CÂU CHUYỆN TÌNH BÁO 177
(ĐC sưu tầm trên NET)
Kỳ hai: KGB xỏ mũi CIA như thế nào?
Burton Gerber là đại diện thế hệ điệp viên mới. Sau khi tốt nghiệp Đại học Michigan, Gerber gia nhập quân đội trước khi làm việc cho CIA. Trong những năm đầu cắm tại Đông Âu, Gerber đã chứng kiến những nỗ lực vụng về của CIA trong cuộc đối mặt với KGB, đặc biệt thái độ nghi ngờ bệnh hoạn của trưởng bộ phận phản gián CIA James Jesus Angleton. Đầu thập niên 1970, Gerber được thăng chức và được bổ nhiệm vào vị trí phụ trách bộ phận gián điệp Liên Xô. Ông là một trong những người hiếm hoi có thể tiếp cận thông tin tuyệt mật liên quan các chiến dịch nhạy cảm nhất mà CIA thực hiện nhằm vào Moscow, trong đó có câu chuyện ít người biết về một nhân viên KGB đào tẩu sang Mỹ, bị biệt giam ba năm, với hơn hai năm sống trong xà lim địa ngục tại nhà tù riêng tuyệt mật của CIA.
Sự hoài nghi bệnh hoạn
Chưa
bao giờ bị quy kết bất kỳ tội trạng nào, tay nhân viên KGB – Yuri
Nosenko – bị cách ly hoàn toàn với thế giới bên ngoài, không được đọc
cũng như viết và không bao giờ được phép ngủ thẳng giấc. Gặp CIA năm
1962, Nosenko đào tẩu sang Mỹ năm 1964, trở thành nguồn thông tin chính
có thể giải đáp một thắc mắc lớn nhất mà CIA hoang mang thời điểm đó:
Liệu Moscow có đứng sau vụ ám sát Tổng thống John F. Kennedy? Ủy ban
Điều tra Warren kết luận rằng chỉ Lee Harvey Oswald dính trực tiếp vụ ám
sát Kennedy nhưng CIA luôn nghi rằng có thể có bàn tay KGB. Oswald trốn
sang Liên Xô sau khi phục vụ thủy quân lục chiến Mỹ và sau đó trở về Mỹ
với người vợ Nga không lâu trước khi xảy ra sự kiện Kennedy bị bắn
chết. Hoài nghi về sự dính líu KGB lởn vởn và bao trùm Langley (trụ sở
CIA) và khi Nosenko xuất hiện, người ta vội vã nhảy bổ vào như vớ được
chiếc phao. Nosenko đưa ra câu trả lời: KGB không can dự vụ Kennedy! Tuy
nhiên, CIA tiếp tục không tin và cho rằng Nosenko là điệp viên nhị
trùng. James Jesus Angleton ủng hộ giả thuyết trên, đặc biệt khi nghe
điệp viên KGB Anatoly Golitsyn (phản bội) nhấn mạnh rằng tất cả điệp
viên KGB chạy theo Mỹ sau trường hợp mình đều là gián điệp nhị trùng. Vụ
Nosenko là trường hợp điển hình của sự hoài nghi bệnh hoạn thời James
Jesus Angleton. Với thế hệ Burton Gerber, không phải tất cả điệp viên
KGB đều là gián điệp nhị trùng, và nếu khéo léo, hoàn toàn có thể sử
dụng họ được. Tay điệp viên KGB cuối cùng làm việc cho CIA mà không bị
Angleton nghi ngờ là đại tá Oleg Penkovsky. Là một trong những điệp viên
quan trọng nhất trong lịch sử CIA thời chiến tranh lạnh, Penkovsky đã
giúp nội các Kennedy vượt qua cơn khủng hoảng tên lửa Cuba năm 1962.
Tham vọng Gerber được Giám đốc CIA Richard Helms hậu thuẫn bằng cách
tăng cường nhân lực bộ phận gián điệp Liên Xô. Một trong những người như
vậy là David Blee, từng lưu dấu tay tại châu Á khi tổ chức cuộc đào
thoát từ Ấn Độ sang phương Tây cho Svetlana (con gái Josef Stalin).
Trước khi được Richard Helms yêu cầu làm việc trong bộ phận gián điệp
Liên Xô, David Blee là Chỉ huy trưởng CIA bộ phận Cận Đông...
Chỉ
huy sở CIA, Langley, bang Virginia, 8 giờ 45, ngày 14-6-1985. Paul
Redmond vào phòng Gerber. Trên bàn, có bức điện vụ bắt Paul Stombaugh
tại Moscow. Cạnh đó, Redmond thấy món quà tạm biệt của một nhân viên CIA
từng làm việc tại Moscow gửi tặng Gerber. Đó là ống tuýp thép đen được
uốn cong đặt trên bệ gỗ. Một đầu ống thép treo lủng lẳng quả cầu đen.
Nhìn món quà lưu niệm của những người từng phục vụ chiến dịch nghe trộm
tại Moscow, Redmond bất giác nhớ đến GTTAW – mật danh chương trình nghe
lén của CIA tại Moscow - với thiết bị nghe trộm cài trong đường hầm
nối Moscow và Krasnaya Pakhra, nơi có viện nghiên cứu vũ khí hạt nhân
tại Tây-Nam thủ đô Liên Xô. Trong nhiều năm, Mỹ nghe tất tần tật liên
lạc giữa các khoa học gia làm việc tại đây với sĩ quan quốc phòng Liên
Xô, khi bắt tín hiệu truyền bằng sóng vi ba. Tuy nhiên, cuối thập niên
1970, Liên Xô lập đường hầm và chôn hệ thống cáp liên lạc. Khi không còn
bắt được tín hiệu, vệ tinh do thám Mỹ dò tìm hệ thống liên lạc mới và
phát hiện dấu hiệu xây dựng dọc theo trục lộ chính giữa khu nghiên cứu
và Moscow.
Những cuộc băng trắng
Ảnh
vệ tinh cho thấy thêm có nhiều lỗ nhỏ dọc theo đường, hẳn nhiên là lỗ
hầm để người ta có thể sửa chữa dây cáp nếu chúng hỏng. Cùng Cơ quan An
ninh quốc gia (NSA), CIA thực hiện kế hoạch gài thiết bị nghe trộm trong
hệ thống cáp ngầm trên. Năm 1979, Jim Olson là nhân viên CIA đầu tiên
chui vào lòng Moscow gài máy nghe lén. Sau đó, CIA và NSA chế tạo thành
công chiếc “vòng cổ” có thể bắt được tín hiệu liên lạc mà không cần đấu
trực tiếp thiết bị vào dây cáp. Từ đó, gián điệp Mỹ liên tục, trong thời
gian định kỳ, đến một con đường làng vắng, nơi đặt thiết bị ghi âm để
lấy băng về. Màn nghe lén tiến hành suôn sẻ 5 năm. Mùa xuân 1985, khi
đến lấy băng, một trong những đồng nghiệp của Paul Stombaugh phát hiện
dấu vết lạ và hoảng hốt bỏ đi. Sau thời gian khá dài cân nhắc và bàn
tính giữa văn phòng CIA tại Moscow với Langley, CIA quyết định cử một
điệp viên sắp hết hạn làm việc tại Moscow đến lấy băng. Tay điệp viên
trở về an toàn, không mất một sợi tóc. Tuy nhiên, niềm vui trở thành cảm
giác xấu hổ hụt hẫng. Toàn bộ băng đều “trắng”, làm như ai đó đã xóa
sạch hoặc đơn giản là chúng được thay vào bằng băng trắng (đến nay, CIA
vẫn còn mù tịt về vụ trên và không hiểu tại sao)...
Điệp viên nhị trùng tại CIA
Khi
Gerber viết, Paul Redmond tiếp tục nghĩ mông lung. Đầu tiên là GTTAW và
kế đó xảy ra vụ Sergei Bokhan, mới hai tuần trước. Bokhan – đại tá GRU
(Cơ quan Quân báo Liên Xô) – làm việc cho CIA 10 năm, với mật danh
GTBLITZZARD. Năm 1978, trong chuyến công tác đầu tiên đến Hy Lạp, Bokhan
thông báo CIA rằng có một thanh niên Mỹ vào Tòa Đại sứ Liên Xô tại
Athens, đề nghị bán cẩm nang tuyệt mật về vệ tinh do thám KH –11. Thông
tin từ Bokhan đã giúp Mỹ bắt được cựu nhân viên CIA William Kampiles
(bán tài liệu trên với giá 3.000 USD). Năm 1984, trong chuyến công tác
Athens lần hai, Bokhan tiết lộ rằng một điệp viên Hy Lạp có quan hệ với
giới thầu quốc phòng đã cung cấp GRU dữ liệu kỹ thuật về tên lửa
Stinger. Thất thoát thông tin về Stinger sẽ là đòn đau điếng cho Lầu Năm
Góc, do Stinger là vũ khí cầm tay bắn máy bay hiện đại nhất của quân
đội Mỹ thời điểm đó. Đang làm việc đắc lực cho CIA, ngày 21-5-1985,
Bokhan bất ngờ nhận được điện từ tổng hành dinh GRU, yêu cầu về Moscow
trong vòng vài ngày thay vì đến kỳ nghỉ phép tháng 8 cùng năm. Bokhan
được thông báo rằng cậu con trai 18 tuổi Alex đang gây rắc rối tại Học
viện Quân sự Kiev. Trước đó vài hôm, Bokhan đã gọi điện cho anh vợ tại
Kiev, biết rằng Alex không hề gây sự cố nào. Có gì bất ổn chăng? Moscow
đánh hơi được hành động phản bội của Bokhan? Để bảo đảm an toàn, Bokhan
được CIA bí mật đưa sang trốn tại Virginia (Mỹ).
GTTAW,
Sergei Bokhan và bây giờ là sự cố Paul Stombaugh. Một, hai, rồi ba...
Trùng hợp chăng? Chắc là không – Paul Redmond nghĩ. Từng nắm vị trí chỉ
huy trưởng CIA bộ phận gián điệp đặc trách Liên Xô-Đông Âu, Redmond cũng
lê mòn gót tại Zagreb, Kuala Lumpur, Athens và Cyprus... Trầm ngâm,
Redmond tin rằng có thể James Jesus Angleton không điên khùng và lẩm cẩm
như được tưởng, người luôn cho rằng chắc chắn ít nhất một tên điệp viên
nhị trùng nào đó đang trà trộn vào hàng ngũ CIA. Có điều, Angleton chỉ
sai khi phán đoán đó là ai, làm gì, lúc nào và ở đâu...
MẠNH KIM trích lượcKỳ ba: Ba cuộc đào tẩu ngoạn mục
Cơn ác mộng của Oleg Antonovich Gordievsky.- Trung tuần tháng 5-1989, đại tá KGB Oleg Antonovich Gordievsky còn ở London. Bây giờ, ông có mặt tại Moscow. Mồ hôi nhỏ giọt trên mặt khi Gordievsky đứng co ro trong chiếc áo mưa xám trên vỉa hè đường Kutuzovsky Prospekt, trung tâm Moscow, nhìn dòng xe cộ trước mặt bằng cặp mắt vô hồn. Ông kinh hãi, bất giác nghĩ rằng có ai đó trong đám đông bất ngờ la toáng lên: “Hắn kìa, tên điệp viên Anh chạy trốn, bắt hắn ngay!”. Gordievsky cầu nguyện bọn nhân viên Cục Tình báo Anh (SIS) đến đón như đã hứa. Cơn ác mộng bắt đầu xuất hiện không lâu sau khi Gordievsky được lệnh KGB lên đường về Moscow.
Gordievsky
ngờ rằng sự tráo trở của mình đã bị phát hiện. Từ khi tình nguyện làm
việc cho tình báo Anh khi còn công tác tại Đan Mạch hơn một thập niên
trước, Gordievsky đã cung cấp nhiều tài liệu quan trọng. Tình báo Anh
giấu kín tông tích Gordievsky khỏi sự dò xét của Mỹ nhưng cuối cùng CIA
cũng biết và chỉ định trưởng phòng phản gián đặc trách Liên Xô Aldrich
Ames điều tra...
Trở
về Moscow lần này, Gordievsky biết có chuyện không lành. Căn hộ ông tại
Leninsky Prospekt ở Tây Nam Moscow có dấu vết lục soát của bàn tay
chuyên nghiệp. Gordievsky tiếp
tục sống trong ác mộng trong hai ngày khi đáp tàu và xe buýt từ Moscow
đến làng Viborg, không xa biên giới Phần Lan - Liên Xô, điểm hẹn mà nhân
viên SIS chọn để giúp Gordievsky đào thoát. Liếc nhìn đồng hồ lần thứ
100 chỉ trong khoảng 40 phút, Gordievsky bồn chồn và cảm giác hoảng sợ
mỗi lúc một tăng. Cuối cùng, ông thấy hai chiếc xe dừng ở hướng đối
diện. Hai người bước ra, nhìn quanh. Gordievsky mừng rỡ. Một trong hai
người lạ là nhân viên SIS từng gặp Gordievsky tại Moscow vài ngày trước
để hướng dẫn kế hoạch đào tẩu. Người thứ hai là Raymond Lord Asquith,
cháu ruột vị Thủ tướng Anh huyền thoại Herbert Henry Asquith và là
chuyên gia số một về Liên Xô của SIS. Gordievsky lao vào xe, quấn mình
vào tấm mền. Bên cạnh, có một chai rỗng để Gordievsky tiểu tiện khi cần.
Gordievsky gần như nín thở và hy vọng chiếc mền nhiệt có thể giúp tránh
bị máy dò phát hiện. Lúc xe dừng ở trạm kiểm soát thứ năm và cũng là
chặng cuối tại biên giới, Gordievsky run bần bật khi nghe tiếng chó đánh
hơi khụt khịt. Từ trong thùng xe, Gordievsky không thấy cảnh vợ một
nhân viên SIS liên tục quẳng bánh khoai tây cho đám chó. Sau hai phút
trôi qua như hàng thế kỷ, chiếc xe cuối cùng cũng được phép lên đường...
Aldrich Ames, điệp viên KGB tại CIA
Trưa
1-8-1985, tại bàn làm việc trong văn phòng CIA ở Rome, David Shorer -
tay điệp viên CIA từng bị bắt tại Moscow và bị trục xuất - nhìn chằm
chằm vào điện thoại. Một người nói tiếng Anh giọng Slavic đã gọi từ
trước, úp úp mở mở rằng mình là viên chức KGB cấp cao “sẵn sàng làm việc
với các ông”. Sau
10 phút chờ trong trạng thái sốt ruột, cuối cùng, chuông reng. “David
Shorer, tôi là viên chức Liên Xô, đang quan tâm đến...” – “Ông ở đâu?” –
Shorer cắt ngang. “Bên đường đối diện cổng tòa đại sứ của ông”. “Gác
máy ngay và băng sang Tòa Đại sứ Mỹ. Tôi đón ông ở cổng”. “Ông có giấy
tờ gì chứng minh không?” – Shorer vội vã hỏi khi vừa gặp. “Tôi là Vitaly
Sergeyevich Yurchenko” – Yurchenko nói, chìa thông hành ngoại giao –
“Tôi là đại tá KGB...”. Từng làm việc tại bộ phận Liên Xô - Đông Âu,
Shorer nhận ra đây chắc chắn là một món hời hấp dẫn. Ngay hôm sau,
Yurchenko được đưa sang Mỹ từ ngả Frankfurt (Đức). Đón Yurchenko tại căn
cứ không quân Andrews là toán FBI và CIA, trong đó có hai viên chức cấp
cao CIA Chuck Medanich và Aldrich Ames. “Đại tá Yurchenko. Tôi, nhân
danh Tổng thống Hoa Kỳ, xin chúc mừng ông đến nước Mỹ” – Ames chào
Yurchenko. Trong thâm tâm, Ames hoang mang không rõ Yurchenko biết mình
là tay trong của KGB làm việc tại CIA hay không. Ames nằm dưới sự chỉ
huy trực tiếp Ban Giám đốc K, bộ phận phản gián thuộc Ban Giám đốc thứ
nhất KGB. Yurchenko rời Ban Giám đốc K vào tháng 1-1985, ít nhất ba
tháng trước khi Ames tình nguyện làm việc cho KGB. Có thể Yurchenko
không biết hành tung mình – Ames nghĩ. Ngồi chung trong chiếc xe lăn
bánh khỏi căn cứ không quân Andrews, Ames quyết định thăm dò bằng cách
gợi chuyện. Ít nhất một lần, Yurchenko đã làm Ames giật thót khi kể về
chuyến trở về Moscow bất thường hồi tháng 4 hay tháng 5-1985 của hai
viên chức KGB làm việc tại Washington (Stanislov Androsov và Viktor
Cherkashin). Liệu sự kiện này dính líu gì tới điệp vụ nhị trùng của
mình? – Ames tự hỏi. Phần Yurchenko, một trong những thông tin đầu tiên
mà ông cung cấp CIA là nhận dạng được một kẻ mang bí danh “Mr. Robert”.
Đó không ai khác hơn là Edward Lee Howard, có thể chính là kẻ làm bể nát
đường dây tình báo Adolf Tolkachev...
Màn giả khùng siêu đẳng của Edward Lee Howard
Lần
đầu tiên khi nộp đơn xin làm việc ở vị trí điệp viên CIA hoạt động dưới
lớp vỏ bọc năm 1980, Edward L. Howard dường như là ứng cử viên lý
tưởng, có kinh nghiệm làm việc trong khu vực chính phủ lẫn tư nhân. Sau
khi tham gia khóa ngôn ngữ và chương trình huấn luyện Các chiến dịch
trong lòng địch với đầy đủ kỹ năng gián điệp lẫn giết người, đầu năm
1982, Howard chuẩn bị sang Moscow cùng vợ (cũng là nhân viên CIA) mang
vỏ bọc một viên chức ngoại giao làm việc tại tòa Đại sứ Mỹ. Trong thời
gian học tiếng Nga trước khi sang Liên Xô, Howard làm việc chung phòng
với Michael Sellers, cũng là một nhân viên CIA mang
vỏ bọc ngoại giao sắp sang Moscow, và nhờ vậy tiếp cận được nhiều hồ sơ
tuyệt mật. Hầu hết hồ sơ về lực lượng điệp viên Liên Xô làm việc cho Mỹ
đều mang mật danh và tên tắt nhưng Howard đã phát hiện hồ sơ gốc với
tên thật. Do đó, Howard biết được vụ gián điệp của khoa học gia Adolf
Tolkachev. Tháng 4-1983, Howard trải qua cuộc kiểm tra cuối cùng trước
khi lên đường. Tất cả đợt kiểm tra nói dối đều hỏng và lộ ra nhiều chi
tiết quá khứ Howard chưa từng khai. Vào ngày Howard chính thức bị sa
thải khỏi CIA, người ta phát hiện Howard nhiều lần vào trụ sở CIA, không
biết làm gì. Bị quẳng ra đường, Howard lại trở thành kẻ nát rượu. Khi
được thuê làm chuyên gia kinh tế cho bộ máy lập pháp bang New Mexico,
Howard dường như vẫn còn hận và liên tục nhắc “sự ngược đãi vô lý” mà
CIA đối xử với mình. Có lẽ Howard quá phẫn chí. Thế rồi ngày kia, xuất
hiện vài dấu hiệu lạ: Howard thường xuyên gọi điện cho Tòa Đại sứ Mỹ tại
Moscow, với nội dung điện đàm toàn chuyện tầm phào. Tháng 2-1984,
Howard bị bắt tội cầm súng bắn
vãi đạn ngoài phố trong một cuộc cãi vã ở quán bar. Rõ ràng, Howard đã
bị khủng hoảng tâm lý nghiêm trọng và có dấu hiệu tâm thần...
Ngày
9-8-1985, Edward L. Howard đáp máy bay từ Albuquerque (bang New Mexico)
đến Zurich (Thụy Sĩ) và sang Vienna vào hai ngày sau. Trước khi đi,
Howard nói với ông chủ rằng bà nội (ngoại) mình bệnh nặng vừa từ trần.
Sau này, người ta mới biết rằng Howard không có bà nội-ngoại nào bị bệnh
chết và cũng không có cụ bà thân thích nào sống ở Áo hay Thụy Sĩ. Hơn
nữa, đó cũng không là chuyến đến Vienna lần đầu. Howard từng ghé Vienna
vào tháng 9-1984 và lần đầu tiên tiếp xúc trực tiếp nhân viên KGB! Khi
hành tung bại lộ, Howard nhanh chân chuồn sang Liên Xô, để lại phía sau
loạt cáo thị truy nã khẩn về mình của FBI và sự tức tối lộn ruột của các
“đồng nghiệp” CIA!
MẠNH KIM lược dịch
Kỳ bốn: Cú đấm trời giáng của Vitaly Sergeyevich Yurchenko
Washington DC, tháng 8-1985. Ngồi trước viên chức CIA Burton Gerber, đại tá KGB Vitaly S. Yurchenko bắt đầu tiết lộ về đường dây gián điệp KGB tại Mỹ mà Oleg Danilovich Kalugin xây dựng. Năm 1958, Kalugin đến Mỹ với tư cách sinh viên học bổng Fulbright. Tuy nhiên, nhân vật sau này trở thành chánh văn phòng phản gián KGB và được phong trung tướng chính là người điều khiển đường dây John Walker (cài trong hải quân Mỹ). Tại Mỹ, Kalugin học khoa báo chí Đại học Columbia.
Đầu
thập niên 1960, Kalugin hoạt động dưới lớp vỏ bọc thông tín viên đài
phát thanh Moscow, đặc trách tường thuật các vấn đề liên quan Mỹ và Liên
Hiệp Quốc. Năm 1965, Kalugin được bổ nhiệm vị trí phó phòng tình báo
chính trị KGB. Đầu thập niên 1970, Kalugin được phong chánh văn phòng
phản gián hải ngoại và mang lon tướng vào năm 1974, khi 40 tuổi (trẻ
nhất lịch sử KGB). Ngoài John Walker, Kalugin (**) cũng thiết lập quan
hệ với hai điệp viên Anh phục vụ KGB (George Blake và Kim Philby)... Tuy
nhiên, tiết lộ của Yurchenko về vụ Nikolai Artamonov mới thật sự gây
sốc.
Kẻ cắp gặp bà già
Năm
1959, Nikolai Artamonov là chỉ huy trưởng trẻ nhất một tàu khu trục
thuộc Hạm đội Baltic. Khi neo tàu gần cảng Gdansk (Ba Lan), Artamonov
gặp một nữ sinh viên nha khoa Ba Lan tên Blanka Ewa Gora. Hai người
quyết định trốn sang Mỹ để có thể ăn đời ở kiếp. Cùng tình nhân,
Artamonov đến Thụy Điển, để lại vợ và con trai tại Leningrad. Tiếp đó,
Artamonov móc nối CIA và được đặt tên mới Nicholas George Shadrin, phục
vụ Cơ quan Quân báo Mỹ (DIA) thuộc Lầu Năm Góc. Năm 1966, điệp viên KGB
phát hiện Shadrin trong một buổi thuyết trình khoa học quân sự tại
Washington. Thay vì khử Shadrin, KGB quyết định thuyết phục Shadrin bí
mật quay lại làm việc cho Liên Xô. Đại tá KGB Igor Kochnov chịu trách
nhiệm đến gặp trực tiếp Shadrin, mang theo hai lá thư của người vợ cũ.
Trước sự bất ngờ của Kochnov, Shadrin đồng ý làm tay trong cho KGB. Tuy
nhiên, Kochnov không hề biết rằng Shadrin sau đó đã thuật lại toàn bộ
câu chuyện “chiêu hồi”. Sự việc bắt đầu phức tạp khi chính Igor Kochnov
bí mật móc nối CIA và trở mặt với KGB. Vấn đề nan giải đến mức cả CIA,
FBI và DIA cùng vào cuộc. Giữa thập niên 1970, KGB bắt đầu hoài nghi
lòng trung thực của Shadrin và
họ quyết định bắt cóc tay điệp viên nhị trùng. KGB chọn nơi hành động là
Vienna, nhằm dễ dàng đưa Shadrin sang Tiệp Khắc. Ngày 18-12-1975,
Shadrin được yêu cầu đến gặp chỉ huy KGB tại Vienna. Shadrin đồng ý hẹn
gặp buổi thứ hai vào hai ngày sau. Tuy nhiên, từ lúc đó, không ai còn
thấy Shadrin nữa. Lợi dụng sự rò rỉ báo chí, Washington sử dụng vụ
Shadrin làm đòn ngoại giao. Ngoại trưởng Henry Kissinger đặt vấn đề
Shadrin với Đại sứ Liên Xô Anatoly Dobrynin. Năm 1976, vài tháng sau vụ
mất tích Shadrin, căng thẳng bắt đầu leo thang. Điện hỏi trực tiếp Tổng
Bí thư Liên Xô Leonid Brezhnev, Tổng thống Mỹ Gerald Ford được trả lời
rằng nhân viên an ninh Liên Xô có gặp Shadrin tại Vienna vào ngày
18-12-1975 nhưng không hiểu tại sao Shadrin bỗng mất tích. Đến đời Tổng
thống Jimmy Carter, Leonid Brezhnev cũng trả lời tương tự. Số phận
Shadrin tiếp tục nằm trong vòng bí ẩn cho đến khi Yurchenko đào tẩu sang
Mỹ. Theo
Yurchenko, Shadrin đã chết khi bị bắt cóc. Nhóm nhân viên KGB đánh
thuốc mê Shadrin đã giấu đối tượng trong thùng xe trên đường vượt biên
giới Áo. Khi đến địa điểm quy định, người ta mở thùng xe và thấy Shadrin
chết từ lúc nào. Nguyên nhân: Thuốc mê bị dùng quá liều... Khi kể câu
chuyện Nicholas Shadrin, Yurchenko cảnh báo CIA phải tuyệt đối giữ kín
và nhấn mạnh rằng KGB không bao giờ để yên một khi biết Yurchenko bôi
nhọ họ. Tuy nhiên, Mỹ lập tức vớ vụ Shadrin – không cần kiểm chứng đúng
hay sai – lấy làm cái cớ đắc ý tung ra chiến dịch tuyên truyền tấn công
Liên Xô trên mặt trận ngoại giao. CIA kích động báo chí Mỹ vào cuộc. Đến
lúc đó, Yurchenko mới nhận ra rằng mình bị CIA chơi xỏ lá.
Washington
DC, 31-10-1985. Burton Gerber ra lệnh bảo vệ kỹ Yurchenko, đề phòng KGB
thực hiện chiến dịch ám sát đối tượng. Ngày 2-11-1985, Yurchenko yêu
cầu nhân viên CIA Tom Hannah (phụ trách bảo vệ mình) đưa đi mua sắm. Hai
người đến cửa hàng quần áo Hecht’s tại Manassas (bang Virginia). Kế đó,
Yurchenko đòi đi ăn tại nhà hàng Au Pied de Cochon. Trong bữa ăn,
Yurchenko xin ra ngoài một lúc. Tay nhân viên CIA Hannah, trẻ và thiếu
kinh nghiệm, đã không mảy may nghi ngờ và tỉnh bơ ngồi đợi (sau này, CIA
mới phát hiện trong buồng thay quần áo tại cửa hàng Hecht’s có một máy
điện thoại công cộng và người ta tin rằng Yurchenko đã dùng nó để liên
lạc với KGB tại Sứ quán Liên Xô). Suốt đêm đó, FBI và CIA lùng sục khắp
Virginia. Vẫn không thấy bóng dáng Yurchenko...
Cú đấm bồi
Chỉ
huy trưởng phản gián KGB Viktor Cherkashin được yêu cầu có mặt tại Tòa
Đại sứ Liên Xô vào tối 2-11-1985, một cách bất thường. Nhân viên KGB
Stanislov Androsov chờ ông sẵn ở bãi đậu xe. Câu chuyện có lẽ nên bàn ở
một bãi xe như thế này là an toàn nhất. Gần như thì thầm, Androsov thông
báo về sự trở lại bất ngờ của Yurchenko. Cherkashin giật mình. Ông vội
vã vào bên trong Tòa Đại sứ. Yurchenko đang bị canh giữ bởi một sĩ quan
an ninh. Lấy hết bình tĩnh, Cherkashin nở nụ cười và ôm chầm Yurchenko.
Tại chỉ huy sở CIA, người ta vẫn không nhận được tin gì và sự bí mật
nặng nề chỉ được giải tỏa vào khoảng 3 giờ chiều 3-11-1985, khi giới báo
chí Mỹ được mời dự cuộc họp báo tại Tòa Đại sứ Liên Xô. Bộ Ngoại giao
Mỹ lúc đó vẫn không biết ất giáp gì khi nhận được bức thư chính thức từ
Sứ quán Liên Xô, chỉ trích “hành động tội ác nhằm vào V. S. Yurchenko”.
Tại buổi họp báo đầy phóng viên Mỹ, nhà báo nước ngoài cũng như viên
chức ngoại giao Liên Xô, Yurchenko kể rằng “... tôi bị một nhóm lạ mặt
đánh thuốc mê, bắt cóc tại Rome. Bất tỉnh, tôi được đưa về Mỹ. Tại đây,
tôi bị cách ly và bị khước từ liên lạc với đại diện Liên Xô...”. Tại
tổng hành dinh CIA, trong phòng Gerber, nhóm viên chức cấp cao thuộc bộ
phận gián điệp Liên Xô-Đông Âu theo dõi buổi truyền hình trực tiếp cuộc
họp báo. Hầu hết đều im lặng, cho đến khi Yurchenko kể đến đoạn mình bị
CIA tra tấn. Paul Redmond thốt lên: “Hắn đang dùng chiêu Bitov!”.
Redmond ám chỉ điệp viên Liên Xô Oleg Bitov, đào tẩu sang Anh năm 1983
nhưng một năm sau lại quay về KGB. Bitov cũng nói mình bị (tình báo Anh)
bắt cóc và bị ép dùng thuốc kiểm soát thần kinh trong suốt một năm...
Trên truyền hình, Yurchenko tiếp tục kể, về tờ hợp đồng mà CIA buộc mình
ký, trong đó Yurchenko nhận 1 triệu USD tiền thưởng, trợ cấp 62.500
USD/năm (“có điều chỉnh theo tỉ lệ lạm phát”) và 48.000 USD dùng sắm vật
dụng sinh hoạt.
Với
CIA, không còn gì có thể tệ hơn. Vụ Yurchenko là cú đấm bồi gây choáng
váng, xảy ra gần như cùng lúc với hai vụ tương tự. Tại Kabul
(Afghanistan), một sĩ quan quân đội Liên Xô bất ngờ đến Tòa Đại sứ Mỹ
xin tị nạn chính trị. Suốt nhiều tuần, Mỹ từ chối yêu cầu giao lại tay
sĩ quan cho Liên Xô. Thế rồi, bỗng nhiên tay sĩ quan nằng nặc đòi trở
lại hàng ngũ mình. Vụ thứ hai liên quan một thủy thủ Liên Xô nhảy sang
một tàu Mỹ và rồi sau đó cũng xin trở về... Tóm lại, vụ Yurchenko đã đưa
ra bằng chứng cuối cùng cho thấy có gì đó bất ổn trong cách Mỹ sử dụng
thành phần đào tẩu từ Liên Xô. Tuy nhiên, ngày 5-11-1985, Bộ Ngoại giao
Mỹ vẫn thuyết phục Yurchenko trở lại với CIA. Yurchenko từ chối. 16 giờ
15 ngày 6-11-1985, tại phi trường Dulles, trong chiếc áo mưa Burberry,
Vitaly S. Yurchenko bước lên thang chiếc máy bay Aeroflot; ngập ngừng
rồi quay lại, mỉm cười vẫy tay chào vài nhân viên FBI và CIA đứng bên
dưới, trông như “quen quen”...
MẠNH KIM TRÍCH LƯỢC
(*) Xem Báo NLĐ từ số ra ngày 11-8-2003
(**)
Nghỉ hưu năm 1990, Oleg Kalugin bị kết án 15 năm tù trong phiên xử vắng
mặt vào tháng 6-2002, với tội danh tiết lộ bí mật an ninh quốc gia, đặc
biệt những chi tiết trong quyển The First Directorate của ông. Sang Mỹ
năm 1995, Kalugin được nhập tịch Mỹ vào thượng tuần tháng 8-2003. Vụ
trên bị chỉ trích như là hành động phản bội tổ quốc không thể tha thứ.
Tổng thống Nga Vladimir Putin (nguyên đại tá KGB) cũng lên án Kalugin
tội phản bội đất nước. Kỳ năm: Siêu điệp viên “B” Robert Hanssen
Lá thư bí mật.- Alexandria, bang Virginia, ngày 4-10-1985. Khi kiểm tra hộp thư tại nhà mình, nhân viên KGB Viktor M. Degtyar phát hiện một lá thư kỳ lạ, không đề người gửi, với dấu bưu điện “Ngày 1-10, hạt Prince George, Maryland”. Bên trong, có một phong bì thứ hai ghi “Xin đừng mở. Giao trực tiếp cho Viktor I. Cherkashin”.
Người
gửi chắc chắn biết không ít về hoạt động KGB tại Mỹ, thậm chí nắm chính
xác địa chỉ một nhân viên KGB (Viktor M. Degtyar) và biết cả Viktor
Cherkashin (chỉ huy trưởng phản gián KGB, hoạt động trong vỏ bọc tại Sứ
quán Liên Xô). Nội dung lá thư viết: “Kính gửi ngài Cherkashin. Không
lâu nữa, tôi sẽ gửi một thùng tài liệu cho Degtyar. Đó là những thông
tin tình báo nhạy cảm nhất cộng đồng tình báo Mỹ. Tất cả đều là bản gốc
để có thể kiểm chứng. Hãy nhìn nhận lợi ích lâu dài của chúng ta... Tôi
tin một sĩ quan kinh nghiệm như ông có thể xử lý tốt trường hợp này. Tôi
tin rằng số tài liệu đủ giá trị để các ông trả cho tôi 100.000 USD. Tôi
buộc phải nhấn mạnh về sự cảnh báo rủi ro cho an toàn của tôi mà ông có
thể không nhận biết. Hoạt động của các ông gần đây đã bị thụt lùi. Tôi
xin thông báo rằng Boris Yuzhin, Sergey Motorin và Valery Martynov đã
được chúng tôi tuyển dụng... Chi tiết liên quan số tiền (mua tài liệu)
và hợp đồng tương lai sẽ được gửi trực tiếp cho ông...”.
Nhân
viên KGB Stanislov Androsov và Viktor Cherkashin biết ngay nhân vật bí
mật này không bịp họ. Lá thư xuất hiện gần như cùng lúc với một số thông
tin mà Cherkashin nhận từ Aldrich Ames (nhân viên CIA) vài tháng trước.
Với một tay kinh nghiệm như Cherkashin, ông có thể đoán nhân vật trên
làm việc ở đâu. Theo tiết lộ của Ames, hoạt động KGB tại Mỹ nằm dưới sự
theo dõi của CIA và FBI với trách nhiệm cùng chức năng chỉ khác vài
điểm. Trong khi CIA có quyền thông báo các kế hoạch KGB cho mạng điệp
viên hải ngoại của mình, FBI lại không được phép. Tuy nhiên, bộ phận
phản gián FBI có thể tiếp cận các chiến dịch và kịch bản tấn công hệ
thống gián điệp Liên Xô hoạt động tại Mỹ. Do đó, Cherkashin nghĩ rằng gã
bí mật hẳn là viên chức cấp cao thuộc bộ phận phản gián FBI. Nếu không,
hắn không thể biết Viktor M. Degtyar, huống hồ Viktor Cherkashin. KGB
đặt mật danh nhân vật bí mật trên là “B”. Ngày 15-10-1985, “B” gửi đến
nhà Degtyar gói tài liệu. Androsov và Cherkashin gần như không tin vào
mắt mình: Tất cả đều là tài liệu tuyệt mật. Chỉ 5 tháng sau khi Aldrich
Ames tình nguyện bán đứng CIA cho Liên Xô, bây giờ KGB lại nắm trong tay
một gã lợi hại không kém. 8 giờ 35 sáng 16-10, nhóm nhân viên FBI theo
dõi Sứ quán Liên Xô phát hiện Degtyar đến cơ quan với chiếc túi đen to
mà trước nay không thấy thường dùng. Nhóm FBI ghi vào sổ báo cáo chi
tiết này. Trong nhiều năm, thông tin về cái túi đen của Degtyar bị đánh
giá không quan trọng và không ai ngờ rằng đó chính là chiếc túi đựng hồ
sơ mật mà “B” tuồn cho KGB.
Khi
gửi thư cho Degtyar, “B” biết chắc rằng mình khó có thể bị phát hiện,
bởi FBI trước nay ít khi mạo hiểm lục thư nhân viên KGB hoạt động tại
Mỹ. Sợ bứt dây động rừng, FBI
không muốn để lộ thông tin rằng họ đã phát hiện vỏ bọc nhân viên KGB.
Hơn nữa, số viên chức FBI biết rõ mạng lưới KGB tại Mỹ không nhiều. 10
ngày trước, “B” được chuyển đến văn phòng FBI New York. Đây là chuyến
công tác thứ hai của “B” tại New York và cũng là lần thứ hai “B” móc nối
gián điệp Liên Xô. Năm 1979, “B” từng đến New York, vào văn phòng
AMTORG (Tổ chức Mậu dịch Liên Xô đóng vai trò bình phong cho Cục Quân
báo Liên Xô-GRU), tình nguyện cung cấp thông tin liên quan một viên
tướng GRU phản bội, người mà CIA gọi là BOURBON và FBI gọi là TOP HAT.
“B” tiếp tục làm gián điệp cho GRU cho đến khi bị vợ phát hiện năm 1980.
Khi vào tầng hầm căn nhà tại Scarsdale (New York), cô vợ thấy “B” vội
vã giấu lá thư đang đọc. Tưởng chồng ngoại tình, cô vợ khóc toáng. Hoảng
hốt, “B” không còn cách nào khác là thú nhận mình đang làm gián điệp
cho Liên Xô, nhưng “tất cả chỉ là màn bịp và anh chỉ cung cấp cho họ
toàn thông tin vớ vẩn, cốt để lấy tiền”. Đang mang thai đứa con thứ tư,
cô vợ tin lời chồng. Gia đình họ lúc đó đúng là rất cần tiền...
Siêu điệp viên
Vào
lúc bị bắt ngày 6-7-1985, Dmitri Fedorovich Polyakov nhận ra rằng cuộc
hành trình dài của ông cuối cùng đã kết thúc. Vụ điều tra Polyakov bắt
đầu từ tiết lộ của “B” năm 1979. Polyakov từng bị triệu hồi về nước đối
chất trong nhiều vụ thẩm cung và bị yêu cầu từ chức nhưng một viên tướng
phản gián KGB đã can thiệp, cho rằng Polyakov không thể phản bội đất
nước và làm tình báo cho Mỹ. Đề nghị từ trung tướng KGB Sergeyevich
Krassilnikov về việc tiến hành điều tra đến nơi đến chốn cáo buộc liên
quan Polyakov đã bị khước từ. Vụ việc được xếp vào ngăn kéo. Tướng GRU
Polyakov về hưu trong bình yên. Ông sống cuộc đời mới với đám cháu nhỏ
và giết thời giờ bằng nghề mộc. Năm năm sau, móc xích thất lạc cuối cùng
trong chuỗi dây xích cáo buộc Polyakov bỗng xuất hiện. KGB bây giờ có
đủ bằng chứng kết luận Polyakov phản bội. Thông tin lần này được tiết lộ
từ Langley (trụ sở CIA).
Ngày
4-7-1985, Polyakov nhận được thư mời dự lễ nghỉ hưu tại trụ sở GRU.
Polyakov ngờ vực và hoang mang. Đây có thể là cái bẫy. Nỗi lo càng tăng
khi được cậu con trai (Peter, lúc đó là sĩ quan GRU) kể về việc anh phát
hiện một kẻ lạ nấp ở con đường hẹp theo dõi nhà họ liên tục vài ngày
qua. Polyakov trấn an con trai. Ông không muốn làm hỏng không khí cuộc
gặp gỡ gia đình cuối tuần để mừng sinh nhật 65 của mình. Vụ bắt Polyakov
được tính toán chu đáo. Sáng 6-7-1985, trong bộ quân phục đầy huy
chương, Polyakov bước vào trụ sở GRU. Bất ngờ, 5 người lao ra. Một người
vòng tay khóa đầu trong khi bọn còn lại cởi áo ông, đề phòng Polyakov
uống thuốc độc tự tử. Dmitri Fedorovich Polyakov không chút phản ứng.
Sinh năm 1921 tại Ukraine, Polyakov tốt nghiệp Học viện Quân sự Liên Xô
tại Frunze. Sau thế chiến thứ hai, Polyakov chuyển sang quân báo, được
cài tại New York vào thập niên 1950. Sau thời gian làm việc tại trụ sở
GRU ở Moscow, Polyakov trở lại New York năm 1961. Lần này, ông phản bội
tổ quốc. Khi làm việc cho Mỹ, Polyakov mang nhiều mật danh: TOP HAT,
BOURBON, ROAM và BEEP. CIA bắt đầu khai thác tối đa Polyakov khi ông làm
việc tại Myanmar năm 1966. Năm 1974, Polyakov được GRU phong cấp tướng.
Cho đến trước khi nghỉ hưu năm 1980, Polyakov đã tiết lộ cho Mỹ gần như
toàn bộ bí mật quân sự-tình báo-quốc phòng Liên Xô mà ông có thể tiếp
cận được. Vào thời điểm bị “B” phanh phui hành động phản bội của mình
cho KGB, Polyakov công tác tại Ấn Độ. Năm 1980, Polyakov được triệu hồi
về nước và mất liên lạc với CIA từ đó.
Tuy
nhiên, bí mật động trời mà “B” cung cấp cho KGB không phải là vụ
Polyakov mà là kế hoạch trong đó FBI cùng Cơ quan An ninh quốc gia Mỹ
(NSA) xây đường hầm bên dưới trụ sở mới của Sứ quán Liên Xô tại
Washington DC. Trong khi kiến trúc sứ quán chưa xong, đường hầm bí mật
đã hoàn thành và sẵn sàng nghe trộm mọi cuộc nói chuyện giữa giới ngoại
giao Liên Xô cũng như KGB. Không chỉ đường hầm, FBI còn cài điệp viên
vào giới thầu xây dựng. Một loại sơn đặc biệt với chức năng truyền âm
tốt đã được dùng để âm thanh truyền đi thông suốt vào những ống giấu kín
trong tường, sao cho một cái hắt hơi cũng lọt đến lô thiết bị bắt tín
hiệu lắp sẵn bên dưới tòa đại sứ... Năm 1983, “B” được chuyển sang đơn
vị phân tích gián điệp Liên Xô của FBI và càng có nhiều điều kiện bán
tin cho KGB. Không phải tự nhiên mà KGB từng đánh giá “B” cao hơn cả
Aldrich Ames. “B” không ai khác hơn là siêu điệp viên Robert Hanssen,
người từng trở thành đề tài báo chí hấp dẫn cách đây vài năm, khi cuối
cùng hành tung cũng bị bại lộ.
MẠNH KIM lược dịch Kỳ sáu : Cuộc đọ sức CIA-KGB tại Afghanistan
Islamabad, Pakistan, ngày 1-6-1986. Hai tuần sau khi được chỉ định điều hành chiến dịch hành động tuyệt mật của CIA tại Afghanistan, Milt Bearden vội vã đến Pakistan để gặp viên chức CIA Bill Piekney nhằm có cái nhìn toàn cục về mặt trận chính trị lẫn chiến trường tình báo. Piekney đang kẹt trong trò chơi thả mồi bắt bóng giữa những con diều hâu trong Quốc hội Mỹ, Chính phủ Pakistan và CIA. Thượng nghị sĩ Mỹ Orrin Hatch đã bay nửa vòng trái đất đến đây để đích thân nghe tuyên bố từ Mohammed Zia ul-Haq, Tổng thống Pakistan.
Nội dung chính: Tại sao Pakistan cho phép Mỹ tuồn tên lửa Stinger sang Afghanistan từ lãnh thổ mình? Tại
sao Pakistan đồng ý hợp tác Mỹ huấn luyện du kích Afghanistan trong
cuộc chiến đánh Liên Xô. Tại sao Pakistan được lợi không bao nhiêu từ
ván cờ chính trị mạo hiểm...?
Những tính toán ban đầu
Tại
sao thế này và tại sao không thế kia là những gì Zia bàn với Hatch.
Phần mình, sứ mạng của Hatch là chuyển tải thông điệp Nhà Trắng cho Islamabad. Sau một hồi nhìn bản đồ Nam Á, Tổng thống Mỹ Jimmy Carter hiểu rằng nếu muốn tống quân đội Liên Xô ra khỏi Afghanistan,
Mỹ buộc phải hợp tác với Zia. Và Carter hành động rất nhanh. Đầu năm
1980, Carter phái cố vấn an ninh quốc gia Zbigniew Brzezinski đến Islamabad
thương nghị. Với tín hiệu xanh từ Zia, CIA lập tức triển khai chương
trình bí mật trong cuộc chiến tình báo Nam Á. Trong một chuyến công tác
thực địa, khi băng từ đèo Khyber đến trạm kiểm soát Michni, Brzezinski
đã được chụp cảnh ông quan sát đống súng trường AK-47. Từ thời khắc đó,
Brzezinski bắt đầu trở thành hiện thân của sự sa lầy Mỹ trong lịch sử
binh biến bất tận Afghanistan. Riêng Zia, ông tin rằng quân đội mình có thể làm việc với CIA mà không gặp trở ngại. Mối quan hệ CIA và quân đội Pakistan có từ thập niên 1950, khi Pakistan
đồng ý cho Mỹ phóng máy bay do thám U-2 (trong chiến dịch rình mò Liên
Xô) bay ngang bầu trời quốc gia họ. Dù vậy, Zia nhấn mạnh rằng tất cả
phải được giữ bí mật...
Đến
đời tổng thống kế nhiệm Ronald Reagan, cuộc chiến tình báo Mỹ tại Nam Á
leo thang nhanh, đặc biệt khi Reagan ký Sắc lệnh an ninh quốc gia 166,
với nội dung “tái định nghĩa” mục tiêu Mỹ tại đấu trường Afghanistan.
Năm 1986, hầu hết thành viên Quốc hội Mỹ tin rằng Liên Xô không có ý rút
khỏi Afghanistan.
Trước đó không lâu, Ngoại trưởng Liên Xô Eduard Shevardnadze nói với
Ngoại trưởng Mỹ George Shultz rằng lãnh đạo Liên Xô Mikhail Gorbachev có
kế hoạch rút quân khỏi Afghanistan, nhưng trong thực tế, Moscow không có tín hiệu cụ thể. Trong khi đó, chương trình tuyệt mật CIA tại Nam Á
đã
kéo dài 6 năm, từ vài chục triệu USD thời Jimmy Carter đến hàng trăm
triệu USD đầu thập niên 1980. Năm 1980, Zbigniew Brzezinski ký thỏa ước
với vua Ả Rập Saudi về việc Ả Rập Saudi chia đều mức hỗ trợ tài chính mà
Mỹ dành cho cuộc chiến bí mật tại Afghanistan.
Bây giờ, Giám đốc CIA William Casey tiếp tục thực hiện chiến dịch thọc
gậy bánh xe, bằng khoản ngân sách dồi dào. Ngân sách năm tài khóa bắt
đầu từ ngày 1-10-1986 đã vọt lên 1 tỉ USD – nửa tỉ từ vương quốc dầu hỏa
Ả Rập Saudi và nửa tỉ từ Mỹ. Hầu hết ngân sách được dùng mua vũ khí, từ
súng trường Trung Quốc, tiểu liên Ai Cập, lựu đạn Pháp đến tên lửa Mỹ
Stinger, chưa kể hàng ngàn xe vận tải Nhật và lừa Trung Quốc được sử
dụng chuyển vũ khí vượt “lằn ranh zero” – biên giới Pakistan -
Afghanistan. Với Milt Bearden, mọi thứ đã được bày trên sân khấu và ông
chỉ có việc trình diễn. Vấn đề bây giờ là cần thêm một chút may mắn...
Bàn tay bí mật của CIA tại Kabul
Kremlin,
tháng 8-1986. Anatoly Chernyaev đang thực hiện một trong những nhiệm vụ
khó khăn cuộc đời mình. Với vị trí tùy viên chính sách đối ngoại của
Tổng Bí thư Gorbachev, sứ mạng Chernyaev là đưa Gorbachev thoát hiểm
khỏi bãi mìn chính trị Afghanistan.
Trước đó, Chủ tịch KGB Yuri Andropov và Bộ trưởng Quốc phòng Liên Xô
Dmitri Ustinov đã có hai kết luận quan trọng về tình hình Afghanistan. Thứ nhất, Mỹ chắc chắn nhảy vào Afghanistan để lấy lại thế quân bình khu vực sau khi bị hất khỏi Iran bởi cuộc Cách mạng Hồi giáo Iran 1979. Thứ hai, Hafizullah Amin – Ngoại trưởng Afghanistan thời điểm đó – đang tung chiến dịch lật đổ Nur Muhammad Taraki, người do Moscow
dựng lên hiện giữ ghế tổng thống sau cuộc chính biến xảy ra năm trước.
KGB nghi rằng Hafizullah Amin là người của CIA và nếu Hafizullah Amin
(tốt nghiệp Đại học Columbia, Mỹ) không là điệp viên CIA thì cũng là kẻ thân Washington.
Một khi lật đổ thành công Nur Muhammad Taraki, Hafizullah Amin sẽ thay
đổi chính sách ngoại giao, cắt lần quan hệ Kremlin và ngả dần sang Mỹ.
Lúc đó, quân đội Mỹ hẳn sẽ thiết lập căn cứ quân sự tại Afghanistan. Liệu mất bao nhiêu thời gian để tên lửa tầm trung Pershing của Mỹ phóng từ Afghanistan bay vào lãnh thổ Liên Xô?
Cần
nhắc lại, 1979 là năm xảy ra nhiều sự kiện quan trọng. Tháng 2-1979,
Đại sứ Mỹ tại Kabul, Adolph Dubs, bị giết chết sau khi bị bắt cóc và bị
giam tại khách sạn Kabul. Trong thời gian Adolph Dubs bị bắt cóc, Mỹ
không biết làm gì hơn là dọa cắt viện trợ Chính phủ Afghanistan. Và rồi
tháng 3-1979, một sự kiện kinh hoàng hơn lại xảy ra. Thủ lĩnh quân sự
Afghanistan Ismail Khan ra lệnh chặt đầu một nhóm sĩ quan và lính Liên
Xô cùng gia đình họ tại thành cổ Herat. Sau vụ Herat, Nur Muhammad
Taraki yêu cầu Liên Xô đưa viện trợ quân nhằm tiễu trừ loạn phỉ. Trong
cùng tháng, Hafizullah Amin tự phong thủ tướng. “Tên CIA ở Kabul” đã bắt
đầu hành động. Tình hình càng rối loạn vài tháng kế tiếp. Sau khi bị ám
sát hụt hai lần, Hafizullah Amin ra lệnh giết Nur Muhammad Taraki vào
tháng 10. Cuối tháng 10, KGB phái nhóm chuyên viên đặc biệt sang
Afghanistan thực hiện chiến dịch Thiên đỉnh (Zenith), thăm dò tình hình
để có thể quyết định tung chiến dịch quân sự toàn diện vào Afghanistan
hay không...
Kabul, Afghanistan, 17 giờ, ngày 26-8-1986.
Chất axít từ cái thùng được đặc chế tại Phòng Kỹ thuật CIA bắt đầu ăn
mòn sợi dây đồng. Trong tích tắc, ống xy lanh bắt đầu nhồi mạnh, tạo ra
chuỗi xung điện phóng vào đống tên lửa tại kho khí cụ ở Kharga, ngoại ô Kabul. Mớ tên lửa 100 mm nhảy tưng rồi phát nổ và bay vọt lên không trung trước khi rớt xuống cách xa 6 km. Đám du kích Afghanistan
gây ra vụ trên đã chuồn mất dạng. Vụ cháy tên lửa kích nổ đống hỏa tiễn
SAM gần kho khí cụ và tiếp đó là loạt tiếng nổ đinh tai điếc óc của
hàng chục ngàn lựu đạn. Suốt đêm đó, giới ngoại giao nước ngoài cũng như
dân chúng Kabul
đã chứng kiến màn pháo bông có một không hai. Một phóng viên truyền
hình BBC kịp leo lên nóc Tòa Đại sứ Anh đã ghi lại cảnh tượng kinh
hoàng. Từ truyền hình Islamabad, Milt Bearden – chánh văn phòng CIA tại
Pakistan – bắt đầu hình dung bao nhiêu tay du kích Afghanistan
(Mujahideen) đã tham gia vụ phá hoại nhằm vào quân đội Liên Xô. Như vậy,
kế hoạch sử dụng Mujahideen đánh Liên Xô tại Afghanistan đã thật sự khai màn. Từ bây giờ, Afghanistan không chỉ là chiến trường giữa lực lượng Mujahideen và quân đội Liên Xô mà còn là cuộc quyết đấu sống mái giữa CIA và KGB...
MẠNH KIM lược dịchKỳ bảy: Từ Mujahideen đến Taliban
Những viên đạn bạc của Milt Bearden.- Islamabad, Pakistan, tháng 3-1987. Giám đốc CIA William Casey chết một tháng trước khi tuyết bắt đầu tan tại những rặng núi Nam Á. Tuy nhiên, Casey đã kịp thấy những tín hiệu đầu tiên của cục diện thay đổi tại Afghanistan. Quá trình thương lượng với Moscow tại Geneva ngày càng căng thẳng. Tại Washington, hầu hết đều tin rằng hãy còn quá sớm để Mỹ rút khỏi Afghanistan.
Và
như vậy, cuộc chiến vẫn tiếp tục. Không bị ảnh hưởng nhiều bởi không
khí chính trị Washington, chánh văn phòng CIA tại Pakistan Milt Bearden
dành hết thời gian cho cuộc chiến. Bearden tin rằng thành công của tên
lửa cầm tay Stinger phải được tiếp nối bằng vũ khí mạnh, hiệu quả và
nguy hiểm hơn để có thể duy trì tinh thần lực lượng mujahideen đồng thời
hạn chế sức mạnh quân sự Liên Xô.
Từ
đầu mùa xuân 1987, quân đội Liên Xô thay đổi chiến thuật. Mối nguy hiểm
bây giờ không phải là chiến đấu cơ mà là xe tăng. CIA đã bỏ nhiều thời
giờ nghiên cứu nhưng không biết nhiều về xe tăng Liên Xô và đặc biệt là
làm sao tìm ra vũ khí thích hợp để có thể hạ nó từ xa. Vũ khí chống tăng
được Mujahideen sử dụng lúc đó là RPG-7 hoặc súng không giật 75 mm và
82 mm, với tầm bắn hạn chế trong bán kính chừng 275 m – khoảng cách đủ
để xạ thủ Liên Xô bắn chết Mujahideen trước khi hắn kịp bóp cò. Lời
giải cho bài toán của Bearden nằm trong kho vũ khí Pháp. Đó là tên lửa
Milan do Pháp chế tạo. Khi được bắn vào mục tiêu, Milan kéo theo sợi
đồng cực mỏng mà qua đó xạ thủ có thể đưa ra mệnh lệnh điện tử điều
khiển hướng bay chính xác. Milan nâng bán kính hủy diệt của nó gấp 10
lần so với RPG-7.
Đèo Kunjerab, tháng 6-1987. Đèo Kunjerab giữa Pakistan và Trung Quốc dường như nằm sát nóc nhà
thế giới và không ai có thể lên đây bằng xe Toyota Land Cruiser –
phương tiện dùng nhiều tại chiến trường đèo núi Afghanistan. Ở độ cao
gần 5.000 m với không khí loãng và địa hình hiểm trở, Kunjerab trở thành
địa điểm lý tưởng cho các chuyến buôn lậu la từ Trung Quốc sang
Pakistan. Là sản phẩm giữa lừa đực và ngựa cái, la là giống vật có sức
chịu đựng bền bỉ và di chuyển tốt trên địa hình dốc núi. Khi dấn sâu vào
cuộc chiến Afghanistan, Milt Bearden bắt đầu khám phá một “triết lý”
rằng Mỹ không chỉ trông cậy vào “viên đạn bạc” mà còn là những con la!
Nhu cầu về la của CIA cho chiến trường Afghanistan nhiều hơn bất kỳ nơi
nào trên thế giới. Số trang thiết bị-vũ khí mà CIA cung cấp cho
Mujahideen tăng đến 60.000 tấn/năm và tất cả đều được chuyển từ Pakistan
vượt “lằn ranh zero” (biên giới Pakistan-Afghanistan) qua hơn 300 con
đường bí mật khác nhau để lọt đến các căn cứ Mujahideen. Khối lượng hàng
khổng lồ trên cần nhiều xe tải 5-10 tấn, xe hàng loại nhỏ và đặc biệt
là đám la. Nhu cầu “bất tận” về la từng hiện diện trong các bức điện mật
mà văn phòng CIA-Pakistan gửi về Langley (trụ sở CIA), đề nghị cung cấp
“la Mỹ” cho chiến trường, do nguồn buôn lậu la từ Trung Quốc không ổn
định. Một trong những bức điện như vậy ghi: “Lực lượng phản ứng nhanh
CIA tại Afghanistan chỉ cần những con la đáp ứng tiêu chuẩn sau: A/
Không hơn ba tuổi. B/ Còn đầy đủ răng. C/ Được thú y kiểm định sức khỏe
tốt (...).
“Cú đòn Ojhri” của Leonid Shebarshin
Tổng
hành dinh Ban Giám đốc thứ nhất KGB, Yasenevo, ngày 10-4-1988. Leonid
Vladimirovich Shebarshin đánh giá vụ nổ kinh hoàng tại trại Ojhri
(Pakistan) là điển hình thành công của mạng tình báo và an ninh Khad
(Afghanistan) do KGB xây dựng. Là phó giám đốc bộ phận phân tích thuộc
Ban Giám đốc thứ nhất KGB, Shebarshin có nhiệm vụ điều chỉnh liều lượng
thích hợp trong cuộc đọ sức tình báo với CIA tại mặt trận Nam Á. Trong
KGB, Shebarshin là viên tướng
kinh nghiệm nhất về Nam Á và Trung Á. Sau khi tốt nghiệp Khoa Đông
phương học Viện Quan hệ quốc tế thuộc Đại học Moscow năm 1958,
Shebarshin làm việc với vị trí viên chức ngoại giao tại Pakistan. Tiếp
đó, ông chuyển sang KGB, phụ trách các chiến dịch tại Pakistan, Ấn Độ và
Iran. Ông trở về Ban Giám đốc thứ nhất KGB đặc trách Afghanistan đầu
thập niên 1980...
Trại
Ojhri, ngày 12-4-1988. Chánh văn phòng CIA tại Pakistan Milt Bearden
được thiếu tướng Janjua đón tại sân bay. Khói vẫn bốc đen kịt, nồng nặc
mùi thuốc súng và hiện trường chỉ còn là đống gạch vụn khổng lồ. Chuyện
xảy ra như thế nào? – Bearden hỏi. “Chúng tôi tiếp tục điều tra” –
Janjua trả lời – “Nhưng có lẽ công nhân bốc xếp đã làm rơi một tên lửa
Ai Cập, có thể là tên lửa phốt pho trắng. Có một tiếng nổ lớn và lửa bắt
đầu cháy mạnh. Khi công nhân vội vã cứu người bị thương, ngọn lửa lan
nhanh không thể kiểm soát. Trong vài phút, tất cả đều nổ tan tành”. “Lại
là quân nhu Ai Cập sao?” – “Vâng, đúng là quân nhu Ai Cập”... Quân đội
Mỹ chứng kiến nhiều lần sự tắc trách của nguồn cung cấp quân nhu Ai Cập.
Trong những năm đầu cuộc chiến, Ai Cập đã tống đổ tống tháo vũ khí và
đạn dược lỗi thời của họ cho các chiến binh Mujahideen Afghanistan. Một
năm trước, từng có một vụ nổ nhỏ tại trại Ojhri, cũng bởi bom phốt pho
Ai Cập. Tuy nhiên, quân nhu Ai Cập đã bị trách oan lần này...
So
với “viên đạn bạc” của Milt Bearden, vụ Ojhri của Leonid Shebarshin có
tác động kinh khủng bội lần. Sự kiện Ojhri không chỉ làm CIA hoang mang
mà còn gây hỗn loạn chính trường Pakistan. Thủ tướng Pakistan Mohammed
Khan Junejo chỉ trích quân đội và Cơ quan Tình báo Pakistan (ISI). Cùng
lúc, quân đội lên án tướng- Giám đốc ISI Abdur Rahman Khan Akhtar. Rồi
phần mình, Akhtar phê bình tướng Hamid Gul về việc cho phép chứa quá
nhiều đạn dược tại Ojhri. Thời điểm xảy ra vụ nổ hàng chục ngàn tấn đạn
dược-vũ khí tại Ojhri trùng với việc ký Hiệp định Geneva vào bốn ngày
sau đã khiến CIA nghi rằng KGB có thể là kẻ chủ mưu. Tuy nhiên, vài
người khác đoán rằng gián điệp Ấn Độ – dưới sự kích động KGB – đã trực
tiếp gây ra thảm họa. Lại có kẻ kể rằng mình thấy chiến đấu cơ Mirage
của quân đội Ấn Độ bay sà thấp tại khu vực trước khi xảy ra vụ nổ. “Nhân
chứng” cho biết máy bay Ấn Độ đã “bắn ra một tia sáng” vào kho đạn!
Chưa hết, một giả thuyết cho rằng CIA chứ không ai khác đã tạo ra vụ nổ
Ojhri như một mặc cả bí mật với KGB nhằm đưa đến “thế cân bằng cục diện
chiến trường” để có thể đạt được thương nghị thuận lợi cho cả hai bên
tại bàn đàm phán Geneva. Sự kiện Ojhri tiếp đó kéo theo vài hậu quả.
Tổng thống Pakistan Mohammed Zia ul-Haq bất ngờ cách chức Thủ tướng
Mohammed Khan Junejo bởi tội danh “tham nhũng và bất lực”. Cuối cùng,
cao điểm cuộc khủng hoảng chính trị Pakistan là vụ tai nạn máy bay gây
tử nạn Tổng thống Zia.
Ngày
15-2-1989, các toán quân cuối cùng của 115.000 lính Liên Xô băng biên
giới Afghanistan trở về Tajikistan. Sự triệt thoái quân đội Liên Xô đồng
nghĩa việc Afghanistan sẵn sàng trở thành đồng minh Mỹ. Sự tan rã khối
Liên Xô vào tháng 12-1991 khiến cơn lốc Mujahideen càng mạnh. Tháng
4-1992, Mujahideen tiến vào Kabul, theo sau sự sụp đổ chính thể của Tổng
thống Muhammad Najibullah. Tháng 8-1994, từ thành phần Mujahideen,
Taliban (có nghĩa “môn sinh Hồi giáo”) được giáo sĩ Mohammed Omar khai
sinh, tại thị trấn Kandahar phía Nam Afghanistan. Chỉ hai năm sau, họ
trở thành lực lượng chính trị - quân sự cực mạnh, làm chủ hoàn toàn
Kabul, và tréo ngoe thay, họ lại trở thành kẻ thù không đội trời chung
của Mỹ...
MẠNH KIM LƯỢC DỊCHKỳ cuối: Trận chiến chưa kết thúc
Xóa sạch dấu vết CIA ở Đông Âu.- Đông Berlin, 19 giờ, ngày 9-11-1989. David Rolph đã đi một chặng dài trong sự nghiệp 12 năm làm việc cho CIA. Bây giờ, 41 tuổi, Rolph trở lại mặt trận chiến tranh lạnh với chiến dịch tình báo nhằm vào Ministerium fur Staatssicherheit (Mfs), được biết dưới cái tên quen thuộc Stasi – Cơ quan Tình báo Đông Đức.
Khi
Rolph đến Berlin phụ trách chỉ huy văn phòng CIA tại Đông Đức vào mùa
hè 1988, CIA không có điệp viên nào cài trong bộ máy an ninh nội bộ
Stasi, tức Hauptverwaltung Aufklarung (HVA, bộ phận tình báo hải ngoại
Stasi) và gần như toàn bộ hoạt động tình báo CIA đều trông cậy vào thiết
bị nghe trộm... Bộ máy phản gián Đông Đức đã làm việc tốt để ngăn CIA
lọt vào tổ chức nhà nước họ và Mỹ cũng không mua được viên chức Đông Đức
cấp cao nào làm điệp viên cho mình. Sau khi bức tường Berlin bị đập
phá, ba nhiệm vụ chính mà chỉ huy sở CIA yêu cầu David Rolph thực hiện
cấp thời: xóa sạch dấu vết; đánh cắp tài liệu từ các cơ quan Chính phủ
Đông Đức cũng như Stasi và tiếp
cận điệp viên Stasi nhằm mua chuộc họ. Trong khi David Rolph chưa kịp
triển khai, tình hình chuyển biến ngày càng nhanh. Ngày 15-1-1990, trụ
sở Stasi tại khu phức hợp Normannenstrasse bị dân Đông Đức tấn công.
Người ta quẳng ra đường vô số tài liệu. Sự kiện Normannenstrasse được
tường thuật trực tiếp từ CNN và tại Mỹ, Tổng thống George H. Bush
(nguyên giám đốc CIA) đã gọi Langley và chỉ trích nặng nề việc CIA không
nhanh chân tiếp cận tài liệu. Không chỉ Đông Đức, tình hình tương tự
cũng xảy ra tại Tiệp Khắc và Ba Lan...
Bang
Virginia, ngày 12-4-1991. Aldrich Ames trở về trụ sở CIA vào mùa hè
1989 sau ba năm làm việc tại Rome (Ý) trong bối cảnh chính trị thế giới
chuyển biến nghiêm trọng. Ames sắp làm bố lần đầu tiên, sau cuộc tình
với cô gái Colombia Rosario. Gặp Aldrich Ames không lâu trước khi Ames
sang Rome, Milt Bearden ngạc nhiên không ít về “con người mới” của Ames.
Trước khi sang Rome, Ames có hàm răng gớm ghiếc và bây giờ thay vào đó
là hàm răng mới trị giá 1.500 USD. Một nhân viên CIA cũng cho Bearden
biết về căn nhà Ames mới mua tại Arlington trị giá 500.000 USD. Gặp
Bearden, Aldrich Ames xin được chuyển sang bộ phận đặc trách Liên
Xô-Đông Âu. Anh chính là điệp viên nhị trùng làm việc cho KGB. Yêu cầu
KGB lúc đó là tìm hiểu xem CIA đóng vai trò như thế nào trong vụ tan rã
khối xã hội chủ nghĩa Đông Âu cũng như những khả năng mà Mỹ lợi dụng
tình hình hỗn loạn Đông Âu. Nếu nắm đủ thông tin cần thiết, KGB có thể
ngăn Mikhail Gorbachev trước khi ông phá nát phần còn lại của cộng đồng
Xô Viết. Từ cuối thập niên 1980, CIA đã cài người vào nhiều tổ chức “dân
chủ” tại Đông Âu. Ở Ba Lan, CIA tài trợ cho phong trào chính trị cực
mạnh mang tên Đoàn kết. Đồng thời, CIA cũng cung cấp tiền cho những ấn
phẩm được thành phần Đông Âu lưu vong xuất bản. Chương trình tuyệt mật
của chiến dịch tuồn ấn phẩm tuyên truyền vào Liên Xô cũng như Đông Âu là
một trong những thành công nhất của CIA thời chiến tranh lạnh. Với
trường hợp điển hình Ba Lan, cùng tổ chức Đoàn kết và Giáo hội Công giáo
Ba Lan, CIA không chỉ tung vào nước này ấn phẩm mang nội dung “tố cáo”
cộng sản mà còn tuồn băng hình, phim tài liệu và video ca nhạc... Gần
như toàn bộ sản phẩm này đều được sản xuất từ Ban hành động chính trị và
tuyên truyền của CIA. Đầu thập niên 1990, khi chính trị Đông Âu thay
đổi, một trong những chiến dịch xóa sạch dấu vết của CIA là cắt liên hệ
với các nhóm “dân chủ”, trong đó có Đoàn kết...
11-9, cú đấm nặng nề cho CIA
Khi
Liên Xô tan rã năm 1991, Phòng Liên Xô-Đông Âu tại trụ sở CIA cũng biến
mất và thay vào đó là Lực lượng phản ứng nhanh Á-Âu trung tâm. Trong
khi CIA hiệu chỉnh và tái thiết kế bộ máy tình báo thời hậu chiến tranh
lạnh, tháng 2-1994, một nhóm FBI áp chiếc Jaguar của Aldrich Ames vào lề
đường và bắt Ames tội làm gián điệp. CIA luôn nói rằng
vụ bắt Ames là kết quả của quá trình điều tra và phân tích; tuy nhiên,
nếu không nhờ một điệp viên Liên Xô phản bội, có lẽ Ames không bao giờ
bị lộ diện. Tương tự, vụ bắt Robert Hanssen vào tháng 2-2001 cũng nhờ
tiết lộ một cựu điệp viên KGB. Vụ phản bội của Ames đóng vai trò quan
trọng trong kế hoạch hiệu chỉnh bộ máy tình báo Mỹ thời hậu chiến tranh
lạnh. Hàng trăm nhân viên CIA bị trải qua cuộc kiểm tra máy phát hiện
nói dối. Sức ép không chỉ bên trong mà còn từ bên ngoài tổng hành dinh
CIA. Báo chí và quốc hội đặt loạt câu hỏi mới cho vai trò CIA trong bối
cảnh chính trị mới. CIA cuối thập niên 1990 giống hệt như quân đội Mỹ
thập niên 1930: Tại ngũ trong thời bình và nếu có giao chiến thì cũng
chỉ là những màn đánh đấm bàn giấy mang tính nội bộ. Năm 1998, khi Osama
Bin Laden tấn công hai tòa đại sứ Mỹ ở châu Phi, John Deutch – cựu bộ
trưởng quốc phòng của Clinton – viết trên tờ New York Times: “Chúng ta
phải cần một thứ tình báo siêu đẳng để có thể cảnh báo chính xác hoạt
động khủng bố. Chúng ta phải có phản ứng nhanh và mạnh để đối mặt với
hậu quả một khi khủng bố xảy ra. Các chuyên gia đã kết luận rằng quốc
gia chúng ta chưa chuẩn bị để có thể hành động hiệu quả ở các vấn đề
này”. Chính phủ Clinton không quan tâm đến cảnh báo trên. Ngoài thờ ơ và
đánh giá sai thực lực kẻ thù (Bin Laden), nội các Clinton còn có vài
nguyên nhân khác trong việc không chú ý Afghanistan và hoạt động “thánh
chiến” của Bin Laden...
Giữa
thập niên 1990 (khi Taliban chiếm Kabul và lật đổ chính phủ Muhammad
Najibullah), Công ty dầu Unocal (trụ sở California) đang tìm cách xin
giấy phép lập hệ thống đường ống dẫn dầu khổng lồ băng ngang
Afghanistan, nối các mỏ dầu và khí đốt ở Turkmenistan đến một nhà máy và
cụm cảng tại Pakistan. Bộ Ngoại giao Mỹ ủng hộ kế hoạch của Unocal –
theo lời kể Robin L. Raphel, trợ lý ngoại trưởng phụ trách các vấn đề
Nam Á thời 1993-1997. Đích thân Raphel đã bay sang Kandahar
(Afghanistan) gặp các thủ lĩnh Taliban để giúp Unocal giành hợp đồng từ
các đối thủ châu Âu. Nếu kế hoạch thành công, Taliban có thể bỏ túi 100
triệu USD/năm tiền phí quá cảnh. Để tiến hành dự án, Unocal còn thuê các
viên chức cấp cao từng làm việc trong Bộ Ngoại giao, trong đó có cựu
ngoại trưởng Henry A. Kissinger, cựu đại sứ đặc biệt Mỹ John J. Maresca
và cựu đại sứ Mỹ tại Pakistan Robert Oakley. Zalmay Khalilzad – người
gốc Afghanistan từng làm cố vấn trong Bộ Ngoại giao thời Reagan – cũng
trở thành tham vấn chính trị của Unocal (Khalilzad là một trong những cố
vấn hàng đầu về Afghanistan của nội các George W. Bush trong cuộc chiến
Afghanistan). Thương vụ Unocal và quan hệ nửa bạn nửa thù của Mỹ với
Taliban chỉ thật sự chấm dứt khi Bin Laden tấn công hai tòa đại sứ Mỹ ở
châu Phi (7-8-1998). 13 ngày sau, Bill Clinton ra lệnh phóng tên lửa
tiêu diệt hang ổ Bin Laden tại Afghanistan và Sudan. Ngày 4-12-1998,
Unocal tuyên bố hủy dự án tại Afghanistan. Năm 1999, Bộ Ngoại giao Mỹ
chính thức đưa Al-Qaeda vào danh sách “các nhóm khủng bố nước ngoài”,
phong tỏa các tài sản và tài khoản của Al-Qaeda tại Mỹ, cấm cấp visa cho
thành viên Al-Qaeda... Tuy nhiên, tất cả đã quá muộn. Sự kiện 11-9 làm
thay đổi toàn bộ. CIA bị quẳng lại vào vòng chiến. Không đầy một tháng
sau khi Trung tâm Thương mại Thế giới sụp đổ, CIA đã trở lại chiến địa
cũ Afghanistan. Với CIA, 11-9 là cú đấm nặng nề nhất lịch sử tình báo Mỹ
và bắt đầu từ lúc đó, họ lại lao vào trận chiến mới, với tính phức tạp
hoàn toàn không giống những gì từng diễn ra trong cuộc so găng với
KGB...
MẠNH KIM lược dịch
Nhận xét
Đăng nhận xét