Dù là những vị vua với quyền lực
đầy mình, tưởng chừng như muốn gì được nấy, nhưng trái tim của người
đẹp thì không phải ai cũng có được.
Lịch sử Việt Nam đã chứng kiến nhiều cô
gái không muốn cuộc sống hào hoa nơi hoàng cung với ngôi vị Hoàng Hậu,
mà chỉ muốn làm cô gái thôn quê như bao người khác.
Cô gái từ chối ngôi vị Hoàng Hậu
Vào thời đất nước ta còn bị quân Lương
đô hộ, ở trang Vân Lộng xứ Đông (nay là làng An Ninh, xã An Bình, huyện
Nam Sách, Hải Dương), có ông Phạm Lương vợ mất sớm, ông ở vậy nuôi cô
con gái là Phạm Thị Toàn lớn khôn, là người có chí khí ông luôn nhắc nhở
cô con gái về nỗi đau là người dân mất nước. Ông cho con gái của mình
học võ nghệ và cách bày quân đánh trận.
Phạm Lương bán dần gia tài, để có tiền
của chiêu mộ binh mã chống quân Lương. Năm 541 khi hào trưởng Lý Bí dựng
cờ khởi nghĩa đánh quân Lương, Phạm Lương liền đem nghĩa quân của mình
gia nhập cùng quân của Lý Bí.
Thanh thế nghĩa quân ngày càng lớn mạnh,
Phạm Thị Toàn tuy phận nữ nhi nhưng luôn dẫn đầu ba quân, dũng cảm xông
pha giữa làn tên đạn, không quản nguy hiểm gian khổ khiến ba quân đều
nể phục.
Quân Lương nhanh chóng bị đánh tan, thứ sử Tiêu Tư hoảng sợ chạy về nước.
Năm 542 quân Lương tiến sang xâm lược
nước ta một lần nữa, nữ tướng Phạm Thị Toàn tiến quân ra bắc dẹp tan
quân giặc. Năm 543, Phạm Thị Toàn lại tiến quân xuống phương nam dẹp tan
quân Lâm Ấp.
Mùa xuân năm 544 đất nước bình yên Lý Bí
lên ngôi Hoàng Đế, tự xưng là Lý Nam Đế, đổi tên nước là Vạn Xuân với
mong muốn đất nước sống mãi trong mùa xuân hòa bình.
Lúc này Lý Bí nhớ đến người con gái luôn
dẫn đầu ba quân xông pha nơi trận mạc, ngỏ ý muốn đưa Phạm Thị Toàn vào
cung, nhưng nàng đã khéo từ chối: “Vì sự nghiệp phục quốc mà phận
gái liễu bồ nghĩ cũng phải góp phần gánh vác, đó là tâm nguyện lớn lao
không mong gì hơn. Nay việc lớn đã thành, chỉ xin cho thiếp ở lại chốn
quê hương chăm sóc phần mộ cha mẹ, vui với cảnh ruộng đồng, hàng ngày
nghe câu kinh tiếng kệ”.
Biết khó lay chuyển được nàng, lại cũng
không dám cưỡng ép nên Lý Bí đã chấp thuận lời thỉnh cầu này. Từ đó Phạm
Thị Toàn về quê tịnh tu cho đến lúc mất, người dân lập đền thờ phong bà
là Thành Hoàng.
Tự vẫn để thoát khỏi nhập cung
Tại trang An Lạc, đất Quảng An thuộc Ái
châu (nay là huyện Thọ Xuân, Thanh Hóa) có vợ chồng ông Nguyễn Nhân và
bà Hoàng Thị, ăn ở hiền lành, tu nhân tích đức, ham làm việc thiện. Hai
vợ chồng hàng ngày cày cấy, cuộc sống dù khó khăn nhưng hai vợ chồng
luôn vui vẻ hạnh phúc, chỉ hiềm nỗi mãi vẫn chưa có con.
Một lần vào mùa hè nắng chang chang, bà
Hoàng Thị ngồi hóng mát ở một gò nhỏ trong làng. Cái gò này có hình con
rùa nên gọi là gò Kim Quy, ngồi một lát bà thấy người bàng hoàng và đau
bụng, rồi bà có thai.
Đúng vào giờ ngọ bà sinh được một người
con gái, tương truyền lúc bấy giờ hương thơm ngào ngạt lan tỏa khắp nhà,
ai ai cũng cho đó là điềm lạ, phúc lành. Hai vợ chồng đặt tên là Hoa
Nương và nuôi nấng rất chu đáo.
Hoa Nương càng lớn càng xinh đẹp, tóc dài đen nhánh, mắt phượng mày ngài, môi đỏ như son, miệng cười tươi như hoa chúm chím nở.
Dân làng ai cũng yêu quý nàng, nhớ đến
chuyện lạ về mùi hương thơm khi Hoa Nương sinh ra, họ đồn rằng có lẽ cô
là một nàng tiên nữ giáng xuống trần gian. Chuyện kể rằng vào năm Hoa
Nương tròn 16 tuổi, một hôm vào giữa trưa nắng gắt, khi cô gái đang thả
trâu ăn cỏ ở bãi ven sông thì bỗng đâu xuất hiện một người đàn ông mặc
quan phục tiến đến nói rằng:
“Ta với nàng có nhân duyên tiền định, chẳng bao lâu sẽ được gặp nhau”.
Nói xong thì người đó biến mất, Hoa Nương cho là điềm quái gở, lấy làm
lo sợ bèn về kể lại cho cha mẹ biết rồi làm lễ cúng giải hạn.
Khi Hoa Nương 18 tuổi, nhan sắc lộng lẫy như hoa bung nở, nhiều chàng trai đến cầu hôn nhưng nàng chưa ưng ai cả.
Vẻ đẹp của Hoa Nương vượt ra khỏi vùng
có quê của nàng lan đến tận kinh thành. Vua Đinh Tiên Hoàng lúc đó dù đã
có đầy đủ cung tần mỹ nữ, nhưng vẫn mang lễ vật mời ông Nguyễn Nhân về
triều, ngỏ ý muốn Hoa Vương làm vương phi. Được hoàng đế để mắt đến,
khác nào nhận được vinh dự lớn lao, vợ chồng ông Nguyễn Nhân mừng rỡ trở
lại quê nhà thuyết phục, rồi cố gò ép nhưng Hoa Nương nhất quyết từ
chối.
Hoa Nương nói rằng: “Con quen vui
sống cảnh thôn quê, khó mà chịu được những gò bó, lễ nghi trong cung
đình; sống như thế khác nào cảnh chim lồng, con nguyện ở vậy để chăm
sóc, phụng dưỡng song thân cho đến tuổi trời, chứ không vì phú quý mà
đem thân mình vào chốn nhung lụa lắm thị phi”.
Không thuyết phục được con, vợ chồng
Nguyễn Nhân đành viết thư về triều xin nhận tội, nhà vua có lẽ hiểu được
tâm sự của cô gái nên không nhắc đến chuyện đó nữa.
Hoa Nương sợ rằng mình không vào triều
thì vua sẽ trách tội lên cha mẹ, nên quyết định tìm đến cái chết để giải
quyết nỗi khó xử này. Một đêm nàng ra sau nhà ngửa mặt than trời rồi tự
vẫn; sáng hôm sau cha mẹ và hàng xóm đi tìm thì thấy Hoa Nương vẫn ngồi
như lúc còn sống.
Mọi người ai cũng lấy làm xót thương,
liền đưa thi hài cô gái hồng nhan mà mệnh bạc về táng trên gò đất Mộc
Tinh ở làng. Đúng ba tháng sau, dân làng thường nghe văng vẳng tiếng Hoa
Nương ca hát, vui cười trên không, biết là nàng hiển linh, mọi người
mới bàn nhau lập miếu thờ phụng gọi là miếu bà Chúa tối linh.
Đến thời Lê Hoàn thay triều Đinh trị
nước, một lần vua đích thân cầm quân đi đánh giặc quấy nhiễu biên cương
phương Nam có qua miếu bà Chúa, bèn sắm hương hoa, làm lễ cầu khấn thần
âm phù tế độ cho quan quân thắng trận.
Sau đó quân đi đến đâu, giặc tan vỡ đến
đó, cho là được bà Chúa phù hộ, trên đường trở về Hoa Lư, vua Lê Hoàn đã
cho lập đàn tạ lễ, lại ban tiền bạc để tu sửa miếu và sắc phong bà chúa
Hoa Nương mỹ hiệu là: “Hiển tế Anh linh Tiên thiên Thánh nữ Hiển ứng
Thượng đẳng tối linh Công chúa”.
Ni cô chạy trốn để thoát khỏi làm vợ vua
Một lần vua Lê Thánh Tông ghé thăm
trường Quốc Tử Giám, lúc về có ghé ngôi chùa gần đó là chùa Ngọc Hồ (còn
gọi là chùa Bà Ngô, nay nằm trên phố Nguyễn Khuyến, phường Văn Miếu
quận Đống Đa, Hà Nội).
Vào tới sân chùa, vua nghe thấy có tiếng
người tụng kinh, giọng trong trẻo diệu kỳ như vút lên tận tầng mây, lại
gần thì ngây ngất, sững sờ khi thấy ni cô đẹp như một tiên nữ giáng
trần khiến cho tâm thần đức vua không khỏi xốn xang.
Ni cô quay lại, làm lễ, nhận thấy đôi
mắt nhà vua nhìn mình đăm đắm, bèn lấy bút đề vào vách chùa hai câu thơ
Nôm với nét chữ bay bướm:
Tới đây mến cảnh mến thầy
Tuy vui đạo Bụt, chưa khuây lòng trần!
Tuy vui đạo Bụt, chưa khuây lòng trần!
Câu thơ nói đúng tâm trạng của vua lại
càng làm Lê Thánh Tông xao xuyến, vua liền sai các quan hầu cận làm thơ
vịnh để ghi nhớ buổi kì ngộ. Bài của phó nguyên soái Thân Nhân Trung làm
nhanh nhất và hay nhất viết rằng:
Ngẫm sự trần duyên khéo cực cười
Sắc không, tuy Bụt, ấy lòng người
Chày kình một tiếng tan niềm tục
Hồn bướm ba canh lẩn sự đời
Bể ái nghìn tầm mong tát cạn
Nguồn ân muôn trượng chửa khơi vơi
Nào nào cực lạc là đâu tá?
Cực lạc là đây chín rõ mười
Sắc không, tuy Bụt, ấy lòng người
Chày kình một tiếng tan niềm tục
Hồn bướm ba canh lẩn sự đời
Bể ái nghìn tầm mong tát cạn
Nguồn ân muôn trượng chửa khơi vơi
Nào nào cực lạc là đâu tá?
Cực lạc là đây chín rõ mười
Đọc xong, ni cô liền phê rằng: “Hai câu thực và luận còn thiếu ý lại chưa thanh, nên sửa là: Gió thông đưa kệ tan niềm tục/Hồn bướm mơ tiên lẩn sự đời”.
Vua Lê Thánh Tông thật sự cảm phục trước sự mẫn tuệ và cao khiết của ni
cô, bèn một mực rước mời ni cô lên xa giá về cung để lập làm phi.
Biết khó có thể chối từ ngay được, ni cô
đành thuận theo nhưng tìm cách thoát khỏi tình cảnh khó xử này. Không
rõ bằng cách nào, khi xa giá vừa đến cửa Đại Hưng (khu vực Cửa Nam, Hà
Nội ngày nay) thì trong xe không còn thấy bóng ni cô đâu nữa.
Vua Lê Thánh Tông ngạc nhiên tin chắc ni
cô là một tiên nữ giáng trần. Lòng ngơ ngẩn tiếc nuối mãi, rồi truyền
lệnh cho xây lầu Vọng tiên ở ngay đó để kỷ niệm và cũng để ngóng trông,
hy vọng có dịp tái ngộ với người con gái tài sắc ấy.
Sau này vào thời Tây Sơn có một bài thơ chê cười nhà vua như sau:
Phật đường săn gái chuyện làm càn
Đắc ý nhà vua chuyện những toan
Người ngọc nhà vàng thành mộng hão
Duyên may lại kém bác đồ gàn
Đắc ý nhà vua chuyện những toan
Người ngọc nhà vàng thành mộng hão
Duyên may lại kém bác đồ gàn
Bảo Minh tổng hợp
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét