Thứ Hai, 15 tháng 8, 2016

NÉT KHÁC BIỆT GIỮA ĐỜI 11

Khác nhau cái áo cái quần
Cởi ra trần truồng ai cũng như ai

--------------------------------------------------
(ĐC sưu tâm trên NET)

Tính hai mặt của bất bình đẳng về thu nhập ở Việt Nam


Thứ Ba, 01/12/2015, 19:55:21
 

Tăng trưởng kinh tế cần đi đôi với bình đẳng trong phân phối thu nhập. (Ảnh minh họa)
NDĐT - Bất bình đẳng (BBĐ) về thu nhập thường có tính hai mặt khá rõ, thể hiện: vừa liên quan chặt chẽ với tăng trưởng kinh tế, vừa phản ánh thực trạng phát triển xã hội; vừa là động lực cho tăng trưởng, vừa có thể làm giảm tăng trưởng. Hơn nữa, BBĐ gia tăng gắn liền với sự chia sẻ không đều cơ hội dịch chuyển xã hội, đồng thời cản trở dịch chuyển xã hội liên thế hệ, làm suy giảm niềm tin xã hội và niềm tin vào thể chế của người dân.
“Bức tranh” về chênh lệch phân phối thu nhập được thể hiện rõ nét trên tất cả các khía cạnh: Chênh lệch giữa những người giàu nhất và nghèo nhất; giữa nông thôn và thành thị; giữa các thành phố và vùng miền; giữa các ngành kinh tế và các giới. Nguyên nhân của BBĐ gắn với mô hình tăng trưởng theo bề rộng và chuyển dịch về mô hình sản xuất từ nông nghiệp sang phi nông nghiệp; với sự khác biệt đặc điểm và cơ cấu nguồn thu, nguồn thu nhập chính giữa các vùng miền, giữa các ngành, các khu vực, các nhóm dân tộc; cũng như với vai trò không chính đáng của quan hệ, quyền thế, tiền bạc trong xin việc làm, nhất là việc làm trong khu vực công …
Ai đó ở Việt Nam có thể tự an ủi và hài lòng trước ghi nhận của Ngân hàng Thế giới[1] (NHTG, 2014) về thành tích tăng trưởng đồng đều cho rằng: “Việt Nam đã đạt mức tăng trưởng cao trong khi BBĐ về thu nhập chỉ ở mức tăng “khiêm tốn” trong thời gian qua. Cụ thể: Từ năm 1993 đến 2012, tại Việt Nam, thu nhập bình quân của nhóm 40% có thu nhập thấp nhất tăng 9% mỗi năm. Đây là một trong các tỷ lệ tăng cao nhất trên thế giới về thu nhập của nhóm 40% có thu nhập thấp nhất”. Tuy nhiên, thực tế đúng như WB chỉ ra: “Những quan ngại về BBĐ vẫn phát sinh ở Việt Nam gắn với sự khác biệt đáng kể về điều kiện kinh tế theo nhóm dân tộc và vùng miền; gắn với khoảng cách giãn rộng giữa những người rất giàu và phần đông người Việt Nam, cũng như với tình trạng bất bình đẳng đáng kể về cơ hội. Trong giai đoạn 2004-2010, chênh lệch giữa thu nhập trung bình của 20% hộ khá giả nhất với 20% hộ nghèo nhất đã tăng từ mức 7 lần lên 8,5 lần (do tốc độ tăng thu nhập trung bình hàng năm của nhóm khá giả nhất là 9%, trong khi tốc độ tăng thu nhập của nhóm nghèo nhất chỉ là 4%). Các nhóm người dân tộc thiểu số (DTTS) ngày càng bị tụt hậu trong quá trình tăng trưởng, dẫn đến nghèo tại Việt Nam ngày càng tập trung trong các nhóm DTTS. Nếu như năm 1998, người DTTS chiếm 29% trong tổng số người nghèo, thì đến năm 2010 người DTTS chiếm đến 47% trong tổng số người nghèo tại Việt Nam.
Đặc biệt, theo WB, năm 2014, ở Việt Nam ước tính có 110 người siêu giàu, tăng ba lần so với mức 34 người siêu giàu năm 2003.
Thực tế hiện nay cho thấy khả năng phát triển bền vững của Việt Nam đang là dấu hỏi xét từ góc độ của cả ba trụ cột là kinh tế, xã hội và môi trường.
Cùng với việc đất nước có thêm nhiều người siêu giàu như NHTG công bố, thì số hộ nghèo trên cả nước cũng tăng. Theo Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội[2]thì số hộ nghèo trên cả nước đã tăng lên 1 triệu hộ, tức tăng 50% sau khi mức chuẩn nghèo được điều chỉnh từ mức thu nhập 200 nghìn đồng/người/tháng lên 400 nghìn đồng/người/tháng với khu vực nông thôn và 260 nghìn đồng/người/tháng lên 500 nghìn đồng/người/tháng cho khu vực thành thị vào năm 2010. Theo mức chuẩn vừa nêu, thì tỷ lệ hộ nghèo hiện nay ở Việt Nam giảm từ 14,2% năm 2010 xuống 11,76% năm 2011; 9,6% năm 2012 và 7,8% năm 2013[3]. Tuy nhiên, nếu tính theo chuẩn nghèo đa chiều mà Chính phủ mới công bố và có hiệu lực thực tế từ 1.1.2016, thì tỷ lệ hộ nghèo Việt Nam sau năm năm phấn đấu nỗ lực lại quay về mức năm 2010. Bên cạnh đó, tình trạng tái nghèo vẫn diễn ra trầm trọng ở một số địa phương[4]. Nói cách khác, giảm nghèo ở Việt Nam vẫn chưa thực sự bền vững
Một thông điệp đáng chú ý là cơ cấu thu nhập, và do đó BBĐ, đang có sự dịch chuyển theo hướng tăng mạnh các khoản thu về tiền lương, tiền công và giảm các khoản thu từ nông, lâm nghiệp, thủy sản. Các hoạt động công nghiệp, xây dựng, dịch vụ có đóng góp hầu như không đáng kể vào tổng thu nhập của nhóm nghèo nhất (nhiều nhất là 2% trong năm 2012 trong khi tỷ lệ này ở nhóm giàu nhất là gần 5%). Hệ số chênh lệch thu nhập giữa thành thị với nông thôn giảm 17,4%, từ 2,3 lần (năm 2002) giảm xuống còn 1,9 lần (năm 2012). Tuy nhiên, mức chệnh lệch tuyệt đối về thu nhập bình quân đầu người hàng tháng giữa hai khu vực đã gia tăng đến 406% và tốc độ tăng trưởng thu nhập của 10% hộ nghèo nhất ở khu vực nông thôn chưa bằng một nửa so với tốc độ tăng trưởng thu nhập của 10% hộ giàu nhất trong giai đoạn 2004-2012. Nếu so sánh các hoạt động công nghiệp, xây dựng, dịch vụ luôn chiếm hơn 70-80% tổng đầu tư xã hội hàng năm, thì rõ ràng những hiệu ứng và thành quả của đổi mới và phát triển kinh tế dường như chưa lan tỏa và thấm sâu xuống tầng lớp người nghèo tử vùng nông thôn, vùng sâu, xa..
Hơn nữa, thực tế đáng lo ngại khác là BBĐ gia tăng gắn với gia tăng tình trạng người dân không có đất và mất đất (theo Bộ Lao Động - Thương binh và Xã hội, năm 1993, tỷ lệ số hộ nông thôn không có đất ở khu vực Đông Nam Bộ chỉ là 17% và tăng lên 40% năm 2004), chủ yếu do sự gia tăng xây dựng và triển khai các dự án công nghiệp, sân golf, căn hộ, biệt thự và sự tồn tại cơ chế hai giá đất với mức chênh lệch tăng mạnh trong thời gian qua.
Đồng thời, cũng cần lưu ý đến một thực tại là, trong khi khoảng cách chênh lệch giàu/nghèo ở khu vực thành thị đang có xu hướng giảm dần, thì ngược lại, ở khu vực nông thôn lại đang tăng dần; còn chênh lệch thu nhập của người dân giữa các thành phố và các vùng miền không được cải thiện đã làm cho chênh lệch giàu/nghèo trên phạm vi cả nước có xu hướng gia tăng. Đặc biệt, chênh lệch thu nhập giữa các vùng, miền và ngành, với tỷ lệ hộ nghèo tập trung chủ yếu ở những vùng khó khăn về điều kiện tự nhiên, về kết cấu hạ tầng, về trình độ dân trí cũng như về trình độ sản xuất…, đang tạo ra nhiều hệ luỵ ảnh hưởng đến kết quả phát triển kinh tế - xã hội và chất lượng cuộc sống ở nhiều nơi và cả nước nói chung. Các hộ gia đình dân tộc thiểu số, các hộ gia đình có trình độ học vấn thấp ít có cơ hội hưởng lợi từ các quá trình tăng trưởng và chuyển dịch sang khu vực phi nông nghiệp hơn các hộ có trình độ học vấn cao đang trở thành những xu hướng nổi trội trong nền kinh tế nước ta.
Ở cấp độ vi mô, BBĐ thu nhập và xoá đói giảm nghèo phụ thuộc vào 5 nguồn vốn gồm: vốn con người, vốn tự nhiên, vốn vật chất, vốn tài chính, vốn xã hội và vốn con người (DFID, 2001), cũng như ngày càng chịu ảnh hưởng mạnh hơn của vốn thể chế như là một hợp phần của vốn xã hội và là một trong ba trọng tâm đột phá theo tinh thần các văn kiện đại hội Đảng XI và dự thảo văn kiện Đại hội XII đã chỉ ra.
Đặc biệt, cần nhấn mạnh rằng, BBĐ về thu nhập chính là BBĐ về kết quả và xuất phát từ BBĐ cơ hội, nhất là cơ hội phát triển vốn con người thông qua giáo dục. Do đó, một trong những cơ sở quan trọng cho việc ra chính sách giảm BBĐ là tập trung vào tăng cơ hội tiếp cận giáo dục, từ đó giảm BBĐ thu nhập. Nói cách khác, luôn tồn tại quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và giải quyết công bằng xã hội. Theo đó, tăng trưởng kinh tế cần đi đôi với bình đẳng trong phân phối thu nhập; Nguồn lợi thu được từ tăng trưởng kinh tế cần được phân phối lại theo hướng ngày càng được cải thiện hoặc ít nhất là không xấu đi, thông qua chính sách phân phối lại tài sản (của cải, đất đai, thuế) và chính sách phân phối lại từ tăng trưởng (các dịch vụ công); như chính sách nhằm tăng cường cơ hội giáo dục-đào tạo, chăm sóc y tế cho nhiều người. Đây là nguyên tắc quan trọng với phần lớn các quốc gia, kể cả Việt Nam. Theo đó, Chính phủ sẽ đưa ra các chính sách thúc đẩy tăng trưởng nhanh, đồng thời đặt ra vấn đề bình đẳng, công bằng xã hội và nâng cao chất lượng cuộc sống dân cư dựa trên cơ sở phát triển kinh tế tư nhân, khuyến khích người dân làm giàu và thực hiện phân phối thu nhập theo sự đóng góp của các nguồn lực.
Để giải quyết BBĐ thu nhập, Việt Nam cần xây dựng được một chiến lược tăng trưởng kinh tế mới cùng với các chính sách phân phối thu nhập thích hợp, tập trung vào cải cách thể chế pháp luật, thị trường cạnh tranh, công bằng và mở, tạo sân chơi bình đẳng cho cả các doanh nghiệp lớn, vừa và nhỏ; tăng đầu tư vào nguồn lực con người và khuyến khích tạo việc làm, khuyếnn khích hình thành một tầng lớp trung lưu rộng lớn trong xã hội; thiết kế hệ thống thuế sao cho không triệt tiêu động lực làm giàu của những người giàu. Tăng đầu tư công vào những khu vực kém phát triển; đồng thời, nâng cao chất lượng quản lý đầu tư công cũng như cải thiện chất lượng các dịch vụ công, để các kết quả đầu tư đến với người dân, đặc biệt là người nghèo.
Hy vọng, cùng với việc Chính phủ vừa ban hành chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều (gồm thu nhập và mức độ tiếp cận 5 dịch vụ xã hội cơ bản: y tế, giáo dục, nhà ở, nước sạch và vệ sinh, thông tin; với 10 chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt các dịch vụ xã hội cơ bản: tiếp cận các dịch vụ y tế; bảo hiểm y tế; trình độ giáo dục của người lớn; tình trạng đi học của trẻ em; chất lượng nhà ở; diện tích nhà ở bình quân đầu người; nguồn nước sinh hoạt; hố xí/nhà tiêu hợp vệ sinh; sử dụng dịch vụ viễn thông; tài sản phục vụ tiếp cận thông tin) áp dụng cho giai đoạn 2016 – 2020, thì những giải pháp giải quyết nghèo và BBĐ xã hội cũng sẽ trở nên đa chiều, toàn diện và bền vững hơn…


[1] NHTG (2014), Các phát hiện chính của báo cáo Điểm lại: Trọng tâm đặc biệt về bất bình đẳng ở Việt Nam, 7/2014.
[2] Bộ LĐ, TB&XH (2011), Chia sẻ thông tin trong lĩnh vực an sinh xã hội.
[3]Bộ LĐ, TB&XH (2014), Báo cáo Điều tra rà soát hộ nghèo, cận nghèo năm 2013.
[4]CIEM, đã dẫn.



NGUYỄN MINH PHONG
Kết quả hình ảnh cho hình ảnh bất bình đẳng trong xã hôi

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét