-Dù
gì thì chủ nghĩa Mác cũng ngộ nhận nhiều điều. Nó đã đưa ra những khái
niệm để giải thích những hiện tượng như bóc lột, nhà nước, đấu tranh
giai cấp, chuyên chính...chưa đích đáng, thậm chí sai lầm. Chính sự ngộ
nhận đó đã dẫn đến cách hiểu lệch lạc chết người sau này của những người
kế tục trong khi thực hiện cách mạng vô sản và xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Vì vậy, xã hội mà chủ nghĩa Mác muốn xây dựng nếu không là không
tưởng, ảo tưởng, lý tưởng thì cũng...viễn tưởng. -Có
thể nói, nếu đạo Phật muốn hướng tới Niết Bàn (xã hội tươi đẹp!) bằng
cách chủ yếu là tu luyện cá nhân thì chủ nghĩa Mác muốn hướng tới CNXH
(xã hội tươi đẹp!) bằng cách chủ yếu là cải tạo xã hội. Cả hai cách đó
tưởng dễ dàng đạt được trên lý thuyết nhưng đều không thể thực hiện được
trong thực tế, vì đều chủ quan, duy ý chí, cực đoan, hoang tưởng và trái quy luật tự
nhiên như nhau. -Nếu Phật đúng thì ngày nay đã huy hoàng Niết Bàn! Nếu Mác đúng thì ngày nay đã rực rỡ CNXH! -Mục
đích tiên quyết và tối thượng của mọi sinh vật khi xuất sinh ra là cố
gắng tìm cách sống còn. Đó là chân lý bất di bất dịch, không thể sửa đổi
của tự nhiên. -Loài
người cũng vậy. Thuở ban sơ hình thành lối sống hợp quần xã hội, con
người, cũng tương tự như loài động vật hoang dã, sống chủ yếu vẫn bằng
săn bắt hái lượm, tự cung tự cấp. Hình thái xã hội lúc đó gọi là "cộng
sản nguyên thủy", con người sống hoàn toàn hồn nhiên, trong đầu chưa hề
nảy sinh những ý niệm như "tích lũy", "sở hữu", "giàu - nghèo", thiện -
ác... -Mạnh
tử nói: "Nhân chi sơ, tính bản thiện", Tuân Tử nói: "Nhân chi sơ, tính
bản ác", nhưng chúng ta nói: "Nhân chi sơ, tính không thiện không ác". -Quá
trình đấu tranh sinh tồn trong xã hội đã dần hun đúc nên những ý niệm,
những sắc thái tình cảm (những cảm nhận trừu tượng!) về yêu - ghét,
chiếm đoạt, tranh dành, quyền lực, tư hữu...ở con người. Trong đó có sự
tham muốn và dục vọng. Có thể nói, tính tham lam chiếm đoạt ở con người có tư duy trừu tượng
là do quá trình đấu tranh sinh tồn trong xã hội kích hoạt nên mà có và trở thành như
bản năng ở mỗi con người. -Sự
biến động của thiên nhiên hữu hạn và sự tăng giảm lạm phát vế số lượng
cá thể sẽ ảnh hưởng lúc bất lợi lúc thuận lợi đến nguồn sống của con
người. -Cũng
chính đấu tranh sinh tồn trong xã hội là nguyên nhân sâu xa thúc đẩy
con người không ngừng tăng cường sản xuất và sáng tạo, từ nền sản xuất
tự cung tự cấp phát triển thành nền sản xuất hàng hóa - thị trường. -Từ
đó mà trong xã hội loài người mới bị phân hóa, xảy ra những hiện tượng
chỉ ở loài người biết tư duy trừu tượng mới có như giết chóc hàng loạt
đồng loại, cướp của, chiến tranh, chiếm đoạt, sự thống trị, bị trị, sự
đấu tranh, sự thống khổ, sự giải phóng, sự tự do... -Trong
tình hình ấy, sự phân hóa xã hội thành hai tầng lớp thống trị và bị trị
chính là nguyên nhân duy trì sự giàu - nghèo không chính đáng, sự khốn
khổ, đau thương của tầng lớp bị trị, sự đấu tranh không ngừng, đòi quyền
sống cơ bản của tầng lớp bị trị. -Ước
mơ ngàn đời của tầng lớp bị trị chính là không còn áp bức bất công,
được sống trong một xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. -Từ
xưa tới nay đã có nhiều mô hình xã hội như thế. Trong đó có mô hình của
chủ nghĩa Mác. Nhưng chưa có mô hình nào tồn tại được lâu dài trong
thực tiễn. -Phải
nói rằng, mô hình xã hội của chủ nghĩa Mác là sát thực nhất, có cơ sở
lý luận nhất. Nó tương tự như xã hội tự cung tự cất thời sơ khai, thường
gọi là xã hội cộng sản nguyên thủy, nhưng với trình độ văn minh cao hơn
nhiều. -Thế
thì vì sao nó vẫn chỉ là...lý tưởng? Phải chăng là vì không thể gột rửa
được lòng tham quá đáng, thứ đã trở thành như một bản năng thấm vào
xương tủy của con người? -Nếu
quan niệm rằng, giai cấp là một bộ phận của tầng lớp quần chúng, xuất
hiện trong điều kiện xã hội bất công nào đó thì có thể có nhiều giai cấp
như nông nô, nô lệ, công nhân. Giai cấp công nhân là những người làm
công ăn lương, bị bóc lột thậm tệ. Khi tính bóc lột không còn thì tính
giai cấp của công nhân cũng không còn. Nghĩa là trong xã hội, không phải
lúc nào cũng tồn tại giai cấp. -
Nếu cho rằng giai cấp là những bộ phận quần chúng mâu thuẫn đối kháng
nhau về quyền lợi thì trong xã hội chỉ có hai giai cấp là giai cấp thống
trị và giai cấp bị trị khi nhà nước điều hành xã hội đó không phải là
nhà nước "của dân, do dân và vì dân" mà là nhà nước "của nó, do nó và vì
nó". -Vậy mục đích đầu tiên của cách mạng vô sản đâu phải là đấu tranh giai cấp? -Người
ta nói có hai con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội. Con đường thứ nhất
là con đường CNXH bạo lực. Đó là con đường đề cao đấu tranh giai cấp,
triệt tiêu giai cấp tư sản, xây dựng xã hội bằng nền kinh tế kế hoạch
tập trung, lấy công hữu tư liệu sản xuất làm nòng cốt. Thực tế lịch sử
đã chứng minh, đây là con đường lầm lạc. Con đường thứ hai là con đường
CNXH dân chủ. Đây là con đường cũng lật đổ chính quyền tư sản, cũng
chuyên chính đối với những kẻ chống đối, nhưng bao dung giai cấp tư sản,
xây dựng xã hội bằng nền kinh tế hàng hóa - thị trường, tự do hóa sự sở
hữu (nói chung), nó có vẻ tự phát, lặp lại con đường từng đi lên chủ
nghĩa tư bản. Thực chất của con đường này là thỏa hiệp với chủ nghĩa tư
bản, nguyên nhân làm nổ ra cuộc cách mạng vô sản (?), như con đường "rẽ"
để giải quyết bế tắc cho những kẻ đi trên con đường thứ nhất, cho những
kẻ có tư tưởng "xét lại". Cũng thực tế lịch sử chứng minh rằng, con
đường thứ hai có vẻ ưu việt hơn con đường thứ nhất, nhưng sau một thời
gian phát triển kinh tế, cũng bộc lộ đầy nhiêu khê, làm đạo đức xã hội
suy đồi nghiêm trọng, tha hóa mạnh mẽ con người, nếu không kịp thời ngăn
chặn, sẽ làm hình thành giai cấp thống trị mới, gọi là "tư sản đỏ", một
kết quả (vô tình) phản lại cách mạng vô sản của đảng cộng sản (?). -Phải
có con đường chân chính nhất (nhưng không tuyệt đối được!) để tiến lên
CNXH. Đó là con đường nào? Con đường nào thì chưa biết, nhưng tất nhiên
phải là con đường độc lập, không phải là con đường "rẽ" từ một trong hai
con đường kia và phải có những nét đặc trưng, ưu việt hơn hẳn xã hội tư bản. -Cần phải cố gắng tìm cho ra con đường đó, vì tiến lên CNXH là hướng đi tất yếu của mọi xã hội ngày nay của loài người.
-------------------------------------------------------------------------
(ĐC sưu tầm trên NET)
Lại lộ thêm biệt thự nguy nga tráng lệ của gia đình Giám đốc Sở KH&ĐT Yên Bái
Lộ diện gia tộc Bí thư Lê Thanh Hải bá chủ lãnh thổ phía nam khủng khiếp hơn Đinh La Thăng
Đăng bởi Tiểu Nhi on Thursday, November 16, 2017 | 16.11.17
Trước đây đã có một quốc gia Nam Mỹ với một tương lai đầy hứa hẹn. Nó
có một nền dân chủ đang hoạt động tốt, một nền kinh tế phát triển mạnh,
và một tầng lớp trung lưu ngày càng nhiều. Tất cả những dấu hiệu, bao
gồm giáo dục, y tế, và đầu tư nước ngoài, đều chỉ đến đường lối đúng
đắn. Nó không hoàn hảo, nhưng người dân đầy hy vọng – và với lý do chính
đáng.
Nhưng tất cả sự hứa hẹn đó đã biến mất. Đất nước đó bây giờ là một quốc gia thất bại, một cái bóng của nó trước đây.
Những dịch vụ như điện và nước rất lẻ tẻ. Những hàng tiêu dùng cơ bản
nhất, từ bánh mì đến giấy vệ sinh, đều đang thiếu thốn trầm trọng. Tội
phạm đã tăng vọt. Tự do báo chí cũng gần như không tồn tại. Nền dân chủ
đã được thay thế bởi một chế độ gần như là độc tài.
Đất nước ấy tất nhiên là Venezuela. Chỉ có 1 từ diễn tả chuyện gì đã xảy
ra với nó : Chủ nghĩa Xã hội (CNXH). Vào năm 1999, khi là ứng cử viên
tổng thống, Hugo Chavez đã hứa hẹn là sẽ dẫn dắt người dân Venezuela đến
một thiên đường chủ nghĩa xã hội.
Khẩu hiệu của ông ta là “Esperanza y Cambio” – Hy vọng và Thay Đổi.
“Venezuela là một quốc gia giàu có,” Chavez đã nói, “nhưng nó đang bị
đánh cắp từ người dân của nó bởi những nhà tư bản ác độc và các tập đoàn
ma quái.” Sự sai trái này sẽ được làm đúng lại, ông ta đảm bảo các cử
tri như vậy, nếu họ bầu chọn ông ta. Và họ đã làm như vậy. Và họ đã vô
cùng hối hận.
Nicolas Maduro
Chavez lấy cảm hứng của mình từ nhà tư vấn của ông ta, Fidel Castro. Như
người tư vấn của mình, ông ta thích thực hiện các bài diễn văn – vài
cái kéo dài đến 7 tiếng đồng hồ.
Ông ta thậm chí tự tạo cho bản thân một chương trình truyền hình, nơi
ông ta sẽ nói như hát nhạc liên tục. Dưới thời Chavez, chính phủ
Venezuela đã cưỡng chế lĩnh vực này đến lĩnh vực khác.
Chính phủ, ông ta trấn an mọi người, là sẽ điều hành những doanh nghiệp
đó tốt hơn doanh nghiệp tư nhân, và lợi nhuận sẽ được chia đều cho người
dân.
Với sự phô trường đó, ông ta đã xé bỏ những hợp đồng với các công ty dầu
khí và xăng, và yêu cầu họ trả hoa hồng cao hơn rất nhiều. Khi họ từ
chối, ông ta kêu họ hãy rời khỏi nước. Họ đã làm điều đó.
Hình ảnh của ông ta được đánh bóng bởi những diễn viên Hollywood nổi
tiếng, những người ùa đến để xem nỗ lực tuyệt vời mà ông ta đang làm –
lấy tiền từ người giàu và đưa cho người nghèo. Các chính trị gia cánh tả
ở Mỹ và Châu Âu cũng ca ngợi ông rất nhiều.
Chủ nghĩa xã hội luôn hoạt động tốt trong giai đoạn đầu, cho nên người
ta bị lừa bởi ban đầu. Rất dễ để các chính phủ tịch thu tiền, nhưng cuối
cùng thì sẽ không còn tiền để tịch thu nữa.
Trong trường hợp của Venezuela, thật lòng mà nói: những ai có thể đem
tiền ra khỏi đất nước, đã làm như vậy. Nhiều người đã rời bỏ đất nước
luôn – gần 2 triệu người, dựa theo nhà xã hội học người Venezuela, Tomas
Paez.
Những người tạo ra của cải tiếp tục tạo ra của cải, nhưng họ đã tạo nó ở
chỗ khác – như Miami hay Madrid và những nơi khác trên thế giới.
Người nghèo ở Venezuela
Khi Chavez tranh cử chức tổng thống lần đầu tiên vào năm 1999, ông ta
nói là ông ta sẽ từ chức trong 2 năm nếu người dân không hài lòng với
ông ta.
Nhưng cũng như Castro, Chavez chưa bao giờ có ý định từ bỏ quyền lực.
Ông ta đã chết khi còn cầm quyền vào năm 2013, được thay thế bởi phó
tổng thống của ông, Nicolas Maduro.
Maduro giống Chavez nhưng không có sự quyến rũ hoặc giọng nói hay. Đất
nước bây giờ đang lâm nguy, bị xa lánh bởi thế giới và cô lập. Nó tệ đến
mức nhiều hãng hàng không quốc tế từ chối bay đến đó. Người dân xếp
hàng dài hàng tiếng đồng hồ để mua đồ ăn. Đôi lúc họ đi về trắng tay.
Một khảo sát gần đây cho thấy rằng 75 phần trăm người lớn ở Venezuela đã
giảm cân vào năm 2016 – trung bình là 8.6 kg. Chương trình giảm cân
toàn quốc này được gọi là “chương trình giảm cân Maduro”. Tuy nhiên,
Maduro vẫn cầm quyền.
Các nhà lãnh đạo và phóng viên đối lập mà nói lên sự thật thì bị bỏ tù. Venezuela là một câu chuyện để cảnh báo cho người khác.
Một khi đất nước đi theo con đường chủ nghĩa xã hội, thì không thể dễ
dàng quay lại. Và đất nước càng theo CNXH càng lâu, thì càng khó để cải
cách nó. Venezuela đã là một đất nước CNXH gần hai thập niên nay.
Nếu bạn không nghĩ nó có thể xảy ra ở đây, cho dù đó là Mỹ hay Châu Âu
hay Việt Nam,… bất cứ nơi nào khác, thì bạn đang tự dối lòng mình.
Khi người dân quen với việc lệ thuộc vào chính phủ – cho dù họ nghèo đến mức nào đi nữa, thì sự lệ thuộc đó rất khó phá vỡ.
Đó là tại sao bạn đừng bao giờ tin sự giả dối của CNXH. CNXH chính là ma
túy. Và như ma túy, nó cảm thấy rất tuyệt vời lúc ban đầu. Nhưng cuối
cùng thì nó sẽ phá nát đất nước của bạn. Cũng như nó đã phá nát
Venezuela.
(VietFact)
Suy thoái đạo đức trong xã hội Việt Nam hiện nay
Giữa lúc nhiều nhà tâm huyết với đất nước, dân tộc Việt ngày càng
cảnh báo về tình trạng đạo đức xã hội VN càng lúc càng suy đồi, thì hiện
nhiều nước láng giềng của VN – và qua đó, công luận thế giới – đang
nhìn hình ảnh VN một cách “xấu xí”. Sao lại xảy ra cảnh như vậy ? Thanh
Quang trình bày vấn đề như sau: “Những điều trông thấy mà đau đớn lòng”
Hồi tháng 9 năm ngoái, báo Đất Việt trong nước đưa tin “ Hòa Lan
hỏang sợ khi tặng áo mưa, người Việt lên cướp”, tạo nên cái cảnh mà tờ
báo mô tả là “ mọi người tranh giành nhau, ai cũng cố gắng lấy nhiều
nhất những món quà thiện chí về tay mình. Có người còn trèo lên cả sân
khấu để cướp từ tay các tình nguyện viên và nhân viên đại sứ quán. Nhiều
người hò hét xung quanh khu vực phát áo mưa khiến quang cảnh trước UBND
quận Ba Đình trở nên lộn xộn và khó hiểu”. Thì hôm 24 tháng Ba vừa rồi,
báo VietnamNet có bài “ Nhật, Thái, Hàn rêu rao người Việt trộm cắp, ăn
tham, xả rác…” khiến “ hình ảnh VN đang trở nên xấu xí” trước con mắt
thế giới !
VietnamNet mô tả báo Sankei Shimbun của Nhật đưa tin “ tình trạng
người VN ăn cắp đồ tại Nhật có xu hướng gia tăng” và bị “ lan truyền
nhanh trên mạng xã hội khiến nhiều người (VN) cảm thấy xấu hổ” giữa lúc
nhiều siêu thị Nhật trương bảng cảnh báo bằng tiếng Việt; rồi chuyện
“Thái Lan, Đài Loan cũng đều có biển cảnh báo về thói trộm cắp vặt của
người Việt, trong khi một nhà hàng buffet ở xứ Chùa Vàng có bảng bằng
tiếng Việt với nội dung “ Xin vui lòng ăn bao nhiêu lấy bấy nhiêu, nếu
ăn không hết sẽ bị phạt…” mà dư luận cho là “đây không phải là chuyện
hiếm gặp tại các nhà hàng Thái Lan”. Đó là chưa kể “ cư dân mạng cũng
lan truyền, bàn tán bức hình chụp tấm biển cấm vứt rác bừa bãi bằng
tiếng Việt tại Hàn Quốc” khiến, vẫn theo báo VietnamNet, “ không ít
người cảm thấy buồn và xấu hỗ khi hình ảnh đất nước mình đang trở nên
xấu xí trong mắt người nước ngòai”.
Đó là chưa kể, cũng cách nay chưa lâu, diễn ra những cảnh như “Tài xế
bất lực nhìn dân bới mảnh chai hôi của”, “>Nửa đêm dân ra hôi bánh
kẹo từ xe gặp nạn”, “Dân đổ xô ‘hôi’ cổ vật tàu đắm ở Quảng Ngãi”, “Dân
ùn ùn ra hôi xăng trên xác xe gặp nạn”… Trước
những cảnh nhiễu nhương ấu trĩ như vậy, có lẽ câu hỏi cần được nêu lên
là tại sao những xứ láng giềng, nhất là những nước than phiền cung cách
thiếu văn hóa của người mình như vậy, dân họ lại không bị mang tiếng
trên thế giới ? Và đặc biệt là nguyên nhân nào mà nhiều người Việt mình
ngày nay lại hành xử một cách gọi là “vô tư” như thế, dù ngay tại các
nước ngòai ? Có phải xã hội ngày càng ích kỷ?
Từ Đà Nẵng, GS Nguyễn Thế Hùng giải thích: GS Nguyễn Thế Hùng:Tình trạng này xuất phát từ vấn đề là
mọi cái đều do nền giáo dục sinh ra. Thí dụ như ở Miền Nam hồi trước năm
1975, nền giáo dục Miền Nam đào tạo con người rất là đàng hòang. Còn
bây giờ, cái nền giáo dục này sao nó lọan quá. Vấn đề cũng đều là con
người VN, nhưng tại sao mình giáo dục kiểu này thì họ tốt mà giáo dục
kiểu kia thì họ như vậy ? Nguyên nhân là do những người đề ra vấn đề
giáo dục, rồi những người lãnh đạo đất nước chủ trương, tuyên truyền,
làm gương như thế nào. Rõ ràng là trước đây, hồi trước 75, tại Miền Nam
này, mọi người sống trong cảnh rất là trật tự, tức không có nhố nhăng
như bây giờ. Như vậy thì rắc rối bây giờ xuất phát từ triết lý giáo dục,
cung cách người thầy rồi cung cách quan chức hỗ trợ cho xã hội như thế
nào, rồi vấn đề phương tiện truyền thông, báo chí đưa việc tốt, việc xấu
trong xã hội như thế nào.v.v.. để cho xã hội đi vào trật tự như một xã
hội văn minh.
Theo GS Nguyễn Thanh Giang từ Hà Nội, khi nghe một số người cho đó là
do bản tính của con người VN, ông không nghĩ thế. Trước hết, về bản
tính của con người VN, GS Nguyễn Thanh Giang khẳng định ông vẫn đánh giá
là con người sống có nhân, có nghĩa, có hiếu; và người VN không kém về
mức độ trung thực so với các dân tộc khác trên thế giới. Nhưng GS Nguyễn
Thanh Giang nhận định rằng chính chế độ trong nước nối kết với tổ chức
xã hội, nó đã làm cho người VN tha hóa. GS Nguyễn Thanh Giang:Phải nói rằng kể từ khi đưa chủ
nghĩa Mác vào VN thì con người VN bấy giờ còn tha hóa hơn con người VN
hồi thời phong kiến. Và tư chất, đạo lý của con người VN bây giờ còn
thua cái thời Pháp thuộc. Cho nên điều đó là do ảnh hưởng của chế độ
chính trị và của tổ chức xã hội. Tổ chức xã hội mà chủ yếu đẩy con người
vào tình trạng không cạnh tranh lành mạnh, không cạnh tranh dựa trên
đạo lý, không dựa trên pháp luật, mà bằng phe nhóm, ỷ thế, ỷ quyền, ỷ
vào giai cấp, ỷ vào thành phần lý lịch, ỷ vào con ông cháu cha. Hơn nữa,
kể từ khi đưa cái chủ nghĩa Mác vào, lấy chuyên chính vô sản vào, thì
người ta không tôn trọng pháp luật nữa. Cho nên người ta sẵn sang giẫm
đạp lên pháp luật, lên đạo lý, từ đấy ảnh hưởng đến tâm tính của con
người VN. Rồi đời sống không cần đạo lý, không cần pháp luật. Thì đó là
cái tội của chế độ chính trị và tổ chức xã hội này.
“Cái tội của chế độ chính trị và tổ chức xã hội” ấy, theo nhiều nhà
tâm huyết với quê hương, dân tộc, đã khiến XHVN ngày càng sa sút đáng
ngại.
LS Trần Quốc Thuận, nguyên phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội VN từng
khẳng định chính cái “Cơ chế hiện nay đang tạo kẽ hở cho tham nhũng, vơ
vét tiền của của Nhà nước. Không tham nhũng mới là lạ! Nhưng cái mà
chúng ta mất lớn nhất lại không phải là mất tiền, mất của, dù số tiền đó
là hàng chục tỉ, hàng trăm tỉ. Cái lớn nhất bị mất, đó là đạo đức.
Chúng ta sống trong một xã hội mà chúng ta phải tự nói dối với nhau để
sống.” và “ Không biết đến bao giờ mới hết nghịch lý ấy ở Việt nam?”.
Từ Thanh Hóa, MS Nguyễn Trung Tôn cho biết: MS Nguyễn Trung Tôn:Tôi sinh ra sau Cách mạng tháng
Tám -sau năm 1945. Cha mẹ tôi, các cụ ngày xưa thì sống cuộc sống khổ
sở, đói khát và nghèo nàn hơn so với bây giờ, nhưng các cụ vẫn nói với
tôi rằng nhìn vào con người ngày hôm nay mới thấy đạo đức con người càng
ngày càng xuống cấp.
GS Trần Kinh Nghị cho rằng vấn đề “ bắt nguồn từ thời kỳ cách mạng
giải phóng dân tộc, trải qua nhiều biến cố lịch sử với những phong trào
thi đua và những đợt cải cách ruộng đất, cải tạo công thương, nhân văn
giai phẩm v.v… khiến xã hội bị xáo trộn, lòng người đảo điên”.
Trong bối cảnh xã hội như vậy, thì người ta không mấy khó hiểu khi
“ngọai cảnh ảnh hưởng – nếu không muốn nói là hình thành – tâm tính và
cung cách con người”. Và những hành vi của số người Việt như vừa nói,
theo PGS-TS Trịnh Hòa Bình thuộc Viện Xã Hội Học VN, “ngoài việc thể
hiện tính xấu hôi của, ‘đám đông chỉ chờ kiếm chác’ của người Việt, thì
nó còn cho thấy tính vô tổ chức, tự phát và tính ích kỷ của dân mình.
Cái tính ích kỷ chính là nguyên nhân để gây ra nhiều thói hư tật xấu
khác. Mà cái tính này thường trực trong nhiều cá nhân, không cứ gì người
dân nông thôn, tỉnh lẻ hay người thành thị”.
10 sự thật đáng xấu hổ của xã hội ngày nay
Một trong số những ảnh hưởng lớn nhất tới xã hội ngày nay một cách
tiêu cực cũng như tích cực chính là truyền thông xã hội.
Rõ ràng chúng ta đang sống trong thời đại kỹ thuật số, và việc quay trở lại xã hội trước đây là điều không thể.
Truyền thông xã hội vốn được thiết kế để cho phép con người chia sẻ
những điều thú vị trong cuộc sống của họ với bạn bè, nhưng giờ đây mọi
chuyện không chỉ đơn giản như vậy.
Truyền thông xã hội giờ đây
là con đường vận chuyển thông tin toàn cầu. Nhiều khi chúng ta biết về
những sự kiện đang diễn ra thông qua Twitter hay Facebook trước khi
biết về nó qua các nguồn tin chính thống.
Chúng ta cũng bắt đầu
dựa vào các thiết bị công nghệ trong hầu hết mọi việc. Ngày nay con
người dường như không thể đi bất kỳ đâu hay làm bất kỳ điều gì mà không
mang theo điện thoại thông minh, máy tính bảng, máy tính xách tay…
Họ cần có một mối liên lạc thường trực với nhau thông qua các thiết bị điện tử.
Tuy nhiên, kết nối quá nhiều với truyền thông xã hội và các thiết bị có liên quan cũng có mặt tiêu cực của nó.
Chúng ta có thể trở nên phụ thuộc quá mức, hoặc trở nên thờ ơ với những gì chúng ta đang làm với cuộc sống của chúng ta.
Thời đại thông tin số có thể mang lại tác động tiêu cực tới cuộc sống và xã hội loài người.
Dưới đây là 10 hình vẽ cho thấy những thay đổi tiêu cực của xã hội chúng ta.
1. Facebook đang ngấu nghiến thời gian của bạn
Mỗi ngày bạn dành bao nhiêu thời gian trên Facebook hoặc các
trang mạng xã hội khác? Điều này có đang ảnh hưởng tới hiệu quả công
việc của bạn không?
Bạn có thấy mình lãng phí thời gian tới
mức bạn không hề nhận ra nó đã trôi nhanh thế nào không? Nếu bạn trả
lời "có," tôi tin chắc rằng bạn không phải là người duy nhất.
2. Chúng ta trở thành những kẻ ‘nghiện Like’
Nói tới Facebook, khi bạn đăng tải một thứ gì đó, bạn có làm vậy chỉ để xem sẽ có bao nhiêu bạn bè ấn ‘Thích’ không?
Đối với một số người, những cái ‘Thích’ trên Facebook cũng như một loại chất gây nghiện họ cần bơm vào mạch máu của mình.
3. Các thiết bị điện tử còn quan trọng hơn mạng sống
Lựa chọn giữa việc điện thoại hết pin và mạng sống của bạn, bạn sẽ chọn thứ gì?
Trong trường hợp này, người đàn ông trong hình vẽ đã chọn chiếc điện
thoại thay vì thiết bị hỗ trợ sống của chính anh ta. Xã hội loài người
cần đưa ra những lựa chọn đúng đắn hơn.
4. Các thiết bị đang hủy hoại sự thân mật
Bạn và những người thân yêu đã bao giờ dành thời gian bên nhau
chỉ để mỗi người cầm một chiếc điện thoại nhắn tin, đăng tweet,
Facebook hay lướt web thay vì giao tiếp với nhau chưa?
Xã hội phải chăng đã tới mức chúng ta không thể dành thời gian cho nhau mà không cầm trên tay chiếc điện thoại?
5. Các gia đình không còn dành thời gian quây quần bên nhau
Đây là một bà mẹ đang nướng bánh quy cho cả gia đình. Nhưng những đưa con thì đang làm gì kia?
Chúng không cùng làm bánh với mẹ, mà đứa con nào cũng đang dán mắt vào thiết bị của mình.
Trước đây, các bậc cha mẹ dùng TV để trông con; giờ đây máy tính bảng,
điện thoại, laptop hoặc trò chơi điện tử đang đảm nhận công việc đó.
6. Chúng ta thà quay video một ai đó còn hơn giúp đỡ họ
Một người đàn ông da màu đang đuối nước và giơ tay ra cầu xin sự
giúp đỡ. Một kẻ đang chĩa súng, còn kẻ còn lại thì chĩa chiếc iPhone
về phía người đàn ông- cả hai đều không có ý định giúp đỡ người bị nạn.
7. Xã hội đang lãng phí thời gian
Thời gian là tiền bạc. Khi chúng ta tiêu phí thời gian trên các
phương tiện truyền thông xã hội, chúng ta đang đánh mất thứ quý giá
nhất chúng ta có: thời gian.
8. Dù đã có công nghệ, chúng ta vẫn muốn thứ thuộc về người khác
“Đứng núi này trông núi nọ” là một câu tục ngữ đã có từ lâu đời.
Dù đã có những gì ta có, nhưng ngay cả những người giàu vẫn cần tình
yêu, gia đình, … để được hạnh phúc.
9. Chiêu giật gân vẫn câu kéo được khách
Với lượng thông tin tràn đầy như hiện nay, truyền thông vẫn luôn tìm kiếm yếu tố giật gân.
Người phụ nữ này rõ ràng đang muốn nói lên điều gì đó quan trọng, nhưng
liệu giới truyền thông có còn quan tâm tới cô nữa hay không nếu cô
không còn trong tình trạng bán khỏa thân nữa?
10. Cuối cùng, chúng ta vẫn đang tàn phá trái đất
Dù đã có nhiều tiến bộ về công nghệ, song con người vẫn đang tàn
phá trái đất tới mức chúng ta gần như đang chĩa súng vào Mẹ Thiên
nhiên.
Với những thành phố ngày càng lớn và mức độ ô nhiễm
ngày càng nghiêm trọng, đến khi nào những gì chúng ta làm sẽ khiến
chính chúng ta sụp đổ?
Trước đây, trên thế giới, có 15 quốc gia chính thức theo chủ nghĩa cộng
sản và 11 quốc gia tự nhận là cộng sản hoặc theo khuynh hướng cộng sản.
Mười lăm quốc gia ở trên là: Albania, Bulgaria, Czechoslovakia, Đông
Đức, Hungary, Mông Cổ, Ba Lan, Romania, Liên Xô, Yugoslavia, Trung Quốc,
Cuba, Bắc Triều Tiên, Lào và Việt Nam. Mười một quốc gia ở dưới là:
Angola, Benin, Congo, Ethiopia, Mozambique, Zimbabwe, Grenada,
Nicaragua, Campuchia, Afghanistan và Nam Yemen. Tổng cộng, từ hai bảng
danh sách ấy, có cả thảy 26 nước cộng sản hoặc có khuynh hướng theo cộng
sản. Từ đầu thập niên 1990, tất cả các chế độ cộng sản ấy đều lần lượt
sụp đổ. Hiện nay, trên cả thế giới, chỉ còn năm nước mang nhãn hiệu cộng
sản: Trung Quốc, Cuba, Bắc Triều Tiên, Lào và Việt Nam.
Chưa có dấu hiệu nào cho thấy chủ nghĩa cộng sản ở năm quốc gia này sẽ
sụp đổ sớm. Trong năm nước, có ba nước có quan hệ chặt chẽ với nhau:
Trung Quốc, Việt Nam và Lào. Có lẽ Lào chỉ thay đổi được thể chế chính
trị nếu, trước đó, Việt Nam cũng thay đổi; và Việt Nam có lẽ chỉ thay
đổi nếu trước đó Trung Quốc cũng thay đổi. Như vậy, quốc gia có khả năng
châm ngòi cho bất cứ sự thay đổi lớn lao nào là Trung Quốc.
Tuy nhiên, ngay cả khi Trung Quốc và Việt Nam chưa thay đổi và chưa từ
bỏ chủ nghĩa cộng sản, giới nghiên cứu cũng phát hiện những dấu hiệu suy
tàn âm thầm của chủ nghĩa cộng sản bên trong hai quốc gia này.
Ở đây, tôi chỉ tập trung vào Việt Nam.
Nhìn bề ngoài, chế độ cộng sản tại Việt Nam vẫn mạnh. Hai lực lượng nòng
cốt nhất vẫn bảo vệ nó: công an và quân đội. Dân chúng khắp nơi bất mãn
nhưng bất mãn nhất là nông dân, những người bị cướp đất hoặc quá nghèo
khổ. Có điều nông dân chưa bao giờ đóng được vai trò gì trong các cuộc
cách mạng dân chủ cả. Họ có thể thành công trong một số cuộc nổi dậy
nhưng chỉ với một điều kiện: được lãnh đạo. Trong tình hình Việt Nam
hiện nay, chưa có một tổ chức đối kháng nào ra đời, hy vọng nông dân làm
được gì to lớn chỉ là một con số không. Ở thành thị, một số thanh niên
và trí thức bắt đầu lên tiếng phê phán chính phủ nhưng, một, số này chưa
đông; và hai, còn rất phân tán. Nói chung, trước mắt, đảng Cộng sản vẫn
chưa gặp một sự nguy hiểm nào thật lớn.
Thế nhưng, nhìn sâu vào bên trong, chúng ta sẽ thấy quá trình mục rữa
của chủ nghĩa cộng sản đã bắt đầu và càng ngày càng lớn. Như một căn
bệnh ung thư bên trong một dáng người ngỡ chừng còn khỏe mạnh.
Sự mục rữa quan trọng nhất là về ý thức hệ.
Khác với tất cả các hình thức độc tài khác, chủ nghĩa cộng sản là một
thứ độc tài có… lý thuyết, gắn liền với một ý thức hệ được xây dựng một
cách có hệ thống và đầy vẻ khoa học. Thật ra, chủ nghĩa phát xít cũng có
lý thuyết, chủ yếu dựa trên sức mạnh và tinh thần quốc gia, nhưng không
phát triển thành một hệ thống chặt chẽ và có ảnh hưởng sâu rộng như chủ
nghĩa cộng sản. Còn các chế độ độc tài ở Trung Đông chủ yếu gắn liền
với tôn giáo cộng với truyền thống quân chủ kéo dài (thường được gọi là
độc tài quốc vương, sultanistic authoritarianism) hơn là lý thuyết.
Nhiều nhà nghiên cứu nhấn mạnh: các chế độ cộng sản không thể tồn tại
nếu không có nền tảng ý thức hệ đằng sau.
Ý thức hệ cộng sản một thời được xem là rất quyến rũ vì nó bao gồm cả
hai kích thước: quốc gia và quốc tế. Ở bình diện quốc gia, nó hứa hẹn
giải phóng đất nước khỏi ách đô hộ của chủ nghĩa thực dân; ở bình diện
quốc tế, nó hứa hẹn giải phóng giai cấp vô sản và tạo nên sự bình đẳng
và thịnh vượng chung cho toàn nhân loại. Ở bình diện thứ hai, chủ nghĩa
cộng sản, gắn liền với một ước mơ không tưởng, rất gần với tôn giáo; ở
bình diện thứ nhất, đối lập với chủ nghĩa thực dân, nó rất gần với chủ
nghĩa quốc gia. Trên thực tế, hầu hết các nước cộng sản trước đây đều cổ
vũ và khai thác tối đa tinh thần quốc gia trong cả quá trình giành
chính quyền lẫn quá trình duy trí chế độ. Sự kết hợp giữa chủ nghĩa cộng
sản và chủ nghĩa quốc gia dễ thấy nhất là ở các nước thuộc địa và cựu
thuộc địa như Việt Nam.
Sau năm 1991, tức sau khi chủ nghĩa cộng sản tại Liên Xô và Đông Âu sụp
đổ, ý thức hệ cộng sản cũng bị phá sản theo. Thực trạng nghèo đói, bất
công và áp bức dưới các chế độ cộng sản ấy đều bị vạch trần và phơi bày
trước công luận. Sự hứa hẹn về một thiên đường trong tương lai không
còn được ai tin nữa. Tính hệ thống trong chủ nghĩa Marx-Lenin cũng bị đổ
vỡ. Nền tảng ý thức hệ của các chế độ cộng sản bị tan rã tạo thành một
khoảng trống dưới chân chế độ.
Để khỏa lấp cái khoảng trống ấy, Trung Quốc sử dụng hai sự thay thế: chủ
nghĩa Mao và Nho giáo (trong chủ trương tạo nên một xã hội hài hòa, dựa
trên lòng trung thành). Việt Nam, vốn luôn luôn bắt chước Trung Quốc,
không thể đi theo con đường ấy. Lý do đơn giản: Đề cao chủ nghĩa Mao là
một điều nguy hiểm cả về phương diện đối nội lẫn đối ngoại; còn với Nho
giáo, một là Việt Nam không am hiểu sâu; hai là, nó đầy vẻ… Tàu, rất dễ
gây phản cảm trong quần chúng. Bế tắc, Việt Nam bèn tạo nên cái gọi là
tư tưởng Hồ Chí Minh. Nhưng ông Hồ Chí Minh lại không phải là một nhà lý
thuyết. Ông chỉ là một người hành động. Ông viết nhiều, nhưng tất cả
đều rất thô phác và đơn giản. Hơn nữa, ở Việt Nam hiện nay, cũng không
có một người nào giỏi lý thuyết để từ những phát biểu sơ sài của Hồ Chí
Minh xây dựng thành một hệ thống sâu sắc đủ để thuyết phục mọi người.
Thành ra, cái gọi là tư tưởng Hồ Chí Minh hoàn toàn không trám được
khoảng trống do sự sụp đổ của ý thức hệ Marx-Lenin gây ra. So với Trung
Quốc, khoảng trống này ở Việt Nam lớn hơn gấp bội.
Mất ý thức hệ cộng sản, chính quyền Việt Nam chỉ còn đứng trên một chân: chủ nghĩa quốc gia.
Nhưng cái chân này cũng rất èo uột nếu không muốn nói là đã lung lay, thậm chí, gãy đổ.
Trên nguyên tắc, Việt Nam vốn có truyền thống yêu nước rất cao. Bao
nhiêu chế độ ra đời từ giữa thế kỷ 20 đến nay đều muốn khai thác và tận
dụng lòng yêu nước ấy. Tuy nhiên, với chế độ cộng sản hiện nay, việc
khai thác vốn tài sản này gặp rất nhiều khó khăn. Lý do là lòng yêu nước
bao giờ cũng gắn liền với sự căm thù. Không ai có thể thấy rõ được lòng
yêu nước trừ phi đối diện với một kẻ thù nào đó của đất nước. Hai kẻ
thù chính của Việt Nam, trong lịch sử mấy ngàn năm, là Trung Quốc; và
gần đây nhất, là Mỹ. Nhưng Việt Nam lại không dám nói quá nhiều về hai
kẻ thù này. Với Mỹ, họ cần cả về phương diện kinh tế lẫn phương diện
chiến lược. Đề cao truyền thống chống Mỹ, do đó, là điều rất nguy hiểm.
Đề cao truyền thống chống Trung Quốc lại càng nguy hiểm hơn: Trung Quốc
có thể đánh hoặc ít nhất đe dọa VIệt Nam bất cứ lúc nào.
Bởi vậy, Việt Nam, một mặt, phải hạ giọng khi nói về truyền thống chống
Mỹ và phải né tránh việc nhắc nhở đến truyền thống chống Trung Quốc. Hai
hành động này có lợi về phương diện đối ngoại nhưng lại có tác hại
nghiêm trọng về phương diện đối nội: chính quyền hiện ra, dưới mắt dân
chúng, như những kẻ hèn, hèn nhát và hèn hạ. Từ một chế độ được xây dựng
trên thành tích chống ngoại xâm, chế độ cộng sản tại Việt Nam lại bị
xem như những kẻ bán nước, hoặc bán nước dần dần bằng cách hết nhượng bộ
điều này sang nhượng bộ điều khác trước sự uy hiếp của Trung Quốc.
Trước sự sụp đổ của cả hai nền móng, ý thức hệ cộng sản và chủ nghĩa
quốc gia, đảng Cộng sản Việt Nam bèn chuyển sang một nền tảng khác: kinh
tế với phương châm ổn định và phát triển. Nội dung chính của phương
châm này là: Điều cần nhất đối với Việt Nam hiện nay là phát triển để
theo kịp các quốc gia khác trong khu vực cũng như, một cách gián tiếp
(không được nói công khai), đủ sức để đương đầu với Trung Quốc. Nhưng để
phát triển, cần nhất là phải ổn định về chính trị, nghĩa là sẽ không có
thay đổi về thể chế và cũng không chấp nhận đa đảng.
Phương châm ấy, thật ra, là một sự bịp bợm: Nó chuyển vấn đề từ chính
trị sang kinh tế với lý luận: nếu vấn đề quan trọng nhất của Việt Nam
hiện nay là vấn đề kinh tế thì mọi biện pháp sửa đổi sẽ chỉ giới hạn
trong phạm vi kinh tế. Với lập luận này, chính quyền có thể trì hoãn mọi
yêu cầu cải cách chính trị.
Tuy nhiên, nó hoàn toàn không thuyết phục, bởi, ai cũng thấy, lãnh vực
kinh tế là mặt mạnh nhất của chủ nghĩa tư bản và cũng là mặt yếu nhất
của chủ nghĩa xã hội hay chủ nghĩa cộng sản. Tất cả các quốc gia dân chủ
ở Tây phương đều có hai đặc điểm nổi bật: về chính trị, rất ổn định và
hai, về kinh tế, rất phát triển. Ở Việt Nam, người ta cố thu hẹp phạm vi
so sánh: các cơ quan truyền thông chính thống chủ yếu tập trung vào các
nước Đông Nam Á, đặc biệt Thái Lan với một thông điệp chính: đa đảng
như Thái Lan thì lúc nào cũng bị khủng hoảng. Nhưng ở đây lại có hai vấn
đề: Một, dù liên tục khủng hoảng về chính trị, nền kinh tế của Thái Lan
vẫn tiếp tục phát triển, hơn hẳn Việt Nam; hai, ngày nay, do xu hướng
toàn cầu hóa, tầm nhìn của dân chúng rộng rãi hơn nhiều; chính quyền
không thể thu hẹp mãi tầm nhìn của họ vào tấm gương của Thái Lan được.
Về phương diện lý luận, chiêu bài ổn định và phát triển, do đó, không
đứng vững. Về phương diện thực tế, những sự phá sản của các đại công ty
quốc doanh và đặc biệt, khối nợ nần chồng chất của Việt Nam khiến dân
chúng càng ngày càng thấy rõ vấn đề: các chính sách kinh tế của Việt Nam
không hứa hẹn một sự phát triển nào cả, nếu không muốn nói, ngược lại,
chỉ lún sâu vào chỗ bế tắc.
Thành ra, có thể nói, tất cả các nền tảng chế độ cộng sản Việt Nam muốn
nương tựa, từ chủ nghĩa Marx-Lenin đến chủ nghĩa quốc gia và lập luận ổn
định để phát triển, đều lần lượt sụp đổ. Chế độ cộng sản Việt Nam hiện
nay như một đám lục bình chỉ nổi bập bềnh trên mặt nước. Sự tồn tại của
nó chỉ dựa vào sự trung thành của công an. Do đó, một mặt, đảng cộng sản
đưa ra sự khuyến dụ đối với công an: “Còn đảng, còn mình”; mặt khác, họ
ngoảnh mặt làm ngơ trước hai tệ nạn do công an gây ra: tham nhũng và
trấn áp dân chúng một cách dã man. Nhưng chính sách này chỉ càng ngày
càng biến công an thành một đám kiêu binh và càng ngày càng đẩy công an
cũng như chính quyền trở thành xa lạ với dân chúng. Sự xa lạ này càng
kéo dài và càng trầm trọng, đến một lúc nào đó, trở thành đối nghịch với
quần chúng.
Một nhà nước được xây dựng trên một đám kiêu binh, trong thời đại ngày nay, không hứa hẹn bất cứ một tương lai nào cả.
* Blog của Tiến sĩ Nguyễn Hưng Quốc là blog cá nhân. Các bài viết trên
blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan
điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.
Đòi từ bỏ chủ nghĩa xã hội là một sai lầm lớn
QĐND - Sự sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô
và các nước Đông Âu cuối thập niên 80, đầu thập niên 90 là một cơn "động
đất chính trị" lớn của thế kỷ 20. Nó có ảnh hưởng lớn không chỉ đối với
thế giới xã hội chủ nghĩa và độc lập dân tộc mà còn cả đối với thế giới
tư bản chủ nghĩa.
Các
ông trùm chiến lược, chiến lược gia và chính khách cỡ bự của chủ nghĩa
tư bản đều vỗ tay ăn mừng rằng đây là hồi chuông báo tử, rằng xã hội chủ
nghĩa sẽ diệt vong vào cuối thế kỷ 20. Ta nhận định hoàn toàn ngược
lại. Sự sụp đổ ở Liên Xô và các nước Đông Âu kéo theo thoái trào của
phong trào cộng sản và công nhân thế giới là một tổn thất lớn, nhưng đó
là tạm thời chứ không phải tất yếu, tin rằng các nước xã hội chủ
nghĩa còn lại sẽ giữ vững trận địa, các đảng cộng sản và công nhân sẽ
khôi phục hoạt động trong điều kiện mới và xu thế xã hội chủ nghĩa sẽ
tiếp tục đi lên dưới hình thức này hay hình thức khác.
Ảnh minh họa/TTXVN
Câu trả lời bước đầu đã có vào cuối thế kỷ 20, đầu thế kỷ 21. Chủ
nghĩa xã hội không hề diệt vong. Các nước xã hội chủ nghĩa còn lại không
những giữ vững trận địa mà còn định hướng vững vàng cho sự phát triển
tiến lên. Từ vùng Trung-Nam Mỹ đã phát sinh phong trào xã hội chủ nghĩa
kiểu Mỹ La-tinh, khởi đầu từ Vê-nê-du-ê-la rồi lan ra một số nước khác,
nay tuy đang gặp nhiều khó khăn và có bước thụt lùi. Chủ nghĩa tư bản
thế giới không thể chứng minh được rằng nó là lực lượng thống trị toàn
cầu và xã hội tư bản là xã hội tốt đẹp cuối cùng của loài người. Ngay
giữa lúc thế giới tư bản chủ nghĩa huênh hoang về sức sống dài lâu của
nó cũng lâm vào khủng hoảng cục bộ, rồi đến khủng hoảng toàn diện hơn,
kể từ năm 2008 đến nay, vẫn còn chưa hoàn toàn hồi phục. Thế giới từ
lưỡng cực thành đơn cực, rồi nay lại thành đa cực. Các nước thuộc các
chế độ chính trị, xã hội khác nhau đều tham gia “toàn cầu hóa” và “hội
nhập quốc tế”, vừa cạnh tranh, vừa hợp tác dưới nhiều cung bậc khác
nhau.
Điểm qua như thế để thấy rõ rằng, gần 30 năm qua, xung quanh vấn đề
trên theo hay không theo chủ nghĩa xã hội, diễn biến tư tưởng trong cán
bộ, đảng viên và trong xã hội ở nước ta cũng không thuần nhất mà khá
phức tạp.
Để góp phần phê phán các quan điểm sai trái, xuyên tạc con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, gần đây, ban tổ chức một hội thảo có đề
nghị tôi viết tham luận nội dung “phê phán quan điểm cho rằng chủ nghĩa
xã hội sụp đổ ở Liên Xô và Đông Âu, vì thế Việt Nam không nên và không
thể gắn liền mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”.
Tôi nghĩ, quan điểm sai trái này không phải bây giờ mới có mà đã có
từ lâu, từ sau khi chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ. Nhưng
từ đó đến nay, những kẻ chống đối không còn nói nhẹ nhàng như thế, họ
thẳng thừng nói: “Đảng Cộng sản Việt Nam tự giác và chủ động thay đổi
Cương lĩnh, từ bỏ đường lối sai lầm về xây dựng chủ nghĩa xã hội, chuyển
hẳn sang đường lối dân tộc và dân chủ, trọng tâm là chuyển đổi thể chế
chính trị từ toàn trị sang dân chủ một cách kiên quyết nhưng ôn hòa…”.
Và đến thời điểm chúng ta đang tiến hành “phê phán các quan điểm sai
trái, xuyên tạc cuộc đấu tranh chống sự suy thoái về tư tưởng chính trị,
những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”, có người
mang danh đảng viên còn ngạo mạn nói rằng, trong lựa chọn đường lối,
Đảng ta đã sai lầm không chỉ từ Hội nghị thành lập Đảng (1930) mà là từ
Hội nghị Tua (1921). Ý tứ phía sau là gì, chắc mọi người chúng ta đều
biết.
Quan điểm cho rằng “chủ nghĩa xã hội sụp đổ ở Liên Xô và Đông Âu, vì
thế Việt Nam không nên và không thể gắn liền mục tiêu độc lập dân tộc
với chủ nghĩa xã hội” là sai lầm. Sai lầm ít nhất là ở mấy điểm sau đây: Về sự sụp đổ ở Liên Xô và Đông Âu
1. Sự sụp đổ ở Liên Xô và Đông Âu là sự sụp đổ của một mô hình xây
dựng chủ nghĩa xã hội chứ không phải sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội nói
chung, với tư cách là một nấc thang phát triển của xã hội loài người,
theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lê-nin.
2. Chế độ Xô-viết ngay từ lúc mới ra đời ở Nga sau Cách mạng Tháng
Mười (1917) và sau này trên toàn Liên bang Xô-viết, đã tỏ rõ được tính
ưu việt so với các chế độ chính trị-xã hội trước đó. Chính quyền Xô-viết
thực sự là chính quyền của công, nông, binh và của nhân dân lao động
nói chung. Nhờ tính ưu việt đó, nó đã đánh thắng cuộc chiến tranh can
thiệp của các nước đế quốc sau Cách mạng Tháng Mười, lập lại hòa bình và
xây dựng chế độ mới, thực hiện công nghiệp hóa và tập thể hóa nông
nghiệp thành công, đánh thắng cuộc chiến tranh xâm lược của phát xít
Đức-Nhật, dẫn tới sự ra đời của hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới. Vào
những thập niên 60 và 70 của thế kỷ 20, sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở Liên Xô đạt được những thành công lớn, khiến cho Đảng và Nhà nước
Xô-viết ngộ nhận là chủ nghĩa xã hội đã xây dựng xong và chủ trương Liên
Xô bước vào thời kỳ xây dựng chủ nghĩa cộng sản. Sự thật thì cũng thời
gian đó, nhiều nhược điểm và khuyết tật trong nội bộ Nhà nước Xô-viết
cũng đã bắt đầu hé lộ, nhất là khi so sánh với những bước phát triển của
hệ thống tư bản chủ nghĩa thời đó. Nếu vì sự sụp đổ sau này mà phủ nhận
sạch trơn những gì chế độ Xô-viết đã giành được là một sai lầm trong
cách nhìn lịch sử.
3. Sau khi phát hiện sự chậm trễ của mình, Liên Xô đề ra chính sách
cải tổ; các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu cũng đề ra cải cách. Cải tổ và
cải cách nhằm mục tiêu tăng tốc về kinh tế và thực hiện chế độ dân chủ
rộng rãi hơn. Sai lầm của Liên Xô và các nước Đông Âu lúc đó là đã sa
vào chủ nghĩa đa nguyên, đa đảng đối lập, buông lỏng vai trò lãnh đạo
của Đảng, gây hoang mang, dao động trong đông đảo quần chúng, dẫn đến
hỗn loạn xã hội, khiến cho ở Đông Âu, chính quyền bị các thế lực thù
địch cướp lấy, còn Liên Xô thì chia rẽ sâu sắc trong nội bộ lãnh đạo,
cuối cùng, chính quyền cũng lọt vào tay nhóm chống đối trong Bộ Chính
trị, những kẻ chống chính quyền Xô-viết từ rất sớm. Không thấy nguyên
nhân trực tiếp của sự sụp đổ là ở đây mà coi sự sụp đổ là tất yếu của
chính quyền Xô-viết cũng là sai lầm trong cách nhìn lịch sử.
4. Bên cạnh những nguyên nhân chủ quan nêu trên (tuy chưa hết), còn
có một nguyên nhân trực tiếp khác nữa là âm mưu và thủ đoạn “diễn biến
hòa bình” của các thế lực thù địch đế quốc chủ nghĩa. Sau Chiến tranh
thế giới thứ hai, chúng đẩy mạnh chạy đua vũ trang. Trong khi lãnh đạo
Liên Xô chủ trương thi đua hòa bình thì chúng một mặt đẩy mạnh chạy đua
vũ trang, mặt khác đề ra chiến lược “diễn biến hòa bình” để xóa bỏ chủ
nghĩa xã hội mà không cần chiến tranh và súng đạn. Liên Xô và nhiều nước
khác đã sa vào cái bẫy này mà không tự giác phát hiện. Về sự lựa chọn độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
5. Đúng là ngay từ ngày mới thành lập, Đảng ta đã đề ra chủ trương
“làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới chủ nghĩa
cộng sản”. Như cách nói ngày nay, đó là làm cách mạng giải phóng dân
tộc tiến lên làm cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đường lối độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội được đề ra xuất phát từ thực tế tình hình
nước ta lúc bấy giờ là thuộc địa của Pháp, cũng xuất phát từ xu thế phát
triển có tính quy luật của thời đại mới sau Cách mạng Tháng Mười là
tiến lên chủ nghĩa xã hội. 87 năm qua, những chặng đường phát triển của
cách mạng Việt Nam và những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử đã
chứng minh sự đúng đắn của đường lối này, cớ sao vì sự sụp đổ ở Liên Xô
và Đông Âu mà phải từ bỏ nó?
6. Trong xây dựng chủ nghĩa xã hội, Việt Nam học tập kinh nghiệm của
Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa đi trước nhưng hoàn toàn không có
sự sao chép. Mô hình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam không phải là
mô hình Xô-viết của Liên Xô bởi sự khác biệt cơ bản là ở chỗ một bên là
từ cơ sở của chế độ tư bản đi lên, một bên từ độc lập dân tộc đi lên.
Bác Hồ từng nói, Bác chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao
nước ta được độc lập, dân ta được tự do, hạnh phúc, ai cũng có cơm ăn,
áo mặc, ai cũng được học hành. Chủ nghĩa xã hội đối với Bác như ngày nay
chúng ta vẫn nói, là dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Nhầm lẫn mô hình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam với mô hình
Xô-viết là một sự sai lầm lớn.
7. Vào những năm Liên Xô và Đông Âu tiến hành cải tổ và cải cách,
Việt Nam cũng đề ra đường lối đổi mới. Những nhân tố đầu tiên của đổi
mới xuất hiện từ những năm 70, đầu những năm 80 của thế kỷ 20, nhưng đổi
mới toàn diện, trở thành đường lối chính thức của Đảng ta vào cuối năm
1986, theo nghị quyết Đại hội VI của Đảng. Đổi mới của chúng ta không đi
theo vết xe đổ của cải tổ và cải cách ở Liên Xô và Đông Âu. Đảng ta đã
nêu rõ 6 nguyên tắc của đổi mới, trong đó vấn đề giữ vững định hướng xã
hội chủ nghĩa, đổi mới nhưng không đổi màu là nguyên tắc đầu tiên. Chúng
ta cũng bác bỏ quan điểm cho rằng “đổi mới là nửa vời, không nhất
quán”. Sự thật là đổi mới của chúng ta qua 30 năm đã đưa lại những thành
tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, làm cho Việt Nam càng vững bước đi lên
trên con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đánh đồng đổi mới
của Việt Nam với cải tổ và cải cách ở Liên Xô và Đông Âu là một sai lầm
có dụng ý.
8. Tổng kết 30 năm đổi mới cho thấy: Nhận thức của Đảng ta về chủ
nghĩa xã hội và về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ngày
càng sáng tỏ hơn.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội bổ sung, phát triển năm 2011 chỉ rõ: “Đi lên chủ nghĩa xã hội là
khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản
Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch
sử”.
Cương lĩnh nêu lên 8 đặc trưng của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta
xây dựng, trong đó 3 đặc trưng đầu tiên là: Dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển
cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ
phù hợp…
Thử hỏi con đường độc lập dân tộc đi lên chủ nghĩa xã hội xán lạn như
vậy tại sao ta phải từ bỏ chỉ vì mô hình xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và
Đông Âu sụp đổ?
Trong khi nêu lên 8 sai lầm như trên, tôi muốn đặt ra câu hỏi đối với
các tác giả đòi chúng ta từ bỏ con đường xã hội chủ nghĩa, ý đồ thực sự
của các vị phía sau đòi hỏi này là gì? HÀ ĐĂNG,nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Trưởng ban Tư tưởng-Văn hóa Trung ương
'Đổi lại tên nước là trở về đúng bản chất chế độ'
"Trước đây những ai có ý kiến đổi
tên nước thường bị quy kết là suy thoái tư tưởng. Theo tôi, cái tên
không phải là chỉ dấu cho một sự đổi hướng", giáo sư Nguyễn Minh Thuyết
trao đổi với VnExpress về đề xuất đổi tên nước. > Đề xuất tên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
- 30 năm qua, nhiều lần
các nhân sĩ, trí thức góp ý về tên nước và bày tỏ mong muốn trở lại với
tên do Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt năm 1945. Ông nghĩ gì trước đề xuất đổi
tên nước thành Việt Nam Dân chủ Cộng hòa?
- Theo tôi, chúng ta nên trở lại với tên đầu tiên đã
đặt khi mới giành được độc lập. Tên gọi này thể hiện đúng bản chất của
chế độ là Cộng hòa Dân chủ. Thể chế Xã hội chủ nghĩa cũng là một kiểu
nhà nước dân chủ, tuy nhiên tên Cộng hòa Dân chủ khái quát và phổ biến
hơn. Lúc khối Xã hội chủ nghĩa phát triển mạnh nhất, trên thế giới cũng
chỉ có 5 nước có tên Xã hội chủ nghĩa là Liên Xô, Anbani, Nam Tư, Rumani
và Tiệp Khắc; còn các nước Xã hội chủ nghĩa khác lấy tên là Cộng hòa
Nhân dân, Cộng hòa Dân chủ hoặc Cộng hòa Dân chủ nhân dân.
Ngoài ra, lúc đó có 2 nước không thuộc khối Xã hội chủ nghĩa cũng có cụm từ Xã hội chủ nghĩa trong tên nước là Myanma (từ năm 1974 đến 1988) và Lybia. Hiện, trên thế giới chỉ còn Việt Nam và Sri Lanka có cụm từ Xã hội chủ nghĩa trong tên nước, nhưng ta biết rằng quan niệm về Xã hội chủ nghĩa của Sri Lanka không giống Việt Nam.
Trở lại với tên gọi đầu tiên, giống như nhiều nền dân
chủ khác trên thế giới, Việt Nam sẽ tranh thủ được sự đồng tình, thiện
cảm của bạn bè quốc tế hơn. Những ai muốn đến với Việt Nam nhưng cảm
thấy xa lạ vì cái tên thì nay sẽ không e dè nữa.
Đối với đông đảo kiều bào nước ngoài, kể cả những
người đã ra đi trước năm 1945 thì cái tên Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vẫn
là một tên gọi quen thuộc, gần gũi. Nó cũng sẽ tạo điều kiện để nhiều
kiều bào xích lại gần hơn với đất nước.
Giáo sư Nguyễn Minh Thuyết. Ảnh: Nguyễn Hưng.
-
Song, có ý kiến cho rằng nếu lấy tên đó thì có nghĩa Việt Nam đang xa
rời mục tiêu lên chủ nghĩa xã hội và việc thay đổi cũng sẽ gây phức tạp,
tốn kém tiền của?
Ngày 12/4, Ủy ban dự thảo sửa
đổi Hiến pháp 1992 trình Thường vụ Quốc hội dự thảo Hiến pháp mới. Trong
đó bên cạnh cách viết cũ tên nước là Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt
Nam, xuất hiện phương án mới, phản ánh chính xác hình thức chính thể và
chủ quyền quốc gia về lãnh thổ: “(1) Nước Việt Nam là một nước dân chủ
cộng hòa, độc lập, có chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bao
gồm đất liền, hải đảo, vùng biển và vùng trời. (2) Tên nước là Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa”. Phương án này thể hiện ý kiến nhiều tầng lớp nhân
dân. Tên gọi ấy được khẳng định trong Hiến pháp 1946, 1959 và chỉ được
thay đổi bởi Hiến pháp 1980. Về mặt pháp lý, đến thời điểm này, tên gọi
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được sử dụng nhiều hơn so với tên nước hiện
nay.
- Một số người lo ngại sự đổi hướng nhưng tôi cho
rằng điều đó không chính đáng. Bởi từ khi giành được chính quyền năm
1945, Việt Nam vẫn xác định con đường xây dựng Xã hội chủ nghĩa. Điều đó
không hề phụ thuộc vào việc tên nước là Việt Nam Dân chủ Cộng hòa hay
Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
Cái tên cũng giống như bức tượng Phật trong nhà. Có
tượng hay không có tượng, tượng gỗ hay tượng đồng thì thế gian vẫn có
Phật. Cái tên không phải là chỉ dấu cho một sự đổi hướng nào. Lấy tên
nào thì mục tiêu của chúng ta vẫn là xây dựng một nước Việt Nam dân
giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.
Đương nhiên, đổi tên nước sẽ dẫn đến việc chi tiêu một
khoản tiền nhất định để đổi con dấu, biển hiệu của cơ quan nhà nước,
giấy tờ giao dịch... Tốn kém là có, nhưng cũng không lớn đến nỗi không
nên làm. Nếu so sánh thì lợi ích đem lại lớn hơn nhiều. Và cũng phải cân
nhắc, những gì không nhất thiết phải đổi như đồng tiền chẳng hạn thì
không nên đổi.
- Cùng với nhiều đề xuất, việc đưa ra 2 phương án
lựa chọn tên nước cho thấy điều gì qua 3 tháng lấy ý kiến góp ý sửa đổi
Hiến pháp?
- Trước khi có chủ trương sửa đổi Hiến pháp, nhiều đại
biểu Quốc hội đã bàn đến việc trở lại tên nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa. Song, lúc đó những ai nói ra ý kiến ấy thường bị quy kết là suy
thoái về mặt tư tưởng. Điều đó làm tôi rất ngạc nhiên vì tên nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa do chính Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt ra.
So sánh với những gì chỉ mới diễn ra trong 1 - 2 tuần
trước, đã có thể thấy việc đề xuất đổi tên nước đánh dấu bước chuyển
trong nhận thức của những người chủ trì sửa đổi Hiến pháp. Điều đó cũng
cho thấy Ủy ban Dự thảo Hiến pháp sửa đổi bước đầu đã tiếp thu nghiêm
túc ý kiến của người dân và đấy là tín hiệu tốt.
Mấy hôm nay, đọc kiến nghị của Chính phủ về
sửa đổi Hiến pháp, tôi cũng thấy rất mừng và rất ủng hộ những kiến nghị
này. Ví dụ, Chính phủ kiến nghị những quy định giới hạn quyền công dân
thì phải do "luật định" chứ không phải do "pháp luật" (hiểu theo nghĩa
rất rộng) quy định. Thứ hai, Chính phủ kiến nghị việc thu hồi, trưng mua
đất của dân phải trả ngang với giá thị trường.
Những quan điểm này không mới nhưng khi được cơ quan
hành chính cao nhất của đất nước nêu ra thì rất đáng mừng vì nó phù hợp
với mong muốn của người dân. Tôi mong những suy nghĩ này được đẩy xa
hơn, ví dụ như công nhận chế độ đa sở hữu về đất đai, đặc biệt là đất ở -
vốn không phải tư liệu sản xuất nên không thể công hữu hóa. Đất đai
chiếm trên 75% các vụ khiếu kiện, nếu giải quyết tốt vấn đề này sẽ tháo
gỡ được những khó khăn lớn và góp phần quan trọng ổn định xã hội.
- Tán thành với đề xuất đổi tên nước, ông có góp ý gì thêm?
- Tôi ủng hộ việc trở lại tên nước lúc mới giành độc
lập. Song, tên này cần sửa lại cho đúng ngữ pháp tiếng Việt, là "Cộng
hòa Dân chủ Việt Nam". Năm 1945, chúng ta còn chịu nhiều ảnh hưởng tiếng
Hán (Trung Quốc) nên cấu trúc của tên nước đặt năm ấy là theo ngữ pháp
tiếng Hán. Bây giờ, nên gọi cho đúng hơn.
Tên nước Cộng hòa Dân chủ Việt Nam sẽ tạo điều kiện để
những ai còn lấn cấn trong việc xích lại gần với chúng ta sẽ cảm thấy
không còn rào cản nữa.
Giáo sư Nguyễn Minh Thuyết: "Ngày 2/9/1945, trong bản
Tuyên ngôn Độc lập đọc trước cuộc mít tinh tại quảng trường Ba Đình, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã tuyên bố sự ra đời của một Nhà nước mới trên trường
quốc tế - nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tên nước sau đó đã được Quốc
hội khóa I xác nhận trong bản Hiến pháp đầu tiên - Hiến pháp 1946. Tên
gọi này phù hợp với thể chế của Việt Nam là thể chế Cộng hòa Dân chủ -
chế độ do dân làm chủ, mọi việc thực hiện theo bản Hiến pháp do toàn dân
phúc quyết và hệ thống pháp luật do những đại diện mà dân bầu ra ban
hành.
Tên nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa ra đời năm 1976.
Hồi đó không có thảo luận trong nhân dân mà do Quốc hội quyết định trong
hoàn cảnh đất nước vừa thống nhất và trong niềm hứng khởi trước chiến
thắng lịch sử thể hiện sức mạnh của chế độ Xã hội Chủ nghĩa. Lúc đó,
Đảng cũng đổi tên từ Đảng Lao động Việt Nam thành Đảng Cộng sản Việt
Nam. Nhà nước còn mở một cuộc vận động sáng tác Quốc ca mới để thay bài
Tiến quân ca".
Nguyễn Hưng thực hiện
Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay thực chất là gì ? vì ai ? và tại sao ?
Tôi là một kỹ sư viết những dòng này hoàn toàn không vì mục đích vụ
lợi hay hận thù, bởi hiện nay tôi cũng tạm đủ sống, mà viết xuất phát từ
sự thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh vì lợi ích Chính Đáng của nhân dân,
thì khó mấy cũng phải làm, xuất phát từ trách nhiệm công dân, xuất phát
từ mong muốn cho đất nước được thịnh vượng, chất lượng sống của mọi
thành viên trong xã hội được nâng cao một cách chính đáng ! tuyệt đối
không phải âm mưu diễn biến hòa bình, mà chỉ đơn giản muốn chia sẻ cho
toàn dân biết cái thể chế chính trị của Việt Nam hiện nay đang cản chở
sự tiến bộ xã hội , hình thành nên một tầng lớp thống trị không kém phần
tàn bạo, sự xấu xa đê tiện nên ngôi, từ trong bộ máy nhà nước lan ra
toàn xã hội, người người bất chấp thủ đoạn lừa dối lẫn nhau, dối trên
lừa dưới, Đảng đề ra nghị quyết nhưng hoặc là do thiếu năng lực hoặc do
lợi ích nhóm mà không làm được và trở thành đại lừa đảo.
Việt Nam đã trở về thời kỳ tư bản hoang dã, xã hội tột cùng
thối nát,
rõ ràng chúng ta đang làm sai kỹ thuật của kinh tế thị trường đi ngược
quy luật nên không tạo ra được cơ chế đào thải hữu hiệu, dẫn đến lạm
dụng quyền lực không kiểm soát được mặt trái của thị trường, mới thành
ra như vậy. Toàn dân toàn quân ta hãy cùng nhìn nhận sự việc một cách
trách nhiệm . Việt
Nam ta hiện nay đang xây dựng nền kinh tế thị trường nhiều thành phần
tức là kinh tế tư bản chủ nghĩa, ( bởi theo học thuyết Mác kinh tế xã
hội chủ nghĩa chỉ có hai thành phần xí nghiệp quốc doanh và hợp tác xã
như ở nước ta trước đây mà mọi người quen gọi là thời kỳ bao cấp, không
có kinh tế thị trường , quy luật giá trị bị thủ tiêu) . Có đồng chí lãnh
đạo cấp cao đã từng nói , tất cả chúng ta cứ loay hoay đi tìm kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa , làm gì có mà tìm. Đã kinh tế
thị trường là tư bản chủ nghĩa rồi, thì cái quan trọng bây giờ là triệt
tiêu mặt trái của kinh tế thị trường như: Buôn lậu trốn thuế, làm hàng
giả, hàng nhái hàng kém chất lượng, lạm dụng quyền lực làm giàu bất
chính, lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Tuyển học sinh vô tội vạ dạy giáo
trình lỗi thời, học sinh ra trường không làm được việc dư thừa, chỉ cốt
thu tiền đút túi, cũng là một kiểu thu lời bất chính v.v… Nếu nói Việt
Nam là xã hội chủ nghĩa là lừa đảo nhân dân và đẻ ra chế độ quái thai .
Chúng ta hãy cùng nhau phân tích mặt trái của thị trường biểu hiện ở
Việt Nam ra sao và làm sao để triệt tiêu nó . Ở
Việt Nam ngày nay người dân có việc gì đến bộ máy công quyền cũng phải
nót tay bôi trơn , nén bạc đâm toạc tờ giấy, mua quan bán chức , chạy
án, mua điểm, thậm chí ép tình lấy điểm như ở Hà giang, bằng thật học
giả, thằng ngu đê tiện thì giàu người ngay thẳng giỏi chuyên môn lại
nghèo. Mọi người dân phải đóng thuế giá trị gia tăng như các nước tư bản
chủ nghĩa, nhưng vẫn phải đóng các loại quỹ ở khu dân cư như thời xã
hôi chủ nghĩa trước đây theo kiểu bình quân , trong khi thu nhập khác xa
nhau. Công dân có quyền có nhà ở nhưng dành dụm được chút tiền mua đất
làm nhà để ở, hàng năm lại phải đóng thuế đất chẳng khác gì thuế đinh
thời pháp thuộc. Trong khi bộ máy Đảng nhà nước có tới 70% không đủ năng
lực làm việc, luật bảo vệ môi trường có hàng chục năm nhưng cán bộ
phường khi hỏi đến vẫn ngơ ngác như bò đội nón, việc của dân chất đống
không có người giải quyết, đáng lẽ phải kéo dài thời gian làm việc để bù
vào thì lại bắt chiếc các nước Đa Đảng- Dân Bầu – không bạo lực văn
minh, năng xuất lao động của họ cao hơn ta vài chục lần nghỉ ngày thứ
bảy thật là tội ác . Trong khi cả nước có tới 172 000 kỹ sư thất nghiệp
đáng ra phải đóng cửa bớt các trường đại học , thì trường đại học lại
mọc nên như nấm sau mưa rồi tháo khoán cho học sinh ngu dốt liên thông
nên đại học , cốt để nhà trường thu tiền bỏ túi còn có việc làm hay
không kệ mẹ chúng mày, thật là đê tiện . Trong khi hiến pháp quy định
quyền tự do báo chí thì vài chục năm nay vẫn chưa có báo chí tư nhân,
báo chí đài truyền hình ăn cơm từ tiền đóng thuế của dân nhưng lại không
nói sự thật, phản lại lợi ích của dân và nói theo Đảng chỉ đạo theo
kiểu mất mùa thì bảo tại thiên tai, được mùa thì bảo tại thiên tài Đảng
ta , nghiễm nhiên nó trở thành công cụ tâng bốc Đảng nên tận mây xanh,
phớt lờ những khuyết điểm sai phạm, một kiểu lợi ích nhóm. Ở các nước Đa
Đảng- Dân Bầu- không bạo lực mọi công dân có quyền thành lập báo chí,
đài truyền hình tư nhân, họ thoải mái nói sự thật , vì vậy phóng viên họ
lấy tin 24/24h, không như báo chí truyền hình Việt Nam, người dân đến
phản ảnh bị hoạnh họe giấy tờ đủ kiểu và không thèm tiếp nhận thông tin .
Những nước cho báo chí truyền hình tư nhân hoạt động chẳng những nước
họ không yếu đi mà họ còn giàu mạnh nên gấp hàng trăm lần so với nước
báo chí truyền hình chỉ do nhà nước quản lý dân tình đói khổ. Mọi người
hãy chịu khó so sánh Hàn Quốc với Triều tiên thì rõ. Vậy nên những kẻ hô
hào cấm đoán báo chí truyền hình tư nhân hoạt động, chỉ là thủ đoạn bẩn
thỉu của kẻ đê tiện nhằm bưng bít sự thật bịt miệng người ngay thẳng ,
để dễ bề tham nhũng lộng quyền mà thôi. Thiết nghĩ Việt nam nên quy định
đài truyền hình báo chí hoạt động theo luật doanh nghiệp, mọi cá nhân
đều có thể thành lập báo chí truyền hình, nhà nước chỉ xử lý nếu nói sai
sự thật còn toàn quyền và được pháp luật bảo hộ khi nói đúng sự thật.
Quyền được đóng bảo hiểm xã hội là quyền của người lao động, vậy mà có
tới 80 % người lao động bị chủ sử dụng lao động trốn đóng bảo hiểm xã
hội , vi phạm nghiêm trọng nhân quyền nhưng mấy chục năm qua không được
khắc phục, trong khi bộ máy nhà nước rất cồng kềnh, năm nào cũng hô giảm
biên nhưng sau mười năm biên chế tăng 25%. Ngân sách chở thành bầu sữa
mẹ cho những kẻ đê tiện cơ hội ngu dốt con ông cháu cha xí chỗ bòn rút,
bởi cách quản lý không theo hiệu quả công việc giải quyết cho dân của
Đảng . Ở các nước Đa Đảng- Dân Bầu –Không bạo lực, quản lý nhà nước của
bộ máy chính quyền chuyên nghiệp trình độ cao, nên tất cả loại hình
doanh nghiệp đều phải đóng đầy đủ bảo hiểm xã hội, nếu không sẽ bị truy
cứu trách nhiệm hình sự xử tù. Người lao động ở các nước đó họ không
quan trọng là làm việc cho nhà nước hay tư nhân quyền lợi vẫn đầy đủ .
Còn ở Việt Nam chế độ quái thai, nên đang có chuyện chạy tiền để vào
biên chế nhà nước, chỉ xin vào làm bốc vác ở cảng cũng mất hàng trăm
triệu đồng, trong khi ở các nước Đa Đảng- Dân bầu - Không bạo lực họ đến
tận nhà mời. Nhà nước hô hào mua bảo hiểm y tế nhưng ở nông thôn 6
tháng mới bán một lần thay vì 1 tháng lần, nên nhiều người muốn mua đành
chịu. Có bệnh viện chỉ cho mỗi lần khám, bệnh nhân chỉ được khám một
loại bệnh , trong khi họ có hai ba bệnh mãn tính, bệnh chờ thuốc có khi
chết oan, có loại thuốc thực phẩm chức năng chỉ cần uống vài chục nghìn
thì khỏi bệnh bảo hiểm xã hội lại không cho thanh toán , trong khi bắt
bệnh nhân nằm viện hết vài triệu đồng thì lại thanh toán, chắc bị dở
hơi. Hàng chục lần thanh tra đều báo cáo tốt , đến khi vỡ nở té ra thất
thoát thua lỗ hàng trăm ngàn tỷ đồng từ lâu như vụ Vinashin, Vilalai.
Hàng năm các doanh nghiệp dùng thủ đoạn viết khống chứng từ hóa đơn trốn
hàng triệu nghìn đồng tiền thuế, tiền mồ hôi nước mắt của nhân dân đóng
thuế, chẳng có chủ doanh nghiệp nào bị xử tù , nhưng tổng thanh tra
chính phủ Trần Văn Truyền lại giàu nên kinh khủng sự việc vỡ nở chỉ bị
cảnh cáo Đảng như một trò hề ? có đảng viên giúp doanh nghiệp trốn thuế
còn thản nhiên nói là việc bình thường, doanh nghiệp trốn thuế là hình
thức tham nhũng ăn mồ hôi nước mắt của nhân dân làm giàu bất chính mà
bình thường chẳng phải xã hội thối nát, luân thường đạo lý đảo ngược hay
sao? ở các nước Đa Đảng- Dân bầu- Không bạo lực, tội doanh nghiệp trốn
thuế có khi phải tử hình, còn làm giàu chính đáng thì vinh danh sổ vàng .
Nhà nước giảm thuế là đúng nhưng đồng thời phải xiết chặt trách nhiệm
xã hội và doanh nghiệp phải nộp đủ thuế cho nhà nước, khẩn trương sửa
đổi luật hình sự đưa khung hình phạt tử hình đối với tội doanh nghiệp
trốn thuế vào luật. Giúp đỡ người yếu thế , không may mắn vươn nên làm
giàu chính đáng là trách nhiệm của toàn xã hội. Các nước Đa Đảng –Dân
bầu – Không bạo lực như Nhật bản, Hàn Quốc , Singapore họ làm rất tốt
vấn đề này . Vậy nên những kẻ cơ hội lịnh bợ Đảng, cứ huênh hoang rằng
chế độ ta là tốt đẹp, thật quá trơ trẽn đê tiện. Một chiếc xe máy cũ
đáng giá vài triệu đồng khi sang tên, phòng cấp đăng ký xe máy bắt người
dân phải đi sang nơi khác giám định số khung, tốn phí thời gian tiền
bạc của dân, trong khi đăng ký trước đó do chính phòng đó cấp . Ở các
nước Đa Đảng- Dân bầu –Không bạo lực khi người dân đến liên hệ công việc
với chính quyền, cán bộ tiếp dân liềm nở lễ phép và giải quyết nhanh
chóng công việc cho người dân, còn ở Việt Nam cán bộ tiếp dân ngồi ghế
to hơn, quát nạt hoạnh họe giấy tờ chứng minh thư rồi xếp xó, người dân
mòn chân mỏi gối vẫn chưa giải quyết, vậy nên những kẻ lớn tiếng kêu gào
bảo vệ chế độ mới chính là bọn phản động cản trở sự tiến bộ xã hội cần
phải loại bỏ, người nên án thói xấu chính là nhân tố tích cực thúc đẩy
tiến bộ xã hội. Câu chuyện khác kẻ ngồi phòng lạnh của công ty thoát
nước thành phố Hồ Chí Minh một tháng lương bằng 5 năm lương của người
lao động đổ mồ hôi ngoài công trình, để ra một sản phẩm là đường phố
thường xuyên ngập lụt mỗi khi chiều cường, thật bỉ ổi. Thủy điện miền
Trung xả lũ thiệt hại 3000 tỷ đồng của dân làm chết mấy chục người mà
chẳng có kẻ nào phải chịu trách nhiệm, tội ác tày trời . Buôn lậu hàng
nghìn tỷ đồng từ Trung Quốc bóp chết nền sản xuất non yếu kỹ thuật lạc
hậu trong nước, khiến nhân dân phải xử dụng hàng nhiễm bẩn độc hại,
trong khi Hải Quan, quản lý thị trường lại giàu nên bất thường chẳng có
kẻ nào bị đưa ra vành móng ngựa, thật quá thối tha. Rồi để Trung Quốc
chiếm trái phép quần đảo Hoàng Sa và một số đảo thuộc quần đảo Trường sa
mấy chục năm nay, có cán bộ cấp cao của Đảng ra lệnh cho bộ đội không
được nổ súng khiến 60 chiến sỹ chết uổng tội đáng chu di ba họ nhưng
cũng chẳng sao ? vụ chiếm đóng xây dựng trái phép của trung Quốc ở quần
đảo Hoàng sa và trường sa đáng ra phải nên án mạnh mẽ Trung Quốc như vụ
hạ đặt trái phép giàn khoan 981 thuộc đặc quyền kinh tế của Việt Nam
thời gian qua thì chỉ phản ứng qua loa đại khái, Đảng có tội với tổ
quốc. Trong khi doanh nghiệp nhà nước thua lỗ mấy chục năm, người lao
động thì mất việc, nhà nước mất vốn, giám đốc lại hưởng lương cao có
tiền cho con du học thật là dã man tàn bạo. Trong khi người dân phải bu
lu dây cáp hay chui vào túi lynon để người biết bơi kéo qua suối, hay
chui qua cống đường cao tốc để đi làm thì quốc hội xây trụ sở hàng nghìn
tỷ, các công trình xây dựng dùng tiền thuế của dân đóng góp thường thất
thoát 10-15% tội ác tày trời. Ở các nước Đa Đảng –Dân bầu –Không bạo
lực người ta có những tổ chức thăm dò ý kiến người dân một cách độc lập
theo hình thức kín nên người dân tự do bày tỏ ý kiến , trên cơ sở đó nhà
nước xây dựng chính sách phù hợp. Ở Việt Nam khi góp ý kiến phải ghi
tên tuổi chứng minh thư, mục đích để trả thù chứ không phải cầu thị ,
nên mọi người không nói thật lòng và cái vòng dối trá lẫn nhau cứ vòng
quanh .Đường ống dẫn nước sông Đà về Hà Nội dùng ống nước đểu của Trung
Quốc vỡ đến 9 lần mà cũng chẳng có kẻ nào chịu trách nhiệm , châm ngôn
có câu quá tam ba bận, đây đến tận 9 lần , quả là không còn thuốc chữa.
Rồi lại có chuyện thật như đùa một trưởng thôn bị phát hiện lập danh
sách khống hỗ trợ giống cây trồng cho nông dân, lấy tiền chia nhau,
phóng viên gặp thì trốn vào trong nhà nói rằng hắn làm là theo nghị
quyết của đảng ủy, đảng ủy ra nghị quyết để tham nhũng, cho thấy căn
bệnh tham nhũng trong Đảng là căn bệnh ung thư đã di căn giai đoạn cuối
vô phương cứu chữa. Rồi câu chuyện ông tổng bí thư Mạnh lấy bồ của con
trai làm vợ quả thật Đảng không còn là Đảng nữa mà là một phường chộm
cướp ngu dốt, đê tiện, bệnh hoạn, lợi ích nhóm .Bộ máy thì cồng kềnh
nhưng thực thi luật thì không có người, thế mới có chuyện 1 phút có một
người tham gia giao thông đi trái đường vượt bên tay phải mà chẳng có
cảnh sát giao thông nào xử phạt , tai nạn giao thông nhiều vô kể , cướp
đi sinh mạng bao nhiêu con người vô tội. Thật là bộ máy ăn hại cơm của
dân đóng thuế, chỉ có ở chế độ một Đảng độc tài . Nghị
quyết trung ương 4 chỉ như muối bỏ bể đâu còn hình ảnh khó khăn đảng đi
trước làng nước đi sau nữa mà là đâu có màu thì Đảng đến, đâu không có
tiền thì bận họp.Có câu chuyện đau lòng một người dân bệnh nặng đến trạm
xá xã trong trạng thái sùi bọt mép, nhưng trưởng trạm y tế là Đảng viên
thản nhiên lấy xe máy đi, bảo đi họp và người dân đã không qua khỏi . Ở
Việt Nam có 15% người chân chính về hưu mức lương rất thấp dưới mức
sống tối thiểu, trong khi những kẻ có lương hưu cao ngất ngưởng lại là
bọn tham nhũng có hết biệt thự nọ đến biệt thự kia, dã man tàn bạo gấp
hàng nghìn lần bọn tư bản bóc lột thời ông CacMac còn sống, những kẻ gào
nên Việt Nam là xã hội chủ nghĩa , thật là đê tiện đại lừa bịp, tội ác
tày trời, bọn phản động chui vào bộ máy nhà nước rồi, phản lại lợi ích
chung của nhân dân, thu vén cá nhân, chính là phản động v.v…Chuyện nhiều
không kể xiết …Cái khốn nạn nhất của đảng cộng sản Việt Nam ngày nay là
phớt lờ những phản ảnh của người dân không kiểm tra xử lý sai phạm của
cấp dưới khiến chúng lộng quyền . Đây cũng là đặc điểm chung của chế độ
một đảng độc tài . Tại
sao như vậy ? trong mỗi con người đều có sẵn lòng tham sự ích kỷ , khi
được độc quyền thì nó trỗi dậy sinh sôi nảy nở như sâu bọ gặp khí hậu ẩm
ướt, ai cũng cuốc đất dật vào lòng . Vậy tại sao các nước như ví dụ ở
trên lại xây dựng được nền kinh tế thị trường văn minh, đó là do họ xóa
bỏ chế độ một Đảng độc quyền, mấu chốt của nó là Đa Đảng- Dân bầu –
Không bạo lực, xây dựng một thể chế chính trị cạnh tranh công bằng ,
thông qua bầu chọn của người dân bằng hình thức toàn dân bỏ phiếu kín.
Những kẻ lớn tiếng nói các thế lực thù địch âm mưu diễn biến hòa bình
kêu gọi Đa Đảng là chia rẽ đoàn kết dân tộc , thực chất là thủ đoạn của
bọn đê tiện lừa đảo nhân dân, đoàn kết của chúng là ngậm miệng ăn tiền,
yên lặng cùng chia nhau màu mỡ chúng đang nắm trong tay mà thôi, thật sự
là ghê tởm . Giữ
chế độ, bảo vệ Đảng như hiện nay thực chất là một thứ lợi ích nhóm bẩn
thỉu và ngu xuẩn vì với chế độ mới mọi người đều giàu có. Một ví dụ sống
động khi bí thư Kim Ngọc tỉnh Vĩnh Phú đưa ra chính sách khoán hộ cho
nông dân đã bị ban lãnh đạo đảng ngu xuẩn lúc đó nói là chống laị đường
lối xã hôi chủ nghĩa . Thực tế từ khi áp dụng chính sách chia ruộng cho
nông dân, Việt Nam từ chỗ thiếu gạo ăn, nay là nước xuất khẩu gạo hàng
đầu thế giới và tất cả đều giàu nên, vậy chẳng phải ban lãnh đạo Đảng
cộng sản Việt Nam lúc đó là quá ngu xuẩn phản lại lợi ích của cả dân tộc
hay sao ? Vậy
làm thế nào để Đa Đảng mà vẫn đoàn kết , cùng tồn tại cùng phát triển
cùng giàu có, mới là vấn đề nghiêm túc cần phải bàn cụ thể . Thực
tế Liên Xô trước đây là tiền đồn của xã hội chủ nghĩa sau khi xây dựng
kinh tế xã hội chủ nghĩa 70 năm, mặc dù họ cũng kinh qua thời kỳ phát
triển tư bản chủ nghĩa trước đó, nhưng xã hội vẫn bị tụt hậu quá xa so
với các nước đi theo kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, những người
đứng đầu của Đảng cộng sản Liên xô thấy rõ nguyên nhân trì trệ và với
trách nhiệm cao trước nhân dân đã tuyên bố từ bỏ nó, chuyển sang kinh tế
thị trường tư bản chủ nghĩa với thể chế Đa Đảng – Dân bầu – không bạo
lực , kết quả chỉ sau thời gian ngắn đã có thu nhập bình quân đầu người
15.000 USD, mọi quyền lợi của người dân trước đó chẳng những được bảo
lưu mà còn tăng hơn trước hàng trăm lần. Họ đang tiến tới đích cường
quốc kinh tế hàng đầu thế giới .Việt nam hiện nay mới có thu nhập bình
quân đầu người 1500 USD , vậy những người dân sợ chuyển đổi chế độ thì
mất quyền lợi là mơ hồ nên bị lừa và trở thành vật cản sự tiến bộ của xã
hội , bởi lúc đó Đảng nào đem lại quyền lợi cao nhất cho chúng ta thì
nhân dân mới bầu lãnh đạo đất nước , trên cơ sở bảo lưu công trạng trước
đó “ ví dụ người có công, người về hưu thì tiếp tục được hưởng ưu đãi
người có công và lương hưu với mức cao hơn v.v…” . Lúc này bộ máy công
quyền do dân chọn lựa mới thật sự là công bộc của dân và nhân dân mới
thực sự làm chủ như lời bác Hồ nói , còn giữ như hiện nay cán bộ thành
giai cấp thống trị cường hào, chứ công bộc chỉ còn là ước mơ của bác Hồ
và nhân dân mà thôi. Toàn dân toàn quân và toàn đảng ta phải suy nghĩ
nghiêm túc và có trách nhiệm về vấn đề này. Thật sự cũng có đồng chí
lãnh đạo cấp cao hiện nay cũng mong muốn cán bộ là công bộc của dân,
nhưng tại sao trên thực tế không thực hiện được, chính vì thể chế hiện
nay không tạo ra được sự cạnh tranh công bằng , và cơ chế đào thải thích
hợp những người không có năng lực giải quyết việc của dân, hình thành
lợi ích nhóm không có thuốc chữa. Muốn
chuyển sang chế độ Đa Đảng- Dân bầu- không bạo lực mà vẫn giữ được đất
nước ổn định như Singapore, Hàn Quốc, Nhật Bản v.v… Việt Nam cần có luật
hoạt động của Đảng trước khi chuyển chế độ ( có nghĩa là thiết kế trước
) trong đó công dân Việt Nam có đủ điều kiện trình độ uy tín có cương
lĩnh rõ ràng hoạt động vì lợi ích của nhân dân và đất nước thì được
thành lập Đảng . Đảng cộng sản Việt Nam cũng có thể chia ra nhiều Đảng
độc lập với nhau có cương lĩnh riêng, theo hình thức tự nguyện với tên
gọi khác nhau, hoạt động theo nguyên tắc cạnh tranh công bằng , công
khai minh bạch và mấu chốt là không được dùng bạo lực để tranh dành
quyền lực như thời nguyên thủy mà do nhân dân bầu chọn theo hình thức
toàn dân bỏ phiếu kín . Như vậy Đảng nào cũng từ nhân dân mà ra có điều
Đảng nào có trình độ năng lực giải quyết việc cho dân tốt hơn, đem lại
quyền lợi chính đáng cho nhân dân cao nhất, và được nhân dân bầu chọn
mới được lãnh đạo đất nước , nếu không thực hiện lời hứa đã cam kết với
dân thì sẽ bị loại bằng hình thức bầu lại. Toàn dân toàn quân ta hãy vì lợi ích chung mà nghiêm túc suy nghĩ về vấn đề này !
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét