Thứ Bảy, 16 tháng 12, 2017

SUY NGẪM VỀ "TƯ SẢN ĐỎ" 6

- Sau ngày Giải Phóng, trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin, đảng ta tiếp tục quyết tâm  tiến lên CNXH theo con đường xây dựng một nền kinh tế kế hoạch tập trung, phi thị trường, lấy công hữu tư liệu sản xuất làm nền tảng. Sau một thời gian cố công thực hiện, xoay xở đủ mọi cách, áp dụng đủ mọi biện pháp, nền kinh tế không những không phát triển mà còn suy thoái đi, có nguy cơ sụp đổ. Tình hình ấy bắt buộc đảng ta phải thay đổi cách thức xây dựng CNXH, đổi mới phương thức hoạt động của nền kinh tế, từ kế hoạch tập trung mệnh lệnh sang  cơ chế cạnh tranh tự do tư bản chủ nghĩa, nhưng không muốn từ bỏ lý tưởng cao đẹp của chủ nghĩa cộng sản nên phải kèm theo câu "...theo định hướng XHCN". Nghĩa là từ chỗ nhận thức muốn xây dựng CNXH thì trước hết phải tiêu trừ giai cấp tư sản, đến chỗ nhận thức muốn xây dựng CNXH thì trước hết phải dung nạp giai cấp tư sản.
-Tại Việt Nam, có thể hiểu khái quát: Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là kinh tế thị trường, vừa tuân thủ theo quy luật của kinh tế thị trường, vừa phải theo định hướng của chủ nghĩa xã hội. Có nghĩa là, trong khi chú ý tới tăng trưởng kinh tế, thì hết sức coi trọng tới vấn đề xã hội, xây dựng hệ thống an sinh xã hội và dịch vụ công cộng tốt, bảo đảm công bằng xã hội, hạn chế sự chênh lệch giàu-nghèo, phấn đấu để có nhiều người giàu nhưng đồng thời cũng hạn chế tối đa, tiến tới xóa bỏ tình trạng đói nghèo trong nhân dân. Thực tế quá trình Đổi mới hơn hai chục năm qua đã giúp Việt Nam có những bước phát triển vượt bậc tuy còn nhiều hạn chế cần khắc phục để bảo đảm kinh tế Việt Nam tiếp tục tăng trưởng ở mức cao. Việt Nam nằm trong số ít quốc gia trên thế giới có chỉ số phát triển con người cao hơn những nước có cùng mức thu nhập. Chính phủ Việt Nam đã có những nỗ lực đầu tư vào hệ thống y tế và giáo dục , điều này giúp Việt Nam có tỷ lệ biết chữ và tuổi thọ trung bình khá cao. Trình độ y tế và giáo dục của Việt Nam ngày càng tiếp cận gần hơn với trình độ của các nước tiên tiến.
Tuy vậy quá trình Đổi mới vẫn đặt ra những vấn đề mới về cả lý luận và thực tiễn. Theo tiến sĩ Trần Đình Thiên, Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam, trước Đại hội Đảng lần XI cho rằng "Công thức phát triển là kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nên được hiểu như thế nào cho rõ ràng? Đây là thời điểm mà tôi nghĩ rằng bàn cương lĩnh là bàn đến khái niệm lớn". Việt Nam cần xác định rõ ràng hơn nữa định hướng của nền kinh tế và có chính sách cụ thể để thực hiện định hướng đó.
Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định: đây là mô hình tự xây dựng, không có khuôn mẫu cụ thể do đó, trong quá trình xây dựng không tránh khỏi khiếm khuyết, phải nhận rõ những khiếm khuyết này và đã từng điều chỉnh trong từng giai đoạn. Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, trong Cương lĩnh mới của Đảng, mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa sẽ tiếp tục được hoàn thiện để phù hợp với xu thế mới của thời đại, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân; đồng thời phê phán quan điểm của một số người cho rằng, nền kinh tế Việt Nam hiện nay "chẳng giống ai", "chủ nghĩa xã hội bên ngoài nhưng bên trong lại là tư bản"... là cố tình bóp méo sự thật.
-Cố tình bóp méo sự thật hay không thì chưa biết! Nhưng nếu Việt Nam muốn xây dựng xã hội theo hướng "vừa tuân thủ theo quy luật của kinh tế thị trường, vừa phải theo định hướng của chủ nghĩa xã hội. Có nghĩa là, trong khi chú ý tới tăng trưởng kinh tế, thì phải hết sức coi trọng tới vấn đề xã hội, xây dựng hệ thống an sinh xã hội và dịch vụ công cộng tốt, bảo đảm công bằng xã hội, hạn chế sự chênh lệch giàu-nghèo, phấn đấu để có nhiều người giàu nhưng đồng thời cũng hạn chế tối đa, tiến tới xóa bỏ tình trạng đói nghèo trong nhân dân", thì đó là mục đích nói chung của mọi nhà nước trong xây dựng phát triển xã hội (dù cộng sản hay không cộng sản, dù nói ra hay không nói ra, dù bằng cách này hay cách khác). 
-Thực tế xây dựng xã hội của Việt Nam (và cả Trung Quốc) trong mấy chục năm qua cho thấy, kinh tế phát triển tương đối mạnh, nhưng đó là do nền kinh tế được giải phóng, phát triển tự nhiên phải thế, chứ không có những nét nổi bật do "tính ưu việt của định hướng XHCN" mang lại.
-Sau chiến tranh thế giới thứ 2, hầu hết các nước tư bản đều thiệt hại nặng nề. Nhưng ngày nay các quốc gia đó,nói tương đối, đều trở thành "dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh" mà không cần nêu khẩu hiệu "định  hướngXHCN".
-Có như vậy là do nhận thức về chủ nghĩa cộng sản chưa đúng, dẫn đến việc xác định đối tượng từng giai đoạn của cách mạng vô sản (cuộc cách mạng thứ hai!) chưa chuẩn, dù mục đích lý tưởng của xây dựng CNXH (làm cho "dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh") là đúng đắn.
-Cũng vì thế mà sau khi "đổi mới", nền kinh tế nước ta được giải phóng và  lớn mạnh không ngừng theo yêu cầu tự nhiên của xã hội. Nhưng đi đôi với điều đó lại nổi bật nạn tham quan lại nhũng, nạn chạy chức chạy quyền, nạn bổ nhiệm tràn lan, dư thừa biên chế...(đã tồn tại từ trước) cũng có cơ hội phát triển mạnh mẽ mà ngày nay đã tạo thành cái gọi là "lợi ích nhóm", "lợi ích họ hàng", một tầng lớp cán bộ thoái hóa, biến chất, tạo mầm mống hình thành giai cấp mới, tạm gọi là "tư sản đỏ". Tư sản đỏ là tầng lớp vẫn hô hào ủng hộ cách mạng vô sản để trục lợi, vẫn theo nhà nước vô sản để hưởng đặc quyền đặc lợi, nhưng sẵn sàng rời bỏ hành ngũ cộng sản vì không còn mang bản chất cao đẹp của người cộng sản nữa. Phải thừa nhận rằng, dù chưa đích đáng thì với mục đích tiến về phía xã hội XHCN, nghĩa là nhà nước vẫn còn bản chất "vì dân", nên nạn tham nhũng (nguyên nhân chủ yếu hình thành "tư sản đỏ") luôn bị khống chế, nhưng thường thì không kịp thời, chậm trễ, trừng trị không đích đáng, gây thiệt hại nặng nề cho đất nước, cho quần chúng.
-Theo chúng ta, mục đích của cách mạng vô sản thật bình dị mà thiêng liêng, là làm cho "dân giàu, nước mạnh", thậm chí phải lấy lo cho dân sinh làm mục đích cơ bản, ưu tiên hàng đầu. Một khi cách mạng vô sản quên đi mục đích cơ bản của nó, tức là làm cho "dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh", thì không còn lực lượng nào ngăn chặn được sự tác oai tác quái của "tư sản đỏ", hơn nữa, khi nhà nước lúc này còn dung túng, bao che cho nó, thì nó sẽ dần trở thành giai cấp mới, thao túng nhà nước, phản động hóa đảng cộng sản, thống trị hoàn toàn xã hội.
-Chắc chắn rằng, cách mạng vô sản không cho phép "tư sản đỏ" hóa thành giai cấp, vì đó là sinh mạng của đảng. Nhưng cứ giả sử rằng tư sản đỏ hóa thành giai cấp thống trị, thì rõ ràng, một khi xã hội không còn chịu đựng nổi nữa, tất nhiên,sẽ lại có một cuộc cách mạng mới đi đòi quyền sống cơ bản của quần chúng nhân dân, giai cấp bị trị. Lúc đó đảng cs sẽ tự phát trở nên phản động, nghĩa là hoạt động xa rời mục đích ban đầu đẹp đẽ của nó là "định hướng XHCN"!
-Muốn không tạo sinh ra tầng lớp "tư sản đỏ", mầm mống của giai cấp thống trị mới, thì phải làm sao? Đây không phải là câu hỏi riêng cho cách mạng vô sản!


---------------------------------------------------------------------
(ĐC sưu tầm trên NET)

         Yên Bái loạn sứ quân, gia tộc họ Phạm âm mưu biến Yên Bái thành khu tự trị bất chấp pháp luật

 
Ai Chống lưng BOT Cai Lậy con trai của ủy viên Bộ Chính Trị Ngô Văn Dụ, ?

Về Chủ nghĩa cộng sản thân hữu

Từ Tư bản thân hữu đến Cộng sản thân hữu
Bài 2: Về Chủ nghĩa cộng sản thân hữu
Từ đầu thế kỷ 21 đến nay, nhiều học giả phương Tây đã quan tâm nghiên cứu hiện tượng “tư bản thân hữu” tại Trung Quốc. Tuy nhiên, khi vận dụng khái niệm “tư bản thân hữu” vào hoàn cảnh của quốc gia cộng sản hậu-toàn trị này, các nhà nghiên cứu đã nhanh chóng nhận ra một số đặc điểm riêng biệt. Vì vậy, trong khi một số học giả sử dụng thuật ngữ “Chủ nghĩa Tư bản Thân hữu với đặc điểm Trung Quốc” (Crony Capitalism with Chinese Characteristics), một số học giả khác (như Bruce Dickson, Minxin Pei, …) đã mạnh dạn sử dụng khái niệm “Chủ nghĩa Cộng sản Thân hữu” (Crony Communism) để nhấn mạnh tính chất đặc thù, riêng biệt đó.
webb (4)
Tư bản đỏ và Chủ nghĩa cộng sản thân hữu:
Một trong những nét đặc thù của hiện tượng “tư bản thân hữu” tại Trung Quốc là bên cạnh các nhà “tư bản-thân hữu” thông thường (nghĩa là những nhà tư bản có quan hệ “thân thiết” với các quan chức trong bộ máy cầm quyền), còn có các nhà tư bản đỏ (red capitalists) – tức là các nhà tư bản đồng thời là đảng viên cộng sản.
Bruce J. Dickson – giáo sư khoa chính trị học và quan hệ quốc tế tại Đại học George Washington (Hoa Kỳ), là một trong những học giả chú ý đến chủ đề này. Trong cuốn Red Capitalists (xuất bản năm 2003) và cuốn Allies of the State. China’s Private Entrepreneurs and Democratic Change (viết chung với Jie Chen, xuất bản năm 2010), ông đã phân tích tỉ mỉ những đặc điểm của loại hình “tư bản đỏ” tại Trung Quốc để tìm cách lý giải tại sao sự phát triển của giai cấp tư sản thành thị (urban bourgeoisie) tại quốc gia đông dân nhất thế giới này lại không dẫn đến những thay đổi có lợi cho tự do, dân chủ. Trong một tiểu luận công bố năm 2008 [1], Bruce Dickson đã nêu bật một số đặc điểm đáng chú ý của chủ nghĩa cộng sản thân hữu tại Trung Quốc như sau:
1) Chịu sự chi phối của đảng cộng sản cầm quyền:
Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) – tác nhân trung tâm của chế độ chính trị tại Trung Quốc, đồng thời cũng là trung tâm của chủ nghĩa cộng sản thân hữu. Do yếu tố then chốt này, tầng lớp được hưởng lợi từ chủ nghĩa cộng sản thân hữu là các đảng viên cộng sản và gia đình của họ. Ông nhận xét: “Trong khi con cái của các nhà lãnh đạo thuộc các thế hệ thứ nhất và thứ hai thường theo gương cha để vào đảng, chính quyền và quân đội, thì con cái của các nhà lãnh đạo thuộc thế hệ thứ ba và thứ tư đều đi vào lĩnh vực kinh doanh (hoặc trong trường hợp của con gái Hồ Cẩm Đào và con gái Ôn Gia Bảo – đã cưới các nhà kinh doanh nổi bật nhất). Một báo cáo nội bộ (được cho là xuất phát từ Trường Đảng) đã chỉ rõ rằng 90% những người siêu-giàu của Trung Quốc (tức là những người có tài sản trên 100 triệu yuan) là con cái của các quan chức cao cấp. Đây là một ví dụ cực đoan, nhưng hiểu theo một nghĩa rộng hơn, sự tập trung tài sản vào tay những người có quan hệ tốt về chính trị là bản chất của chủ nghĩa cộng sản thân hữu.”

Tầng lớp “tư bản đỏ” (red capitalists) này bao gồm hai loại: (1) các đảng viên “hạ hải” [2] (xia hai 下海), nghĩa là những đảng viên “dấn thân” vào con đường kinh doanh làm giàu và (2) các nhà kinh doanh thành đạt được kết nạp vào đảng cộng sản.
2012-1_BR3_Chen_Dickson
2) Phi tập trung, khuếch tán và có xu hướng bành trướng:
Khác với tư bản thân hữu ở các nước khác (vd: các nước Đông Nam Á), chủ nghĩa cộng sản thân hữu của Trung Quốc không chịu sự chi phối bởi một gia đình, một dòng họ hoặc các nhà lãnh đạo ở trung ương, mà lôi cuốn các quan chức ở tất cả các cấp của bậc thang chính trị. Khác với nước Nga hậu-cộng sản – nơi mà của cải tập trung vào tay của một số ít cá nhân có quan hệ tốt về chính trị (các nhà tư bản đầu sỏ, tycoons), công cuộc tư nhân hóa ở Trung Quốc không dẫn đến một sự tập trung về của cải. Thay vào đó, khu vực tư nhân ở đây có đặc điểm là sự vượt trội của các xí nghiệp nhỏ và vừa.
Do chủ trương của ĐCSTQ, chủ nghĩa cộng sản thân hữu đã phát triển mạnh mẽ theo chiều rộng. Theo thống kê của Dickson, vào năm 1993, chỉ có khoảng 13% các nhà kinh doanh tư nhân là đảng viên; khoảng 2007, con số đó tăng gần gấp ba, lên đến 38%.
webb (3)
3) Có tính chất gia trưởng (paternalistic) và cộng sinh (symbiotic):
các quan chức của đảng và chính quyền ở các cấp đóng vai trò bảo trợ, hướng dẫn công việc làm ăn của giới tư bản. Từ tháng 4 năm 2000, dưới thời của Giang Trạch Dân, các trường đảng đã mở cửa để đón nhận các nhà kinh doanh tư nhân. Tính đến năm 2006, đã có trên 10 ngàn nhà kinh doanh từ khắp đất nước theo học các lớp tại Trường Đảng Trung ương. Đó là chưa kể đến các lớp được mở tại các trường đảng tại địa phương. Mặc dù việc kết nạp các nhà tư bản đã bị cấm chỉ kể từ sau sự kiện Thiên An Môn (tháng 6 năm 1989), từ năm 2001, sau khi Giang đọc bài diễn văn nổi tiếng về học thuyết “Ba đại diện”, đảng cầm quyền đã mở cửa lại để đón nhận các nhà tư bản làm ăn giỏi.
Sở dĩ lãnh đạo đảng ở mọi cấp đều đóng vai trò bảo trợ, giúp đỡ, hướng dẫn giới kinh doanh tư nhân là vì họ có chung một mục tiêu: đẩy mạnh “tăng trưởng kinh tế” (economic growth). Đảng cộng sản cầm quyền vừa muốn thúc đẩy sự phát triển kinh tế, lại vừa muốn kiểm soát giới kinh doanh, ngăn ngừa khả năng các nhà tư bản hỗ trợ cho các hoạt động dân chủ. Do đó hình thành một mối quan hệ “ấm cúng”, “thoải mái” giữa một bên là đảng-nhà nước và bên kia là khu vực tư nhân. Cả hai bên đều hưởng lợi từ sự phát triển kinh tế và chủ trương tư nhân hóa. Sự thỏa hiệp chính trị, mối quan hệ cộng sinh này đã dẫn đến tình trạng bất ổn ngày càng tăng trong xã hội. Các cuộc đấu tranh phản kháng tại các địa phương đã tăng từ 32 ngàn vụ (năm 1999) đến 87 ngàn vụ (năm 2005). Nguyên nhân của các cuộc đấu tranh này rất đa dạng: nông dân mất đất do bị chiếm đoạt bất hợp pháp và do tham nhũng, công nhân không được trả lương đầy đủ hay bị buộc làm việc trong những điều kiện không an toàn, công nhân bị cho thôi việc hay về hưu không nhận được trợ cấp hoặc tiền bảo hiểm như đã hứa, cư dân đô thị bị dời đi để “quy hoạch” nhằm tạo không gian xây dựng cho các công trình mới, v.v…
Mối quan hệ cộng sinh này đã khiến cho giới cầm quyền và giới kinh doanh cộng tác với nhau trong việc giữ gìn ổn định, trật tự xã hội. Trái với luận điểm của nhiều nhà chính trị học phương Tây cho rằng kinh tế thị trường phát triển sẽ dẫn đến sự ra đời của một giai cấp tư sản thành thị ủng hộ dân chủ, theo nhận xét của Dickson, các nhà tư sản ủng hộ dân chủ tại Trung Quốc chỉ chiếm một thiểu số rất nhỏ và không có ảnh hưởng đáng kể, trong khi đại bộ phận các nhà tư bản (mà nòng cốt là tầng lớp tư bản đỏ) đã cộng tác với đảng cộng sản cầm quyền để cùng tồn tại và cùng hưởng lợi.
Nói tóm lại, chủ nghĩa cộng sản thân hữu tại Trung Quốc không phải chỉ là sự câu kết, thông đồng giữa các nhà tư bản và những quan chức trong bộ máy nhà nước, mà là sự hợp nhất, tích hợp (integration) giữa quyền và tiền, trở thành một thể thống nhất. Điển hình là các nhà tư bản đỏ (red capitalists) – vừa có tài sản, lại vừa có thế đứng về chính trị. Nói cách khác, các nhà tư bản đỏ là cái gạch nối giữa giai cấp tư sản nói chung với đảng cộng sản cầm quyền. Quyền và tiền quyện chặt với nhau, trở thành nguồn gốc của nạn tham nhũng ngày càng trầm trọng tại Trung Hoa lục địa.
Giai cấp tư sản tại Trung Quốc phát triển rất nhanh chóng. Theo danh sách các tỷ phú do tạp chí Forbes công bố hàng năm, vào năm 2015 (2-3-2015), Trung Quốc có 213 tỷ phú (tính theo đô-la Mỹ), đứng hàng thứ hai trên thế giới – chỉ sau Hoa Kỳ (536 người). Nhưng danh sách của Forbes thường không tính đến các “thái tử đảng” (princelings)[3] , là những người luôn tìm cách che giấu tài sản của mình. Theo một danh sách khác do nhà sưu tập người Anh Rupert Hoogewerf công bố – thường gọi là Báo cáo Hồ Nhuận (Hurun Report), vào thời điểm 3-2-2015, Trung Quốc có 430 nhà tỷ phú, chỉ sau Hoa Kỳ (537 người). Nhưng đến 15 -10-2015, báo cáo Hồ Nhuận cho biết Trung Quốc có đến 596 nhà tỷ phú, lần đầu tiên vượt Hoa Kỳ (537 người) về số lượng các nhà tỷ phú, mặc dù nếu tính về tài sản thì vẫn chưa sánh bằng[5]. Điều có ý nghĩa biểu tượng là trong cả hai danh sách của Forbes và Hồ Nhuận, Wang Jianlin (王健林 Vương Kiện Lâm) được coi là người giàu nhất Trung Hoa lục địa, là một đảng viên cộng sản và đã từng phục vụ trong quân đội 16 năm.
Các danh sách này không cho biết có bao nhiêu nhà tỷ phú tại Trung Quốc là “tư bản đỏ”. Nhưng tầm quan trọng của các nhà tư bản đỏ thật ra không nằm ở chỗ “chiếm tỷ lệ bao nhiêu” hoặc “có tài sản lớn bao nhiêu”? Tầm quan trọng là ở chỗ các nhà tư bản đỏ tạo ra chiếc cầu nối giữa đảng-nhà nước với giới kinh doanh, và là xương sống của chủ nghĩa cộng sản thân hữu. Điều đó khiến cho nạn tham nhũng tại Trung Quốc trở thành một tệ nạn rất khó cứu chữa vì các mối liên hệ giữa quyền và tiền có được tính chính danh (legitimity) mà ở các nước dân chủ, các nhà tư bản thân hữu không bao giờ đạt được.
Hiệu quả của chiến dịch “đả hổ diệt ruồi”:
Những người còn tin tưởng vào tính ưu việt của chế độ chính trị kiểu Trung Quốc thường cho rằng Tập Cận Bình là người có “quyết tâm làm trong sạch Đảng” và rất kiên định trong việc trừng trị những cán bộ tham nhũng. Nhưng thực chất của công cuộc “đả hổ diệt ruồi” là gì? Đó là một nỗ lực chống tham nhũng thật sự hay chỉ là một màn trình diễn ngoạn mục để mị dân, một cuộc đấu đá hạ bệ một phe phái khác nhằm củng cố quyền lực cho tập đoàn lãnh đạo mới?
Hồi đầu tháng 6 năm 2015, trong một bài báo mà bản dịch tiếng Anh được đăng trên tờ New York Times [6], nhà bất đồng chính kiến nổi tiếng Bào Đồng (nguyên là cố vấn lâu năm của cố Tổng bí thư Triệu Tử Dương) đã nhận xét rằng nguồn gốc của nạn tham nhũng hiện nay đang hoành hành trên đất nước Trung Hoa chính là đường lối của Đặng Tiểu Bình. Trong chuyến tuần du Hoa Nam vào năm 1992, Đặng đã tuyên bố một câu nổi tiếng: “Nếu không thay đổi, chúng ta sẽ đi vào ngõ cụt! Ai không tán thành cải cách, hãy từ chức đi! Một số người sẽ làm giàu trước!” Nhưng trong một đất nước mà quyền bính đều nằm trong tay đảng cộng sản, ai có khả năng làm giàu trước tiên? Theo Bào Đồng, những người làm giàu trước tiên chính là “các đảng viên và gia đình, cùng các cộng sự gần gũi của họ”. Ông viết tiếp: “Thành quả cuối cùng trong cuộc cách mạng của Đặng là ai có quyền lực lớn sẽ giàu to, ai có quyền lực nhỏ sẽ giàu ít, và những người không có quyền lực sẽ vẫn sống trong nghèo đói.”
So sánh sự nghiệp của hai nhà lãnh đạo tối cao của ĐCSTQ, Bào Đồng viết: “Mao Trạch Đông quốc hữu hoá tài sản cá nhân. Đặng Tiểu Bình chuyển giao tài sản quốc gia, với cái giá rất hời, chủ yếu mang tính tượng trưng, vào tay giới tinh hoa của đảng. Kết quả là hiện nay, các “thái tử đảng” – hậu duệ của thế hệ cách mạng sáng lập đảng, kiểm soát phần lớn của cải ở Trung Quốc.” Vì thế, ông không tin cuộc đấu tranh chống tham nhũng của Tập Cận Bình sẽ thành công.
Nhà bất đồng chính kiến đã từng ngồi tù 7 năm nhấn mạnh : “… chừng nào Trung Quốc còn tiếp tục đi theo con đường mà Đặng Tiểu Bình đã vạch ra, nó sẽ không giải quyết triệt để được nạn tham nhũng. “Đả hổ diệt ruồi” không phải là phương thuốc cứu chữa từ gốc đến ngọn; thậm chí còn không giảm nhẹ được những triệu chứng nặng nhất. Hổ còn ngao du khắp chốn, và ruồi còn che kín mặt trời: có thể tấn công cả trăm, hoặc cả ngàn trong số chúng, nhưng điều đó sẽ không thay đổi được bản chất của con đường tham nhũng.”
webb (3)
Việt Nam và mô hình Trung Quốc:
Từ đầu thập niên 1990, nghĩa là từ khi lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) bắt tay hóa giải hận thù với “người đồng chí Trung Quốc” nhằm giữ vững độc quyền chính trị trong nước, chủ nghĩa cộng sản thân hữu tại Việt Nam đã phát triển theo cùng một hướng với Trung Quốc, tuy có phần chậm hơn và với quy mô nhỏ hơn:
Trung Quốc bắt đầu đổi mới kinh tế vào năm 1978 (ngay khi Đặng Tiểu Bình trở lại nắm quyền bính) trong khi tại Việt Nam, mãi đến năm 1986 Đảng CSVN mới quyết định đổi mới kinh tế sau khi đã trải qua một cuộc đấu tranh gay gắt giữa hai phái cải cách và bảo thủ. Việc chính thức công nhận tư bản tư nhân là một thành phần kinh tế căn bản cũng chậm hơn so với Trung Quốc. Mãi đến 2001, nghĩa là 15 năm sau khi tiến hành đổi mới, Đại hội Đảng lần thứ IX mới chính thức thừa nhận kinh tế tư nhân là “bộ phận quan trọng cấu thành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”.
Hai thập niên sau khi tiến hành đổi mới kinh tế, tại Đại hội lần thứ X (năm 2006), ĐCSVN đã thực hiện một bước ngoặt lịch sử khi chính thức khẳng định “kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng, là một trong những động lực của nền kinh tế”, đồng thời cho phép đảng viên được làm kinh tế tư nhân. Ngày 29-8-2006, Hội nghị lần thứ ba của Ban chấp hành Trung ương ĐCSVN đã thông qua quy định về việc đảng viên làm kinh tế tư nhân. Có thể coi đây là một bước ngoặt, đánh dấu sự chính thức chuyển đổi đảng cộng sản – một đảng được thành lập nhân danh “nhân dân lao động” (công nhân và nhất là nông dân) nhằm đánh đổ các giai cấp bóc lột (địa chủ và tư sản), trở thành một đảng của “quyền và tiền”.
Từ đây, đảng viên đảng cộng sản có thể làm giàu và trở thành nhà tư sản mà không mang tiếng là “bóc lột”, “áp bức”, chỉ cần tuyệt đối trung thành với đảng. Thay cho cái tên “nhà tư bản” hay “giai cấp tư sản” thường gợi nhớ đến thời kỳ đấu tranh giai cấp đầy sắt máu, các nhà tư bản trong nền kinh tế “theo định hướng xã hội chủ nghĩa” được gọi là “doanh nhân” (businessman, entrepreneur). Các hội doanh nhân mọc lên như nấm: ngoài các hội doanh nhân thông thường còn có các hội nữ doanh nhân, hội doanh nhân trẻ, và thậm chí có cả “hội doanh nhân cựu chiến binh”, v.v…
Điều đáng tiếc là cho đến nay, chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu một cách nghiêm túc, khách quan về tầng lớp tư bản đỏ tại Việt Nam, cho nên chúng ta chưa thể biết chính xác quy mô và vai trò của tầng lớp đó đối với toàn bộ nền kinh tế. Tuy nhiên nhìn vào thực tế của môi trường kinh doanh hiện nay, ai cũng có thể nhìn thấy sự hiện diện một cách chính danh của các nhà “tư bản đỏ” bên cạnh các nhà “tư bản thân hữu”, ít nhất là từ năm 2006. Có một sự thật tại Việt Nam mà giới lý luận chính thống thường muốn che đậy, đó là: muốn làm giàu nhanh, một doanh nhân (nghĩa là một nhà tư bản) luôn cần đến sự bảo trợ của một hay nhiều quan chức trong bộ máy cầm quyền. Trong hoàn cảnh đó, mỗi nhà tư bản-đảng viên (tức là nhà tư bản đỏ) đều có thể trở thành một chiếc cầu nối, một mối dây liên lạc giữa các nhân vật có quyền trong bộ máy đảng-nhà nước với giới kinh doanh bên ngoài. Đó là chưa kể đến sức mạnh tiềm tàng ngay trong bản thân họ, bởi vì mỗi nhà tư bản đỏ đều có khả năng tìm kiếm “đặc lợi”, lại vừa có khả năng tìm kiếm “đặc quyền”.
Trong thực tế, tham nhũng và hối lộ đã nhanh chóng trở thành chất dầu bôi trơn cơ chế vận hành nền kinh tế thị trường “định hướng xã hội chủ nghĩa”. Ngay cả những người nghiêm túc, cứng cỏi nhất cũng phải chấp nhận quy luật này, bởi vì không ai dại dột tự triệt tiêu con đường làm ăn của mình bằng cách làm đơn kiện “chống trời”!
Cũng có một số đặc điểm riêng biệt của Việt Nam so với Trung Quốc, như chủ trương “quân đội làm kinh tế” chẳng hạn. Tại Trung Quốc, quân đội đã tham gia kinh doanh từ năm 1982 do chủ trương của Đặng Tiểu Bình. Vào năm 1998, người ta ước tính có từ 10 đến 15 ngàn cơ sở kinh doanh thuộc sở hữu của quân đội. Mặc dù đạt hiệu quả kinh tế cao, việc quân đội tham gia kinh doanh đã gây ra những hậu quả nghiêm trọng, đặc biệt là làm cho quân đội xao lãng nhiệm vụ chính và gây ra nạn tham nhũng. Vì thế, vào tháng 7 năm 1998, Giang Trạch Dân đã ra lệnh cho quân đội và PAP (Lực lượng cảnh sát vũ trang) chấm dứt các hoạt động thương mại. Lệnh cấm của Giang Trạch Dân đã làm suy giảm đáng kể hoạt động kinh doanh của quân đội, nhưng vẫn không chấm dứt được tình trạng quân đội lén lút “làm ăn” bằng nhiều cách khác. Mới đây, vào cuối tháng 11 năm 2015 (nghĩa là 17 năm sau lệnh cấm của Giang Trạch Dân), Tập Cận Bình lại phải ra lệnh quân đội chấm dứt các hoạt động nhằm kiếm lợi nhuận như : múa hát thuê cho các sự kiện, chữa bệnh cho người ngoài quân đội để thu viện phí, mở lớp học cho dân thường để thu học phí, cho thuê các kho bãi để làm cơ sở thương mại, nhận thầu các công trình xây dựng, v.v…
Có một điều nghịch lý đập vào mắt người dân nước ta: trong khi quân đội Trung Quốc – một quân đội có nhiệm vụ bành trướng lãnh thổ và lấn chiếm Biển Đông, luôn tìm cách chỉnh đốn hàng ngũ của mình thì quân đội Việt Nam – một quân đội có nhiệm vụ bảo vệ lãnh thổ và lãnh hải chống âm mưu lấn chiếm của nước ngoài, lại suốt ngày say sưa làm ăn để tìm kiếm lợi nhuận. Chẳng những thế, người ta còn đề cao, khen thưởng các vị tướng, tá “kinh doanh giỏi”[8]. Vậy mà, trên diễn đàn của Quốc hội, các ông bà “đại biểu nhân dân” – kể cả những người được ngợi ca là “dũng cảm”, là “yêu nước” nhất, dường như vẫn bình chân như vại, chưa thấy ai ”tâm tư”, áy náy về điều này!
Tóm lại, ngoài các nhà tư bản thân hữu, các nhà tư bản đỏ (tức nhà tư bản-đảng viên) còn có những tập thể tư bản đỏ mang bảng hiệu một “cơ quan” của chính quyền hay của Đảng lao vào lĩnh vực kinh doanh. Có thể nói ở Việt Nam đã hình thành nên một mạng lưới của chủ nghĩa cộng sản thân hữu rộng khắp, với hàng ngàn, hàng vạn “cửa ngõ” thông thương giữa bộ máy đảng-nhà nước và lĩnh vực kinh doanh. Có thể vì lẽ đó mà công cuộc chống tham nhũng trở nên khó khăn đến mức ông Chủ tịch nước sắp từ giã chính trường có lần đã ví những quan chức tham nhũng là “bầy sâu”.
Vấn đề đặt ra là : có bao nhiêu bầy sâu và tại sao lại sinh ra các bầy sâu? Nếu chỉ có một hay vài bầy sâu và mỗi bầy sâu được sinh ra từ một con sâu chúa, người ta có thể diệt trừ bằng cách “vừa diệt sâu chúa, vừa diệt sâu con” dựa theo cách “đả hổ diệt ruồi” của Trung Quốc. Nhưng nếu các bầy sâu lại được sinh ra từ một môi trường thuận lợi cho sự sinh sôi nảy nở của loài sâu thì tình hình sẽ ra sao? Chúng ta có thể hình dung một môi trường ô nhiễm “thuận lợi cho sâu” trong đó hàng ngày hàng giờ đẻ ra hàng ngàn, hàng vạn con sâu con; mặt khác do “thời cơ”, bất cứ con sâu con nào cũng có thể trở thành một con sâu lớn – thậm chí trở thành sâu chúa, thì vấn đề diệt hết các “bầy sâu” sẽ trở thành “nhiệm vụ bất khả thi”.

Hiện nay, vẫn còn một số người – kể cả trí thức được coi là “cấp tiến” lẫn một số nhà đấu tranh cho dân chủ, tin rằng sau Đại hội XII, Bộ Chính trị mới “gồm những người trong sạch hơn” sẽ thanh lọc được hàng ngũ của Đảng Cộng sản Việt Nam và tìm cách “thoát Trung”. Nhưng nếu bình tâm suy xét, chúng ta sẽ thấy ước vọng đó có thể chỉ là “mơ ước viển vông” và rất dễ biến thành “ảo vọng”. Với nguyên tắc “đánh chuột nhưng tránh làm vỡ bình”, có thể sắp tới sẽ có nhiều vụ án được xử công khai, nhiều trận đánh tham nhũng được tiến hành để làm yên lòng dân, nâng cao lòng tin của cán bộ, đảng viên. Nhưng suy cho cùng, cho dù đạt mức cao nhất, các màn trình diễn đó khó có thể hấp dẫn hơn, nhiều kịch tính hơn những màn trình diễn ngoạn mục vừa qua của ông Tập Cận Bình. Vậy mà ở “nước bạn”, tương lai của công cuộc chống tham nhũng sẽ ra sao? Ý kiến của các nhà chính trị học và của ông Bào Đồng đủ để giúp chúng ta thấy tương lai của công cuộc chống tham nhũng tại Trung Quốc.
Vào tháng 3 năm 2013, bốn tháng rưỡi sau ngày Tập Cận Bình trở thành nhà lãnh đạo cao nhất của Trung Hoa lục địa, nhà chính trị học Minxin Pei (Bùi Mẫn Hân) có viết trên tờ The Diplomat một bài báo nhan đề “Một nhà lãnh đạo xô-viết mà Trung Hoa có thể bắt chước… và đó không phải là Gorbachev”, trong đó ông đã tiên đoán một cách chính xác rằng Tập Cận Bình sẽ chọn đường lối của Yuri Andropov chứ không chọn đường lối của Gorbachev[9].
Yuri Vladimirovich Andropov (1914 – 1984) là Tổng bí thư đầu tiên và duy nhất của Đảng Cộng sản Liên Xô thăng tiến từ chức vụ Giám đốc KGB – cơ quan công an khét tiếng toàn thế giới. Có thể tóm tắt mô hình của Andropov bằng nguyên tắc “làm trong sạch đảng cầm quyền từ bên trong” (cleansing the ruling party from within). Điều lý thú là ở cuối bài báo, Minxin Pei nhận định rằng mô hình đó một “con đường không dẫn đến đâu” (a road to nowhere).
Ông còn nhận xét: chính Gorbachev ngay lúc đầu cũng không phải là một nhà cải cách triệt để. Trong hai năm đầu của nhiệm kỳ, Gorbachev đã theo đuổi đường lối của Andropov cho đến khi nhận thức được rằng đường lối đó không có hiệu quả và thay thế bằng con đường glanost (công khai).
Dường như ĐCSVN hiện nay cũng đang ở vào hoàn cảnh tương tự. Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng và Bộ Chính trị mới sẽ chọn con đường nào: chống tham nhũng bằng cách làm trong sạch Đảng từ bên trong với nguyên tắc “đánh chuột nhưng tránh làm vỡ bình” hay chống tham nhũng bằng cách mở cửa cho toàn dân tham gia?
Đành rằng đi theo con đường thứ hai có thể làm “vỡ bình”, nhưng” vỡ bình” không đồng nghĩa với “đại họa”, nhất là khi người ta nhận thức được rằng một “đảng chính trị” không thể quan trọng bằng “quốc gia” và “dân tộc”. Còn đi theo con đường thứ nhất (như Tập Cận Bình đã làm) thì số phận thế nào, chúng ta cũng có thể đoán trước: đó là một con đường “không dẫn đến đâu”. Và vì con đường đó “không dẫn đến đâu”, đến một lúc nào đó nhân dân sẽ tự tìm ra được con đường thích hợp.
Đến lúc đó thì cho dù chiếc bình vẫn còn, nó có thể trở nên vô dụng hoặc nếu may mắn hơn, chỉ có thể được dùng để trưng bày trong kho đồ cổ hoặc viện bảo tàng để “làm kỷ niệm”!
Đà Lạt 31-1-2016
MAI THÁI LĨNH

Chất đất sét của đá tảng Macxit – Bài 3: Đấu tranh giai cấp

Nguyễn Đình Cống
26-10-2017
Ảnh minh họa. Nguồn: internet
Tiếp theo: Bài 1: Bản chất con người  ––  Bài 2: Vật chất và Ý thức.
Tuyên ngôn cộng sản năm 1848 viết rằng: “Lịch sử tất cả các xã hội tồn tại từ trước đến ngày nay chỉ là lịch sử đấu tranh giai cấp” (ĐTGC). Trong nhiều sách kinh điển của Chủ nghĩa Mác-Lenin (CNML) viết: “Trong xã hội có giai cấp, ĐTGC là động lực phát triển”. ĐTGC trở thành hòn đá tảng cơ bản của CNML. Trong thế kỷ 20 ĐTGC thực chất là cuộc đấu tranh do các thế lực cộng sản đề xướng và lãnh đạo quần chúng cần lao, chống lại những người giàu có và thống trị, nhằm tranh đoạt lợi ích kinh tế và quyền lực chính trị. Cuộc đấu tranh này chủ yếu dùng bạo lực với phương châm một còn một mất nên rất quyết liệt và thảm khốc. Tạm thời ĐTGC có đem đến một chút quyền lợi và tinh thần cho cần lao, nhưng tác hại nó mang lại cho nhân loại là to lớn và toàn diện: về đạo đức, văn hóa, kinh tế, nhân mạng.
ĐTGC luôn đặt câu hỏi và tìm kiếm kẻ thù giai cấp trong thực tế và trong tư tưởng. Tìm cho ra để tiêu diệt cho hết. Mà phải dùng bạo lực để tiêu diệt theo phương châm “thà giết nhầm còn hơn bỏ sót”. Ở Việt Nam, trong những năm mà ĐTGC được đề cao, tầng lớp tiểu tư sản, trí thức, văn nghệ sĩ rất hoảng sợ khi được cật vấn về lập trường giai cấp, ý thức giai cấp. Trong các nước do cộng sản thống trị, hàng chục triệu người đã bị giết một cách oan ức vì ĐTGC.
Ở VN hiện nay, sự xuống cấp rất trầm trọng của đạo đức, sự hủy diệt tầng lớp tinh hoa, sự chia rẽ dân tộc chính là do ĐTGC mang lại. Trong CCRĐ và cải tạo tư sản, không hiếm trường hợp con cháu chống lại ông bà cha mẹ chỉ vì để thế hiện tinh thần ĐTGC, thể hiện sự trung thành với ĐCS. Bài thơ của Tố Hữu kêu gọi “Giết, giết nữa…” và “đạp đầu lũ chúa đất xuống bùn đen vạn kiếp” thì rõ rồi. Gần đây tôi đọc thấy một bài báo không thể tin nổi, làm lạnh cả sống lưng. Bài báo viết rằng trong CCRĐ, nhà thơ Xuân Diệu gọi cha mẹ mình là “vợ chồng thằng Thu” (*). Không biết có đúng thế không. Không thể tin được.
Từ khi ra đời, đường lối ĐTGC tuy được một số đảng cộng sản (ĐCS) hưởng ứng, nhưng bị số đông nhân loại phản đối. Tuyên ngôn cộng sản công nhận điều đó bằng lời như sau: “Tất cả thế lực của Châu Âu cũ: Giáo Hoàng và Nga Hoàng, Mét-téc-ních và Ghi-dô, bọn cấp tiến Pháp và bọn cảnh sát Đức, đều đã liên hợp lại thành một liên minh thần thánh để trừ khử bóng ma đó”. Bóng ma ở đây là phong trào cộng sản với chủ thuyết ĐTGC. Tất cả các thế lực liên hiệp lại để chống đối, để trừ khử nó, nhưng chưa trừ được mà nó vẫn phát triển. Nó phát triển được không phải vì đúng, vì tốt mà vì nó tạm thời có sức sống, tạm thời còn che đậy được các độc hại, phô ra được những điều tuyên truyền tốt đẹp về tương lai, tạm thời lừa dối được, lôi kéo được một số người ủng hộ. Ở Châu Âu, Châu Mỹ sự phản đối ĐTGC vào cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 là khá rõ ràng. Ở châu Á, năm 1922, Tôn Trung Sơn cho rằng, xem ĐTGC như động lực phát triển xã hội là một sai lầm lớn của Mác. Có thể Mác đã nhầm khi kết luận “Mâu thuẫn chủ yếu của xã hội là mâu thuẫn giai cấp”, từ đó mới đề ra ĐTGC. Tôi nghĩ hơi khác, rằng: “Mâu thuẫn chủ yếu của xã hội là giữa tầng lớp thống trị và quần chúng bị trị”. Cuộc đấu tranh quan trọng nhất của nhân loại là “chống áp bức”. Chiến tranh là một dạng hung bạo của áp bức.
CNML có nói đến chống áp bức và bóc lột, Trong Tuyên ngôn CS có viết: “những kẻ áp bức và những người bị áp bức, luôn luôn đối kháng với nhau, đã tiến hành một cuộc đấu tranh không ngừng”. Tuy vậy trong lúc tiến hành ĐTGC lại đề quá cao việc chống bóc lột, trong lúc đó chống áp bức quan trọng hơn. Chính vì không thấy rõ việc này nên chính quyền cộng sản đã thay sự áp bức này bằng sự áp bức khác.
Những người lãnh đạo ĐCS nói rằng ĐTGC nhằm mang chính quyền về cho giai cấp vô sản, nhưng thực tế không phải vậy. ĐCS nhờ giỏi tuyên truyền mà thu nhận được một số người có trình độ hiểu biết. Những người này có 2 loại: trung thực và cơ hội. Sau khi ĐCS giành được chính quyền, những độc hại của CNML dần dần lộ ra. Mọi người đều thấy, nhưng bọn cơ hội lợi dụng để mưu đồ lợi ích cho bản thân và phe nhóm, còn người trung thực tìm cách chống lại. Vì trung thực nên ít biết dùng thủ đoạn, vì thế chính quyền dần dần rơi vào tay bọn cơ hội. Bọn này thiếu trí tuệ nhưng có nhiều mưu mẹo, có nhiều thủ đoạn gian dối trong đấu tranh. Chúng tìm cách triệt hạ hoặc hạn chế những người không cùng quan điểm mà chủ yếu là những trí thức tinh hoa và trung thực, chúng tìm cách loại bỏ những người không cùng phe cánh, có xung đột quyền lợi. Chính quyền như vậy mà bảo rằng là của vô sản thì quá hài hước.
Như vậy ĐTGC ở VN cuối cùng mang lại lợi ích cho một nhóm nhỏ bọn cơ hội, còn giai cấp công nhân vẫn tiếp tục bị áp bức và bóc lột, nông dân vẫn là những người bị thiệt thòi. Đất nước, nhân dân oằn mình gánh chịu thiên tai và nhân tai. Phần lơn nhân tai là kết quả trực tiếp hoặc gián tiếp của ĐTGC.
_____
(*) Ghi chú của Tiếng Dân: Cụm từ “vợ chồng thằng Thu” trong một bài thơ viết thời cải cách ruộng đất của nhà thơ Xuân Diệu, có lẽ không phải để đấu tố cha mẹ, vì cả cha lẫn mẹ ông Xuân Diệu không có ai tên Thu: cha của nhà thơ Xuân Diệu tên là Ngô Xuân Thọ, mẹ là bà Nguyễn Thị Hiệp.

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét