Dai Chung la su suy ngam cua toi ve cuoc doi, xa hoi, nhan sinh
SUY NGẪM VỀ "TƯ SẢN ĐỎ" 6
Nhận đường liên kết
Facebook
X
Pinterest
Email
Ứng dụng khác
-
- Sau ngày Giải Phóng, trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin, đảng ta tiếp tục quyết tâm tiến lên CNXH theo con đường xây dựng một nền kinh tế kế hoạch tập trung, phi thị trường, lấy công hữu tư liệu sản xuất làm nền tảng. Sau một thời gian cố công thực hiện, xoay xở đủ mọi cách, áp dụng đủ mọi biện pháp, nền kinh tế không những không phát triển mà còn suy thoái đi, có nguy cơ sụp đổ. Tình hình ấy bắt buộc đảng ta phải thay đổi cách thức xây dựng CNXH, đổi mới phương thức hoạt động của nền kinh tế, từ kế hoạch tập trung mệnh lệnh sang cơ chế cạnh tranh tự do tư bản chủ nghĩa, nhưng không muốn từ bỏ lý tưởng cao đẹp của chủ nghĩa cộng sản nên phải kèm theo câu "...theo định hướng XHCN". Nghĩa là từ chỗ nhận thức muốn xây dựng CNXH thì trước hết phải tiêu trừ giai cấp tư sản, đến chỗ nhận thức muốn xây dựng CNXH thì trước hết phải dung nạp giai cấp tư sản. -Tại Việt Nam, có thể hiểu khái quát: Kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa là kinh tế thị trường, vừa tuân thủ theo quy luật của
kinh tế thị trường, vừa phải theo định hướng của chủ nghĩa xã hội.
Có nghĩa là, trong khi chú ý tới tăng trưởng kinh tế, thì hết sức coi
trọng tới vấn đề xã hội, xây dựng hệ thống an sinh xã hội và dịch vụ
công cộng tốt, bảo đảm công bằng xã hội, hạn chế sự chênh lệch
giàu-nghèo, phấn đấu để có nhiều người giàu nhưng đồng thời cũng hạn chế
tối đa, tiến tới xóa bỏ tình trạng đói nghèo trong nhân dân. Thực tế
quá trình Đổi mới hơn hai chục năm qua đã giúp Việt Nam có những bước
phát triển vượt bậc tuy còn nhiều hạn chế cần khắc phục để bảo đảm kinh
tế Việt Nam tiếp tục tăng trưởng ở mức cao. Việt Nam nằm trong số ít
quốc gia trên thế giới có chỉ số phát triển con người cao hơn những nước có cùng mức thu nhập. Chính phủ Việt Nam đã có những nỗ lực đầu tư vào hệ thống y tế và giáo dục, điều này giúp Việt Nam có tỷ lệ biết chữ và tuổi thọ trung bình khá cao. Trình độ y tế và giáo dục của Việt Nam ngày càng tiếp cận gần hơn với trình độ của các nước tiên tiến. Tuy vậy quá trình Đổi mới vẫn đặt ra những vấn đề mới về cả lý luận và thực tiễn. Theo tiến sĩ Trần Đình Thiên, Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam, trước Đại hội Đảng lần XI cho rằng "Công
thức phát triển là kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nên
được hiểu như thế nào cho rõ ràng? Đây là thời điểm mà tôi nghĩ rằng bàn
cương lĩnh là bàn đến khái niệm lớn". Việt Nam cần xác định rõ ràng hơn nữa định hướng của nền kinh tế và có chính sách cụ thể để thực hiện định hướng đó. Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định: đây là mô hình tự xây dựng, không
có khuôn mẫu cụ thể do đó, trong quá trình xây dựng không tránh khỏi
khiếm khuyết, phải nhận rõ những khiếm khuyết này và đã từng điều chỉnh
trong từng giai đoạn. Tại Đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ XI, trong Cương lĩnh mới của Đảng, mô hình kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa sẽ tiếp tục được hoàn thiện để phù hợp với
xu thế mới của thời đại, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân; đồng thời
phê phán quan điểm của một số người cho rằng, nền kinh tế Việt Nam hiện
nay "chẳng giống ai", "chủ nghĩa xã hội bên ngoài nhưng bên trong lại là tư bản"... là cố tình bóp méo sự thật. -Cố tình bóp méo sự thật hay không thì chưa biết! Nhưng nếu Việt Nam muốn xây dựng xã hội theo hướng "vừa tuân thủ theo quy luật của
kinh tế thị trường, vừa phải theo định hướng của chủ nghĩa xã hội.
Có nghĩa là, trong khi chú ý tới tăng trưởng kinh tế, thì phải hết sức coi
trọng tới vấn đề xã hội, xây dựng hệ thống an sinh xã hội và dịch vụ
công cộng tốt, bảo đảm công bằng xã hội, hạn chế sự chênh lệch
giàu-nghèo, phấn đấu để có nhiều người giàu nhưng đồng thời cũng hạn chế
tối đa, tiến tới xóa bỏ tình trạng đói nghèo trong nhân dân", thì đó là mục đích nói chung của mọi nhà nước trong xây dựng phát triển xã hội (dù cộng sản hay không cộng sản, dù nói ra hay không nói ra, dù bằng cách này hay cách khác). -Thực tế xây dựng xã hội của Việt Nam (và cả Trung Quốc) trong mấy chục năm qua cho thấy, kinh tế phát triển tương đối mạnh, nhưng đó là do nền kinh tế được giải phóng, phát triển tự nhiên phải thế, chứ không có những nét nổi bật do "tính ưu việt của định hướng XHCN" mang lại. -Sau chiến tranh thế giới thứ 2, hầu hết các nước tư bản đều thiệt hại nặng nề. Nhưng ngày nay các quốc gia đó,nói tương đối, đều trở thành "dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh" mà không cần nêu khẩu hiệu "định hướngXHCN". -Có như vậy là do nhận thức về chủ nghĩa cộng sản chưa đúng, dẫn đến việc xác định đối tượng từng giai đoạn của cách mạng vô sản (cuộc cách mạng thứ hai!) chưa chuẩn, dù mục đích lý tưởng của xây dựng CNXH (làm cho "dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh") là đúng đắn. -Cũng vì thế mà sau khi "đổi mới", nền kinh tế nước ta được giải phóng và lớn mạnh không ngừng theo yêu cầu tự nhiên của xã hội. Nhưng đi đôi với điều đó lại nổi bật nạn tham quan lại nhũng, nạn chạy chức chạy quyền, nạn bổ nhiệm tràn lan, dư thừa biên chế...(đã tồn tại từ trước) cũng có cơ hội phát triển mạnh mẽ mà ngày nay đã tạo thành cái gọi là "lợi ích nhóm", "lợi ích họ hàng", một tầng lớp cán bộ thoái hóa, biến chất, tạo mầm mống hình thành giai cấp mới, tạm gọi là "tư sản đỏ". Tư sản đỏ là tầng lớp vẫn hô hào ủng hộ cách mạng vô sản để trục lợi, vẫn theo nhà nước vô sản để hưởng đặc quyền đặc lợi, nhưng sẵn sàng rời bỏ hành ngũ cộng sản vì không còn mang bản chất cao đẹp của người cộng sản nữa. Phải thừa nhận rằng, dù chưa đích đáng thì với mục đích tiến về phía xã hội XHCN, nghĩa là nhà nước vẫn còn bản chất "vì dân", nên nạn tham nhũng (nguyên nhân chủ yếu hình thành "tư sản đỏ") luôn bị khống chế, nhưng thường thì không kịp thời, chậm trễ, trừng trị không đích đáng, gây thiệt hại nặng nề cho đất nước, cho quần chúng. -Theo chúng ta, mục đích của cách mạng vô sản thật bình dị mà thiêng liêng, là làm cho "dân giàu, nước mạnh", thậm chí phải lấy lo cho dân sinh làm mục đích cơ bản, ưu tiên hàng đầu. Một khi cách mạng vô sản quên đi mục đích cơ bản của nó, tức là làm cho "dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh", thì không còn lực lượng nào ngăn chặn được sự tác oai tác quái của "tư sản đỏ", hơn nữa, khi nhà nước lúc này còn dung túng, bao che cho nó, thì nó sẽ dần trở thành giai cấp mới, thao túng nhà nước, phản động hóa đảng cộng sản, thống trị hoàn toàn xã hội. -Chắc chắn rằng, cách mạng vô sản không cho phép "tư sản đỏ" hóa thành giai cấp, vì đó là sinh mạng của đảng. Nhưng cứ giả sử rằng tư sản đỏ hóa thành giai cấp thống trị, thì rõ ràng, một khi xã hội không còn chịu đựng nổi nữa, tất nhiên,sẽ lại có một cuộc cách mạng mới đi đòi quyền sống cơ bản của quần chúng nhân dân, giai cấp bị trị. Lúc đó đảng cs sẽ tự phát trở nên phản động, nghĩa là hoạt động xa rời mục đích ban đầu đẹp đẽ của nó là "định hướng XHCN"! -Muốn không tạo sinh ra tầng lớp "tư sản đỏ", mầm mống của giai cấp thống trị mới, thì phải làm sao? Đây không phải là câu hỏi riêng cho cách mạng vô sản!
---------------------------------------------------------------------
(ĐC sưu tầm trên NET)
Yên Bái loạn sứ quân, gia tộc họ Phạm âm mưu biến Yên Bái thành khu tự trị bất chấp pháp luật
Ai Chống lưng BOT Cai Lậy con trai của ủy viên Bộ Chính Trị Ngô Văn Dụ, ?
Từ Tư bản thân hữu đến Cộng sản thân hữu Bài 2: Về Chủ nghĩa cộng sản thân hữu Từ đầu thế kỷ
21 đến nay, nhiều học giả phương Tây đã quan tâm nghiên cứu hiện
tượng “tư bản thân hữu” tại Trung Quốc. Tuy nhiên, khi vận dụng
khái niệm “tư bản thân hữu” vào hoàn cảnh của quốc gia cộng
sản hậu-toàn trị này, các nhà nghiên cứu đã nhanh chóng nhận
ra một số đặc điểm riêng biệt. Vì vậy, trong khi một số học
giả sử dụng thuật ngữ “Chủ nghĩa Tư bản Thân hữu với đặc điểm Trung
Quốc” (Crony Capitalism with Chinese Characteristics), một số học
giả khác (như Bruce Dickson, Minxin Pei, …) đã mạnh dạn sử dụng khái
niệm “Chủ nghĩa Cộng sản Thân hữu” (Crony Communism) để nhấn mạnh
tính chất đặc thù, riêng biệt đó. Tư bản đỏ và Chủ nghĩa cộng sản thân hữu: Một trong những
nét đặc thù của hiện tượng “tư bản thân hữu” tại Trung Quốc
là bên cạnh các nhà “tư bản-thân hữu” thông thường (nghĩa là
những nhà tư bản có quan hệ “thân thiết” với các quan chức
trong bộ máy cầm quyền), còn có các nhà tư bản đỏ (red
capitalists) – tức là các nhà tư bản đồng thời là đảng viên
cộng sản. Bruce J. Dickson –
giáo sư khoa chính trị học và quan hệ quốc tế tại Đại học
George Washington (Hoa Kỳ), là một trong những học giả chú ý đến
chủ đề này. Trong cuốn Red Capitalists (xuất bản năm 2003) và
cuốn Allies of the State. China’s Private Entrepreneurs and Democratic
Change (viết chung với Jie Chen, xuất bản năm 2010), ông đã phân
tích tỉ mỉ những đặc điểm của loại hình “tư bản đỏ” tại Trung
Quốc để tìm cách lý giải tại sao sự phát triển của giai cấp
tư sản thành thị (urban bourgeoisie) tại quốc gia đông dân nhất thế
giới này lại không dẫn đến những thay đổi có lợi cho tự do,
dân chủ. Trong một tiểu luận công bố năm 2008 [1], Bruce Dickson đã
nêu bật một số đặc điểm đáng chú ý của chủ nghĩa cộng sản thân hữu tại
Trung Quốc như sau: 1) Chịu sự chi phối của đảng cộng sản cầm quyền: Đảng Cộng
sản Trung Quốc (ĐCSTQ) – tác nhân trung tâm của chế độ chính trị tại
Trung Quốc, đồng thời cũng là trung tâm của chủ nghĩa cộng sản thân hữu.
Do yếu tố then chốt này, tầng lớp được hưởng lợi từ chủ nghĩa cộng sản
thân hữu là các đảng viên cộng sản và gia đình của họ. Ông nhận xét:
“Trong khi con cái của các nhà lãnh đạo thuộc các thế hệ thứ nhất và thứ
hai thường theo gương cha để vào đảng, chính quyền và quân đội, thì con
cái của các nhà lãnh đạo thuộc thế hệ thứ ba và thứ tư đều đi vào lĩnh
vực kinh doanh (hoặc trong trường hợp của con gái Hồ Cẩm Đào và con gái
Ôn Gia Bảo – đã cưới các nhà kinh doanh nổi bật nhất). Một báo cáo nội
bộ (được cho là xuất phát từ Trường Đảng) đã chỉ rõ rằng 90% những người
siêu-giàu của Trung Quốc (tức là những người có tài sản trên 100 triệu
yuan) là con cái của các quan chức cao cấp. Đây là một ví dụ cực đoan,
nhưng hiểu theo một nghĩa rộng hơn, sự tập trung tài sản vào tay những
người có quan hệ tốt về chính trị là bản chất của chủ nghĩa cộng sản
thân hữu.” Tầng lớp “tư bản
đỏ” (red capitalists) này bao gồm hai loại: (1) các đảng viên “hạ
hải” [2] (xia hai 下海), nghĩa là những đảng viên “dấn thân” vào
con đường kinh doanh làm giàu và (2) các nhà kinh doanh thành
đạt được kết nạp vào đảng cộng sản. 2) Phi tập trung, khuếch tán và có xu hướng bành trướng: Khác
với tư bản thân hữu ở các nước khác (vd: các nước Đông Nam Á), chủ
nghĩa cộng sản thân hữu của Trung Quốc không chịu sự chi phối bởi một
gia đình, một dòng họ hoặc các nhà lãnh đạo ở trung ương, mà lôi cuốn
các quan chức ở tất cả các cấp của bậc thang chính trị. Khác với nước
Nga hậu-cộng sản – nơi mà của cải tập trung vào tay của một số ít cá
nhân có quan hệ tốt về chính trị (các nhà tư bản đầu sỏ, tycoons), công
cuộc tư nhân hóa ở Trung Quốc không dẫn đến một sự tập trung về của cải.
Thay vào đó, khu vực tư nhân ở đây có đặc điểm là sự vượt trội của các
xí nghiệp nhỏ và vừa. Do chủ trương của
ĐCSTQ, chủ nghĩa cộng sản thân hữu đã phát triển mạnh mẽ theo chiều
rộng. Theo thống kê của Dickson, vào năm 1993, chỉ có khoảng 13% các nhà
kinh doanh tư nhân là đảng viên; khoảng 2007, con số đó tăng gần gấp
ba, lên đến 38%. 3) Có tính chất gia trưởng (paternalistic) và cộng sinh (symbiotic): các
quan chức của đảng và chính quyền ở các cấp đóng vai trò bảo trợ, hướng
dẫn công việc làm ăn của giới tư bản. Từ tháng 4 năm 2000, dưới thời
của Giang Trạch Dân, các trường đảng đã mở cửa để đón nhận các nhà kinh
doanh tư nhân. Tính đến năm 2006, đã có trên 10 ngàn nhà kinh doanh từ
khắp đất nước theo học các lớp tại Trường Đảng Trung ương. Đó là chưa kể
đến các lớp được mở tại các trường đảng tại địa phương. Mặc dù việc kết
nạp các nhà tư bản đã bị cấm chỉ kể từ sau sự kiện Thiên An Môn (tháng 6
năm 1989), từ năm 2001, sau khi Giang đọc bài diễn văn nổi tiếng về học
thuyết “Ba đại diện”, đảng cầm quyền đã mở cửa lại để đón nhận các nhà
tư bản làm ăn giỏi. Sở dĩ lãnh đạo đảng
ở mọi cấp đều đóng vai trò bảo trợ, giúp đỡ, hướng dẫn giới kinh doanh
tư nhân là vì họ có chung một mục tiêu: đẩy mạnh “tăng trưởng kinh tế”
(economic growth). Đảng cộng sản cầm quyền vừa muốn thúc đẩy sự phát
triển kinh tế, lại vừa muốn kiểm soát giới kinh doanh, ngăn ngừa khả
năng các nhà tư bản hỗ trợ cho các hoạt động dân chủ. Do đó hình thành
một mối quan hệ “ấm cúng”, “thoải mái” giữa một bên là đảng-nhà nước và
bên kia là khu vực tư nhân. Cả hai bên đều hưởng lợi từ sự phát triển
kinh tế và chủ trương tư nhân hóa. Sự thỏa hiệp chính trị, mối quan hệ
cộng sinh này đã dẫn đến tình trạng bất ổn ngày càng tăng trong xã hội.
Các cuộc đấu tranh phản kháng tại các địa phương đã tăng từ 32 ngàn vụ
(năm 1999) đến 87 ngàn vụ (năm 2005). Nguyên nhân của các cuộc đấu tranh
này rất đa dạng: nông dân mất đất do bị chiếm đoạt bất hợp pháp và do
tham nhũng, công nhân không được trả lương đầy đủ hay bị buộc làm việc
trong những điều kiện không an toàn, công nhân bị cho thôi việc hay về
hưu không nhận được trợ cấp hoặc tiền bảo hiểm như đã hứa, cư dân đô thị
bị dời đi để “quy hoạch” nhằm tạo không gian xây dựng cho các công
trình mới, v.v… Mối quan hệ cộng
sinh này đã khiến cho giới cầm quyền và giới kinh doanh cộng tác với
nhau trong việc giữ gìn ổn định, trật tự xã hội. Trái với luận điểm của
nhiều nhà chính trị học phương Tây cho rằng kinh tế thị trường phát
triển sẽ dẫn đến sự ra đời của một giai cấp tư sản thành thị ủng hộ dân
chủ, theo nhận xét của Dickson, các nhà tư sản ủng hộ dân chủ tại Trung
Quốc chỉ chiếm một thiểu số rất nhỏ và không có ảnh hưởng đáng kể, trong
khi đại bộ phận các nhà tư bản (mà nòng cốt là tầng lớp tư bản đỏ) đã
cộng tác với đảng cộng sản cầm quyền để cùng tồn tại và cùng hưởng lợi. Nói tóm lại, chủ
nghĩa cộng sản thân hữu tại Trung Quốc không phải chỉ là sự câu kết,
thông đồng giữa các nhà tư bản và những quan chức trong bộ máy nhà nước,
mà là sự hợp nhất, tích hợp (integration) giữa quyền và tiền, trở thành
một thể thống nhất. Điển hình là các nhà tư bản đỏ (red capitalists) –
vừa có tài sản, lại vừa có thế đứng về chính trị. Nói cách khác, các nhà
tư bản đỏ là cái gạch nối giữa giai cấp tư sản nói chung với đảng cộng
sản cầm quyền. Quyền và tiền quyện chặt với nhau, trở thành nguồn gốc
của nạn tham nhũng ngày càng trầm trọng tại Trung Hoa lục địa. Giai cấp tư sản tại
Trung Quốc phát triển rất nhanh chóng. Theo danh sách các tỷ phú do tạp
chí Forbes công bố hàng năm, vào năm 2015 (2-3-2015), Trung Quốc có 213
tỷ phú (tính theo đô-la Mỹ), đứng hàng thứ hai trên thế giới – chỉ sau
Hoa Kỳ (536 người). Nhưng danh sách của Forbes thường không tính đến các
“thái tử đảng” (princelings)[3] , là những người luôn tìm cách che giấu
tài sản của mình. Theo một danh sách khác do nhà sưu tập người Anh
Rupert Hoogewerf công bố – thường gọi là Báo cáo Hồ Nhuận (Hurun
Report), vào thời điểm 3-2-2015, Trung Quốc có 430 nhà tỷ phú, chỉ sau
Hoa Kỳ (537 người). Nhưng đến 15 -10-2015, báo cáo Hồ Nhuận cho biết
Trung Quốc có đến 596 nhà tỷ phú, lần đầu tiên vượt Hoa Kỳ (537 người)
về số lượng các nhà tỷ phú, mặc dù nếu tính về tài sản thì vẫn chưa sánh
bằng[5]. Điều có ý nghĩa biểu tượng là trong cả hai danh sách của
Forbes và Hồ Nhuận, Wang Jianlin (王健林 Vương Kiện Lâm) được coi là người
giàu nhất Trung Hoa lục địa, là một đảng viên cộng sản và đã từng phục
vụ trong quân đội 16 năm. Các danh sách này
không cho biết có bao nhiêu nhà tỷ phú tại Trung Quốc là “tư bản đỏ”.
Nhưng tầm quan trọng của các nhà tư bản đỏ thật ra không nằm ở chỗ
“chiếm tỷ lệ bao nhiêu” hoặc “có tài sản lớn bao nhiêu”? Tầm quan trọng
là ở chỗ các nhà tư bản đỏ tạo ra chiếc cầu nối giữa đảng-nhà nước với
giới kinh doanh, và là xương sống của chủ nghĩa cộng sản thân hữu. Điều
đó khiến cho nạn tham nhũng tại Trung Quốc trở thành một tệ nạn rất khó
cứu chữa vì các mối liên hệ giữa quyền và tiền có được tính chính danh
(legitimity) mà ở các nước dân chủ, các nhà tư bản thân hữu không bao
giờ đạt được. Hiệu quả của chiến dịch “đả hổ diệt ruồi”: Những người còn tin
tưởng vào tính ưu việt của chế độ chính trị kiểu Trung Quốc thường cho
rằng Tập Cận Bình là người có “quyết tâm làm trong sạch Đảng” và rất
kiên định trong việc trừng trị những cán bộ tham nhũng. Nhưng thực chất
của công cuộc “đả hổ diệt ruồi” là gì? Đó là một nỗ lực chống tham nhũng
thật sự hay chỉ là một màn trình diễn ngoạn mục để mị dân, một cuộc đấu
đá hạ bệ một phe phái khác nhằm củng cố quyền lực cho tập đoàn lãnh đạo
mới? Hồi đầu tháng 6 năm
2015, trong một bài báo mà bản dịch tiếng Anh được đăng trên tờ New
York Times [6], nhà bất đồng chính kiến nổi tiếng Bào Đồng (nguyên là cố
vấn lâu năm của cố Tổng bí thư Triệu Tử Dương) đã nhận xét rằng nguồn
gốc của nạn tham nhũng hiện nay đang hoành hành trên đất nước Trung Hoa
chính là đường lối của Đặng Tiểu Bình. Trong chuyến tuần du Hoa Nam vào
năm 1992, Đặng đã tuyên bố một câu nổi tiếng: “Nếu không thay đổi, chúng
ta sẽ đi vào ngõ cụt! Ai không tán thành cải cách, hãy từ chức đi! Một
số người sẽ làm giàu trước!” Nhưng trong một đất nước mà quyền bính đều
nằm trong tay đảng cộng sản, ai có khả năng làm giàu trước tiên? Theo
Bào Đồng, những người làm giàu trước tiên chính là “các đảng viên và gia
đình, cùng các cộng sự gần gũi của họ”. Ông viết tiếp: “Thành quả cuối
cùng trong cuộc cách mạng của Đặng là ai có quyền lực lớn sẽ giàu to, ai
có quyền lực nhỏ sẽ giàu ít, và những người không có quyền lực sẽ vẫn
sống trong nghèo đói.” So sánh sự nghiệp
của hai nhà lãnh đạo tối cao của ĐCSTQ, Bào Đồng viết: “Mao Trạch Đông
quốc hữu hoá tài sản cá nhân. Đặng Tiểu Bình chuyển giao tài sản quốc
gia, với cái giá rất hời, chủ yếu mang tính tượng trưng, vào tay giới
tinh hoa của đảng. Kết quả là hiện nay, các “thái tử đảng” – hậu duệ của
thế hệ cách mạng sáng lập đảng, kiểm soát phần lớn của cải ở Trung
Quốc.” Vì thế, ông không tin cuộc đấu tranh chống tham nhũng của Tập Cận
Bình sẽ thành công. Nhà bất đồng chính
kiến đã từng ngồi tù 7 năm nhấn mạnh : “… chừng nào Trung Quốc còn tiếp
tục đi theo con đường mà Đặng Tiểu Bình đã vạch ra, nó sẽ không giải
quyết triệt để được nạn tham nhũng. “Đả hổ diệt ruồi” không phải là
phương thuốc cứu chữa từ gốc đến ngọn; thậm chí còn không giảm nhẹ được
những triệu chứng nặng nhất. Hổ còn ngao du khắp chốn, và ruồi còn che
kín mặt trời: có thể tấn công cả trăm, hoặc cả ngàn trong số chúng,
nhưng điều đó sẽ không thay đổi được bản chất của con đường tham nhũng.” Việt Nam và mô hình Trung Quốc: Từ đầu thập niên
1990, nghĩa là từ khi lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) bắt tay
hóa giải hận thù với “người đồng chí Trung Quốc” nhằm giữ vững độc quyền
chính trị trong nước, chủ nghĩa cộng sản thân hữu tại Việt Nam đã phát
triển theo cùng một hướng với Trung Quốc, tuy có phần chậm hơn và với
quy mô nhỏ hơn: Trung Quốc bắt đầu
đổi mới kinh tế vào năm 1978 (ngay khi Đặng Tiểu Bình trở lại nắm quyền
bính) trong khi tại Việt Nam, mãi đến năm 1986 Đảng CSVN mới quyết định
đổi mới kinh tế sau khi đã trải qua một cuộc đấu tranh gay gắt giữa hai
phái cải cách và bảo thủ. Việc chính thức công nhận tư bản tư nhân là
một thành phần kinh tế căn bản cũng chậm hơn so với Trung Quốc. Mãi đến
2001, nghĩa là 15 năm sau khi tiến hành đổi mới, Đại hội Đảng lần thứ IX
mới chính thức thừa nhận kinh tế tư nhân là “bộ phận quan trọng cấu
thành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Hai thập niên sau
khi tiến hành đổi mới kinh tế, tại Đại hội lần thứ X (năm 2006), ĐCSVN
đã thực hiện một bước ngoặt lịch sử khi chính thức khẳng định “kinh tế
tư nhân có vai trò quan trọng, là một trong những động lực của nền kinh
tế”, đồng thời cho phép đảng viên được làm kinh tế tư nhân. Ngày
29-8-2006, Hội nghị lần thứ ba của Ban chấp hành Trung ương ĐCSVN đã
thông qua quy định về việc đảng viên làm kinh tế tư nhân. Có thể coi đây
là một bước ngoặt, đánh dấu sự chính thức chuyển đổi đảng cộng sản –
một đảng được thành lập nhân danh “nhân dân lao động” (công nhân và nhất
là nông dân) nhằm đánh đổ các giai cấp bóc lột (địa chủ và tư sản), trở
thành một đảng của “quyền và tiền”. Từ đây, đảng viên
đảng cộng sản có thể làm giàu và trở thành nhà tư sản mà không mang
tiếng là “bóc lột”, “áp bức”, chỉ cần tuyệt đối trung thành với đảng.
Thay cho cái tên “nhà tư bản” hay “giai cấp tư sản” thường gợi nhớ đến
thời kỳ đấu tranh giai cấp đầy sắt máu, các nhà tư bản trong nền kinh tế
“theo định hướng xã hội chủ nghĩa” được gọi là “doanh nhân”
(businessman, entrepreneur). Các hội doanh nhân mọc lên như nấm: ngoài
các hội doanh nhân thông thường còn có các hội nữ doanh nhân, hội doanh
nhân trẻ, và thậm chí có cả “hội doanh nhân cựu chiến binh”, v.v… Điều đáng tiếc là
cho đến nay, chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu một cách nghiêm
túc, khách quan về tầng lớp tư bản đỏ tại Việt Nam, cho nên chúng ta
chưa thể biết chính xác quy mô và vai trò của tầng lớp đó đối với toàn
bộ nền kinh tế. Tuy nhiên nhìn vào thực tế của môi trường kinh doanh
hiện nay, ai cũng có thể nhìn thấy sự hiện diện một cách chính danh của
các nhà “tư bản đỏ” bên cạnh các nhà “tư bản thân hữu”, ít nhất là từ
năm 2006. Có một sự thật tại Việt Nam mà giới lý luận chính thống thường
muốn che đậy, đó là: muốn làm giàu nhanh, một doanh nhân (nghĩa là một
nhà tư bản) luôn cần đến sự bảo trợ của một hay nhiều quan chức trong bộ
máy cầm quyền. Trong hoàn cảnh đó, mỗi nhà tư bản-đảng viên (tức là nhà
tư bản đỏ) đều có thể trở thành một chiếc cầu nối, một mối dây liên lạc
giữa các nhân vật có quyền trong bộ máy đảng-nhà nước với giới kinh
doanh bên ngoài. Đó là chưa kể đến sức mạnh tiềm tàng ngay trong bản
thân họ, bởi vì mỗi nhà tư bản đỏ đều có khả năng tìm kiếm “đặc lợi”,
lại vừa có khả năng tìm kiếm “đặc quyền”. Trong thực tế, tham
nhũng và hối lộ đã nhanh chóng trở thành chất dầu bôi trơn cơ chế vận
hành nền kinh tế thị trường “định hướng xã hội chủ nghĩa”. Ngay cả những
người nghiêm túc, cứng cỏi nhất cũng phải chấp nhận quy luật này, bởi
vì không ai dại dột tự triệt tiêu con đường làm ăn của mình bằng cách
làm đơn kiện “chống trời”! Cũng có một số đặc
điểm riêng biệt của Việt Nam so với Trung Quốc, như chủ trương “quân đội
làm kinh tế” chẳng hạn. Tại Trung Quốc, quân đội đã tham gia kinh doanh
từ năm 1982 do chủ trương của Đặng Tiểu Bình. Vào năm 1998, người ta
ước tính có từ 10 đến 15 ngàn cơ sở kinh doanh thuộc sở hữu của quân
đội. Mặc dù đạt hiệu quả kinh tế cao, việc quân đội tham gia kinh doanh
đã gây ra những hậu quả nghiêm trọng, đặc biệt là làm cho quân đội xao
lãng nhiệm vụ chính và gây ra nạn tham nhũng. Vì thế, vào tháng 7 năm
1998, Giang Trạch Dân đã ra lệnh cho quân đội và PAP (Lực lượng cảnh sát
vũ trang) chấm dứt các hoạt động thương mại. Lệnh cấm của Giang Trạch
Dân đã làm suy giảm đáng kể hoạt động kinh doanh của quân đội, nhưng vẫn
không chấm dứt được tình trạng quân đội lén lút “làm ăn” bằng nhiều
cách khác. Mới đây, vào cuối tháng 11 năm 2015 (nghĩa là 17 năm sau lệnh
cấm của Giang Trạch Dân), Tập Cận Bình lại phải ra lệnh quân đội chấm
dứt các hoạt động nhằm kiếm lợi nhuận như : múa hát thuê cho các sự
kiện, chữa bệnh cho người ngoài quân đội để thu viện phí, mở lớp học cho
dân thường để thu học phí, cho thuê các kho bãi để làm cơ sở thương
mại, nhận thầu các công trình xây dựng, v.v… Có một điều nghịch
lý đập vào mắt người dân nước ta: trong khi quân đội Trung Quốc – một
quân đội có nhiệm vụ bành trướng lãnh thổ và lấn chiếm Biển Đông, luôn
tìm cách chỉnh đốn hàng ngũ của mình thì quân đội Việt Nam – một quân
đội có nhiệm vụ bảo vệ lãnh thổ và lãnh hải chống âm mưu lấn chiếm của
nước ngoài, lại suốt ngày say sưa làm ăn để tìm kiếm lợi nhuận. Chẳng
những thế, người ta còn đề cao, khen thưởng các vị tướng, tá “kinh doanh
giỏi”[8]. Vậy mà, trên diễn đàn của Quốc hội, các ông bà “đại biểu nhân
dân” – kể cả những người được ngợi ca là “dũng cảm”, là “yêu nước”
nhất, dường như vẫn bình chân như vại, chưa thấy ai ”tâm tư”, áy náy về
điều này! Tóm lại, ngoài các
nhà tư bản thân hữu, các nhà tư bản đỏ (tức nhà tư bản-đảng viên) còn có
những tập thể tư bản đỏ mang bảng hiệu một “cơ quan” của chính quyền
hay của Đảng lao vào lĩnh vực kinh doanh. Có thể nói ở Việt Nam đã hình
thành nên một mạng lưới của chủ nghĩa cộng sản thân hữu rộng khắp, với
hàng ngàn, hàng vạn “cửa ngõ” thông thương giữa bộ máy đảng-nhà nước và
lĩnh vực kinh doanh. Có thể vì lẽ đó mà công cuộc chống tham nhũng trở
nên khó khăn đến mức ông Chủ tịch nước sắp từ giã chính trường có lần đã
ví những quan chức tham nhũng là “bầy sâu”. Vấn đề đặt ra là : có
bao nhiêu bầy sâu và tại sao lại sinh ra các bầy sâu? Nếu chỉ có một hay
vài bầy sâu và mỗi bầy sâu được sinh ra từ một con sâu chúa, người ta
có thể diệt trừ bằng cách “vừa diệt sâu chúa, vừa diệt sâu con” dựa theo
cách “đả hổ diệt ruồi” của Trung Quốc. Nhưng nếu các bầy sâu lại được
sinh ra từ một môi trường thuận lợi cho sự sinh sôi nảy nở của loài sâu
thì tình hình sẽ ra sao? Chúng ta có thể hình dung một môi trường ô
nhiễm “thuận lợi cho sâu” trong đó hàng ngày hàng giờ đẻ ra hàng ngàn,
hàng vạn con sâu con; mặt khác do “thời cơ”, bất cứ con sâu con nào cũng
có thể trở thành một con sâu lớn – thậm chí trở thành sâu chúa, thì vấn
đề diệt hết các “bầy sâu” sẽ trở thành “nhiệm vụ bất khả thi”. Hiện nay, vẫn còn
một số người – kể cả trí thức được coi là “cấp tiến” lẫn một số nhà đấu
tranh cho dân chủ, tin rằng sau Đại hội XII, Bộ Chính trị mới “gồm những
người trong sạch hơn” sẽ thanh lọc được hàng ngũ của Đảng Cộng sản Việt
Nam và tìm cách “thoát Trung”. Nhưng nếu bình tâm suy xét, chúng ta sẽ
thấy ước vọng đó có thể chỉ là “mơ ước viển vông” và rất dễ biến thành
“ảo vọng”. Với nguyên tắc “đánh chuột nhưng tránh làm vỡ bình”, có thể
sắp tới sẽ có nhiều vụ án được xử công khai, nhiều trận đánh tham nhũng
được tiến hành để làm yên lòng dân, nâng cao lòng tin của cán bộ, đảng
viên. Nhưng suy cho cùng, cho dù đạt mức cao nhất, các màn trình diễn đó
khó có thể hấp dẫn hơn, nhiều kịch tính hơn những màn trình diễn ngoạn
mục vừa qua của ông Tập Cận Bình. Vậy mà ở “nước bạn”, tương lai của
công cuộc chống tham nhũng sẽ ra sao? Ý kiến của các nhà chính trị học
và của ông Bào Đồng đủ để giúp chúng ta thấy tương lai của công cuộc
chống tham nhũng tại Trung Quốc. Vào tháng 3 năm
2013, bốn tháng rưỡi sau ngày Tập Cận Bình trở thành nhà lãnh đạo cao
nhất của Trung Hoa lục địa, nhà chính trị học Minxin Pei (Bùi Mẫn Hân)
có viết trên tờ The Diplomat một bài báo nhan đề “Một nhà lãnh đạo
xô-viết mà Trung Hoa có thể bắt chước… và đó không phải là Gorbachev”,
trong đó ông đã tiên đoán một cách chính xác rằng Tập Cận Bình sẽ chọn
đường lối của Yuri Andropov chứ không chọn đường lối của Gorbachev[9]. Yuri Vladimirovich
Andropov (1914 – 1984) là Tổng bí thư đầu tiên và duy nhất của Đảng Cộng
sản Liên Xô thăng tiến từ chức vụ Giám đốc KGB – cơ quan công an khét
tiếng toàn thế giới. Có thể tóm tắt mô hình của Andropov bằng nguyên tắc
“làm trong sạch đảng cầm quyền từ bên trong” (cleansing the ruling
party from within). Điều lý thú là ở cuối bài báo, Minxin Pei nhận định
rằng mô hình đó một “con đường không dẫn đến đâu” (a road to nowhere). Ông còn nhận xét:
chính Gorbachev ngay lúc đầu cũng không phải là một nhà cải cách triệt
để. Trong hai năm đầu của nhiệm kỳ, Gorbachev đã theo đuổi đường lối của
Andropov cho đến khi nhận thức được rằng đường lối đó không có hiệu quả
và thay thế bằng con đường glanost (công khai). Dường như ĐCSVN
hiện nay cũng đang ở vào hoàn cảnh tương tự. Tổng bí thư Nguyễn Phú
Trọng và Bộ Chính trị mới sẽ chọn con đường nào: chống tham nhũng bằng
cách làm trong sạch Đảng từ bên trong với nguyên tắc “đánh chuột nhưng
tránh làm vỡ bình” hay chống tham nhũng bằng cách mở cửa cho toàn dân
tham gia? Đành rằng đi theo
con đường thứ hai có thể làm “vỡ bình”, nhưng” vỡ bình” không đồng nghĩa
với “đại họa”, nhất là khi người ta nhận thức được rằng một “đảng chính
trị” không thể quan trọng bằng “quốc gia” và “dân tộc”. Còn đi theo con
đường thứ nhất (như Tập Cận Bình đã làm) thì số phận thế nào, chúng ta
cũng có thể đoán trước: đó là một con đường “không dẫn đến đâu”. Và vì
con đường đó “không dẫn đến đâu”, đến một lúc nào đó nhân dân sẽ tự tìm
ra được con đường thích hợp. Đến lúc đó thì cho
dù chiếc bình vẫn còn, nó có thể trở nên vô dụng hoặc nếu may mắn hơn,
chỉ có thể được dùng để trưng bày trong kho đồ cổ hoặc viện bảo tàng để
“làm kỷ niệm”! Đà Lạt 31-1-2016 MAI THÁI LĨNH
Chất đất sét của đá tảng Macxit – Bài 3: Đấu tranh giai cấp
Nguyễn Đình Cống
26-10-2017 Ảnh minh họa. Nguồn: internet
Tiếp theo: Bài 1: Bản chất con người –– Bài 2: Vật chất và Ý thức. Tuyên ngôn cộng sản năm 1848 viết rằng: “Lịch sử tất cả các xã hội tồn tại từ trước đến ngày nay chỉ là lịch sử đấu tranh giai cấp” (ĐTGC). Trong nhiều sách kinh điển của Chủ nghĩa Mác-Lenin (CNML) viết: “Trong xã hội có giai cấp, ĐTGC là động lực phát triển”. ĐTGC
trở thành hòn đá tảng cơ bản của CNML. Trong thế kỷ 20 ĐTGC thực chất
là cuộc đấu tranh do các thế lực cộng sản đề xướng và lãnh đạo quần
chúng cần lao, chống lại những người giàu có và thống trị, nhằm tranh
đoạt lợi ích kinh tế và quyền lực chính trị. Cuộc đấu tranh này chủ yếu
dùng bạo lực với phương châm một còn một mất nên rất quyết liệt và thảm
khốc. Tạm thời ĐTGC có đem đến một chút quyền lợi và tinh thần cho cần
lao, nhưng tác hại nó mang lại cho nhân loại là to lớn và toàn diện: về
đạo đức, văn hóa, kinh tế, nhân mạng. ĐTGC luôn đặt câu hỏi và tìm kiếm kẻ thù giai cấp trong thực tế và
trong tư tưởng. Tìm cho ra để tiêu diệt cho hết. Mà phải dùng bạo lực để
tiêu diệt theo phương châm “thà giết nhầm còn hơn bỏ sót”. Ở Việt Nam,
trong những năm mà ĐTGC được đề cao, tầng lớp tiểu tư sản, trí thức, văn
nghệ sĩ rất hoảng sợ khi được cật vấn về lập trường giai cấp, ý thức
giai cấp. Trong các nước do cộng sản thống trị, hàng chục triệu người đã
bị giết một cách oan ức vì ĐTGC. Ở
VN hiện nay, sự xuống cấp rất trầm trọng của đạo đức, sự hủy diệt tầng
lớp tinh hoa, sự chia rẽ dân tộc chính là do ĐTGC mang lại. Trong CCRĐ
và cải tạo tư sản, không hiếm trường hợp con cháu chống lại ông bà cha
mẹ chỉ vì để thế hiện tinh thần ĐTGC, thể hiện sự trung thành với ĐCS.
Bài thơ của Tố Hữu kêu gọi “Giết, giết nữa…” và “đạp đầu lũ chúa đất
xuống bùn đen vạn kiếp” thì rõ rồi. Gần đây tôi đọc thấy một bài báo
không thể tin nổi, làm lạnh cả sống lưng. Bài báo viết rằng trong CCRĐ,
nhà thơ Xuân Diệu gọi cha mẹ mình là “vợ chồng thằng Thu” (*). Không biết có đúng thế không. Không thể tin được.
Từ khi ra đời, đường lối ĐTGC tuy được một số đảng cộng sản (ĐCS)
hưởng ứng, nhưng bị số đông nhân loại phản đối. Tuyên ngôn cộng sản công
nhận điều đó bằng lời như sau: “Tất cả thế lực của Châu Âu cũ: Giáo
Hoàng và Nga Hoàng, Mét-téc-ních và Ghi-dô, bọn cấp tiến Pháp và bọn
cảnh sát Đức, đều đã liên hợp lại thành một liên minh thần thánh để trừ
khử bóng ma đó”. Bóng ma ở đây là phong trào cộng sản với chủ
thuyết ĐTGC. Tất cả các thế lực liên hiệp lại để chống đối, để trừ khử
nó, nhưng chưa trừ được mà nó vẫn phát triển. Nó phát triển được không
phải vì đúng, vì tốt mà vì nó tạm thời có sức sống, tạm thời còn che đậy
được các độc hại, phô ra được những điều tuyên truyền tốt đẹp về tương
lai, tạm thời lừa dối được, lôi kéo được một số người ủng hộ. Ở Châu Âu,
Châu Mỹ sự phản đối ĐTGC vào cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 là khá rõ
ràng. Ở châu Á, năm 1922, Tôn Trung Sơn cho rằng, xem ĐTGC như động lực
phát triển xã hội là một sai lầm lớn của Mác. Có thể Mác đã nhầm khi kết
luận “Mâu thuẫn chủ yếu của xã hội là mâu thuẫn giai cấp”, từ đó mới đề
ra ĐTGC. Tôi nghĩ hơi khác, rằng: “Mâu thuẫn chủ yếu của xã hội là giữa
tầng lớp thống trị và quần chúng bị trị”. Cuộc đấu tranh quan trọng
nhất của nhân loại là “chống áp bức”. Chiến tranh là một dạng hung bạo của áp bức. CNML có nói đến chống áp bức và bóc lột, Trong Tuyên ngôn CS có viết: “những kẻ áp bức và những người bị áp bức, luôn luôn đối kháng với nhau, đã tiến hành một cuộc đấu tranh không ngừng”. Tuy
vậy trong lúc tiến hành ĐTGC lại đề quá cao việc chống bóc lột, trong
lúc đó chống áp bức quan trọng hơn. Chính vì không thấy rõ việc này nên
chính quyền cộng sản đã thay sự áp bức này bằng sự áp bức khác. Những người lãnh đạo ĐCS nói rằng ĐTGC nhằm mang chính quyền về cho
giai cấp vô sản, nhưng thực tế không phải vậy. ĐCS nhờ giỏi tuyên truyền
mà thu nhận được một số người có trình độ hiểu biết. Những người này có
2 loại: trung thực và cơ hội. Sau khi ĐCS giành được chính quyền, những
độc hại của CNML dần dần lộ ra. Mọi người đều thấy, nhưng bọn cơ hội
lợi dụng để mưu đồ lợi ích cho bản thân và phe nhóm, còn người trung
thực tìm cách chống lại. Vì trung thực nên ít biết dùng thủ đoạn, vì thế
chính quyền dần dần rơi vào tay bọn cơ hội. Bọn này thiếu trí tuệ nhưng
có nhiều mưu mẹo, có nhiều thủ đoạn gian dối trong đấu tranh. Chúng tìm
cách triệt hạ hoặc hạn chế những người không cùng quan điểm mà chủ yếu
là những trí thức tinh hoa và trung thực, chúng tìm cách loại bỏ những
người không cùng phe cánh, có xung đột quyền lợi. Chính quyền như vậy mà
bảo rằng là của vô sản thì quá hài hước. Như vậy ĐTGC ở VN cuối cùng mang lại lợi ích cho một nhóm nhỏ bọn cơ
hội, còn giai cấp công nhân vẫn tiếp tục bị áp bức và bóc lột, nông dân
vẫn là những người bị thiệt thòi. Đất nước, nhân dân oằn mình gánh chịu
thiên tai và nhân tai. Phần lơn nhân tai là kết quả trực tiếp hoặc gián
tiếp của ĐTGC.
_____ (*) Ghi chú của Tiếng Dân: Cụm từ “vợ chồng thằng
Thu” trong một bài thơ viết thời cải cách ruộng đất của nhà thơ Xuân
Diệu, có lẽ không phải để đấu tố cha mẹ, vì cả cha lẫn mẹ ông Xuân Diệu
không có ai tên Thu: cha của nhà thơ Xuân Diệu tên là Ngô Xuân Thọ, mẹ là bà Nguyễn Thị Hiệp.
MIỀN TÂY HOANG DẠI Ước gì một lần về thuở ấy miến Tây Sống lầy lội những tháng ngày hoang dại Súng cặp kè hông, nhong nhong lưng ngựa Phóng khoáng thảo nguyên, đạn nổ ì đùng Ta sẽ về, rủ em gái theo cùng Đem tình yêu vào vòng đấu súng Và ngã xuống trong một lần anh dũng Để mai này định nghĩa lại...thằng khùng! Đã khùng rồi thì xá chi anh hùng Của một thời tìm vàng sôi động Người người xô bồ tìm giàu sang cuộc sống Để lại điêu tàn, bắn giết mênh mông! Ta ước thế nghe có rùng rợn không? Trần Hạnh Thu NHẠC HUYỀN THOẠI CAO BỒI VIỄN TÂY
(ĐC sưu tầm trên NET) Bản tin 113 online cập nhật ngày 2/5: Truy tố 254 bị can bị trong đại án sai phạm lĩnh vực đăng kiểm 🔴 TRỰC TIẾP: Thời sự quốc tế 3/5 | Nga tuyên bố khai hỏa Iskander, hủy diệt hai pháo HIMARS Ukraine Tin tức thời sự mới nhất hôm nay | Bản tin sáng ngày 5-3-2024 MỘT CÕI ĐI VỀ (Sáng Tác: Trịnh Công Sơn) - KHÁNH LY OFFICIAL Miễn nhiệm chức vụ Chủ tịch Quốc hội đối với ông Vương Đình Huệ 9 giờ trước Khoảnh khắc tên lửa Nga công kích pháo HIMARS Ukraine 12 giờ trước Mong muốn Campuchia chia sẻ thông tin về Dự án kênh đào Funan Techo 10 giờ trước Gần 50 người chết trong vụ sập đường cao tốc ở Trung Quốc 10 giờ trước Lý do xuất khẩu của Trung Quốc sang Nga bất ngờ sụt giảm 8 giờ trước Ukraine nói Nga sản xuất tên lửa Zircon 'nhanh bất thường' 6 giờ trước Hàng chục nghìn người Gruzia tiến hành biểu tình lớn nhất từ trước tới nay 16 giờ trước Video 'rừng người' xem phương tiện chiến đấu bị Nga tịch thu ở chiến trường Ukraine 16 giờ trước U23 In...
I Only Want to Be with You - Dusty Springfield (Cover by Emily Linge) VẪN THẾ MÀ! Anh vẫn thế, trước sau vẫn thế mà Nhìn anh này, đừng nhìn phía trời xa Vẫn ngày ngày ra ngóng chờ trước của Đợi Nàng Thơ về tác hợp thi ca Tâm hồn anh có cửa đâu mà khóa Mà phải cùng em mở cánh cửa tâm hồn Anh tìm mãi nào thấy đâu ô cửa Toang hoác tứ bề, thông thống càn khôn* Còn trái tim anh vẫn êm đềm, yên ả Vẫn yêu quê hương, tổ quốc, con người Miền nhiệt đới khi thấy tim băng giá Chắc chắn là anh đã ngoẻo tự lâu rồi! Trần Hạnh Thu CT: * Trời đất
Nhận xét
Đăng nhận xét