Dai Chung la su suy ngam cua toi ve cuoc doi, xa hoi, nhan sinh
HƯƠNG VỊ QUÊ HƯƠNG 33
Nhận đường liên kết
Facebook
X
Pinterest
Email
Ứng dụng khác
-
(ĐC sưu tầm trên NET)
Phở Hà Nội: “Món ăn kỳ diệu”
Món Phở Hà Nội đã đi vào văn chương và được miêu tả là một “món ăn kỳ
diệu”. Đó là một món ăn bình dân mà đặc biệt. Cùng tìm hiểu món ăn
truyền thống này!
Sự thật PHỞ TÀU BAY LÝ THÁI TỔ Q10 - 1 THƯƠNG HIỆU 2 CHỦ khác nhau | PHỞ ÁO VÀNG HAY ÁO ĐỎ NGON HƠN?
Đã có PHỞ TÀU BAY áo Vàng lại có PHỞ TÀU BAY áo đỏ, tiệm thì ghi là Tiệm
Cũ, tiệm kế bên lại ghi Tiệm Chánh gốc từ 1954??? Vậy đâu mới là TIỆM
PHỞ TÀU BAY chính danh? Video này sx giúp quý vị biết thêm phần nào vì
một thương hiệu PHỞ nổi tiếng SÀI GÒN từ XƯA tới NAY
Phở có từ bao giờ, ở đâu?
Dựa
vào tập phả kỳ của dòng họ để lại, nhà văn Siêu Hải - một người "gốc"
14 đời ở Hà Nội - muốn góp tiếng nói trong việc đi tìm nguồn gốc của
phở..., một món ăn mà theo ông là thuần túy Việt Nam và mới chỉ xuất
hiện ở Hà Nội từ đầu thế kỷ 20.
Phở có từ bao giờ, ở đâu?
"Trong những món ăn quân tử vị Phở là đáng quý nhất trên đời. Một vài xu nào đắt đỏ mấy mươi Mà đủ vị ngọt, bùi, thơm, béo, bổ. Bánh cuốn, thịt bò, nước dùng sao nhánh mỡ Ngọn rau thơm, hành củ thái trên. Nước mắm, hồ tiêu, cùng dấm ớt điểm thêm Khói nghi ngút đưa lên thơm điếc mũi..."
(Trích thơ trào phúng của Tú Mỡ trên một số báo Phong Hóa năm 1937)
* Biến tấu từ món "xáo trâu" thuần Việt
Phở,
người Pháp gọi là soupe chinoise (cháo Tầu). Có thể từ đó, nhân dân ta
ngộ nhận là của Trung Quốc. Sự thật phở là thuần túy Việt Nam và chỉ mới
xuất hiện ở Hà Nội vào đầu thế kỷ 20. Từ lâu dân ta rất ít dùng thịt
bò, cho là nóng và gây. Món ăn rẻ tiền, no bụng lúc đói là món thịt trâu
xáo hành răm ăn với bún, gọi là xáo trâu, rất phổ biến ở các chợ nông
thôn và xóm bình dân...
Người Pháp không ăn thịt trâu, chỉ dùng
thịt bò. Từ ngày thực dân Pháp sang ta khai thác thuộc địa đầu thế kỷ
20, ở Hà Nội bắt đầu có các cửa hiệu bán thịt bò, thường bán không hết,
nhất là xương bò. Pháp sang, tàu thủy máy hơi nước chạy trên các dòng
sông từ Hà Nội đi Hải Phòng, Nam Định... Bến phà Hà Nội thu hút nhiều
công nhân bốc vác đến, kéo theo nhiều hàng quà bánh, món xáo trâu vẫn là
phổ biến. Các gánh hàng này thường giống nhau, một bên là chiếc thúng
lớn để chiếc nồi đất to đựng canh xáo nóng được ủ kỹ. Chiếc thúng bên
kia đựng bún và bát, đũa, mắm, ớt...
Có một bà hàng nào đó,
chiều chiều nhẹ gánh về nhà, qua các hiệu thịt bò, thấy còn treo lủng
lẳng từng súc thịt và đống xương. Thịt bò ế, tất phải bán rẻ. Bà ta liền
nảy ra sáng kiến làm xáo bò thay xáo trâu. Qua ít ngày, người ăn xáo bò
với bún không hợp khẩu vị. Vậy phải thay bún bằng thứ gì, cũng bằng bột
gạo? Đó là bánh cuốn mỏng, chay rất sẵn ở Hà Nội. Không ngờ xáo bò ăn
với bánh cuốn chay thái thay bún lại rất ngon miệng và luôn được cải
tiến cách hầm xương, thêm bớt gia vị, khi ăn lại có cả những lát thịt
chín phủ lên trên.
Từ ngoài bãi, phở lan vào trong phố, khách ăn
quanh một chõng tre hay bàn nhỏ, hoặc mua đem về nhà. Một số người ta,
và vài chú Khách quẩy thành gánh hàng rong tới các ngõ, phố. Các gánh
phở rong này đều giống nhau, một bên đặt nồi nước dùng, dưới có chỗ đun
củi lom dom bảo đảm nước dùng lúc nào cũng nóng để chan vào bánh phở cho
mềm sợi hơn. Còn bên kia để bát, đũa, dao, thớt và gia vị, dưới có một
ngăn kéo đựng thịt chín.
* Từ lời rao "Ngầu nhục phấn" mà thành tên
Người
mình bán hàng thì rao là "xáo bò ơ". Còn mấy chú Khách thì rao "Ngầu
nhục phấn a...". Ngầu, tiếng Hán là ngưu, nhục là thịt, phấn là gạo, tức
bánh bột gạo. Tiếng Trung Quốc gọi trâu hay bò đều là ngưu, hắc ngưu là
trâu, hoàng ngưu là bò. Tiếng rao "xáo bò ơ" nghe cụt lủn. Còn tiếng
rao "Ngầu nhục phấn a..." nghe trầm bổng, tha hồ ê a kéo dài, mặt khác
do tư tưởng sùng ngoại nên được khách ăn ơi ới gọi đến. Thấy thế, các
gánh hàng của người mình cũng phải rao theo họ để tranh khách. Phở ngày
càng được ưa chuộng nên số lượng gánh phở rong cũng ngày một nhiều. Lời
rao gọn dần, chỉ còn "ngầu phớn ơ...", rồi "phở ơ", cuối cùng thành
"phở".
* Những hàng phở đầu tiên
Do là món quà bình dân,
nên các cửa hàng bán phở đều xuềnh xoàng, được khách ăn gán cho những
cái tên theo đặc điểm của chủ hiệu như: "phở Lùn", "phở Gù", "phở
Sứt"... Cũng do tính bình dân của phở nên có một thời phở bị những người
giàu tiền lắm bạc ở Hà Nội xem thường. Họ quen đến các hiệu cao lâu
Hàng Buồm dùng các món ăn đắt tiền. Phải đến năm 1918 - 1919, phở mới
được nhiều giới tìm đến. Cửa hiệu phở đầu tiên của Hà Nội mở ở phố Hàng
Quạt (nay là Lương Văn Can) gần rạp tuồng Thông Sáng và tuồng Năm Trăn
để đón khách. Một cửa hiệu khác ở phố Hàng Đồng, chủ hiệu đổi mới bằng
cách thay các phản gỗ dài trên trải chiếu bằng những bộ bàn ghế. Sau đó
có thêm nhiều hàng phở tại các phố Cầu Gỗ, Hàng Giấy... đều không cần
biển hiệu. Năm 1937 duy nhất có một hiệu phở của Hoa kiều mở ở phố Mã Vũ
(nay là phố Hàng Quạt kéo dài) lấy tên là Nghi Xuân. Các cửa hàng này
đua nhau cải tiến chất lượng. Lúc đầu chỉ có phở chín, sau có phở tái.
Thêm thịt mỡ gầu, nạm, sách bò nên thành tên tái gầu, tái nạm, tái
sách... Sau nữa có hiệu dùng thịt bò nấu sốt vang, thịt áp chảo nên lại
thêm tên gọi phở sốt vang, phở áp chảo nước, áp chảo khô, phở xào,
v.v...
Từ những năm 1930 lại đây, phở đã tới đỉnh cao của văn
hóa ẩm thực Việt Nam, với nghệ thuật lóc thịt, hầm xương và gia giảm gia
vị: thảo quả, quế chi... thành món ăn độc đáo: "phở Hà Nội".
“Cái
tên “phở” có thể bắt nguồn từ “pot au feu” - một món ăn của Pháp” (pot
au feu là món súp rất truyền thống của Pháp có điểm giống món phở), đầu
bếp Corlou nói.
Hãng tin Pháp AFP đã có một bài phóng sự khá thú vị về món phở — một nét đẹp văn hoá của Việt Nam.
Phở — một món ăn đơn giản gồm thịt bò, bánh phở, rau thơm và gia vị —
xuất hiện từ khoảng 100 năm trước ở miền bắc Việt Nam và kể từ đó đã
trở nên nổi tiếng khắp thế giới, được các đầu bếp nổi tiếng của Pháp và
các sinh viên Mỹ yêu thích. Tại Việt Nam, ăn phở giống như một nghi lễ
phổ biến — như cố nhà văn Nguyễn Tuân từng nói — và món ăn này, được tìm
thấy trên mọi góc phố ở thủ đô Hà Nội, không thể thiếu đối với cuộc
sống thường ngày của mọi người.
"Tôi đã ăn phở ở đây trong hơn 20 năm", Trần Văn Hùng, 39 tuổi, cho
biết khi anh xếp hàng chờ được phục vụ trong tiết trời mùa đông giá lạnh
của Hà Nội bên ngoài quán Phở Thìn trên phố Lò Đúc.
"Nhân viên ở đây thường không lịch sự cho lắm
nhưng tôi quen rồi. Tôi không quan tâm tới chuyện đó", Hùng nói và cho
biết thêm anh ăn phở tại quán này từ thời quán chưa mấy nổi tiếng.
Trước kia phở là món ăn sáng, nhưng ngày này được phục vụ cả ngày tại
những quán tương tự như Phở Thìn, nơi mỗi bát có giá khoảng 1 USD
(khoảng 20.000 đồng). Người giàu hay nghèo đều thích ăn phở. "Phở là món
ăn đặc biệt, đặc trưng nhất mà chỉ Việt Nam mới có", đầu bếp Phạm Ánh
Tuyết cho hay.
Theo đầu bếp Ánh Tuyết, bánh phở phải được làm bằng tay, độ dày vừa
phải và không được sử dụng quá 4 giờ; gừng được nướng trên bếp than;
nước dùng lấy nước hầm xương bò và các loại gia vị được ninh âm ỉ trên
bếp than trong ít nhất 8 tiếng.
"Mùi thơm của phở cũng là một phần vẻ đẹp của món ăn", Anh Tuyet, người nổi tiếng với cách nấu phở truyền thống, nói.
"Không nước nào có món ăn giống như phở. Một
trong những bí quyết là nước dùng phải trong và thơm", bà chủ một nhà
hàng nhỏ nằm trên tầng thượng một toà nhà ở khu Phố cổ của Hà Nội tâm
sự.
Nguồn gốc chính xác của Phở vẫn còn nhiều tranh cãi. Phở thường được
nấu bằng nước dùng thịt bò, nhưng thịt gà cũng được sử dụng kể từ những
năm 1940 khi thịt bò khan hiếm.
Thịt bò không phổ biến trong các món ăn Việt từ đầu thế kỷ trước — vì
bò là gia súc quan trọng để làm sức kéo. Nhưng khi người Pháp tới Việt
Nam, xương và các phần khác đã được đưa vào làm nước phở.
Một số chuyên gia, như Didier Corlou, cựu bếp trưởng khách sạn
Metropole Hà Nội, người từng giới thiệu món phở với các thực khách nước
ngoài trong nhiều năm, cho rằng phở là món ăn Việt Nam bị ảnh hưởng của
Pháp.
"Cái tên "phở" có thể bắt nguồn từ "pot au feu" — một món ăn của
Pháp" (pot au feu là món súp rất truyền thống của Pháp có điểm giống món
phở), đầu bếp Corlou nói, chỉ ra những điểm tương đồng giữa 2 món ăn
như hành nướng trong món súp của Pháp và hành nướng trong phở.
Nhưng cũng có lập luận khác nói rằng phở bắt nguồn từ một đầu bếp
giỏi ở thành phố Nam Định, từng là trung tâm dệt may lớn nhất Việt Nam
thời thực dân, nơi cả người Pháp và người Việt đều lao động vất vả và
nghĩ rằng một món súp sẽ làm hài lòng tất cả mọi người.
Nhưng nhiều người Việt Nam luôn bác bỏ mạnh mẽ sự ảnh hưởng của Pháp
đối với phở, cho rằng nó bắt nguồn trước thời kỳ thực dân và chỉ miền
bắc Việt Nam mới có.
Nhưng dù nguồn gốc thật sự có là gì đi nữa, "Phở vẫn là một trong
những món ăn ngon nhất", đầu bếp Corlou nói. "Đối với tôi, món ăn Việt
Nam là ngon nhất trên thế giới".
Corlou cho hay mặc dù các thành phần chính của phở vẫn giữ nguyên
nhưng món ăn này cũng có sự thay đổi. Tại 3 nhà hàng của ông ở Hà Nội,
Corlou phục vụ món phở cá hồi với giá 10 USD/bát. "Bạn không thể đưa phở
vào bảo tàng", ông nói.
Trong thập niên qua, các biến thể mới của phở truyền thống đã xuất
hiện. Và khi Việt Nam giàu lên, nhiều món phở đắt tiền hơn — trong đó có
một bón phở thịt bò Kobe giá 40 USD — đã xuất hiện.
Chuyên gia ẩm thực Tracey Lister, một đầu bếp hiện đang sinh sống tại
Hà Nội, cho hay ngoài việc thêm thịt thì không thể làm gì nhiều để cải
tiến món phở. Bà Lister cho rằng người Việt Nam xứng đáng được khen ngợi
cho món phở nổi tiếng.
"Đó là một món ăn tuyệt vời, một món ăn nổi tiếng và tôi nghĩ chúng
ta phải cho Việt Nam biết điều đó", bà Lister, giám đốc Trung tâm dạy
nấu ăn Hà Nội, cho biết.
Cách nấu phở 'chuẩn vị Bắc' của ông chủ Khai Silk
10:40 08/06/2017
Theo doanh nhân Hoàng Khải, nước dùng của phở Bắc phải không có mì
chính, sợi phở bé. Các khâu từ chọn mua nguyên liệu đến chế biến đều
phải tuân theo quy trình nghiêm ngặt.
Doanh nhân Khai Silk vào bếp nấu phở Bắc Theo ông chủ của Khai Silk, phở Bắc đòi hỏi người nấu rất nhiều kỹ thuật từ khâu chọn nguyên liệu đến chế biến.
Có 2 giả thuyết về nguồn gốc của phở bò. Một số cho rằng phở có nguồn
gốc từ Hà Nội, sau đó lưu truyền ra cả nước. Giả thuyết thứ 2 cho rằng
phở bò có nguồn gốc từ Nam Định.
Chọn nguyên liệu
Để nấu được một tô phở ngon, đầu bếp phải đặc biệt kỹ lưỡng trong
khâu chọn nguyên liệu. Xương ống để nấu nước lèo phải là loại to, còn cả
tủy lẫn thịt.
Trước khi nấu, xương ống phải được tẩy sạch máu bầm bằng cách ngâm
trong hỗn hợp vỏ chanh, gừng giã nhỏ, muối hột và nước lạnh. Sau khi
ngâm khoảng 2-3 tiếng, xương đã được tẩy trắng.
Nấu nước dùng trong
Nước lèo cần được đun sôi, lớn lửa. Nước phở càng ngọt, càng trong
thì phở càng ngon. Đầu bếp vớt váng liên tục và giảm lửa khi nước đã
sôi.
Để nước phở thơm hơn, đầu bếp sẽ cho thêm gừng và hành tây đã được
nướng sơ. Thịt được hầm từ khoảng 2-3 tiếng, sau đó được vớt ra để đảm
bảo độ mềm.
Thịt tái và thịt nạm
Thịt bò để làm phở tái phải là thịt thăn, mềm và tươi, tránh thịt phi
lê, thịt bạc nhạc (có lẫn gân). Thịt nạm phải chọn loại có vừa mỡ vừa
nạc đều nhau. Khi luộc xong, không nên thái ngay mà phải treo lên cho
ráo nước, sau đó bỏ vào tủ lạnh khoảng 2 tiếng để thịt săn lại, dễ thái.
Vị thuốc phở
Thảo mộc là thành phần không thể thiếu của nước lèo. Tùy từng công thức, số lượng cũng như thành phần sẽ khác nhau.
Thông thường thảo mộc để nấu phở Bắc gồm quế, hồi, thảo quả, hột ngò,
gừng, hành tím, hoa hồi. Tất cả được đảo đều trên lửa cho đến khi dậy
mùi thơm, sau đó nấu cùng với nước lèo trong khoảng 30-45 phút.
Rau thơm
Người Bắc không thể thiếu húng láng, ngò gai, rau mùi khi ăn phở.
Hành lá, mùi gai được thái nhuyễn, húng láng cắt nhỏ. Thái tơi hành củ
để dậy mùi thơm.
Bánh phở
Bánh phở phải chọn loại sợi nhỏ, dai và được làm theo công thức gia
truyền. Những người kỹ tính chỉ dùng gạo mùa, gạo chiêm từ vụ trước để
làm bánh phở. Gạo tấm đã hết nhựa đảm bảo cho sợi phở được dai, trắng và
thơm.
Trụng phở
Bát để ăn phở phải đủ dày để có thể giữ nóng. Bánh phở được trụng
bằng nước lèo nóng. Thịt bò được sắp kín bên trên bánh phở, sau đó cho
thêm rau thơm, hành củ. Nước lèo sẽ được cho vào sau cùng.
Bánh quẩy, tương ớt
Tô phở Bắc được ăn cùng tương ớt đỏ, bánh quẩy giòn, không ăn kèm rau sống như phở của người miền Nam hoặc miền Trung.
Trứng tái
Người Bắc cũng thường ăn phở kèm với trứng tái. Có nhiều cách làm,
nhưng theo công thức làm trứng onsen của chuỗi phở Ông Khải, trứng gà
được ngâm trong nước sôi 80 độ khoảng 15 phút, sau đó ngâm vào nước lạnh
trước khi tách ra bát và chan thêm nước lèo, rau thơm, hành.
MIỀN TÂY HOANG DẠI Ước gì một lần về thuở ấy miến Tây Sống lầy lội những tháng ngày hoang dại Súng cặp kè hông, nhong nhong lưng ngựa Phóng khoáng thảo nguyên, đạn nổ ì đùng Ta sẽ về, rủ em gái theo cùng Đem tình yêu vào vòng đấu súng Và ngã xuống trong một lần anh dũng Để mai này định nghĩa lại...thằng khùng! Đã khùng rồi thì xá chi anh hùng Của một thời tìm vàng sôi động Người người xô bồ tìm giàu sang cuộc sống Để lại điêu tàn, bắn giết mênh mông! Ta ước thế nghe có rùng rợn không? Trần Hạnh Thu NHẠC HUYỀN THOẠI CAO BỒI VIỄN TÂY
(ĐC sưu tầm trên NET) Bản tin 113 online cập nhật ngày 2/5: Truy tố 254 bị can bị trong đại án sai phạm lĩnh vực đăng kiểm 🔴 TRỰC TIẾP: Thời sự quốc tế 3/5 | Nga tuyên bố khai hỏa Iskander, hủy diệt hai pháo HIMARS Ukraine Tin tức thời sự mới nhất hôm nay | Bản tin sáng ngày 5-3-2024 MỘT CÕI ĐI VỀ (Sáng Tác: Trịnh Công Sơn) - KHÁNH LY OFFICIAL Miễn nhiệm chức vụ Chủ tịch Quốc hội đối với ông Vương Đình Huệ 9 giờ trước Khoảnh khắc tên lửa Nga công kích pháo HIMARS Ukraine 12 giờ trước Mong muốn Campuchia chia sẻ thông tin về Dự án kênh đào Funan Techo 10 giờ trước Gần 50 người chết trong vụ sập đường cao tốc ở Trung Quốc 10 giờ trước Lý do xuất khẩu của Trung Quốc sang Nga bất ngờ sụt giảm 8 giờ trước Ukraine nói Nga sản xuất tên lửa Zircon 'nhanh bất thường' 6 giờ trước Hàng chục nghìn người Gruzia tiến hành biểu tình lớn nhất từ trước tới nay 16 giờ trước Video 'rừng người' xem phương tiện chiến đấu bị Nga tịch thu ở chiến trường Ukraine 16 giờ trước U23 In...
I Only Want to Be with You - Dusty Springfield (Cover by Emily Linge) VẪN THẾ MÀ! Anh vẫn thế, trước sau vẫn thế mà Nhìn anh này, đừng nhìn phía trời xa Vẫn ngày ngày ra ngóng chờ trước của Đợi Nàng Thơ về tác hợp thi ca Tâm hồn anh có cửa đâu mà khóa Mà phải cùng em mở cánh cửa tâm hồn Anh tìm mãi nào thấy đâu ô cửa Toang hoác tứ bề, thông thống càn khôn* Còn trái tim anh vẫn êm đềm, yên ả Vẫn yêu quê hương, tổ quốc, con người Miền nhiệt đới khi thấy tim băng giá Chắc chắn là anh đã ngoẻo tự lâu rồi! Trần Hạnh Thu CT: * Trời đất
Nhận xét
Đăng nhận xét