phòng không trên đất liền và bờ biển, đồng thời quản lý tốt vùng trời. Năm 2008 Việt Nam đã thành lập Lực lượng phòng thủ Bờ biển và lực lượng cảnh sát biển Việt Nam, trong biên chế đường không của Cảnh sát biển có các máy bay tuần biển loại CASA C212-400. Ngoài ra, còn được trang bị phối thuộc các máy bay trực thăng trên biển nhằm mục đích cứu hộ, yểm trợ và trinh sát chống ngầm EC-225S và Ka – 27, 31.
Máy bay C212-400
Định hướng phát triển tương lai
Trong giai đoạn mới, cùng với sự phát triển của nền kinh tế hải dương trên biển Đông, lực lượng không quân hải quân Việt Nam có định hướng trên một tầm cao mới. Bộ tư lệnh Không quân mong muốn có được khả năng quản lý toàn bộ không phận. hải phận và đường biên giới trên bộ với các nước láng giềng như Trung Quốc, Lào, Căm phu chia. Sự thay đổi tình hình kinh tế, chính trị trên trường thế giới, sự phát triển các lực lượng chiến đấu hiện đại như Hải quân, hải quân đánh bộ, đặc nhiệm đổ bộ đường không đòi hỏi Không quân phải có bước phát triển tích cực. Các binh chủng như Không quân Tiêm kích ném bom, không quân tiêm kích, không quân vận tải và đổ bộ đường không, chỉ huy trên không, tình báo, trinh sát và cảnh báo sớm, trực thăng chiến đấu ….đều đang có những nhu cầu cấp thiết phải tăng cường phương tiện,vũ khí trang bị và hiện đại hóa lực lượng.
Một phần lớn phụ thuộc vào tiềm lực kinh tế đất nước, hiện nay lực lượng Không quân đang có 4 trung đoàn được trang bị máy bay tiêm kích ném bom chủng loại Su bao gồm 45 chiếc Su- 27/30MK2 nhập khẩu từ Nga, các máy bay hiện đại này đóng vai trò chủ chốt trong lực lượng không quân tấn công chủ lực của KQ Việt Nam. Tương lai gần, để đảm bảo phòng thủ bờ biển, các vùng kinh tế biển và hải đảo, nếu đúng theo kế hoạch, KQ Việt Nam sẽ tiếp nhận máy bay cường kích Su – 34 với mục đích từng bước thay thế các máy bay Su – 22 đã lỗi thời, khi Su – 34 có được quy chế xuất khẩu.
Máy bay cường kích ném bom Su-34
JAS-39 Gripen,
Để thực hiện nhiệm vụ phòng không và bảo vệ không phận biển, lực lượng Không quân Việt Nam có nhiều định hướng phát triển máy bay tiêm kích tầm cao, trong đó MiG – 29 hiện đại hóa sâu cũng là một trong những loại máy bay tiêm kích tiềm năng do giá thành hạ và rất phù hợp với nghệ thuật tác chiến không quân Việt Nam. Ngoài ra, cũng có nhiều thông tin cho rằng Việt Nam có thể lựa chọn các loại máy bay khác có tính năng tương đương như JAS-39 Gripen của Thụy Điển và MiG 35 của Nga. Trong không quân Việt Nam, có nhiều ý kiến về việc lựa chọn các mẫu máy bay tiêm kích có khả năng đáp ứng yêu cầu kỹ chiến thuật và nghệ thuật tác chiến đường không của Việt Nam với xu hướng thiên về phòng thủ linh hoạt, nhưng có một điểm đáng chú ý là, các cán bộ lãnh đạo quân chủng PK-KQ Việt Nam hầu hết đều được đào tạo ở Nga, vũ khí trang bị tác chiến trên không và trên biển, nếu không muốn có một kho vũ khí đa chủng loại, cũng phần lớn có từ Liên xô cũ, quá trình tích hợp hệ thống điều khiển vũ khí đơn giản hơn rất nhiều lần. Nhưng cũng không loại trừ khả năng các nhà cung cấp sản phẩm quốc phòng như Thụy Điển có thể cung cấp thêm các cải tiến mới nhằm tương thích hóa các loại vũ khí hiện có của Việt Nam.
Bộ tư lệnh PK-KQ Việt Nam có mong muốn thay đổi loại máy bay huấn luyện mới, có khả năng đa nhiệm hơn nhằm tăng cường năng lực tác chiến đường không và huấn luyện chiến đấu. Nhà nước Việt Nam có xu hướng lựa chọn máy bay Yak 130 để thay thế dần các L-39 đã tương đối lỗi thời. Đã có kể hoạch nhập khẩu 12 chiếc Yak – 130 trong giai đoạn từ năm 2015 đến 2025. Nhưng các giảng viên – sĩ quan huấn luyện thì không thích loại Yak 130 lắm do đã thử nghiệm nó tại Nga vào năm 2011, do đó hiện nay đang có một cuộc cạnh tranh nhỏ giữa Yak và các máy bay huấn luyện cải tiển sâu của L-39 là máy bay huấn luyện chiến đấu L-159 ALCA, theo các chuyên gia phỏng đoán, thì L-159 có nhiều cơ hội hơn.
Hình thành lữ đoàn tàu ngầm và phòng tác chiến tàu ngầm thúc đẩy sự xuất hiện lực lượng chống ngầm và quản lý biển. Đó là các máy bay trinh sát chống ngầm và tác chiến chống ngầm thế hệ mới, có khả năng liên kết với lực lượng hải quân chống ngầm và bảo vệ tài nguyên khoáng sản thềm lục địa. Có nhiều thông tin cho rằng Việt Nam đang tăng cường năng lực chống ngầm của không quân bằng các máy bay chống ngầm P-3 Orion của Mỹ. Nhưng cũng có những ý kiến khác cho rằng, Việt Nam nên nhập máy bay chống ngầm P-1 của Nhật Bản do Nhật đã có kinh nghiệm sử dụng P-3 lâu năm và máy bay chống ngầm của Nhật Bản chắc chắn sẽ hoạt động tốt hơn nhiều so với P-3 Orion đã lỗi thời. Hiên nay đang có một cuộc cạnh tranh giữa Lockheed và Kawasaki trong cuộc chiến dành ưu thế về máy bay chống ngầm ở Đông Nam Á, Lockheed có ưu thế dựa trên cơ sở P-3 đã được khai thác sử dụng lâu năm và đã chứng minh được ưu thế của mình trên biển về sử dụng, Kawasaki đang cố gắng tận dụng ưu thế công nghệ và khả năng thích ứng của mình đối với mọi loại vũ khí, trang bị mà Việt Nam đang có trong biên chế, cũng như khả năng đáp ứng các yêu cầu về hậu cần kỹ thuật, vốn đã rất hạn chế ở một công ty nổi tiếng của P-3.
AN-26 không quân Việt Nam
Trong giai đoạn gần đây, sự hình thành lực lượng KQHQ và lực lượng hải quân đánh bộ, lực lượng đặc nhiệm chống khủng bố được tăng cường thêm khả năng đổ bộ đường không (nhẩy dù) đã xuất hiện thêm yêu cầu mới của phương tiện vận tải đường không tấn công tầm xa, có khả năng trong tương lai gần, Việt Nam sẽ tiếp tục nhập khẩu các máy bay An- 26 hoặc các máy bay vận tải quân sự khác nhằm tăng cường khả năng độ bộ của các lực lượng nhảy dù đang từng bước hình thành và phát triển.
Sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của lực lượng KQ Việt Nam, trong đó có KQHQ và lực lượng tác chiến trên biển đòi hỏi Việt Nam phải có các máy bay tác chiến điện tử, trinh sát đường không và chỉ huy trên không. Theo những thông tin được cập nhật gần đây. Việt Nam đã từng sử dụng An- 26 như máy bay chỉ huy trên không trong các chuyến bay tuần tiễu biển và trong tương lai gần, sẽ cần đến ít nhất là 2 máy bay trinh sát điện tử, dẫn đường và điều hành tác chiến trên không AWACS. Xu hướng sẽ đặt hàng máy bay CASA EC-295 được coi là khả thi hơn tất cả các loại máy bay AWACS khác đang có trên thị trường thế giới.
Ngoài ra, Việt Nam đang tích cực nghiên cứu phát triển cũng như hợp tác với các nước khác, trong đó có Berarusia nhằm mua sắm, nghiên cứu và phát triển các máy bay không người lái tuần biển. Đã có những máy bay không người lái Việt Nam được thử nghiệm bay và tiến hành các hoạt động không ảnh trên vùng biển chủ quyền. Trong tương lai gần, có thể sẽ xuất hiện những đơn vị máy bay tuần tiễu, trinh sát, chống ngầm và cảnh báo sớm Không người lái.
Nhìn chung toàn cảnh phát triển của lực lượng Không quân Việt Nam, có thể nhận thấy, lực lượng KQ Việt Nam đang nỗ lực phát triển để trở thành một lực lượng KQ hùng mạnh, có trang thiết bị và công nghệ hiện đại, đáp ứng yêu cầu bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của đất nước.
Nguồn: Bình luận quân sự Nga .
Biên dịch: Trịnh Thái Bằng - QuocPhongAnNinh.edu.vn
Không quân Mỹ tập trung phát triển vũ khí dạng mô-đun và kết cấu mở
Ngày
1-8, Bộ Quốc phòng Mỹ công bố chiến lược phát triển lực
lượng không quân trong 30 năm tới. Theo Tạp chí quân sự Janes, xu
hướng phát triển chính của Không quân Mỹ trong tương lai sẽ là
áp dụng sâu công nghệ vũ khí dạng mô-đun và kết cấu mở. Điều
này cho phép đơn giản hóa và giảm giá thành nâng cấp trang bị
vũ khí trong tương lai.
Lãnh đạo Không quân Mỹ tuyên bố, việc phát triển vũ khí dạng mô-đun cho phép nâng cấp hoặc sửa chữa trang bị cũ không cần phải can thiệp sâu vào kết cấu phương tiện bay (yếu tố liên quan tới vòng đời sử dụng). Trong khi đó, kết cấu mở cho phép nhiều công ty cùng tham gia phát triển trang bị mới để kết hợp trong một kết cấu vũ khí, trang bị hoàn chỉnh (đơn giản hóa quá trình phát triển mới).
Ảnh minh họa. |
Đánh giá về chiến lược trên, Tư lệnh Không quân Mỹ, Mark Welsh III nhấn mạnh, các công ty tham gia phát triển công nghệ hàng không mới nên cân nhắc ứng dụng cộng nghệ mới vào các phương tiện hàng không sẵn có để giảm chi phí vận hành. Ông M. Welsh III lấy chương trình phát triển động cơ phản lực AETD có khả năng thay đổi chu kỳ hoạt động làm ví dụ minh họa. Cụ thể, AETD thuộc dòng động cơ phản lực thế hệ thứ 6 của Mỹ. Khi được ứng dụng trên các máy bay quân sự hiện có của Không quân, nó giúp giảm 30-40% chi phí nhiên liệu khi máy bay ở tốc độ cận âm và siêu âm toàn phần. AETD đã minh chứng cho khả năng giảm chi phí hoạt động khi áp dụng công nghệ mô-đun và kết cấu mở.
Cùng với chiến lược phát triển
không quân mới, Mỹ trong tương lai sẽ tiếp tục tăng cường vai trò
và số lượng máy bay không người lái. Năm 2010, giới chức Lầu
Năm góc từng tuyên bố sẽ tăng gấp 4 lần số lượng máy bay không
người lái hiện có. "Nó (máy bay không người lái) sẽ không hoàn
toàn thay thế vai trò của máy bay có người điều khiển. Nó
chỉ đơn thuần giúp nhiệm vụ chiến đấu trở nên an toàn và hiệu
quả hơn", ông M. Welsh III tuyên bố.
Theo Tuấn Sơn (QĐND / Lenta)
Phân tích xu hướng phát triển VKTB không quân của Hải quân các nước
HQVN -
Vũ khí không quân của Hải quân là một trong những bộ phận quan
trọng cấu thành hệ thống vũ khí quân sự. Những năm gần đây, Hải quân
nhiều nước đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu, chế tạo các loại vũ khí không
quân của Hải quân thế hệ mới. Trong đó điển hình là Hải quân Mĩ với máy
bay chiến đấu thế hệ thứ 5 F-35C, đồng thời Mĩ cũng đã bắt đầu triển
khai hoạt động nghiên cứu máy bay chiến đấu thế hệ thứ 6; Hải quân Nga
cũng vừa tuyên bố đang hoàn thành giai đoạn cuối của chương trình nghiên
cứu máy bay chiến đấu thế hệ thứ 5 T-50; bên cạnh đó, các nước Đông Nam
Á cũng đẩy mạnh hoạt động mua mới trực thăng chống ngầm. Gần đây nhất
là việc Hải quân Mĩ tuyên bố tiến hành thử nghiệm thành công khả năng
phối hợp tác chiến giưa máy bay không người lái và máy bay chiến đấu có
người lái… Về tổng thể, vũ khí, trang bị không quân của Hải quân các
nước phát triển theo một số xu hướng lớn sau:
Quốc hội Mĩ tăng chi tiêu ngân sách cho các chương trình mua sắm vũ khí, trang bị cho lực lượng không quân của Hải quân
Tháng 12/2014, Quốc hội Mĩ đã thông qua dự luật phân bổ tài chính năm
2015. Theo đó, Quốc hội Mĩ đã đồng ý tăng chi ngân sách thêm 2,9 tỉ USD
cho lực lượng Hải quân Mĩ (từ đề xuất ngân sách ban đầu là 38,4 tỉ USD
lên 41,3 tỉ USD). Trong đó, hơn một nửa (khoảng 1,6 tỉ USD trong tổng số
2,9 tỉ USD được tăng thêm) sẽ được dùng cho các chương trình mua sắm vũ
khí, trang bị không quân của Hải quân. Chương trình mua sắm vũ khí
trang bị này bao gồm cả 1,46 tỉ USD để mua 15 máy bay tác chiến điện tử
EA-18G. Ngoài ra, Quốc hội Mĩ cũng hủy bỏ khoản ngân sách trị giá 41,5
triệu USD dành cho chương trình mua máy bay trinh sát không người lái
MQ-4C. Tuy nhiên, Quốc hội Mĩ cũng đã phê duyệt khoản chi lên tới 29
triệu USD để mua 3 máy bay trinh sát không người lái tấn công MQ-8C. Bên
cạnh đó, Quốc hội Mĩ cũng đã phê duyệt khoản chi ngân sách trị giá 403
triệu USD cho Hải quân Mĩ để đóng mới các tàu không người lái (UCLASS).
Hải quân Mĩ, Nga khởi động chương trình phát triển máy bay chiến đấu thế hệ tiếp theo
Để bảo đảm khả năng sẵn sàng chiến đấu cho lực lượng Hải quân giai đoạn
2030-2050, trong năm tài chính 2015, Bộ Quốc phòng Mĩ đã xây dựng kế
hoạch chi tiêu khổng lồ dành cho chương trình phát triển máy bay chiến
đấu thế hệ thứ 6, thậm chí có thể sẽ tiến hành nghiên cứu, phát triển
một loại máy bay chiến đấu cho Không quân và Hải quân Mĩ. Thế hệ máy bay
chiến đấu thứ 6 hứa hẹn sẽ trở thành chương trình nghiên cứu quan trọng
nhất đối với Quân đội Mĩ trong 10 năm tới. Trong khi đó, Hải quân Nga
cũng tuyên bố sẽ triển khai nghiên cứu thế hệ máy bay chiến đấu trang bị
trên tàu sân bay T-50 trong thời gian tới.
Ngay từ tháng 12/2009, Hải quân Mĩ đã sớm hoàn thành báo cáo đánh giá
năng lực tác chiến cơ bản tầm nhìn đến năm 2024. Năm 2012, Hải quân Mĩ
đã trưng cầu ý kiến liên quan đến dự án phát triển thế hệ máy bay mới
(F/A-XX) thay thế cho máy bay chiến đấu F/A-18E/F, đồng thời xác định
nhu cầu đối với loại máy bay chiến đấu mới này. Cuối năm 2013, Bộ Tư
lệnh Không quân của Hải quân tiết lộ, chương trình trưng cầu ý kiến sẽ
xác định nhiều vấn đề liên quan đến nhu cầu cụ thể đối với loại máy bay
chiến đấu trên hạm của Hải quân Mĩ như: đánh giá phương án nghiên cứu
năng lực tác chiến có người lái, không người lái, các cải tiến kĩ thuật,
nguy cơ pHải đối mặt, thách thức kéo dài niên hạn phục vụ, tính kinh
tế… Bên cạnh đó, qua các đóng góp ý kiến này sẽ tiến hành phân tích sâu
hơn ưu điểm, hạn chế của máy bay chiến đấu trên hạm thế hệ thứ 6, yếu tố
cải tiến kĩ thuật đột phá cũng như phương án giảm giá thành sản xuất
đối với loại máy bay này.
Hiện nay, Hải quân Mĩ đang tập trung giải quyết một số vấn đề chủ yếu
sau: Thứ nhất, tính kinh tế. Việc cải tiến máy bay chiến đấu trên hạm
như F/A-18E/F và F-35C là cần thiết, song thế hệ máy bay mới F/A-XX vừa
pHải đảm bảo hiệu quả kinh tế, vừa pHải đảm bảo tính khả thi và đáp ứng
đầy đủ tính năng kĩ chiến thuật. Thứ hai, việc cải tiến các thiết kế, hệ
thống treo vũ khí, tính năng…pHải đồng bộ với các hệ thống vũ khí thế
hệ tiếp theo.
Trong khi đó, để bảo đảm không bị tụt hậu và bắt kịp khả năng chiến đấu
với Hải quân Mĩ, tháng 10/2014, Phó Tư lệnh Hải quân Nga tuyên bố, tàu
sân bay mới của Hải quân Nga (dự kiến bàn giao và đi vào hoạt động năm
2030) sẽ được biên chế máy bay chiến đấu trên hạm T-50. T-50 là máy bay
chiến đấu thế hệ thứ 5 đa năng của Nga (hiện nay trên thế giới chỉ có Mĩ
sở hữu máy bay chiến đấu thế hệ thứ 5 trong biên chế là F-22 và F-35).
T-50 sử dụng vật liệu tổng hợp với nhiều công nghệ hiện đại, công suất
lực đẩy lớn cho phép khả năng cơ động cao và linh hoạt. Ngoài ra, Bộ
Quốc phòng Nga khẳng định, T-50 có khả năng tàng hình cao, có thể qua
mặt mọi hệ thống phòng không. Dự kiến, năm 2016 Không quân Nga sẽ tiếp
nhận chiếc T-50 đầu tiên để tiến hành thử nghiệm.
Chương trình nghiên cứu máy bay cánh cố định thế hệ mới thu được nhiều thành công quan trọng
`Chương trình nghiên cứu máy bay cánh cố định thế hệ mới của Hải quân
nước ngoài trong năm 2014 đạt được nhiều thành tựu khác nhau. Trong đó,
Hải quân Mĩ đã bước đầu thử nghiệm thành công máy bay trên hạm F-35C,
máy bay tác chiến điện tử thế hệ mới E-2D cũng đã hình thành năng lực
chiến đấu sơ bộ; đối với Pháp, Hải quân nước này cũng đã nâng cấp thành
công máy bay chiến đấu trên hạm Rafael M đạt mức tiêu chuẩn F3.
F-35 là loại máy bay chiến đấu chủ lực trong vòng 30 năm tới của Quân
đội Mĩ, trong đó phiên bản tác chiến trên hạm F-35C đã thử nghiệm thành
công cất cánh trên hạm ngày 3/11/2014. Thành công này cho thấy, Mĩ đã
khắc phục được các trở ngại về mặt kĩ thuật hãm đà bằng dây móc đối với
loại máy bay này. Trong khi đó, Lực lượng Hải quân đánh bộ Mĩ cũng cho
biết, tháng 7/2015 phiên bản F-35B cất cánh thẳng đứng dùng cho lực
lượng này cũng đã hình thành năng lực tác chiến bước đầu. Điều này cho
thấy, trong thời gian ngắn tới đây, các phiên bản F-35 sẽ nhanh chóng
được đưa vào biên chế chiến đấu cho Hải quân Mĩ.
Tháng 10/2014, Hải quân Mĩ tuyên bố, thế hệ tiếp theo của máy bay cảnh
báo sớm E-2D đã đạt được năng lực tác chiến bước đầu. So với biến thể cũ
E-2C, E-2D được trang bị hệ thống rađa thế hệ mới có phạm vi giám sát
rộng hơn, đồng thời qua thử nghiệm cũng cho thấy E-2D có năng lực phòng
không tên lửa, khả năng truyền dẫn hỗn hợp và năng lực tác chiến chiến
thuật tốt hơn E-2C. Bên cạnh đó, E-2D còn được ứng dụng thêm kĩ thuật
mạng định vị mục tiêu chiến thuật (TTNT) qua đó nâng cao năng lực đường
truyền và phạm vi theo dõi. Ngoài ra, Hải quân Mĩ còn thực hiện thử
nghiệm khả năng tiếp dầu trên không đối với E-2D, dự kiến đến năm 2020
sẽ hoàn thành.
Trong khi đó, tháng 10/2014, Hải quân Pháp cũng đã nâng cấp thành công
máy bay chiến đấu trên hạm Rafael M từ tiêu chuẩn F1 lên tiêu chuẩn F3.
Rafael F3 có thể được trang bị rađa quét điện tử RBE2, với khả năng vừa
tác chiến, vừa tiếp dầu, Rafael còn được trang bị tên lửa chống hạm
AM39, tên lửa hành trình tầm xa EG, tên lửa mang đầu đạn hạt nhân
ASMP-A. Hiện nay, Hải quân Pháp dự định nâng cấp 10 chiếc máy bay loại
này lên chuẩn F3, dự kiến đến năm 2017 sẽ hoàn thành toàn bộ quá trình
nâng cấp. Theo tính toán, tổng chi phi cho chương trình nâng cấp này có
thể lên tới 240 triệu Euro.
Mĩ bắt đầu tìm kiếm phương án thiết kế máy bay cánh xoay thế hệ thứ 3
Năm 2014, Hải quân Mĩ tiếp tục chứng tỏ là lực lượng chiếm ưu thế trong
thiết kế máy bay cánh xoay thế hệ thứ 3 trên thế giới. Ngoài ra, do chủ
trương cắt giảm chi tiêu quốc phòng, Hải quân Mĩ buộc pHải đẩy mạnh
chương trình tự nghiên cứu thay vì mua các trực thăng chủ lực MH-60.
Để đảm bảo khả năng chiến đấu, Bộ Quốc phòng Mĩ dự định sẽ trang bị cho
Hải quân Mĩ thế hệ máy bay cánh xoay có khả năng cất hạ cánh thẳng đứng
thế hệ thứ 3. Chương trình cung cấp này được biết đến với tên gọi
“chương trình kĩ thuật đa dụng liên hợp” (JMRTD), với mục đích chủ yếu
là nghiên cứu phát triển kĩ thuật cất, hạ cánh thẳng đứng. Hiện tại, các
nhà thầu quân sự đã đưa ra 4 giải pháp cho kĩ thuật này. Trong đó, 2
giải pháp sử dụng phương án có kĩ thuật cất, hạ cánh giống với máy bay
V-22 của Hải quân đánh bộ Mĩ. Ngoài ra, 2 phương án còn lại sử dụng kĩ
thuật trực thăng hỗ hợp, tức là chỉ lắp hệ thống truyền động và cánh
xoay trong thân, động cơ duy trì ở trạng thái cố định. Hai nhóm phương
án này đều cho khả năng cất hạ cánh như trực thăng, sau khi cất cánh lên
độ cao nhất định, hệ thống cánh xoay sẽ chuyển hướng và trở thành động
cơ đẩy máy bay bay đi. Tuy nhiên, phương án sử dụng kĩ thuật trực thăng
hỗn hợp cho khả năng bay với tốc độ cao và khả năng hành trình xa hơn.
Bên cạnh đó, nhằm tiết kiệm đầu tư, tháng 4/2014, Hải quân Mĩ dự định
hủy bỏ hợp đồng mua trực thăng chống ngầm MH-60. Đây là hợp đồng đã được
kí hồi tháng 6/2012 với tổng giá trị lên tới 8,5 tỉ USD. Theo đó, trong
vòng 5 năm, Hải quân Mĩ sẽ mua ít nhất 653 trực thăng MH-60 (trong đó
bao gồm cả trực thăng MH-60R/S). Tuy nhiên, sau đó chương trình mua sắm
này đã đội vốn đầu tư lên tới 11,7 tỉ USD với việc mua thêm 263 máy bay
MH-60, nâng tổng số máy bay sẽ mua lên con số 916 chiếc. Việc chi phí
tăng quá cao như vậy cùng với kế hoạch cắt giảm chi tiêu quốc phòng của
chính phủ khiến Hải quân Mĩ buộc pHải hủy bỏ hợp đồng.
Hải quân Nga, Anh tăng cường năng lực tác chiến của trực thăng chống hạm
Trong năm 2014, Hải quân Nga, Anh nỗ lực đẩy mạnh nâng cao năng lực tác
chiến của trực thăng. Ví dụ, Không quân của Hải quân Nga trong năm 2014
đã tiếp nhận 2 trực thăng Ka-52KM và Ka-27M. Trong đó, ngày 24/9/2014,
Hải quân Nga tiếp nhận chiếc Ka-52KM đầu tiên trong tổng số 32 chiếc từ
Công ti trực thăng Nga. Hai trực thăng này sẽ được biên chế trên tàu đổ
bộ trực thăng Vladivostok và Sevastopol, mỗi tàu đổ bộ này có khả năng
chở tối đa 8 trực thăng Ka-52KM. Đối với trực thăng chống ngầm Ka-27M,
đây là biến thể được cải tiến từ trực thăng Ka-27 với số lượng khoảng
vài chục chiếc. Ka-27M sau khi được cải tiến, nâng cấp sẽ được trang bị
loại rađa có khả năng độc lập tác chiến hoặc hiệp đồng tác chiến theo
biên đội.
Nhằm nâng cao năng lực tác chiến chống hạm cho trực thăng, tháng
7/2014, Hải quân Hoàng gia Anh đã kí hợp đồng trị giá 90 triệu USD để
mua hệ thống tên lửa chống hạm (FASGW) trang bị trên 28 chiếc trực thăng
AW159. Với trang bị hệ thống tên lửa chống hạm mới này cho phép các
trực thăng AW159 có khả năng tác chiến trên phạm vi rộng, linh hoạt hơn
rất nhiều so với trước đây, đồng thời có thể tấn công nhiều loại mục
tiêu khác nhau như tàu mặt nước tốc độ cao hạng nhẹ, mục tiêu mặt đất,
mục tiêu ven biển. Tên lửa FASGW là loại tên lửa sử dụng hệ thống truyền
số liệu hai kênh tốc độ cao, cho phép tên lửa vừa bay vừa truyền hình
ảnh mục tiêu về sở chỉ huy. Căn cứ vào số liệu và hình ảnh được tên lửa
truyền về, người chỉ huy có thể lựa chọn 2 phương thức tấn công: để tên
lửa tự động tấn công mục tiêu hoặc là có thể ra lệnh cho tên lửa tiếp
tục hành trình. Bên cạnh đó, tên lửa FASGW còn được trang bị thiết bị
thu hồi, thay đổi lựa chọn mục tiêu sau khi phóng qua đó nâng cao năng
lực tác chiến. Sau khi rời khỏi bệ phóng, nhân viên vận hành có thể thay
đổi mục tiêu ban đầu đã lựa chọn, đồng thời tên lửa FASGW còn có thể
được chỉ thị mục tiêu tấn công từ bên thứ 3 qua đó tăng cường tính linh
hoạt trong tác chiến.
Một số quốc gia Đông Nam Á tích cực mua sắm trực thăng chống ngầm
Trong năm 2014, một số quốc gia Đông Nam Á như Philipin, Inđônêxia và
Việt Nam đẩy mạnh hoạt động mua sắm trực thăng chống ngầm nhằm nâng cao
năng lực tác chiến chống ngầm cho Hải quân.
Tháng 2/2014, Hải quân Philipin đã kí hợp đồng với Công ti trực thăng
Agusta Westland đặt mua 2 trực thăng chống ngầm AW109 và cuối năm 2014
đã được bàn giao. Hai máy bay này được dùng chủ yếu vào thực hiện các
nhiệm vụ trên biển như bảo vệ vùng đặc quyền kinh tế, trinh sát mặt
nước, tìm kiếm cứu nạn trên biển và duy trì an ninh, giao thông trên
biển. Tính đến thời điểm hiện tại, Hải quân Philipin đã đặt mua 5 chiếc
trực thăng loại này, trong đó 3 chiếc đã đưa vào hoạt động. Trước đó,
năm 2013, Không quân Philipin cũng đã đặt mua 8 chiếc AW109.
Năm 2014, Inđônêxia cũng đã mua 11 trực thăng AS565 MBe của Công ti
Airbus, với nhiệm vụ chủ yếu nâng cao khả năng chống ngầm, dự kiến năm
2017 lô trực thăng chống ngầm mới này mới chính thức được bàn giao và
đưa vào hoạt động. Theo điều lệ quy định trong hợp đồng, Công ti PT
Dirgantara của Inđônêxia sẽ là nhà thầu cung cấp thiết bị chính thức cho
lô trực thăng này. Các thiết bị chủ yếu gồm sôna chủ động tầm xa
(HELRAS) và hệ thống phóng thủy lôi. Hiện nay, Quân đội Inđônêxia được
biên chế nhiều loại trực thăng chiến đấu do Công ti Airbus sản xuất như:
Trực thăng huấn luyện EC120, trực thăng tấn công hạng nhẹ BO-105, trực
thăng chống ngầm AS565 và trực thăng tìm kiếm cứu nạn EC725 sắp được bàn
giao.
Trong khi đó, Bộ Tư lệnh Cảnh sát biển Việt Nam cũng đã lên kế hoạch
mua một lô trực thăng Hải quân mới để trang bị trên 4 tàu tuần tra đa
năng. Được biết, các tàu tuần tra đa năng mới này có khả năng đỗ và cất
cánh các trực thăng có trọng tải lên tới 14 tấn. Trong đó, 1 chiếc tàu
tuần tra đa năng đã được bàn giao, hiện còn 3 chiếc đang trong quá trình
hoàn thiện.
Chương trình máy bay không người lái của Hải quân Mĩ thu được bước phát triển quan trọng
Năm 2014, Hải quân Mĩ tiếp tục đầu tư nhiều nguồn lực tài chính vào
chương trình phát triển máy bay không người lái. Trong đó, một số đặc
điểm nổi bật nhất là, thứ nhất, nghiên cứu phát triển máy bay không
người lái cho các tàu hạng nhẹ và hạng trung; thứ hai thử nghiệm khả
năng hiệp đồng tác chiến giữa máy bay không người lái và máy bay có
người lái; thứ ba, đẩy mạnh hoạt động tuần tra giám sát khu vực Đông Bắc
Á bằng máy bay không người lái tầm cao.
Nhằm nâng cao năng lực tác chiến cho các tàu mặt nước hạng nhẹ và hạng
trung, Cục Nghiên cứu Dự án cao cấp quốc phòng Mĩ và Cục Nghiên cứu Hải
quân Mĩ đã phối hợp phát triển máy bay không người lái tầm xa cho tàu
chiến hạng nhẹ và hạng trung có tên XPV-1. XPV-1 có thiết kế gần giống
với máy bay không người lái MQ-1, có khả năng thu thập tin tức tình báo,
giam sát, trinh sát (ISR) và tấn công mục tiêu trong phạm vi bán kính
từ 600 – 900 Hải lí tính từ tàu mẹ.
Bên cạnh đó, Hải quân Mĩ tiếp tục đẩy mạnh các chương trình phát triển
máy bay không người lái khác đang được nghiên cứu. Trong đó, tháng
9/2014, Hải quân Mĩ đã lần đầu thử nghiệm thành công khả năng hành trình
liên tục 11 giờ đối với máy bay không người lái MQ-4C. Sự kiện này đánh
dấu bước ngoặt quan trọng đối với chương trình phát triển MQ-4C. Ngày
19/12/2014, máy bay không người lái MQ-8C cũng đã thử nghiệm thành công
chuyến bay đầu tiên cất hạ cánh trên tàu khu trục, dự kiến cuối năm 2015
MQ-8C sẽ chính thức được biên chế để đưa vào tác chiến.
Để nâng cao khả năng hiệp đồng tác chiến giữa máy bay không người lái
và máy bay chiến đấu có người lái, trong năm 2014, Hải quân Mĩ cũng đã
tiến hành cuộc thử nghiệm đầu tiên nhằm đánh giá khả năng phối hợp tác
chiến giữa máy bay cánh xoay và máy bay cánh cố định. Ngày 12/5/2014,
Hải quân Mĩ đã thử nghiệm thành công khả năng hiệp đồng tác chiến giữa
máy bay trinh sát không người lái MQ-8B và trực thăng MH-60R. Kết quả
cho thấy, MQ-8B hỗ trợ rất hiệu quả cho MH-60R trong hoạt động thu thập
tin tức tình báo và nhận biết mục tiêu khu vực ven biển, đồng thời qua
đó nâng cao xác suất tấn công chính xác mục tiêu. Ngày 17/8/2014, máy
bay không người lái X-47B cũng đã có cuộc thử nghiệm phối hợp tác chiến
thành công với máy bay chiến đấu F/A-18. Cả hai máy bay này đều cất cánh
trên tàu sân bay Roosevelt, trong quá trình phối hợp tác chiến, X-47B
đã cho thấy khả năng phối hợp một cách nhịp nhàng, linh hoạt với máy bay
chiến đấu có người lái. Thành công của lần thử nghiệm này hứa hẹn sẽ mở
ra một phương thức tác chiến mới hiệu quả hơn của Hải quân Mĩ trong
tương lai.
Bên cạnh đó, Hải quân Mĩ cũng đặc biệt chú trọng phát triển máy bay
trinh sát không người lái biên chế trên tàu sân bay (UCLASS). Chương
trình này hi vọng sẽ góp phần nâng cao năng lực cung cấp tin tức tình
báo, giám sát, trinh sát và tấn công mục tiêu đối với các tàu sân bay.
Tháng 9/2014, Hải quân Mĩ đã công bố thư mời thầu đến các công ti, nhà
thầu quân sự. Tuy nhiên, do vẫn tồn tại một số vấn đề về yêu cầu và phạm
vi nhiệm vụ cụ thể chưa được làm rõ nên buộc Hải quân Mĩ pHải điều
chỉnh lại kế hoạch phát triển. Mặc dù, trong dự toán tài chính năm 2015,
Hải quân Mĩ dự định chi khoản ngân sách trị giá 403 triệu USD cho
chương trình phát triển UCLASS, tuy nhiên do yêu cầu điều chỉnh kế
hoạch, Quốc hội Mĩ yêu cầu Bộ Quốc phòng pHải đệ trình bản báo cáo chi
tiết chi tiêu. Do đó, Hải quân Mĩ đã đề nghị lùi thời hạn triển khai
chương trình phát triển UCLASS đến năm 2016, đồng thời thời gian chính
thức đưa vào biên chế cũng được điều chỉnh từ dự kiến năm 2020 thành năm
2022. Trong năm 2014, Hải quân Mĩ cũng đã kí hợp đồng tổng trị giá lên
tới 150 tỉ USD với hãng Boeing, hãng Lockheed Martin và hãng Northrop
Grumman để tiến hành thẩm tra, đánh giá đối với bản thiết kế UCLASS.
Ngoài ra, đối với năm tài khóa 2016, Hải quân Mĩ dự định chi khoảng 135
triệu USD để tiến hành hoạt động đệ trình chương trình phát triển này.
Nhằm tăng cường khả năng giám sát đối với hoạt động của Triều Tiên và
Trung Quốc, tháng 5/2014, Mĩ bắt đầu biên chế máy bay không người lái
Global Hawk (RQ-4) cho lực lượng không quân đang đồn trú tại Nhật Bản.
Máy bay không người lái Global Hawk có khả năng hoạt động liên tục 30
giờ ở độ cao 20km. Nhiệm vụ chủ yếu là giám sát hoạt động thử nghiệm hạt
nhân và tên lửa đạn đạo của Triều Tiên, qua đó cung cấp các thông tin
tình báo có liên quan kịp thời cho Chính phủ Hàn Quốc. Bên cạnh đó, máy
bay không người lái Global Hawk còn có nhiệm vụ giám sát, trinh sát hoạt
động các tàu chấp pháp của Trung Quốc tại quần đảo Điếu Ngư. Ngoài ra,
Nhật Bản cũng đã lên kế hoạch mua một số máy bay không người lái Global
Hawk để biên chế cho Lực lượng Bảo vệ Bờ biển, nhằm nâng cao hơn nữa khả
năng tác chiến liên hợp với Quân đội Mĩ trong tương lai./
Tác giả: HÀ BÌNH
Người dịch: Nguyễn Bá Trọng
10 công nghệ có thể làm thay đổi hình thức chiến tranh trong tương lai
ANTĐ Cùng với sự phát triển như vũ bão của khoa học công
nghệ, hình thức chiến tranh trong tương lai có thể cũng theo đó mà thay đổi
theo. Chẳng hạn, một cuộc chiến mà ở đó không có sự tham gia trực tiếp của con
người; một cuộc chiến xảy ra trong chớp nhoáng, hay một cuộc chiến không xảy ra
trên thực địa, mà trong không gian ảo… Sau đây là 10 công nghệ có thể dẫn đến một
cuộc chiến như thế.
1. Công nghệ không người lái
Chiến tranh trong tương lai sẽ chuyển sang một mô hình chiến tranh hoàn toàn mới, vũ khí không người lái sẽ đóng vai trò trung tâm. Hiện nay, quân đội của hơn 60 quốc gia đã được trang bị Robot quân dụng, với hơn 150 loại khác nhau. Dự kiến đến năm 2040, quân đội Mỹ có thể sẽ có một nửa chiến binh là Robot. Ngoài Hoa Kỳ ra, Nga, Anh, Đức, Nhật, Hàn Quốc cũng đang đẩy mạnh nghiên cứu “chiến binh” người máy của mình.
2. Công nghệ tốc độ siêu âm
Công nghệ tốc độ siêu âm có ý nghĩa quan trọng trong quân sự, vũ khí tốc độ siêu âm có hành trình xa, tốc độ nhanh, có thể tấn công các mục tiêu ở xa với tốc độ cực nhanh. Được chuyên gia quân sự mệnh danh là thành quả mang tính cách mạng lần 3 trong lịch sử hàng không sau công nghệ động cơ cánh quạt và động cơ phản lực. Quốc hội Mỹ đã thông qua dự toán 25 triệu USD cho dự án “Tấn công chớp nhoáng toàn cầu” trong năm tài khóa 2015 và quyết định bổ sung ngân sách chi cho dự án tên lửa tốc độ siêu âm của lục quân. Tháng 3-2015, Thứ trưởng quốc phòng Nga cũng cho biết, nước này đã nghiên cứu một nhiên liệu mới có thể làm cho vũ khí bay với tốc độ Mach 5 trở lên, một khi nó được đưa vào ứng dụng thực tế, sẽ làm cho vũ khí của Nga chiếm được ưu thế trong cạnh tranh vũ khí siêu âm với các nước khác trên thế giới.
3. Công nghệ dẫn đường chính xác
Công nghệ dẫn đường chính xác là một trong những dự án quan trọng của Mỹ, nó là hệ thống tác chiến có thể tấn công tiêu diệt mục tiêu xuyên lục địa từ trong lãnh thổ Hoa Kỳ. Hệ thống này được hình thành dựa trên nền tảng của vũ khí siêu âm, thời gian triển khai tác chiến chưa đầy 2 giờ đồng hồ, dự tính năm 2025 sẽ được Mỹ đưa vào trang bị cho quân đội. Ngày 17-11, một quan chức quân đội Nga cũng tiết lộ cho biết, năm 2016 Moscow sẽ tiến hành thử nghiệm tên lửa hành trình hạng nặng thế hệ mới Сармат. Loại tên lửa này có thể xuyên thủng mọi hệ thống chống tên lửa của đối phương, thậm chí có thể dùng để đối phó với “Hệ thống tấn công chớp nhoáng toàn cầu” sử dụng đầu đạn thông thường của Mỹ.
4. Công nghệ máy bay chiến đấu tàng hình
Máy bay thế hệ mới có khả năng tàng hình là xu hướng phát triển trong lĩnh vực khoa học công nghệ hàng không của mọi quốc gia. Thời gian gần đây, Mỹ đã có kế hoạch phát triển máy bay ném bom chiến lược thế hệ mới cho không quân. Loại máy bay này được mệnh danh là “máy bay ném bom 2018”; là loại máy bay tàng hình tốc độ siêu âm, có thể bay với hành trình 9.300km mà không cần tiếp nhiên liệu. Dự kiến siêu máy bay ném bom thế hệ mới này sẽ được đưa vào phục vụ không quân Mỹ trong năm 2025.
5. Công nghệ đánh chặn tên lửa
Công nghệ đánh chặn tên lửa phòng không là công nghệ đánh chặn tên lửa chiến lược bay trên không trung và ở quỹ đạo không gian. Hệ thống này bao gồm tên lửa đánh chặn, thiết bị phóng và radar. Công ty Raytheon của Mỹ tuyên bố, họ đã hoàn thành việc đánh giá giai đoạn một của dự án “vũ khí sát thương nhiều mục tiêu”, tức là hệ thống vũ khí được trang bị khả năng đánh chặn tên lửa xuyên lục địa nhiều đầu đạn. Để cân bằng với Mỹ, Nga cũng tích cực phát triển hệ thống đánh chặn tên lửa của mình; đã đẩy nhanh tiến độ thay mới một loạt trang bị từ S-300, S-400 cho đến S-500.
6. Công nghệ không gian quân sự
Mỹ là quốc gia duy nhất có khả năng tác chiến chống vệ tinh. Năm 2008, Washington đã sử dụng tên lửa “SM-3” phá hủy một quả vệ tinh trong điều kiện thực chiến. Ngoài ra, nước này còn làm chủ được nhiều loại công nghệ chống vệ tinh như: Gây nhiễu, đánh lừa, tấn công các vệ tinh nhỏ, làm tê liệt vệ tinh bằng laser.
7. Công nghệ vũ khí khái niệm mới (vũ khí laser)
Công nghệ vũ khí khái niệm mới là một loại vũ khí sử dụng công nghệ cao để nâng cao hiệu quả tác chiến, như vũ khí định hướng, vũ khí động năng… Tháng 9 năm 2015, Hải quân Mỹ cho biết, họ đang nghiên cứu một hệ thống vũ khí công năng mới được gọi là “Star Wars” (chiến tranh giữa các vì sao), không chỉ có khả năng tác chiến hạm đối hạm, mà còn có khả năng phòng vệ không gian.
8. Công nghệ tác chiến mạng
Công nghệ tác chiến mạng là một lĩnh vực tác chiến mới. Không gian mạng là môi trường đóng vai trò quan trọng của chiến tranh công nghệ cao trong tương lai. Hoa Kỳ là cường quốc về công nghệ mạng tiêu biểu, do đó, nước này rất tích cực phát triển công nghệ để đối phó với các cuộc tấn công mạng kiểu mới; đi sâu nghiên cứu công nghệ tấn công mạng; tăng cường phát triển theo hướng linh hoạt hóa và vũ khí hóa.
9. Công nghệ in 3D
Mỹ không ngừng đẩy mạnh phát triển công nghệ in 3D, họ hy vọng thông qua sự vượt trội về vật liệu và khả năng chế tạo của mình để chiếm lấy ưu thế về quân sự. Điển hình, ngày 14-1-2015, Công ty Sciaky – nhà chế tạo thiết bị điện tử nổi tiếng của Mỹ tuyên bố, họ đã làm chủ được công nghệ in 3D. Công nghệ này sẽ được ứng dụng để in ấn nhiều linh kiện của máy bay chiến đấu F-35 – máy bay thế hệ 5 của không quân Mỹ.
10. Công nghệ mô phỏng sinh vật
Công nghệ mô phỏng sinh vật là kết hợp công nghệ sinh vật hiện đại với lĩnh vực quân sự, vật lý, hóa học, vật liệu và thông tin. Chẳng hạn như: Vũ khí điều khiển bằng não bộ có thể giúp người lính kiểm soát từ xa Robot; phối hợp một cách đơn giản giữa người và trang bị. Cơ quan Dự án Nghiên cứu cao cấp quốc phòng Mỹ đã thành lập phòng công nghệ sinh vật, nhằm tích hợp sinh vật học, công trình học và khoa học máy tính, để phát triển công nghệ và trang bị thế hệ mới dựa trên khoa học đời sống. Chẳng hạn, gần đây Công ty IBM đã phát triển thành công chip xử lý mới mà họ gọi chip neurosynaptic đầu tiên trên thế giới, một bộ vi xử lý máy tính bắt chước khả năng bộ não của con người. Được biết đến với cái tên TrueNorth, con chip của IBM có thể nhồi nhét sức mạnh siêu máy tính vào một bộ vi xử lý có kích thước của một con tem, có khả năng cảm nhận, phân biệt và học tập như con người.
Không quân Mỹ hiện đại hóa vũ khí chiến lược, bom hạt nhân B61-12 (phần 1)
VietTimes -- Lực lượng không quân Mỹ, sử dụng máy bay ném bom tàng hình
B-2 thử nhiệm thành công bom hạt nhân đa nhiệm có độ chính xác cao B61-12. Theo
tuyên bố của các quan chức quân sự Mỹ, bom có khả năng tấn công chính xác, mang
theo một đầu đạn hạt nhân giải quyết nhiều kịch bản chiến trường.
Trang The National Interest cho biết, đầu mùa hè năm 2018, không quân Mỹ thử nghiệm
bom hạt nhân mới B61-12 từ máy bay ném bom tàng hình B-2 tại căn cứ
không quân Nellis AFB thuộc bang Nevada, đánh dấu giai đoạn phát triển
mới của bom hạt nhân nâng cấp, phát ngôn viên lực lượng không quân đại
uy Hope Cronin phát biểu với trang Warrior Maven.
"Những vũ khí hạt nhân được cập nhật tăng cường độ an toàn, khả năng bảo vệ chống can thiệp cao và tăng cường độ tin cậy trong khai thác sử dung," đại úy Cronin cho biết.
B61-12 được tăng cường khả năng đánh trúng mục tiêu chính xác tích hợp nhiều kiểu bom có khả năng tấn công khác nhau thành một một nguyên mẫu bom duy nhất. Bom đa nhiệm B61-12 cho phép tiến hành các cuộc tấn công xuyên vào lòng đất, vụ nổ có công suất thấp với phóng xạ cao , tấn công bằng vụ nổ có công suất phá hủy cao, kích nổ trên bề mặt địa hình và tấn công phá hủy các hầm ngầm.
Theo nuclearweaponsarchive.org, phiên bản mới nhất của bom hạt nhân B61, được phát triển vào những 1960, thiết kế như vũ khí hạt nhân chiến lược và chiến dịch, có công suất thấp đến trung bình, và “nổ bức xạ hai lần”.
“Tính năng đặc chưng của B61-12 là tích hợp các kịch bản tấn công hạt nhân vào một quả bom. Hans Kristensen, Giám đốc dự án thông tin hạt nhân thuộc Liên đoàn các nhà khoa học Mỹ, phát biểu với trang Fighter Maven cho biết, bom thế hệ mới thực hiện theo chiến thuật tấn công sạch, không có nhiều bụi phóng xả và tập trung tấn công các mục tiêu ngầm. Các quan chức không quân nhấn mạnh rằng, phiên bản bom hạt nhân B61-12 được nâng cấp như một vũ khí “toàn diện”.
Phát ngôn viên không quân, đại úy Cronin cho biết: “Cuộc thử nghiệm bay - ném hoàn thành các yêu cầu kiểm tra quá trình nâng cấp phát triển B61-12 và tích hợp các kịch bản chiến trường của vũ khí“ nâng cấp toàn diện”trên máy bay ném bom tàng hình B-2.
Các quả bom B61 Mod 12 được thiết kế với một bộ phận đuôi tháo dời có bộ phận điều khiển "Tail Subassembly" được tích hợp để tăng cường độ chính xác của bom vào mục tiêu bằng phương thức dẫn đường quán tính, kết hợp hệ thống định vị vệ tinh GPS, ông Kristensen giải thích. Hiện nay máy bay ném bom B-2 mang theo các loại bom hạt nhân B61-7 (10-360 kt), B61-11 (400 kt, nổ xuyên lòng đất), B83-1 (phá boong ke công suất lớn). B61-12 có thể thực hiện tất cả các nhiệm vụ đó, khi phát nổ ít bụi phóng xạ hơn, giải phóng năng lượng cộng hưởng thấp, ”ông nói thêm.
"Những vũ khí hạt nhân được cập nhật tăng cường độ an toàn, khả năng bảo vệ chống can thiệp cao và tăng cường độ tin cậy trong khai thác sử dung," đại úy Cronin cho biết.
B61-12 được tăng cường khả năng đánh trúng mục tiêu chính xác tích hợp nhiều kiểu bom có khả năng tấn công khác nhau thành một một nguyên mẫu bom duy nhất. Bom đa nhiệm B61-12 cho phép tiến hành các cuộc tấn công xuyên vào lòng đất, vụ nổ có công suất thấp với phóng xạ cao , tấn công bằng vụ nổ có công suất phá hủy cao, kích nổ trên bề mặt địa hình và tấn công phá hủy các hầm ngầm.
Theo nuclearweaponsarchive.org, phiên bản mới nhất của bom hạt nhân B61, được phát triển vào những 1960, thiết kế như vũ khí hạt nhân chiến lược và chiến dịch, có công suất thấp đến trung bình, và “nổ bức xạ hai lần”.
“Tính năng đặc chưng của B61-12 là tích hợp các kịch bản tấn công hạt nhân vào một quả bom. Hans Kristensen, Giám đốc dự án thông tin hạt nhân thuộc Liên đoàn các nhà khoa học Mỹ, phát biểu với trang Fighter Maven cho biết, bom thế hệ mới thực hiện theo chiến thuật tấn công sạch, không có nhiều bụi phóng xả và tập trung tấn công các mục tiêu ngầm. Các quan chức không quân nhấn mạnh rằng, phiên bản bom hạt nhân B61-12 được nâng cấp như một vũ khí “toàn diện”.
Phát ngôn viên không quân, đại úy Cronin cho biết: “Cuộc thử nghiệm bay - ném hoàn thành các yêu cầu kiểm tra quá trình nâng cấp phát triển B61-12 và tích hợp các kịch bản chiến trường của vũ khí“ nâng cấp toàn diện”trên máy bay ném bom tàng hình B-2.
Các quả bom B61 Mod 12 được thiết kế với một bộ phận đuôi tháo dời có bộ phận điều khiển "Tail Subassembly" được tích hợp để tăng cường độ chính xác của bom vào mục tiêu bằng phương thức dẫn đường quán tính, kết hợp hệ thống định vị vệ tinh GPS, ông Kristensen giải thích. Hiện nay máy bay ném bom B-2 mang theo các loại bom hạt nhân B61-7 (10-360 kt), B61-11 (400 kt, nổ xuyên lòng đất), B83-1 (phá boong ke công suất lớn). B61-12 có thể thực hiện tất cả các nhiệm vụ đó, khi phát nổ ít bụi phóng xạ hơn, giải phóng năng lượng cộng hưởng thấp, ”ông nói thêm.
Không quân Mỹ nâng cấp sâu máy bay tàng hình B-2 đối phó S-400, HQ-9 (phần cuối)
VietTimes -- Theo trang The National Interest, thử nghiệm và tích hợp B61-12 là một
phần của chương trình nâng cấp sâu máy bay ném bom tàng hình thế hệ 5 B-2, mục
đích nhằm duy trì máy bay ném bom chiến lược trong nhiều năm tới, cho đến khi
có đủ số lượng B-21 Raider thay thế.
Những nâng cấp kỹ thuật
nhằm mục đích chuẩn bị máy bay ném bom tàng hình những năm 1980 thế kỷ
trước sẵn sàng với những đe dọa của hệ thống phòng không hiện đại, công
nghệ cao và nguy hiểm hơn.
B-2 hiện đang được nâng cấp để có thể tích hợp vũ khí kỹ thuật số, tăng sức mạnh của chip máy tính mới, cho phép máy tính nhanh hơn 1.000 lần so với những hệ thống hiện đang sử dụng, lắp đặt các radar và cảm biến thế hệ mới, giúp máy bay tránh được hệ thống phòng của đối phương.
Một trong những nâng cấp quan trọng của máy bay ném bom tàng hình B-2 duy nhất này nhằm nâng cao khả năng sống còn là Hệ thống kiểm soát phòng thủ máy bay (Defensive Management System – DMS), một công nghệ được thiết kế hỗ trợ B-2 phát hiện và tránh được các bộ khí tài trinh sát và giám sát mục tiêu phòng không của đối phương, tích hợp nhiều ăng-ten thụ đông, khí tài đầu thu quang hồng ngoại, laser và hệ thống xử lý thông tin và các màn hiển thị tình huống chiến trường.
Hệ thống kiểm soat phòng thủ (Defensive Management System-DMS), được trang bị trên B-2 nhằm phát hiện các tín hiệu hoặc “dấu vết” bức xạ điện từ từ những hệ thống phòng không mặt đất. Những nâng cấp hệ thống này, sử dụng công nghệ kỹ thuật số phát hiện bị theo dõi và đeo bám khóa mục tiêu được các nhà phát triển không quân gọi là “nỗ lực hiện đại hóa lớn nhất mà B-2 đang thực hiện”.
Hệ thống DMSS hiện đại hóa sâu, còn được gọi là "DMS-M" của B-2, chủ yếu thay thế trang thiết bị của hệ thống DMS đã lỗi thời để máy bay có thể tránh được các phòng không mới nhất và nguy hiểm nhất như S-400 của Nga và HQ-9 của Trung Quốc.
Một quan chức cao cấp không quân trong buổi phỏng vẫn với Warrior Maven cho biết:
"Hệ thống mới được nâng cấp tích hợp một bộ ăng-ten hiện đại công suất lớn, bộ khí tài đầu thu nhạy cảm và màn hình hiển thị cung cấp thông tin tình báo thời gian thực trên không gian chiến trường".
Phần thiết kế mới của hệ thống bao gồm các ăng-ten cải tiến mới nhất với các giải pháp hỗ trợ điện tử kỹ thuật số tiên tiến, còn được gọi là ESM, các phần mềm được thiết kế nhằm tích hợp khí tài công nghệ mới với hệ thống trang thiết bị điện tử B-2, theo báo cáo Thử nghiệm & Đánh giá sự phát triển của Văn phòng Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Mỹ.
Mục đích của quá trình nâng cấp là thông báo đa phương tiện cho phi hành đoàn B-2 về vị trí các lực lượng phòng không đối phương, giúp máy bay ném bom tàng hình có thể tránh hoặc bay xung quanh các khu vực có nguy cơ phòng không cao, có nhiều khả năng bị phát hiện hoặc đem bám, tấn công tiêu diệt. DMS-M được sử dụng để phát hiện dòng bức xạ radio, phát ra từ các radar phòng không, đồng thời cung cấp cho phi hành đoàn B-2 thông tin chiến trường, hỗ trợ lập kế hoạch thực hiện nhiệm vụ được giao nhanh hơn trong khi đang bay.
Theo các quan chức không quân, nhiều chi tiết của hệ thống DMS-M giữ bí mật tuyệt đối, nhưng hệ thống cho phép B-2 tàng hình hoạt động thành công trong môi trường tác chiến công nghệ cao, có nhiều đe dọa từ các phương tiện phòng không mặt đất và trên không. Các nhà bình luận chiến lược không quân gọi là “môi trường tác chiến công nghệ cao”.
Các chuyên gia quân sự cho rằng, công nghệ tàng hình từ năm 1980 đã kém hiệu quả với những hệ tên lửa thống phòng không mới nhất như Buk, Tor và hiện đại nhất như S-400, HQ-9. Thực tế này khiến DSM-M phải sử dụng bộ vi xử lý nhanh hơn, mạng nội bộ kỹ thuật số, liên kết với data – link chiến thuật và dải tần số phát hiện mục tiêu rộng lớn hơn.
Quá trình nâng cấp hệ thống DMS-M không làm giảm khả năng tàng hình của máy bay, không làm thay đổi cấu trúc stealth của thân máy bay hoặc thay đổi bức xạ nhiệt khiến máy bay tàng hình dễ bị radar đối phương phát hiện hơn. .
Nhiều hệ thống phòng không tiên tiến sử dụng radar băng tần X, phát xung có bước sóng ngắn, tần số cao, cho phép hiển thị trên màn hình radar những hình ảnh có độ phân giải cao, không nhòe để dễ dàng tiêu diệt mục tiêu. Băng tần S, sử dụng tần số từ 2 đến 4 GHz, cũng được sử dụng trong nhiều hệ thống phòng không.
Radar sử dụng băng tần X, hoạt động trong dải tần số từ 8 đến 12 GHz, còn được gọi là Radar khẩu độ tổng hợp (Synthetic Aperture Radar hoặc SAR), khi hoạt động phóng một chùm bức xạ điện từ "ping", sau đó phân tích tín hiệu trả về để xác định hình dạng, tốc độ, kích thước và vị trí của mục tiêu. SAR cũng tạo ra một vùng mục tiêu nhất định.
Băng tần X cung cấp cả tính năng theo dõi chính xác cũng như quét hoặc tìm kiếm trên đường chân trời. Để tránh bị phát hiện, công nghệ tàng hình máy bay sử dụng cấu trúc với đường bao nhất định làm trượt tín hiệu điện từ, không cho phản hồi và vật liệu phủ hấp thụ bức xạ radar để gây nhầm lẫn hoặc ngăn chặn sự phản hồi tín hiệu điện từ radio về radar phòng không, công nghệ này được thiết kế cho B-2.
Kỹ thuật công nghệ tàng hình stealth B-2, trong quá trình hiện đại hóa sâu được tích hợp với các bộ khí tài triệt tiêu bức xạ IR (hồng ngoại) nhằm giảm thiểu tới mức tối đa hoặc hoặc loại bỏ hoàn toàn dấu hiệu "nhiệt", dễ dàng bị phát hiện bằng cảm biến radar quang ảnh hồng ngoại IR phòng không.
Bức xạ nhiệt từ khí thải hoặc động cơ của một máy bay có thể giúp các hệ thống phòng không phát hiện dấu vết một máy bay tàng hình đang hoạt động trên không. Công nghệ tàng hình, phối kết hợp với hệ thống DMS-M sẽ khiến máy bay ném bom tàng hình B-2 không phản xạ lại tín hiệu radar hoặc phản xạ rất ít tín hiệu radar, cũng như không có bức xạ hồng ngoại hoặc cho bức xạ hồng ngoại rất thấp, khiến cho các trắc thủ radar không phát hiện được hoặc không nắm chắc được, vật thể bay nào đang bay trong không phận kiểm soát của hệ thống phòng không. Trên màn hình các trắc thủ của hệ thống phòng không đối phương, một chiếc B-2 cần phải xuất hiện tương tự như phản xạ radar hoặc tín hiệu hồng ngoại của một chú chim hay một chú côn trùng.
Ngoài ra, hệ thống DMS-M cũng được trang bị bộ khí tài tác chiến điện tử, có khả năng vô hiệu hóa các đầu đạn tên lửa tự dẫn radar bán chủ động. Các quan chức Mỹ từ chối cung cấp thông tin về bất cứ thiết bị tác chiến điện tử nào.
B-2 hiện đang được nâng cấp để có thể tích hợp vũ khí kỹ thuật số, tăng sức mạnh của chip máy tính mới, cho phép máy tính nhanh hơn 1.000 lần so với những hệ thống hiện đang sử dụng, lắp đặt các radar và cảm biến thế hệ mới, giúp máy bay tránh được hệ thống phòng của đối phương.
Một trong những nâng cấp quan trọng của máy bay ném bom tàng hình B-2 duy nhất này nhằm nâng cao khả năng sống còn là Hệ thống kiểm soát phòng thủ máy bay (Defensive Management System – DMS), một công nghệ được thiết kế hỗ trợ B-2 phát hiện và tránh được các bộ khí tài trinh sát và giám sát mục tiêu phòng không của đối phương, tích hợp nhiều ăng-ten thụ đông, khí tài đầu thu quang hồng ngoại, laser và hệ thống xử lý thông tin và các màn hiển thị tình huống chiến trường.
Hệ thống kiểm soat phòng thủ (Defensive Management System-DMS), được trang bị trên B-2 nhằm phát hiện các tín hiệu hoặc “dấu vết” bức xạ điện từ từ những hệ thống phòng không mặt đất. Những nâng cấp hệ thống này, sử dụng công nghệ kỹ thuật số phát hiện bị theo dõi và đeo bám khóa mục tiêu được các nhà phát triển không quân gọi là “nỗ lực hiện đại hóa lớn nhất mà B-2 đang thực hiện”.
Hệ thống DMSS hiện đại hóa sâu, còn được gọi là "DMS-M" của B-2, chủ yếu thay thế trang thiết bị của hệ thống DMS đã lỗi thời để máy bay có thể tránh được các phòng không mới nhất và nguy hiểm nhất như S-400 của Nga và HQ-9 của Trung Quốc.
Một quan chức cao cấp không quân trong buổi phỏng vẫn với Warrior Maven cho biết:
"Hệ thống mới được nâng cấp tích hợp một bộ ăng-ten hiện đại công suất lớn, bộ khí tài đầu thu nhạy cảm và màn hình hiển thị cung cấp thông tin tình báo thời gian thực trên không gian chiến trường".
Phần thiết kế mới của hệ thống bao gồm các ăng-ten cải tiến mới nhất với các giải pháp hỗ trợ điện tử kỹ thuật số tiên tiến, còn được gọi là ESM, các phần mềm được thiết kế nhằm tích hợp khí tài công nghệ mới với hệ thống trang thiết bị điện tử B-2, theo báo cáo Thử nghiệm & Đánh giá sự phát triển của Văn phòng Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Mỹ.
Mục đích của quá trình nâng cấp là thông báo đa phương tiện cho phi hành đoàn B-2 về vị trí các lực lượng phòng không đối phương, giúp máy bay ném bom tàng hình có thể tránh hoặc bay xung quanh các khu vực có nguy cơ phòng không cao, có nhiều khả năng bị phát hiện hoặc đem bám, tấn công tiêu diệt. DMS-M được sử dụng để phát hiện dòng bức xạ radio, phát ra từ các radar phòng không, đồng thời cung cấp cho phi hành đoàn B-2 thông tin chiến trường, hỗ trợ lập kế hoạch thực hiện nhiệm vụ được giao nhanh hơn trong khi đang bay.
Theo các quan chức không quân, nhiều chi tiết của hệ thống DMS-M giữ bí mật tuyệt đối, nhưng hệ thống cho phép B-2 tàng hình hoạt động thành công trong môi trường tác chiến công nghệ cao, có nhiều đe dọa từ các phương tiện phòng không mặt đất và trên không. Các nhà bình luận chiến lược không quân gọi là “môi trường tác chiến công nghệ cao”.
Các chuyên gia quân sự cho rằng, công nghệ tàng hình từ năm 1980 đã kém hiệu quả với những hệ tên lửa thống phòng không mới nhất như Buk, Tor và hiện đại nhất như S-400, HQ-9. Thực tế này khiến DSM-M phải sử dụng bộ vi xử lý nhanh hơn, mạng nội bộ kỹ thuật số, liên kết với data – link chiến thuật và dải tần số phát hiện mục tiêu rộng lớn hơn.
Quá trình nâng cấp hệ thống DMS-M không làm giảm khả năng tàng hình của máy bay, không làm thay đổi cấu trúc stealth của thân máy bay hoặc thay đổi bức xạ nhiệt khiến máy bay tàng hình dễ bị radar đối phương phát hiện hơn. .
Nhiều hệ thống phòng không tiên tiến sử dụng radar băng tần X, phát xung có bước sóng ngắn, tần số cao, cho phép hiển thị trên màn hình radar những hình ảnh có độ phân giải cao, không nhòe để dễ dàng tiêu diệt mục tiêu. Băng tần S, sử dụng tần số từ 2 đến 4 GHz, cũng được sử dụng trong nhiều hệ thống phòng không.
Radar sử dụng băng tần X, hoạt động trong dải tần số từ 8 đến 12 GHz, còn được gọi là Radar khẩu độ tổng hợp (Synthetic Aperture Radar hoặc SAR), khi hoạt động phóng một chùm bức xạ điện từ "ping", sau đó phân tích tín hiệu trả về để xác định hình dạng, tốc độ, kích thước và vị trí của mục tiêu. SAR cũng tạo ra một vùng mục tiêu nhất định.
Băng tần X cung cấp cả tính năng theo dõi chính xác cũng như quét hoặc tìm kiếm trên đường chân trời. Để tránh bị phát hiện, công nghệ tàng hình máy bay sử dụng cấu trúc với đường bao nhất định làm trượt tín hiệu điện từ, không cho phản hồi và vật liệu phủ hấp thụ bức xạ radar để gây nhầm lẫn hoặc ngăn chặn sự phản hồi tín hiệu điện từ radio về radar phòng không, công nghệ này được thiết kế cho B-2.
Kỹ thuật công nghệ tàng hình stealth B-2, trong quá trình hiện đại hóa sâu được tích hợp với các bộ khí tài triệt tiêu bức xạ IR (hồng ngoại) nhằm giảm thiểu tới mức tối đa hoặc hoặc loại bỏ hoàn toàn dấu hiệu "nhiệt", dễ dàng bị phát hiện bằng cảm biến radar quang ảnh hồng ngoại IR phòng không.
Bức xạ nhiệt từ khí thải hoặc động cơ của một máy bay có thể giúp các hệ thống phòng không phát hiện dấu vết một máy bay tàng hình đang hoạt động trên không. Công nghệ tàng hình, phối kết hợp với hệ thống DMS-M sẽ khiến máy bay ném bom tàng hình B-2 không phản xạ lại tín hiệu radar hoặc phản xạ rất ít tín hiệu radar, cũng như không có bức xạ hồng ngoại hoặc cho bức xạ hồng ngoại rất thấp, khiến cho các trắc thủ radar không phát hiện được hoặc không nắm chắc được, vật thể bay nào đang bay trong không phận kiểm soát của hệ thống phòng không. Trên màn hình các trắc thủ của hệ thống phòng không đối phương, một chiếc B-2 cần phải xuất hiện tương tự như phản xạ radar hoặc tín hiệu hồng ngoại của một chú chim hay một chú côn trùng.
Ngoài ra, hệ thống DMS-M cũng được trang bị bộ khí tài tác chiến điện tử, có khả năng vô hiệu hóa các đầu đạn tên lửa tự dẫn radar bán chủ động. Các quan chức Mỹ từ chối cung cấp thông tin về bất cứ thiết bị tác chiến điện tử nào.
Nhận xét
Đăng nhận xét