Thứ Năm, 18 tháng 8, 2016
CÁC BẬC NHÂN TÀI KHOA HỌC 7
19- Plato
-428-348
Triết Lý
Platon
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
|
Sinh ra ở Athen, ông được hấp thụ một nền giáo dục tuyệt vời từ gia đình, ông tỏ ra nổi bật trên mọi lĩnh vực nghệ thuật và đặc biệt là triết học, ngành học mà ông chuyên tâm theo đuổi từ khi gặp Sokrates.
Ông đã từng bị bán làm nô lệ và được giải thoát bởi một người bạn, sau đó, ông đã trở về Athena khoảng năm 387 TCN và sáng lập ra Akademia (tên lấy theo khu vườn nơi ông ở). Đây có thể được coi là trường đại học đầu tiên trong lịch sử nhân loại, nơi dành cho nghiên cứu, giảng dạy khoa học và triết học. Aristoteles đã theo học tại đây khi 20 tuổi và sau này lập ra một trường khác là Lyceum.
Khi Sokrates chết vào năm 399 TCN thì Platon mới khoảng 31 tuổi. Trong suốt phiên tòa xử thầy mình, ông ngồi dự ở phòng xử án. Toàn bộ chuỗi biến cố đó dường như đã ăn sâu vào tâm hồn ông thành một kinh nghiệm chấn động, vì ông đánh giá Sokrates là người giỏi nhất, minh triết nhất và chính trực nhất trong tất cả mọi người.
Từ đó Platon bắt đầu cho phổ biến một loạt các đối thoại triết học trong đó nhân vật chính luôn luôn là Sokrates, căn vặn những kẻ đối thoại của ông về những khái niệm căn bản về đạo đức và chính trị, làm cho họ mắc mâu thuẫn trước những câu hỏi của ông.
Có lẽ Platon có hai động cơ chính để làm việc này. Một là để thách thức và tái khẳng định những lời giáo huấn của Sokrates bất chấp chúng đã bị kết án một cách công khai; hai là để phục hồi danh dự người thầy yêu quý của mình, cho mọi người thấy ông không phải là một kẻ hủy hoại giới trẻ mà là một bậc thầy danh giá nhất của họ.
Tiểu sử
Gia đình
Thời gian và nơi sinh của Platon thì không được biết rõ nhưng chắc chắn một điều là ông sinh ra trong một gia đình quý tộc và có ảnh hưởng. Theo nhiều nguồn tài liệu cổ, hầu hết các học giả hiện đại tin rằng ông sinh ra ở Athen hoặc Aegina trong khoảng 429 và 423 TCN. Cha ông là Ariston. Theo truyền thống còn tranh cãi, như thông báo của Diogenes Laertius, Ariston có gốc gác từ vua Athena, Codrus, và vua của Messenia, Melanthus. Mẹ của Platon là Perictione, gia đình bà ta có quan hệ rộng rãi với những nhà làm luật Athen nổi tiếng và nhà thơ trữ tình Solon. Perictione là chị của Charmides và là cháu gái của Critias, cả hai nhân vật nổi tiếng của ba mươi bạo chúa cùng với sự sụp đổ của Athen vào cuối chiến tranh Peloponnesian (404–403 TCN). Ngoài Platon himself, Ariston và Perictione còn có 3 người con khác, gồm hai trai là Adeimantus và Glaucon, và một gái Potone, là mẹ của Speusippus (cháu trai và là người kế nhiệm Platon đứng đầu học việc Triết học của ông). Theo Cộng hòa, Adeimantus và Glaucon lớn tuổi hơn Plato. Tuy vậy, trong quyển Memorabilia, Xenophon cho rằng Glaucon thì nhỏ hơn Platon.Triết học Platon
Platon là nhà triết học duy tâm khách quan. Điểm nổi bật trong hệ thống triết học duy tâm của Platon là học thuyết về ý niệm. Trong học thuyết này ông đưa ra hai quan niệm về thế giới các sự vật cảm biết và thế giới các ý niệm. Trong đó thế giới các sự vật cảm biết là không chân thực, không đúng đắn vì các sự vật không ngừng sinh ra và mất đi, thay đổi và vận động, không ổn định, bền vững, hoàn thiện; còn thế giới ý niệm là thế giới phi cảm tính phi vật thể, là thế giới đúng đắn, chân thực, các sự vật cảm biết chỉ là cái bóng của ý niệm. Nhận thức của con người không phải là phản ánh các sự vật cảm biết của thế giới khách quan mà là nhận thức về ý niệm. Thế giới ý niệm có trước thế giới cảm biết, sinh ra thế giới cảm biết. Từ quan niệm trên Platon đã đưa ra khái niệm "tồn tại" và "không tồn tại". "Tồn tại" theo ông là cái phi vật chất, cái nhận biết được bằng trí tuệ siêu tự nhiên là cái có tính thứ nhất. Còn "không tồn tại" là vật chất, cái có tính thứ hai so với cái tồn tại phi vật chất. Về mặt nhận thức luận Platon cũng mang tính duy tâm. Theo ông tri thức là cái có trước các sự vật chứ không phải là sự khái quát kinh nghiệm trong quá trình nhận thức các sự vật đó. Nhận thức con người không phản ánh các sự vật của thế giới khách quan mà chỉ là nhớ lại, hồi tưởng lại của linh hồn những cái đã quên trong quá khứ. Theo Platon tri thức được phân làm hai loại: Tri thức hoàn toàn đúng đắn và tri thức mờ nhạt. Loại thứ nhất là tri thức ý niệm có được nhờ hồi tưởng. Loại thứ hai là tri thức nhận được nhờ vào nhận thức cảm tính, lẫn lộn đúng sai không có chân lí. Về xã hội, Platon đưa ra quan niệm về nhà nước lí tưởng trong đó sự tồn tại và phát triển của nhà nước lí tưởng dựa trên sự phát triển của sản xuất vật chất, sự phân công hài hoà các ngành nghề và giải quyết các mâu thuẫn xã hội.Những môn đệ của Platon
Nổi tiếng nhất trong số những người môn đệ của ông là Aristoteles. Ngoài ra, sau này có Plotinus, một triết học gia người Ai Cập (với cái tên La Mã) có thể được coi là một triết gia Hy Lạp vĩ đại cuối cùng cũng là một người chịu ảnh hưởng của Platon. Tư tưởng của ông phát triển khuynh hướng thần bí của Platon và sau đó được biết tới như học thuyết Tân Platon.Câu nói nổi tiếng
-
- " Tự chinh phục mình là chiến công vĩ đại nhất."
- Trang này được sửa đổi lần cuối lúc 13:22 ngày 4 tháng 3 năm 2016.
CUỘC ĐỜI VÀ NỘI DUNG TRIẾT HỌC CỦA PLATON
CUỘC ĐỜI VÀ NỘI DUNG TRIẾT HỌC CỦA PLATON
Phan Thị
Cam
Lớp 10SGC
Khoa Giáo dục
Chính trị
Trường Đại
học Sư phạm Đà Nẵng
1. Mở đầu
Triết học Hy Lạp cổ đại là khúc dạo đầu cho một bản nhạc giao hưởng,
hợp xướng của triết học phương Tây. Một giai đoạn lịch sử khởi nguyên của triết
học nhân loại làm tiền đề cho toàn bộ hệ thống triết học phương Tây sau này. Những
đôi tay vàng trong bản hợp xướng đầu tiên đó được phản ánh qua những triết gia
dệt nên những trang bất hủ bởi thời gian. Một trong những đôi tay đẹp hơn tất cả
đôi tay ở Hy Lạp cổ đại là Platon.
2. Nội dung
2.1 Cuộc đời của Platon
Platon chào đời tại Athens,
Hy Lạp vào năm 472 TCN, Platon thuộc gia đình quý phái về phía cả cha lãnh mẹ. Cha
của Platon tên là Ariston thuộc họ quốc vương Codre, vị vua cuối cùng của thành
Athens và được coi là con cháu của thần Poseidon, mẹ là Périctiana có họ hàng với
Salon, nhà luật học lừng danh của Hy Lạp. Platon có một người chú tên là
Critias, là một trong 30 nhân vật thuộc Hội Đồng Hoạt Đầu.
Platon tên thạt là Aristocles là người thân
hình cao lớn và vạm vỡ như một lực sĩ, nên được mọi người gọi là Platon. Ông có
một người chị và hai anh là Adeimantus và Glaucon mà tên còn được nhắc nhở
trong cuốn sách “ Nền cộng hòa”, trong vai người đối thoại của Socrates.
Sau
khi Platon chào đời được ít lâu, cha của ông qua đời, mẹ tái giá với
Pyrilampes, một người chú họ ngoại và cũng là một người bạn, người ủng hộ nhiệt
thành Pericles. Tại nhà của Pyrilampes, Platon được mẹ chăm sóc đến năm lên 7
tuổi, rồi được theo trường học. Năm 18 tuổi, Platon học hỏi các triết gia và
các nhà ngụy biện (Sophistists). Từ năm 20 tuổi Platon theo học Socrates trong
8 năm liền. Platon rất quý Socrates và nhanh chóng trở thành học trò xuất sắc
nhất của Socrates. Ông tham gia tích cực tổ chức nghiên cứu triết học do
Socrates cầm đầu, Platon rất đau khổ trước cái chết của Socates, bị kết án tử
hình Socrates đã bình thản uống thuốc độc chết. Có lẽ vì lo sợ cho sự an toàn của
mình rồi lại do lòng căm phẫn Platon cùng vài môn đệ của Socrates tới ẩn náu tạm
thời tại Megara, nơi đây Platon theo học Euclid, nhà toán học danh tiếng.
Năm 396 TCN, Platon trở thành Athens
và theo như luật định, ông phục vụ trong hàng ngũ kỵ binh tham chiến trong trận
Corinth và trận này kết thúc bằng sự thất bại của
xứ Athens trước xứ Sparta. Vào thời đó người miền Athens thường hay đi lại nhiều nơi và vì ghê tởm cuộc chiến
tranh vừa qua, Platon tìm đường sang Ai Cập. Đầu tiên ông dừng lại tại Crete rồi
Cyrene. Ở nơi
này ông nghiên cứu toán học với Theodorus đến năm 390 ông mới đến Ai Cập. Tại
Heliopolis, Platon đã học hỏi về thiên văn, tôn giáo và hiến pháp. Nhờ thời
gian sống tại Ai Cập, Platon đã quan sát kỹ lưỡng các phong tục và suy tưởng. Sau
này ông đã bàn luận về điều này trong tác phẩm của ông. Sau khi rời Ai Cập, ông
sang Đại Hy Lạp tới Tarentrun và quen với Archytas.
Các
cuộc đi xa đã giúp cho Platon nhiều cơ hội làm quen với một số nhà sáng lập ra
vài trường phái học thuật như Pythagoras, Heraclite, cũng như các nhà triết học
Eleatic. Từ những nhận xét về thực tế và các điều học hỏi từ Socrates, cộng với
các sở thích liên quan đến vấn đề chính trị, Platon đã đi đến kết luận rằng chỉ
những người có kiến thức và các phẩm chất đạo đức mới đáng giao phó quyền lực để
điều khiển người khác. Lý tưởng triết học của Platon đang cần có các cơ hội để
áp dụng.
Vào thời này Dionysiuss đã thành công
trong việc lật đổ nền cộng hòa và thiết lập tại Syracuse một chế độ chuyên chế. Diom, một người
học trò cũng là bạn thân của Platon đã thúc giục Platon đảm nhận việc giáo dục
Dionysius, đồng thời bạo chúa của thành Syracuse
này cũng mời ông qua Ý Đại Lợi. Đây là một cơ hội để Platon áp dụng lý thuyết về
chính quyền vào một hoàn cảnh thực tế. Platon đến Syracuse được triều đình của nơi này coi như
thượng khách. Về sau Platon bị bạo chúa ghét bỏ, ông bị tống giam và bị giao
cho viên thuyền trưởng Pollis, người xứ Sparta.
Pollis đã bán Platon tại Egina như một tên nô lệ. Nhưng thật may cho Platon, một
người theo triết học của ông ở Cyrene cứu và thành lập ra viện Hàn Lâm Athene,
được xem là trường đại học tổng hợp đầu tiên ở Châu Âu, là trung tâm của triết
học duy tâm chống lại triết học duy vật. Viên Hàn Lâm Athene đã thu hút được rất
nhiều người theo học ở cả trong và ngoài nước. Platon giảng dạy rấy nhiều môn học,
ông làm việc ở đây khoảng 20 năm.
Trong các năm cuối đời, Platon sống tại
thành Athens và đã soạn ra các tác phẩm như: Timaeus, Crite và cuốn sách dang dở
The laws Platon qua đời vào năm 348 hay 347 TCN,giữa thời kì nước Hy Lạp bị
Philip II,vua miền Makedonia xâm chiếm các tác phẩm của Platon,các tác phẩm còn
lưu tới ngày nay của Platon gồm 35 tập đối thoại và 13 bức thư, một số tập này
và bức thư bị nghi ngờ về tính đích thực. Đối thoại là một hình thức viết văn
trong đó trình bày hai hay nhiều nhân vật, đặt ra một vấn đề, bàn luận các chỉ
trích và các tương phản giữa các ý tưởng triết học. Các nhân vật trong tác phẩm
với các cá tính khác nhau,quan điểm khác nhau đã thảo luận cũng như tranh cãi
cùng nhau về nhiều mặt đối nghịch nhau của một đề tài. Platon đã dùng phương
pháp biện chứng của Socrates để trao đổi các ý tưởng. Trong các đối thoại,
Socrates đã gặp gỡ một người tự cho là hiểu biết nhiều, đặt các câu hỏi cho người
này rồi dần dần đưa đến kết luận là người này chưa đủ hiểu biết.
2.2 Nội dung triết học Platon
Triết
học của Platon là một hệ thống triết học duy tâm khách quan lớn và đầu tiên
trong lịch sử triết học đã đạt đến sự hoàn chỉnh, nhất quán và triệt để. Nó xuất
phát từ ba nguồn gốc tư tưởng: triết học
của Socrates về cái phổ biến, cái chung làm cơ sở cho đạo đức; triết học của
phái Élesee học thuyết về sự tồn tại duy nhất, bất biến. Và triết học của phái
Pythagore về những con số, con số được xem là bản chất chân thật của sự vật. Dựa vào ba nguồn gốc trên trong đó chủ yếu vẫn
là triết học của Socrates, Platon đã xây dựng nên hệ thống triết học duy tâm
khách quan.
Học
thuyết về ý niệm
Chiếm
một vị trí đặc biệt quan trọng trong triết học của Platon là học thuyết về ý niệm.
Đây được xem là nền tảng của thế giới quan của ông. Quan niệm của Platon về ý
niệm tồn tại, về vật chất không tồn tại, về sự vật cảm tính, về những con số…
Các ý niệm theo cách hiểu của Platon đó là các khái niệm, tri thức đã được
khách quan hóa. Chúng bị rút ra khỏi ý thức của con người, hòa trộn vào thế giới
tư tưởng được coi là tổng thể các ý niệm tương tự. Các ý niệm được coi là tồn tại
nói chung, bất biến và vĩnh viễn.
Coi các ý niệm là tồn tại nói chung, là
tồn tại thực sự, Platon vẫn khẳng định rằng cái không tồn tại là cái thực. Cái
không tồn tại là một khía cận của tồn tại, bản thân cái tồn tại cũng bao hàm cả
“ cái khác ” với nó tức là cái không tồn tại. Dưới con mắt của Platon bản thân
vật chất nói chung cũng tồn tại vĩnh viễn và không phải do thế giới ý niệm sản
sinh ra, mặc dù nó không phải là cái gì cả nhưng nó vẩn cần thiết. Chính các ý
niệm về vật chất là cơ sở tạo nên sự vật trong thế giới chúng ta.
Tóm
lại, trong quan niệm về thế giới, Platon theo lập trường duy tâm khách quan,
coi mọi sự vật chỉ là hiện thân của ý niệm, là cái bóng của ý niệm. Vật chất
không tồn tại với ý nghĩa là nó không tồn tại chân thực chứ không phải là không
có. Sự vật cảm tính chỉ có thể có ý niệm tồn tại và vật chất không tồn tại, nó
nằm giữa tồn tại và không tồn tại.
Học
thuyết về vũ trụ
Đây là sự phát triển tiếp theo của học
thuyết về ý niệm, là đỉnh cao của chủ nghĩa duy tâm thần bí trong triết học của
Platon. Theo Platon sự khác nhau giữa các vật thể là do sự khác nhau về quan hệ
toán học, do những con số quyết định. Những con số thần bí chi phối toàn bộ học
thuyết về vũ trụ. Platon cho rằng thế giới có linh hồn, linh hồn của thế giới
do thần thánh tạo ra. Ông chia ra thành 2 loại linh hồn thế giới là linh hồn của
thế giới cái thiện có trật tự và linh hồn của cái ác, vô trật tự.
Platon cho rằng vũ trụ hình cầu là duy
nhất, hữu hạn, trung tâm của vũ trụ là quả đất, chung quanh quả đất là các hành
tinh, các tinh tú, chúng vận động quay nhờ linh hồn của chúng.
Lý luận về nhận thức và linh hồn.
Ông là người đầu tiên tách rời tinh thần và thể xác, trong con người có
hai phần là phần thể xác và phần linh hồn. Phần linh hồn được xem như là một thực
thể độc lập, không phụ thuộc vào thể xác, hơn thế nữa nó còn chi phối thể xác.
Linh hồn làm cho thể xác hoạt động, limh hồn điều khiển thể xác. Linh hồn tồn tại
độc lập với thể xác con người, linh hồn bất tử, ý niệm tồn tại bất biến và vĩnh
hằng, linh hồn thuộc thế giới ý niệm nên linh hồn bất tử.
Platon
không chỉ tách rời mà còn đối lập linh hồn với thể xác trong con người, ông coi
thể xác chỉ là nơi trú ngụ tạm thời của linh hồn. Thể xác con người theo Platon
được cấu thành từ đất, nước, lửa, không khí, do vậy không thể bất diệt còn linh
hồn là sản phẩm của linh hồn vũ trụ gồm 3 phần: Lý tính hay trí tuệ, xúc cảm và
cảm tính trong đó phần lý tính thì bất diệt còn 2 phần sau thì chết cùng thể
xác.
Bản
thân số lượng linh hồn không thay đổi bởi chúng được tạo ra bởi Thượng đế, bởi
linh hồn vũ trụ cách đây đã lâu. Sau khi được tạo ra mỗi linh hồn trú ngụ ở một
vì sao trên trời và sau đó chúng dùng cánh bay xuống trần gian và nhập vào thể
xác tạo nên con người. khi nhập vào thể xác con người thì nó quên hết mọi quá
khứ. Vì thế nhận thức con người là sự hồi tưởng lại những gì mà linh hồn đã
lãng quên.
Quan
niệm về linh hồn bất tử của Platon rất duy tâm, thần bí hoàn toàn đối lập với
quan niệm của Heraclite và Democrite về linh hồn.
Platon phản đối cảm giác luận và nhận thức
luận duy vật nói chung, ông cho rằng nhận thức cảm tính, cảm giác, không phải
là nguồn gốc của tri thức chân thực. Kết quả của nhận thức cảm tính chỉ là “ dư
luận ”. Tri thức chân thực chỉ có thể đạt được bằng nhận thức lý tính và được
thể hiện trong khái niệm. Nhận thức chỉ là sự hồi tưởng của linh hồn bất tử, là
sự liên hệ các chân lý được hồi tưởng. Chỉ có linh hồn dũng cảm, có ý chí mới
nhận thức được thế giới ý niệm, nhận thức được chân lý, như vậy đam mê, dục vọng
không thể nhận thức được chân lý. Muốn nhận thức được chân lý phải dũng cảm, có
ý chí.
Platon
chú ý đến phương pháp nhận thức, phương pháp đánh thức sự hồi tưởng của linh hồn
bất tử, phương pháp đó theo ông là phép biện chứng. Platon phủ nhận vai trò của
nhận thức cảm tính, của tư duy thuần túy đến mức lý tưởng hóa, thần thánh hóa
nó. Phép biện chứng theo cách hiểu của Platon là phép biện chứng duy tâm,
Platon không có đóng góp tích cực nào về phếp biện chứng.
Quan
niệm về đạo đức
Đạo
đức của Platon được xây dựng dựa trên cơ sở học thuyết về linh hồn, theo Platon
linh hồn có 3 bộ phận là lý trí, ý chí và nhục dục. Ông hình tượng hóa 3 bộ phận
ấy là cỗ xe song mã, trong đó lý tính thì lái xe, con ngựa có ý chí thì nhận thức
được ý niệm, con ngựa thèm khát nhục dục thì sa vào tối tăm, dốt nát mà không
nhận thức được ý niệm. Platon cho rằng lý tính của linh hồn là cơ sở của sự
thông thái, ý chí là cơ sở của lòng dũng cảm, chế ngự nhục dục là cơ sở của sự
điều độ. Sự thông thái là một đức tính cao nhất, sự kết hợp 3 yếu tố trên dưới
sự chỉ đạo của lý tính sẽ tạo ra chính nghĩa là yếu tố thứ tư. Lý tính, ý chí,
chế ngự dục vọng và chính nghĩa là bốn yếu tố trong đạo đức học của Platon.
Đạo
đúc học của Platon hướng con người vào ý niệm tối cao của cái thiện, đó là sự
thông thái và lòng dũng cảm. Platon cho rằng chỉ có số ít người, những chủ nô thượng
lưu mới có đời sống đạo đức với những biểu hiện tối cao của nó là sự thông thái
và lòng dũng cảm. Còn quần chúng thường dân chỉ có năng lực đạo đức tiêu cực, đạo
đức khuất phục. Platon không coi nô lệ là con người. Với ông đó chỉ là những “Động
vật biết nói ” không thể có đạo đức và bảo vệ địa vị thống trị của gai cấp chủ
nô quý tộc, đối lập với quần chúng nhân dân.
Quan
niệm về nhà nước và xã hội
Con người chỉ có thể hoàn thiện nhân
cách trong một nhà nước được tổ chức hợp lí, mục đích của triết học là xây dựng
một nhà nước hoàn toàn lí tưởng và hoàn thiện. Vì vậy đạo đức học của Platon
mang nặng tính xã hội không mang tính cá nhân như Êpiquya và phái khắc kỷ. Tương
ứng với ba phần linh hồn con người Platon chia xã hội làm ba hạng người tùy thuộc
theo bộ phận linh hồn nào của họ đống vai trò chủ đạo.
Thứ
nhất, đó là những nhà triết học, nhà thông thái, đây là những người mà
lý tính đóng vai trò chủ đạo trong hoạt động của họ.Họ luôn luôn hướng tới cảm
thụ cái đẹp và trật tự các ý niệm, khát vọng vươn tới phúc lợi tối cao, tới sự
thật và công lý. Đó là những người biết kiềm chế, ôn hòa những thú vui cảm
tính, họ có thể đảm nhận được vai trò lãnh đạo, trị vị xã hội trong nhà nước lí
tưởng.
Thứ hai, đó là những người lính làm nhiệm
vụ bảo vệ an ninh cho nhà nước lí tưởng, linh hồn của họ tràn đầy xúc cảm gan
giạ và dũng cảm, biết quy phục các khát vọng cảm tính đói với lý trí và nghĩa vụ.
Thứ ba, đó là những người thuocj tầng lớp
nông dân, thợ thủ công, họ là những người về cơ bản đi xa hơn những khát vọng cảm
tính. Họ thường khỏe mạnh, thích nghi với hoạt động chân tay bởi vì ngay từ khi
sinh ra họ đã gần gũi với các sự vật cảm tính rồi. Nhiệm vụ chủ yếu của họ là
làm ra của cải vật chất đảm bảo cuộc sống cho nhà nước.
Platon
tập trung sự đã kích của mình vào chế độ dân chủ Athene, vì ông là kẻ thù chính
trị của chế độ dân chủ chủ nô Athene ông chống lại nền dân chủ cổ đại nói chung
và nền Athene nói riêng.
Theo
Platon với ba đẳng cấp là đẳng cấp những triết gia cầm quyền, đẳng cấp những
quân nhân và đẳng cấp của nông dân, thợ thủ công, theo sự phân công, hai đẳng cấp
trên tuyệt đối không phải là lao động chân tay, lao động chân tay là làm nhiệm
vụ của người nông dân và thợ thủ công.
Về
sự công bằng xã hội, Platon cho rằng công bằng của cá nhân phải gắn với công bằng
của xã hội. Theo ông công bằng cá nhân là sự phát triển cân bằng những phẩm chất
đạo đức.
Quan
niệm về mỹ học
Quan
niệm về mỹ học của Platon cũng dưa trên học thuyết về ý niệm. Platon cho rằng
cái đẹp chân thực là cái đẹp của ý niệm, nó đối lập tuyệt đối với cái đẹp của sự
vật cảm tính. Cái đẹp của ý niệm là cái đẹp tuyệt vời, vĩnh viễn, tồn tại ngoài
không gian và phi thời gian, nó là bất biến. Cái đẹp của sự vât không tuyệt vời,
khả biến và tương đối.
Chỉ
có thể cảm nhận cái đẹp của ý niệm bằng lý tính, cái đẹp của ý niệm hoàn toan
khac với cái đẹp trong hiện thực khách quan. Ông phê phán quan niệm cho rằng
cái đẹp chỉ có trong thực tế như: Người con gái đẹp, bông hoa đẹp, tòa lâu đài
đẹp. Ông bác bỏ quan niệm cho rằng cái đẹp là cái có lợi ích hoặc là cái có
khoái cảm do thị giác và thính giác đem lại.
Không
có cái đẹp tách rời khỏi chỉnh thể, chủ thể nhận thức cái đẹp là linh hồn bất tử,
phương pháp nhận thức là sự hồi tưởng.
Platon cho rằng, nghệ thuật là sự bắt
chước, nhưng không phảo bắt chước sự vật mà bắt chước ý niệm. Theo Platon chỉ
có nghệ thuật xuất phát từ nguồn cảm hứng do thần thánh tạo ra mới là nghệ thuật
cao quý vì nó không phải là sự bắt chước sự vật cảm tính. Đây là một thứ chủ
nghĩa thần bí về nghệ thuật.
3.
Kết luận
Platon là một trong những nhà tư tưởng
vĩ đại nhất thời cổ, dưới hình thức duy tâm ông phát triển các tư tưởng của
Sôcrat xây dựng những nền tảng khách quan của ý thức con người. Ông có công lớn
trong việc nghiên cứu các vấn đề ý thức xã hội, khẳng định vai trò to lớn của
nó trong việc hình thành nhân cách và ý thức cá nhân con người. Đồng thời bước
đầu ông đã xây dựng nền tảng của các khái niệm, phạm trù và tư duy lý luận nói
chung.
Platôn (Platon, Plato. 427 - 347 TCN) tên thật là Arixtôclét
(Aristokles) sinh tại Eginơ (Egine) một hòn đảo không xa Aten, trong gia
đình thuộc dòng dõi quý tộc. Thời trai trẻ Platôn là con người vừa
thông minh, vừa khoẻ mạnh, từng hai lần đaọt danh hiệu vô địch điền kinh
của thị quốc, được người đời đặt cho cái tên Platon, tức “vạm vỡ”, “vai
rộng”. Thời thanh niên (409 - 400) Platôn chịu Ảnh hưởng trực tiếp của
Xôcrát. Thời viễn du (400 - 389)Platôn bắt đầu xây dựng quan điểm
riêngSau khi Xôcrát bị kết án tử hình Platôn rời Aten, sang Mêga, làm
bạn với Ơcơlít (Euklides), người sáng lập trường phái Mêga với chủ
trương dung hòa Xôcrát và trường phái Elê. Sau đó Platôn sang Xiren, làm
bạn cùng Arixtíp, rồi chu du khắp nơi, từ Ai Cập đến Phênixi, Ba Tư,
BaBilon. Năm 389 TCN Platôn tham gia làm cố vấn chính trị cho bạo chúa
Đênít (Denys), vua xứ Xiracút (Syracuse), nhưng sau một thời gian bị
chính Đênít bán làm nô lệ do mâu thuẫn cá nhân. Anikêrít (Annikeris),
môn đệ Arixtíp, chuộc ông, rồi giải phóng. Thời chín muồi về tư tưởng,
hay thời Viện hàn lâm, được đánh dấu bằng việc thành lập trường phái
riêng tại bắc Aten, trong khu vườn mang tên Akademos, là tên một nhân
vật thần thoại. Trong gần 50 năm sáng tác Platôn để lại một di sản đồ
sộ, nhưng việc tập hợp và sàng lọc thật khó khăn, vì ngoài những tác
phẩm được thừa nhận do ông viết, vẫn còn một số là giả mạo (mạo văn). Số
lượng các tác phẩm gồm 1độc thoại (lời bào chữa của Xôcrát), 34 đối
thoại (cả chính văn và mạo văn), 13 bức thư (mạo văn), trải đều những
thời gian khác nhau. Trong nhiều đối thoại, nhất là những đối thoại thời
trẻ, Xôcrát thường là nhân vật trung tâm, nên khó xác định đâu là quan
điểm của Xôcrát, đâu là quan điểm của Platôn mượn danh Xôcrát. Điều chắc
chắn là thế giới quan của Xôcrát và thế giới quan của Platôn thống nhất
với nhau.
Hạt nhân bản thể luận của Platôn là học thuyết về ý niệm (idea). Trong
học thuyết này Platôn không những nâng tư tưởng duy tâm về tồn tại lên
thành hệ thống, mà còn khẳng định tính tất yếu của sự đối đầu duy vật -
duy tâm (lẽ cố nhiên lúc ấy chưa xuất hiện thuật ngữ “chủ nghĩa duy vật”
và “chủ nghĩa duy tâm”).
Nội dung cơ bản trong bản thể luận của Platôn là vấn đề tồn tại. Ông đặt
ra và giải quyết hàng loạt câu hỏi: Thế nào là tồn tại đích thực? Thế
nào là cái bòng của sự tồn tại đích thực, và thế nào là “tồn tại khác” ?
Mối quan hệ giữa chúng với nhau nên được hiểu như thế nào? “Theo tôi, -
Platôn viết,- trước tiên cần phân biệt cái gì luôn luôn tồn tại và
không bao giờ sinh thành và cái gì luôn luôn sinh thành nhưng không bao
giờ tồn tại” (Platôn: Timeus, đoạn 270). Tồn tại đích thực phải là tồn
tại vĩnh cửu, bất biến, tự thân đồng nhất, bền vững, siêu cảm tính, bất
khả phân, vĩnh cửu. “Cái bóng” của tồn tại đích thực là sự sinh thành,
tính nhất thời, khả biến, có khả năng trở thành cái khác (không đồng
nhất tự thân), luôn chịu sự quy định của điều kiện không - thời gian,
cảm tính, khả phân, khả hủy. Tồn tại đích thực được Platôn quy về thế
giới các ý niệm, còn “ cái bóng của tồn tại” - thế giới các sự vật. Một
bên là thế giới bản chất, được lý trí nhận thức, bên kia là thế giới
hiện tượng, tác động lên các giác quan con người; một bên là thế giới lý
tưởng, cái thiện, lợi ích, bên kia là thế giới pha tạp, phân hủy. Ý
niệm về cái thiện, hay lợi ích, hạnh phúc, do đó, trở thành “ý niệm của
mọi ý niệm”. “Cái thiện, - Platôn viết,- không phải là bản chất, mà xét
về đặc tính và phẩm hạnh thì nó đứng cao hơn những bản chất” (Platôn,
Nhà nước (Nền cộng hòa), quyển VI, 508e). Sự khác nhau giữa hai thế giới
được Platôn mô tả bằng phép ẩn dụ qua huyền thoại về cái hang: triết
gia khác với đại chúng là ở chỗ biết phân biệt đâu là cuộc sống đích
thực, đâu là cái bóng mờ nhạt, dơn điệu của nó, chỉ có triết gia mới
vượt lên ý thức đời thường, vươn đến chân lý, đồng thời chỉ ra sự khác
nhau giữa hai thế giới ấy (Platôn, Nhà nước (Nền cộng hòa), quyển VI,
509d, quyển VII, 514a - 517). Khác với trường phái Elê, Platôn thừa nhận
tính đa dạng, muôn vẻ của tồn tại, làm sáng tỏ mối quan hệ giữa ý niệm
và sự vật, từ đó đi đến tiên đoán về quá trình vũ trụ nói chung. Theo
ông, có bao nhiêu ý niệm thì có bấy nhiêu phức hợp của các sự vật, hiện
tượng, quá trình, các quan hệ đồng nhất căn bản. Trong tác phẩm đối
thoại Pácmênhít Platôn nêu ra ba phương án quan hệ giữa ý niệm và sự
vật, đó là mô phỏng, thông dự, hiện diện. Thứ nhất, các sự vật hướng đến
các ý niệm như khuôn mẫu của mình (mô phỏng). Thứ hai, trong quá trình
đó, sự vật gia nhập vào một chủng loại ý niệm ý niệm nhất định để được
mang một tên gọi (thông dự). Thứ ba, nhờ gia nhập vào thế giới ý niệm mà
các sự vật tương đồng với các ý niệm, thể hiện diện mạo của mình (hiện
diện).
Tóm lại, theo Platôn, ý niệm đóng vai trò vừa là khuôn mẫu của các sự
vật, vừa là mục đích mà các sự vật hướng đến, vừa là khái niệm về cơ sở
chung của các sự vật trong thế giới cảm tính.
Nhưng đến đây một vấn đề khác được đặt ra: đâu là nguyên nhân của tình
trạng khả biến, nhất thời, phân tán của các sự vật cảm tính? Nguyên nhân
ấy được Platôn gán cho chora, tạm gọi là vật chất - bản nguyên thứ hai
của vũ trụ. Chora là một không gian giả định, “một số tiểu loại không
nhìn thấy, không tìm ra, không có hình hài”. Theo cách hiểu ấy chora
chẳng khác nào cái không-tồn-tại, hay không-là-gì-cả, nhưng theo Platôn,
nó có thực, có vai trò to lớn đối với thế giới các sự vật; nó là tồn
tại khác, không đồng cấp và đồng lực với ý niệm như tồn tại, mà đi sau ý
niệm. Như vậy chora khác với vật chất vật lý, tức bốn dạng hành chất
truyền thống trong triết học Hy Lạp cổ đại. Thế giới các sự vật - sự
sinh thành - là kết quả của thế giới ý niệm và thế giới chora. Nếu thế
giới các ý niệm là bản nguyên đàn ông tích cực, thế giới chora - bản
nguyên đàn bà thụ động, thì thế giới các sự vật - đứa trẻ của hai thế
giới, nó đồng thông dự vào tồn tại và tồn tại khác, hòa lẫn trong mình
những tính quy định đối lập nhau.
Ngoài cho ra - vật chất như trung gian giữa ý niệm và thế giới các sự
vật cảm tính còn có một linh hồn vũ trụ như sinh lực năng động và sáng
tạo, nguồn gốc của vận động, sự sống và nhận thức. Linh hồn vũ trụ gồm
có ba phần: đồng nhất, cái khác, sự hòa lẫn cả hai. Ở đó cái đồng nhất
tương ứng với ý niệm, cái khác - vật chất, sự hòa lẫn - các sự vật. Cả
vũ trụ lẫn linh hồn vũ trụ do vị kiến trúc sư, hay Hóa công (demiurgos)
(một cách hiểu khác về Thượng đế của người Hy Lạp) nhào nặn ra theo
những môtíp và mục đích nhất định.
Chủ nghĩa duy tâm Platôn là một trong những biểu hiện điển hình của
triết học duy tâm trong lịch sử. Nó vừa là chủ nghĩa duy tâm chiến đấu,
vừa là chủ nghĩa duy tâm thông minh.
1942-
Vương Quốc
Vật Lý
Stephen Hawking
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Stephen Hawking | |
---|---|
Hawking tại NASA những năm 1980
|
|
Sinh | Stephen William Hawking 8 tháng 1, 1942 (74 tuổi) Oxford, Oxfordshire, Anh |
Nơi cư trú | Vương quốc Anh |
Ngành | |
Alma mater | |
Người hướng dẫn luận án tiến sĩ | Dennis Sciama |
Cố vấn nghiên cứu khác | Robert Berman |
Sinh viên đáng chú ý | |
Nổi tiếng vì | |
Giải thưởng |
|
Chữ ký |
|
Vợ/chồng |
|
Con cái | |
Website | |
hawking.org.uk |
Ông nhận nhiều vinh dự khác nhau, trong đó có Huân chương Tự do Tổng thống, Giải Wolf, là thành viên của Hội Nghệ thuật Hoàng gia và Viện Hàn lâm Khoa học Giáo hoàng. Hawking đảm nhiệm vị trí Giáo sư Toán học Lucas tại Đại học Cambridge từ năm 1979 đến năm 2009.
Hawking cũng nổi tiếng với việc viết những cuốn sách phổ biến khoa học trong đó ông thảo luận lý thuyết của ông cũng như vũ trụ học nói chung; cuốn Lược sử thời gian đứng trong danh sách bán chạy nhất của Sunday Times trong thời gian kỷ lục 237 tuần. Hawking mắc một căn bệnh về thần kinh vận động liên quan tới hội chứng teo cơ bên, khiến cho ông hầu như liệt toàn thân và phải giao tiếp qua một thiết bị hỗ trợ phát giọng nói. Ông đã kết hôn hai lần và có ba người con.
Tuổi trẻ
Hawking sinh ngày 8 tháng 1 năm 1942, tại Oxford, Anh quốc. Cha ông là Frank Hawking và mẹ ông là Isobel. Cả hai người có điều kiện kinh tế khó khăn nhưng phấn đấu vào học tại Đại học Oxford, Frank học y trong khi Isobel học ngành triết, chính trị và kinh tế học. Hai người gặp nhau trong những ngày đầu Chiến tranh thế giới thứ hai tại một viện nghiên cứu y học nơi Isobel làm thư ký còn Frank là nhà nghiên cứuCha mẹ Hawking sống tại Highgate nhưng khi London bị oanh kích trong chiến tranh, mẹ ông rời xuống Oxford để sinh nở an toàn hơn Ông có hai em gái, Philippa và Mary, và một em trai nuôi, Edward. Hawking học tiểu học ở Trường Nhà Byron; về sau ông chỉ trích cái gọi là "phương pháp tiến bộ" của trường đã khiến ông không thể học đọc.
Năm 1950, khi cha ông trở thành trưởng bộ môn ký sinh trùng tại Viện Nghiên cứu Y tế Quốc gia, gia đình Hawking chuyển tới sống tại St Albans, Hertfordshire . Hawking khi đó 8 tuổi đi học tại Trung học nữ sinh St Albans vài tháng (vào thời đó những cậu bé ít tuổi có thể học ở trường nữ sinh). Ở St Albans, cả gia đình thường được người xung quanh đánh giá là hết sức trí thức và có phần lập dị; trong các bữa ăn mỗi người cầm một quyển sách vừa ăn vừa im lặng đọc sách.
Họ sống trong một cuộc sống thanh đạm trong một ngôi nhà chung lớn, huyên náo và tồi tàn, và đi lại bằng một chiếc xe taxi Luân Đôn thải hồi. Cha của Hawking thường xuyên vắng nhà vì công tác ở châu Phi, và trong một dịp như vậy bà Isobel cùng các con du hành tới Mallorca bốn tháng để thăm bạn của bà Beryl và chồng bà ta, nhà thơ Robert Graves
Trở về Anh, Hawking vào học Trường Radlett trong một năm và từ năm 1952 chuyển sang trường St Albans Gia đình ông rất đề cao giá trị của việc học hành Cha Hawking muốn con trai mình học trường Westminster danh giá, nhưng Hawking lúc đó 13 tuổi bị ốm vào đúng ngày thi lấy học bổng. Gia đình ông không thể trang trải học phí mà không có phần học bổng hỗ trợ, nên Hawking đành tiếp tục học ở St Albans. Một hệ quả tích cực của điều này đó là Hawking duy trì được một nhóm bạn thân mà ông thường tham gia chơi bài, làm pháo hoa, các mô hình phi cơ và tàu thuyền, cũng như thảo luận về Cơ đốc giáo và năng lực ngoại cảm. Từ 1958, với sự giúp đỡ của thầy dạy toán nổi tiếng Dikran Tahta, họ xây dựng một máy tính với các linh kiện lấy từ đồng hồ, một máy tổng đài điện thoại cũ và các thiết bị tái chế khác.
Mặc dù thường được bạn bè ở trường gọi là "Einstein", ban đầu kết quả học tập của Hawking không xuất sắc cho lắm. Theo thời gian, ông ngày càng chứng tỏ năng khiếu đáng chú ý đối với các môn khoa học tự nhiên, và nhờ thầy Tahta khuyến khích, quyết định học toán tại đại học. Cha Hawking khuyên ông học y vì lo ngại rằng không có mấy việc làm cho một sinh viên ngành toán ra trường Theo nguyện vọng của cha, Hawking tới học dự bị ở trường cha ông từng học là University College (thuộc Đại học Oxford). Vì khi đó tại trường không có ngành toán, Hawking quyết định học vật lý và hóa học. Mặc dù hiệu trưởng khuyên ông chờ thêm một năm, Hawking đã thi sớm và giành học bổng tháng 3 năm 1959
Thời đại học
Tháng 10 năm 1959, Hawking vào học tại Đại học Oxford khi mới 17 tuổi. Trong 18 tháng đầu tiên ông thấy chán học và cô đơn: ông ít tuổi hơn phần lớn sinh viên, và thấy việc học hành "dễ một cách kỳ cục". Thầy dạy vật lý Robert Berman sau này kể lại, "Đối với cậu ta chỉ cần biết điều gì đó có thể thực hiện, và cậu có thể làm nó mà không cần phải ngó xem những người khác đã làm thế nào." Một sự thay đổi xảy ra vào năm thứ hai và thứ ba khi, theo Berman, Hawking cố gắng trở nên hòa nhập hơn với trang lứa. Hawking phấn đấu và trở thành một sinh viên được quý mến, hoạt bát, dí dỏm, hứng thú với nhạc cổ điển và tiểu thuyết viễn tưởng. Một phần sự biến chuyển này đến từ quyết định gia nhập Câu lạc bộ đua thuyền của trường, nơi Hawking phụ trách lái trong một đội đua thuyền. Huấn luyện viên khi đó nhận thấy Hawking trau dồi một phẩm cách táo bạo, lái đội đua theo những hướng nguy hiểm thường dẫn tới thuyền bị hư hại.Hawking ước tính rằng ông đã học chừng 1000 giờ trong 3 năm ở Oxford (tức trung bình 1 giờ/ngày). Thói quen học hành không ấn tượng này khiến cho các kì thi cuối kỳ của ông trở nên đáng ngại, và ông quyết định chỉ trả lời những câu hỏi vật lý lý thuyết và bỏ qua những câu đòi hỏi kiến thức thực tế. Trong khi đó, ông cần phải có một bằng danh dự hạng nhất để đăng ký học tại ngành vũ trụ học tại Đại học Cambridge mà ông đã dự tính. Kỳ thi diễn ra căng thẳng và kết quả nằm ở đúng điểm số ranh giới giữa hạng nhất và hạng nhì, và như thế cần có thêm buổi kiểm tra vấn đáp (viva) để phân hạng.
Hawking lo rằng sẽ bị xem là một sinh viên lười nhác và khó tính, nên tại buổi vấn đáp khi được yêu cầu mô tả kế hoạch tương lai của mình, ông trả lời "Nếu các vị trao cho tôi hạng Nhất, tôi sẽ tới Cambridge. Nếu tôi nhận hạng Nhì, tôi sẽ ở lại Oxford, vì vậy tôi hi vọng các vị cho tôi hạng Nhất." Kết quả ông được hạng Nhất ngoài mong đợi: Berman bình luận rằng giám khảo "đủ thông minh để nhận ra rằng họ đang nói chuyện với ai đó thông minh hơn nhiều phần lớn người trong số họ" Với bằng cử nhân hạng nhất tại Oxford và sau một chuyến du lịch tới Iran cùng với một người bạn, Hawking bắt đầu vào học bậc trên đại học tại Trinity Hall (Đại học Cambridge) từ tháng 10 năm 1962.
Năm thứ nhất là nghiên cứu sinh tiến sĩ của Hawking thực sự khó khăn. Ban đầu ông có phần thất vọng vì được chỉ định làm luận án dưới sự hướng dẫn của Dennis William Sciama thay vì nhà thiên văn học lừng danh Fred Hoyle, đồng thời thấy mình chưa được trang bị đầy đủ kiến thức toán học để nghiên cứu thuyết tương đối rộng và vũ trụ học.
Ông cũng phải vật lộn với sức khỏe suy giảm. Hawking bắt đầu vướng phải những khó khăn trong vận động kể từ năm cuối ở Oxford, bao gồm một cú ngã cầu thang và không thể đua thuyền. Nay vấn đề tệ hơn, và tiếng nói của ông trở lên lắp bắp; gia đình ông nhận thấy sự thay đổi này khi ông nghỉ kì Giáng Sinh và đưa ông đi khám bệnh. Năm Hawking 21 tuổi, người ta chẩn đoán ông mắc bệnh thần kinh vận động và khi đó các bác sĩ cho rằng ông chỉ sống thêm được 2 năm nữa.
Sau khi có kết quả chẩn đoán, Hawking rơi vào trầm uất; mặc dù các bác sĩ khuyên ông tiếp tục học hành, ông cảm thấy chẳng còn mấy ý nghĩa. Tuy nhiên cùng thời gian đó, mối quan hệ của ông với Jane Wilde, bạn của em gái ông, người mà ông gặp ít lâu trước khi chẩn đoán bệnh, tiếp tục phát triển. Hai người đính hôn vào tháng 10 năm 1964. Sau này Hawking nói rằng việc đính hôn đã "cho ông điều gì đó để sống vì nó." Mặc cho căn bệnh ngày càng diễn tiến xấu đi-Hawking bắt đầu khó có thể đi mà không có giúp đỡ, và giọng của ông hầu như không thể hiểu được-ông giờ đây quay trở lại công việc với niềm hứng thú. Hawking bắt đầu nổi danh về trí tuệ xuất chúng cũng như tính cách ngược ngạo khi ông công khai thách thức công trình của Fred Hoyle và sinh viên của ông này, Jayant Narlikar, trong một bài thuyết trình tháng 9 năm 1964.
Khi Hawking bắt đầu làm nghiên cứu sinh, có nhiều tranh cãi trong cộng đồng vật lý về các lý thuyết đang thịnh hành liên quan tới sự khai sinh vũ trụ: thuyết Vụ Nổ Lớn và thuyết vũ trụ tĩnh tại (được Hoyle cổ vũ). Dưới ảnh hưởng của định lý về kì dị không-thời gian trong tâm các hố đen của Roger Penrose, Hawking áp dụng ý tưởng tương tự cho toàn thể vũ trụ, và trong năm 1965 đã viết luận án tiến sĩ về chủ đề này. Bên cạnh đó, có những tiến triển tích cực khác: Hawking nhận học bổng nghiên cứu tại Cao đẳng Gonville và Caius (thuộc Đại học Cambridge), ông và Jane kết hôn ngày 14 tháng 7 năm 1965. Ông nhận bằng tiến sĩ tháng 3 năm 1966, và tiểu luận của ông, "Các kỳ dị và Hình học của Không-Thời gian" cùng với luận văn của Penrose nhận giải Adams (giải dành cho nghiên cứu toán học xuất sắc nhất hàng năm của Cambridge) năm đó.
Phần sau cuộc đời và sự nghiệp
1966-1975
Những năm mới cưới đầy hoạt động sôi nổi: Jane sống ở London trong thời gian cô hoàn thành việc học đại học và họ du hành tới Hoa Kỳ vài lần cho hội thảo và các cuộc gặp liên quan tới vật lý. Cặp vợ chồng rất vất vả mới thuê được nhà trong tầm đi bộ tới Khoa Toán học Ứng dụng và Vật lý lý thuyết (DAMTP) ở Đại học Cambridge nơi ông nhận một vị trí giảng dạy. Jane bắt đầu làm nghiên cứu sinh, và một con trai đầu của họ, Robert, ra đời tháng 5 năm 1967.Hợp tác với Penrose, Hawking mở rộng các quan niệm về định lý điểm kì dị mà ông khám phá trong luận án tiến sĩ. Điều này không chỉ bao gồm sự tồn tại của các kỳ dị mà còn là lý thuyết rằng vũ trụ tự nó có thể khởi đầu từ một kì dị. Tiểu luận chung của họ tham gia và về nhì trong cuộc thi của Quỹ Nghiên cứu Lực Hấp dẫn năm 1968. Năm 1970 họ công bố một phép chứng minh rằng nếu vũ trụ tuân theo lý thuyết tương đối tổng quát và phù hợp với bất kỳ mô hình nào về vũ trụ học vật lý phát triển bởi Alexander Friedmann, thì nó phải khởi đầu từ một kì dị.
Vào cuối thập niên 1960, năng lực thể chất của Hawkings lại suy giảm một lần nữa: ông bắt đầu phải dùng nạng và thường xuyên hủy các buổi giảng. Khi dần mất khả năng viết, ông phát triển các phương pháp thị giác để bù đắp, bao gồm nhìn các phương trình theo cách hiểu hình học. Nhà vật lý Werner Israel sau này so sánh những kỳ tích đó với việc Mozart sáng tác toàn bộ bản giao hưởng trong đầu. Mặt khác Hawking lại tỏ ra độc lập một cách mãnh liệt và không bằng lòng chấp nhận giúp đỡ hay chịu nhượng bộ vì sự tàn tật của mình. Hawking ưa thích được người khác xem "trước hết như một nhà khoa học, thứ đến như một nhà văn phổ biến khoa học, và, trong mọi cách mà nó đáng kể, một người bình thường với cùng những ham muốn, nghị lực, ước mơ và tham vọng như những người xung quanh."
Jane Hawking về sau ghi nhận rằng "vài người sẽ gọi đó là tính cương quyết, người khác gọi là ngoan cố. Tôi vẫn gọi nó bằng cả hai tên cùng lúc hoặc từng lúc." Cần rất nhiều sự thuyết phục mới làm cho ông chấp nhận ngồi xe lăn vào cuối những năm 1960 , nhưng sau này ông trở nên nổi tiếng trong học xá vì việc phóng xe lăn nhanh bừa bãi. Đồng nghiệp thấy ông là một người dễ mến và dí dỏm, nhưng bệnh tật cũng như danh tiếng về trí tuệ và sự ngạo ngược của ông tạo khoảng cách giữa ông và vài người. . Năm 1969, để giữ ông lại ở Caius, người ta tạo ra một chương trình dành riêng cho ông mang tên 'Học bổng Nghiên cứu Ưu tú trong Khoa học".
Con gái của Hawking, Lucy chào đời năm 1970. Sau đó ít lâu Hawking khám phá ra thứ sau này được biết đến dưới tên "Định luật thứ hai của cơ học hố đen", khẳng định rằng chân trời sự kiện của hố đen không bao giờ có thể thu nhỏ hơn. Cùng với James M. Bardeen và Brandon Carter, ông đề xuất bốn định luật của cơ học lỗ đen, vạch ra một sự tương đồng với động lực học cổ điển. Dưới ảnh hưởng của Hawking, Jacob Bekenstein, một nghiên cứu sinh của John Wheeler, đi xa hơn—và cuối cùng tỏ ra chính xác—khi đơn thuần áp dụng các quan niệm động lực học sang cơ học lỗ đen. Những năm đầu thập niên 1970, công trình của Hawking với Carter, Werner Israel và David C. Robinson ủng hộ luận điểm của Wheeler về "hố đen không có tóc", rằng bất kể hố đen ban đầu tạo thành từ vật liệu nào, nó hoàn toàn có thể mô tả bằng ba tính chất khối lượng, điện tích và sự tự quay. Tiểu luận có tên "Những Hố đen" của ông thắng giải thưởng Quỹ Nghiên cứu Lực Hấp dẫn tháng 1 năm 1971 Cuốn sách đầu tiên của Hawking Cấu trúc Vĩ mô của Không-Thời gian viết với George Ellis xuất bản năm 1973.
Từ năm 1973, Hawking bắt đầu chuyển sang nghiên cứu hấp dẫn lượng tử và cơ học lượng tử. Đề tài nghiên cứu này được dấy lên sau một chuyến thăm tới Moskva và những cuộc thảo luận với Yakov Borisovich Zel'dovich và Alexander Starobinsky, công trình của họ chỉ ra rằng theo nguyên lý bất định các hố đen quay phát ra các hạt. Gây phiền rà cho Hawking, những tính toán được kiểm tra nhiều lần của ông cho ra những phát hiện mâu thuẫn với định luật của ông, vốn khẳng định rằng các hố đen không bao giờ co lại (chỉ giữ nguyên hoặc lớn lên), và ủng hộ lập luận của Bekenstein về entropy của chúng. Các kết quả, được Hawking trình bày năm 1974, chỉ ra rằng hố đen phát ra bức xạ - mà ngày nay được gọi là bức xạ Hawking - cho đến khi chúng cạn kiệt năng lượng và bay hơi. Ban đầu, bức xạ Hawking gây nhiều tranh cãi. Nhưng đến cuối những năm 1970 và sau những công bố nghiên cứu sâu hơn, khám phá này được chấp nhận rộng rãi như một đột phá quan trọng trong vật lý lý thuyết. Tháng 3 năm 1974, vài tuần sau khi công bố bức xạ Hawking, Hawking trở thành thành viên của Hội Hoàng gia, và là một trong những nhà khoa học trẻ tuổi nhất từng nhận vinh dự này.
Hawking hiếm khi thảo luận về bệnh tật và các vấn đề thể chất, ngay cả lúc mới yêu với Jane Sự tật nguyền của Hawking khiến cho các trách nhiệm gia đình rơi xuống đôi vai ngày càng chất nặng của vợ ông, dành cho ông thêm thời gian để suy nghĩ về vật lý. Khi Hawking nhận Học bổng Ưu tú Sherman Fairchild làm giáo sư thỉnh giảng tại Viện Công nghệ California (Caltech) năm 1974, Jane đề xuất rằng một nghiên cứu sinh hoặc sinh viên hậu tiến sĩ sống với họ và giúp chăm sóc ông. Hawking chấp nhận, và Bernard Carr du hành tới California cùng gia đình, người đầu tiên trong số nhiều sinh viên đảm trách vai trò này.
Gia đình đã có một năm nhìn chung là hạnh phúc và đầy hứng khởi ở Pasadena Hawking làm việc với người bạn trong khoa Vật lý lý thuyết, Kip Thorne, và đánh cược với ông này về chuyện sao tối (sao chứa một hàm lượng lớn vật chất tối neutralino) Cygnus X-1 là một hố đen. Vụ cá cược là một kiểu "chính sách bảo hiểm" đáng ngạc nhiên chống lại đề xuất rằng hố đen không tồn tại. Hawking ghi nhận rằng ông đã thua cuộc năm 1990, trò cá cược khoa học vui vẻ đầu tiên trong số vài cuộc mà ông đánh cược với Thorne và những người khác. Hawking về sau vẫn duy trì các mối quan hệ chặt chẽ với Caltech, hầu như năm nào cũng thăm nơi này chừng một tháng.
1975-1990
Ông cũng hưởng ngày càng nhiều sự ghi nhận dành cho công trình của mình. Năm 1975 ông nhận Huy chương Eddington và Huy chương Vàng Pius XI, và năm 1976 là Giải Dannie Heineman, Giải thưởng Maxwell và Huy chương Hughes. Hawking được đề bạt chức giáo sư về vật lý hấp dẫn năm 1977, khi mới 35 tuổi. Năm sau đó ông nhận Huy chương Albert Einstein và một bằng tiến sĩ danh dự từ Đại học Oxford.
Giọng nói của Hawking ngày càng khó khăn hơn, và đến cuối những năm 1970 chỉ còn gia đình và những người bạn thân nhất hiểu được ông. Để giao tiếp với những người khác, ai đó hiểu rõ sẽ dịch lời ông cho người kia Bị khích động từ một cuộc tranh luận với Đại học về việc ai sẽ trả tiền cho các bờ dốc thoải để ông có thể đi xe lăn tới chỗ làm, Hawking và vợ vận động cho việc cải thiện các lối đi vào hỗ trợ cho những người bị tật nguyền ở Cambridge, bao gồm việc nuôi các sinh viên tàn tật trong trường.
Dù vậy, nhìn chung Hawking có những cảm giác mâu thuẫn về vai trò của mình như một người bênh vực cho quyền của người tàn tật: trong khi muốn giúp đỡ người khác, ông tìm cách tách bản thân ra khỏi chuyện bệnh tật và các khó khăn của nó. Việc ông thiếu dấn thân vào cuộc đấu tranh khiến ông hứng chịu một số chỉ trích Trong lúc ấy gia đình Hawking chào đón đứa con thứ ba, Timothy, vào tháng 4 năm 1979. Mùa thu đó Hawking được bổ nhiệm vào ghế Giáo sư Toán học Lucas , một vị trí danh tiếng hàng đầu ở Đại học Cambridge cũng như trên thế giới, từng là vị trí của Isaac Newton và Paul Dirac.
Buổi giảng nhậm chức Giáo sư của Hawking có tựa đề "Is the end in sight for Theoretical Physics" (tạm dịch, "Có một viễn cảnh kết cục cho Vật lý lý thuyết?") đã đề xuất Siêu hấp dẫn N=8 như lý thuyết hàng đầu nhằm giải quyết nhiều bài toán nổi bật mà các nhà vật lý đang nghiên cứu. Sự thăng chức của Hawking lại trùng hợp với một cơn đột biến suy sụp sức khỏe khiến Hawking phải chấp chận, dù rất miễn cưỡng, một vài dịch vụ điều dưỡng tại gia. Cùng lúc đó ông cũng thực hiện một sự chuyển hướng tiếp cận đối với vật lý, trở nên suy nghĩ theo trực giác và ước đoán hơn là nhấn mạnh vào các phép chứng minh toán học. Ông nói với Kip Thorne: "Tôi sẽ là đúng đắn hơn là chính xác". Năm 1981 ông đề xuất rằng thông tin của một hố đen bị mất không thể phục hồi khi một hố đen bốc hơi. Nghịch lý thông tin hố đen này vi phạm nguyên lý cơ bản của cơ học lượng tử, và dẫn tới nhiều năm tranh cãi, trong đó có cái gọi là "Chiến tranh Hố Đen" giữa ông với Leonard Susskind và Gerard 't Hooft.
Tháng 12 năm 1977, Jane gặp một tay chơi đàn organ tên là Jonathan Hellyer Jones khi hát tại một dàn nhạc nhà thờ. Hellyer Jones trở nên gần gũi với gia đình Hawking, và đến giữa những năm 1980, Jones và Jane nảy nở tình cảm lãng mạn với nhau. Theo Jane, chồng bà chấp nhận hoàn cảnh đó, khẳng định rằng "ông ấy sẽ không phản đối chừng nào tôi còn tiếp tục yêu ông ta." Jane và Hellyer Jones quyết định không phá vỡ gia đình và mối quan hệ của họ vẫn giữ trong sáng trong một thời gian dài.
Vũ trụ lạm phát—một lý thuyết đề xuất rằng theo sau Vụ Nổ Lớn vũ trụ ban đầu mở rộng cực kỳ nhanh chóng trước khi giảm tốc độ thành một sự giãn nở chậm hơn— được Alan Guth đề xuất và sau đó Andrei Linde phát triển. Từ sau một hội nghị ở Moskva tháng 10 năm 1981, Hawking và Gary Gibbons tổ chức một cuộc hội thảo Nuffield dài ba tuần trong mùa hè năm 1982 về Vũ trụ Nguyên thủy tại Đại học Cambridge, tập trung chủ yếu vào lý thuyết mới này Hawking cũng bắt đầu một hướng nghiên cứu lý thuyết lượng tử mới tìm hiểu nguồn gốc vũ trụ. Năm 1981 tại một hội nghị ở Vatican ông giới thiệu một công trình đề xuất rằng vũ trụ có thể không có biên-không có điểm đầu hay điểm cuối
Kế tiếp đó ông phát triển mối cộng tác với James Hartle, và vào năm 1983 họ xuất bản một mô hình, được gọi là trạng thái Hartle-Hawking. Mô hình này đề xuất rằng trước kỷ nguyên Planck, vũ trụ không có biên trong không-thời gian; trước Vụ Nổ Lớn, thời gian không tồn tại và khái niệm về một sự khởi đầu của vũ trụ do đó là vô nghĩa. Điểm kì dị ban đầu của các mô hình Vụ Nổ Lớn cổ điển được thay thế bằng một vùng tương tự như Bắc Cực. Người ta không thể đi về phía bắc của Bắc Cực, nhưng không có biên giới nào ở đó-đơn giản đó là điểm mà tất cả các đường kinh tuyến hướng về phía bắc gặp nhau và kết thúc Ban đầu đề xuất không biên này tiên đoán một vũ trụ đóng với những ngụ ý về sự không tồn tại của Chúa Trời. Như Hawking từng giải thích, "Nếu vũ trụ không có biên mà tự bao bọc... thì Chúa sẽ không có bất kỳ tự do lựa chọn nào về việc vũ trụ bắt đầu ra sao."
Hawking cũng không loại trừ sự tồn tại của một Đấng Sáng Thế, đặt câu hỏi trong Lược sử Thời gian "Lý thuyết thống nhất có phải vì quá hấp dẫn mà phải tồn tại không??" Trong thời kỳ đầu, Hawking nói về Chúa theo nghĩa siêu hình. Trong Lược sử Thời gian, ông viết: "Nếu chúng ta tìm được câu trả lời, thì đó là sự thắng lợi cuối cùng của trí tuệ con người - chúng ta sẽ biết được ý của Chúa." Cũng trong cuốn sách này ông đề xuất rằng sự tồn tại của Chúa Trời là không cần thiết để giải thích nguồn gốc của vũ trụ. Những cuộc thảo luận về sau với Neil Turok dẫn ông tới nhận thức rằng nó cũng tương thích với một vũ trụ mở.
Những công trình về sau của Hawking trong lĩnh vực mũi tên thời gian dẫn tới một bài báo công bố năm 1985 lập luận rằng nếu đề xuất không biên là đúng, thì vào lúc vũ trụ ngừng dãn nở và cuối cùng suy sụp, thời gian sẽ chạy theo hướng ngược lại. Một công bố của Don Page và Raymond Laflamme khiến Hawking về sau từ bỏ quan niệm này. Những vinh dự tiếp tục đến với ông: năm 1981 ông nhận Huy chương Franklin, và năm 1982 nhận tước CBE (một tước bậc hiệp sĩ hạng thấp của Đế quốc Anh).
Tuy nhiên các danh hiệu không giúp thanh toán hóa đơn, nên dưới nhu cầu trang trải chi phí việc học hành của con cái và sinh hoạt gia đình, năm 1982 Hawking quyết định một cuốn sách phổ biến khoa học về vũ trụ mà đông đảo công chúng có thể tiếp cận được. Thay vì đem in tại một nhà xuất bản chuyên về học thuật, ông kí hợp đồng với Bantam Books, một nhà xuất bản cho thị trường đại chúng, và nhận một khoản tiền đặt cọc lớn cho tác phẩm. Bản thảo đầu tiên của cuốn sách có tựa đề A Brief History of Time (tức "Một lịch sử tóm tắt về thời gian")hoàn thành năm 1984.
Trong một chuyến đi thăm CERN ở Genève mùa hè năm 1985, Hawking mắc viêm phổi mà với thể trạng sẵn yếu ớt của ông nó có thể đe dọa tính mạng; ông yếu tới mức bác sĩ từng hỏi Jane có nên chấm dứt các thiết bị duy trì sự sống của ông. Bà từ chối và ông đã sống sót, nhưng phải trải qua một ca phẫu thuật mở khí quản đòi hỏi chăm sóc điều dưỡng suốt ngày đêm và loại bỏ năng lực phát âm ít ỏi còn lại của ông Cơ quan Chăm sóc Sức khỏe Anh (NHS) nhận trả phí ở viện điều dưỡng nhưng Jane cương quyết muốn ông sống ở nhà. Chi phí chăm sóc được một quỹ ở Hoa Kỳ chu cấp. Các y tá được thuê suốt ba ca để chăm sóc ông hai mươi bốn tiếng đồng hồ mỗi ngày. Một trong số những người được mướn là Elaine Mason, người về sau trở thành vợ thứ hai của ông.
Để giao tiếp, ban đầu Hawking rướn lông mày để chọn những chữ cái trên một thẻ đánh vần. Nhưng về sau ông nhận được một chương trình máy tính tên là "Equalizer" từ Walt Woltosz. Trong một phương pháp mà ông sử dụng tới tận ngày nay, sử dụng một công tắc ông chọn các cụm từ, từ, hoặc chữ cái từ một bộ nhớ chứa khoảng 2500-3000 lựa chọn được quét qua bởi máy. Chương trình ban đầu chạy trên một máy tính đề bàn. Nhưng chồng của Elaine Mason là David, một kỹ sư máy tính, đã lắp một máy tính nhỏ và gắn nó vào xe lăn của Hawking. Thoát khỏi nhu cầu cần ai đó diễn giải giọng mình, Hawking bình luận rằng "Giờ tôi đâm ra giao tiếp tốt hơn là trước khi tôi mất giọng nói."
Tiếng nói nhân tạo của chiếc máy ông dùng có một giọng Mỹ và không còn được sản xuất . Mặc dù có những tiếng nói khác, ông vẫn duy trì giọng ban đầu này, nói rằng ông ưa thích giọng hiện tại và đồng nhất với nó. Vào thời điểm đó, ông sử dụng công tắc bằng tay và có thể tạo đến 15 từ mỗi phút. Các bài giảng được chuẩn bị từ trước, và gửi tới bộ tổng hợp giọng nói thành những đoạn ngắn khi phát
Một trong những thông điệp đầu tiên Hawking đưa ra với thiết bị phát giọng nói của mình là yêu cầu trợ lý giúp ông hoàn thành việc viết "Lược sử Thời gian". Peter Guzzardi, biên tập ở Bantam, thúc đẩy ông phải giải thích các ý tưởng một cách rõ ràng trong ngôn ngữ không mang tính kỹ thuật, một quá trình đòi hỏi nhiều lần chỉnh sửa từ một Hawking ngày càng cáu kỉnh. Cuốn sách cuối cùng cũng ấn hành tháng 4 năm 1988 ở Hoa Kỳ và tháng 6 ở Anh quốc, và trở thành một thành công phi thường, nhanh chóng vươn lên đầu các danh sách bán chạy nhất ở cả hai quốc gia và duy trì vị trí không chỉ nhiều tuần mà nhiều năm liên tục.
"Lược sử Thời gian" được dịch sang nhiều thứ tiếng, và tới năm 2009 bán được ít nhất 9 triệu bản. Truyền thông hết sức chú ý đến hiện tượng kỉ lục này và cả trang bìa tờ Newsweek cùng một chương trình truyền hình đặc biệt mô tả ông là "Master of the Universe" (tạm dịch, "Bậc thầy Vũ trụ"). Thành công dẫn đến những khoản tiền hậu hĩnh, nhưng cũng đem lại thách thức trong vai trò người nổi tiếng. Hawking đã du hành liên tục để quảng bá công trình của mình, và tham gia tiệc tùng và khiêu vũ tới tận đêm khuya.
Những lời mời và các vị khách khó từ chối khiến ông ít có thời gian dành cho công việc và các học trò. Vài đồng nghiệp phật ý vì sự chú ý dành cho Hawking, cảm giác rằng đó chủ yếu là do sự tàn tật của ông. Ông cũng nhận thêm nhiều ghi nhận về mặt học thuật, bao gồm thêm năm bằng tiến sĩ danh dự, Huy chương Vàng của Hội Thiên văn học Hoàng gia (1985), Huy chương Paul Dirac (1987) và, cùng với Penrose, Giải Wolf danh tiếng (1988). Năm 1989, ông được Nữ hoàng Elizabeth II phong tước CH (tước hiệu dân sự cao thứ hai mà một bình dân Anh có thể đạt được, thấp hơn Huân chương Công trạng-OM).
1990-2000
Cuộc hôn nhân giữa Jane và Stephen Hawking trải qua áp lực trong nhiều năm. Jane cảm thấy bị đè nặng bởi sự dòm ngó vào đời sống gia đình họ bởi những người y tá và trợ lý. Tác động của việc Hawking trở nên nổi danh cũng gây thách thức cho các đồng nghiệp và thành viên gia đình, và trong một lần phỏng vấn Jane đã mô tả vai trò của bà "đơn thuần là nói cho ông ấy biết ông ấy không phải Chúa Trời." Quan điểm bất khả tri về tôn giáo của Hawking cũng tương phản với đức tin Ki tô giáo mạnh mẽ của người vợ, và dẫn đến những căng thẳng giữa họ.Vào cuối những năm 1980 Hawking trở nên ngày càng gần gũi với một trong số các y tá của ông, Elaine Mason, điều gây nên khó chịu cho một số đồng nghiệp, hộ lý và thành viên gia đình-những người thấy phiền toái bởi cá tính gây gổ và sự bao bọc của Elaine đối với Hawking. Cuối cùng Hawking nói với Jane rằng ông đang rời bỏ bà để tới với Elaine, và rời ngôi nhà vào tháng 2 năm 1990. Trong năm đó, Hawking nhận một cô gái Việt Nam sống ở Làng trẻ em SOS tên là Nguyễn Thị Thu Nhàn làm con nuôi, và họ từng sang Việt Nam năm 1997 để thăm Nhàn.
Hawking và Jane chính thức ly dị vào mùa xuân năm 1995, sau đó tới tháng 9 Hawking kết hôn với Elaine, tuyên bố rằng "Thật tuyệt vời—Tôi đã cưới người phụ nữ tôi yêu."
Hawking vẫn theo đuổi sự nghiệp vật lý: năm 1993 ông đồng biên tập một cuốn sách về hấp dẫn lượng tử Euclid với Gary Gibbons, và công bố một tuyển tập các bài viết của ông về hố đen và Vụ Nổ Lớn. Năm 1994 ở Viện Newton thuộc Cambridge, Hawking và Penrose trình bày một loạt sáu bài giảng, dược in lại năm 1996 dưới tên "Bản chất của Không gian và Thời gian". Năm 1997 ông nhận thua một ván cược công khai năm 1991 với Kip Thorne và John Preskill ở Caltech. Hawking từng cá rằng đề xuất của Penrose về một "phỏng đoán kiểm duyệt vũ trụ"-rằng không thể nào có "kì dị trần truồng" không che bởi một chân trời-là đúng. Sau khi khám phá ra rằng sự nhận thua đó có phần vội vã, một ván cược mới, chặt chẽ hơn, được thực hiện, đặc tả rằng những kì dị như thế sẽ xảy ra mà không có các điều kiện phụ.
Cùng năm đó, Thorne, Hawking và Preskill tiến hành vụ cược khác, lần này liên quan tới nghịch lý thông tin hố đen. Thorne và Hawking lập luận rằng vì thuyết tương đối tổng quát khiến cho hố đen không thể nào bức xạ và mất thông tin, thế thì khối lượng-năng lượng và thông tin mang bởi Bức xạ Hawking phải "mới", và không phải từ bên trong chân trời sự kiện của hố đen. Vì điều này mâu thuẫn với cơ học lượng tử về tính nhân quả ở cấp độ vi mô, tự thân lý thuyết cơ học lượng tử cần phải được viết lại. Preskill lập luận theo hướng ngược lại, rằng cơ học lượng tử đề xuất rằng thông tin phát ra bởi một hố đen liên quan tới thông tin rơi vào nó ở một thời điểm trước đấy, quan niệm về hố đen cho bởi thuyết tương đối tổng quát phải được hiệu chỉnh theo một cách nào đó.
Hawking cũng duy trì bộ mặt công chúng của ông, bao gồm việc đem khoa học tới một lớp công chúng rộng rãi hơn. Năm 1992 phiên bản phim tài liệu "Lược sử Thời gian"-do Errol Morris đạo diễn và Steven Spielberg sản xuất-được trình chiếu. Hawking đã muốn bộ phim liên quan tới khoa học hơn là chân dung tiểu sử ông, nhưng người ta đã thuyết phục ông chấp nhận bộ phim phần lớn gồm những cuộc phỏng vấn liên quan tới ông. Phim nhận nhiều phê bình tích cực nhưng không được phát hành rộng rãi . Một tập hợp các tiểu luận dễ tiếp cận, các phỏng vấn và buổi nói chuyện của ông xuất bản năm 1993 dưới tên "Hố Đen và các Vũ trụ Sơ sinh và những Tiểu luận khác" , trong khi một sê-ri chương trình truyền hình sáu phần "Vũ trụ của Stephen Hawking" và cuốn sách ăn theo xuất theo năm 1997. Như Hawking nhấn mạnh, lần này trọng tâm tuyệt đối dành cho khoa học
Ông cũng xuất hiện vài lần trước truyền thông đại chúng. Trong bữa tiệc nhân dịp phát hành phim "Lược sử Thời gian", Leonard Nimoy, người đóng vai Spock trong Star Trek, biết được rằng Hawking hứng thú với việc xuất hiện trong chương trình. Nimoy đã tiến hành các liên lạc cần thiết và Hawking xuất hiện với tư cách bản thân trong sê-ri Star Trek: The Next Generation năm 1993 . Cùng năm đó, giọng nói tổng hợp của ông được thu âm cho bài hát Keep Talking của ban nhạc Pink Floyd và xuất hiện năm 1999 trong sê-ri hài kịch tình huống The Simpsons.
Trong những năm 1990, Hawking chấp nhận cởi mở hơn trong việc đóng vai trò như hình mẫu của những người tàn tật, bao gồm việc thuyết trình về chủ đề này và tham gia vào các hoạt động gây quỹ. Vào thời điểm chuyển giao thế kỷ, ông và mười một danh nhân khác kí vào bản "Hiến chương Thiên niên kỷ thứ ba cho Người tàn tật", kêu gọi các chính phủ ngăn cản sự thương tật và bảo vệ quyền của người tật nguyền
Năm 1999 Hawking nhận Giải Julius Edgar Lilienfeld của Hội Vật lý Hoa Kỳ. Cũng năm đó, Jane Hawking công bố hồi ký, Âm nhạc Chuyển động các Vì sao, mô tả cuộc hôn nhân của bà với Hawking và sự đổ vỡ của nó. Những tình tiết bộc lộ trong sách gây một sự xúc động mạnh cho quần chúng và giới truyền thông, nhưng theo cách ông thường cư xử khi liên quan tới đời sống cá nhân, Hawking không có bình luận công khai nào ngoài việc nói ông không đọc những tiểu sử liên quan tới bản thân mình.
2000 tới nay
Hawking tiếp tục việc viết sách khổ biến khoa học, ấn hành Vũ trụ trong vỏ hạt dẻ năm 2001, và A Briefer History of Time (tạm dịch, "Một Lược sử Tóm tắt của Thời gian"; ông viết cuốn này năm 2005 cùng với Leonard Mlodinow để cập nhật các kết quả nghiên cứu mới hơn và làm cho nó dễ hiểu hơn nữa), trong khi Chúa tạo nên Số nguyên xuất hiện năm 2006 Về mặt nghiên cứu lý thuyết, cùng với Thomas Hertog ở Cơ quan Năng lượng Nguyên tử châu Âu (CERN) và Jim Hartle, từ 2006 trở đi Hawking phát triển một vũ trụ học "trên-xuống", phát biểu rằng vũ trụ không phải có một trạng thái ban đầu duy nhất mà là nhiều trạng thái, và do đó là không thích hợp để hình thành một lý thuyết tiên đoán hình dạng hiện tại của vũ trụ từ một trạng thái ban đầu đặc biệt nào. Nền vũ trụ học này thừa nhận rằng hiện tại "lựa chọn" quá khứ từ sự chồng chập của nhiều lịch sử khả hữu. Khi khẳng định như vậy, lý thuyết đã đề xuất một giải pháp khả dĩ cho câu hỏi về một vũ trụ điều chỉnh chặt chẽ.
Cũng năm 2006 Hawking và Elaine lặng lẽ ly dị, và từ đó Hawking nối lại quan hệ gần gũi hơn với Jane, cũng như các con và cháu của mình. Một phiên bản hiệu chỉnh của cuốn sách trước đây của Jane, nay mang tên mới "Hành trình tới Vô hạn, Cuộc đời tôi với Stephen", xuất hiện năm 2007, phản ánh giai đoạn hạnh phúc hơn này. Năm đó Hawking và con gái Lucy xuất bản Chìa khóa Vũ trụ của George, một cuốn sách thiếu nhi thiết kế để trình bày vật lý lý thuyết theo cách dễ hiểu và mô tả các nhân vật tương tự các thành viên gia đình Hawking. Cuốn sách đã ra những tập tiếp theo vào các năm 2009 và 2011.
Hawking tiếp tục xuất hiện thường xuyên trên màn ảnh: các bộ phim tài liệu có tên The Real Stephen Hawking: (2001) và "Stephen Hawking: Profile" (2002), một phim truyền hình Hawking về giai đoạn bắt đầu căn bệnh của Hawking (2004) cùng một sê-ri phim tài liệu Stephen Hawking, Master of the Universe (2008). Hawking còn xuất hiện cả trong thể loại hoạt hình như trong The Simpsons, và Futurama trong đó giọng ông tham gia lồng tiếng, và với vai chính mình trong The Big Bang Theory Hawking cũng tiếp tục du hành khắp nơi, bao gồm các chuyến đi tới Chile, Đảo Phục Sinh, Nam Phi, rồi Tây Ban Nha (để nhận Giải Fonseca năm 2008), Canada và nhiều chuyến đi tới Hoa Kỳ. Vì các lý do thực tế liên quan tới sự tàn tật của ông Hawking ngày càng thường xuyên di chuyển bằng máy bay phản lực cá nhân, từ 2011 đã trở thành phương tiện đi lại quốc tế duy nhất của ông.
Qua năm tháng, Hawking vẫn duy trì bộ mặt công chúng với một loạt tuyên bố gây chú ý và thường gây tranh cãi: ông từng khẳng định rằng virus máy tính là một dạng sự sống, rằng con người nên sử dụng kĩ thuật di truyền để tránh khỏi bị vượt mặt bởi máy tính, và rằng người ngoài hành tinh có lẽ tồn tại và cần tránh giao tiếp với họ vì họ có thể sẽ chinh phạt con người Hawking bộc lộ mối lo ngại rằng sự sống trên Trái Đất bị đe dọa do "một cuộc chiến tranh hạt nhân đột ngột, một virus được lập trình gien hay các mối hiểm họa mà chúng ta còn chưa nghĩ tới". Ông xem các chuyến bay không gian và việc lập thuộc địa ngoài vũ trụ là cần thiết cho tương lai nhân loại. Mong muốn tăng cường mối quan tâm của công chúng tới các chuyến bay ra ngoài không gian và thể hiện tiềm năng của những người tàn tật, năm 2007 ông tham gia vào chuyến bay không trọng lượng trên phi thuyền mô phỏng "Vomit Comet", do tập đoàn Zero Gravity tài trợ, trong đó ông trải nghiệm trạng thái không trọng lượng tám lần.
Trong địa hạt vật lý, tới năm 2003, ngày càng có sự thống nhất rằng Hawking đã sai lầm về sự mất mát thông tin của một hố đen. Trong một bài thuyết trình năm 2004 ở Dublin, nhà vật lý đã nhận thua cuộc cá cược năm 1997 với Preskill, nhưng đồng thời mô tả giải pháp có phần mâu thuẫn của mình đối với bài toán nghịch lý thông tin, đề cập tới khả năng các hố đen có nhiều hơn một tô pô Trong bài báo năm 2005 về chủ đề này, ông lập luận rằng nghịch lý thông tin được giải thích bằng cách kiểm tra tất cả những lịch sử tương đương của vũ trụ, với mất mát thông tin trong những vũ trụ có hố đen sẽ được triệt tiêu bởi những vũ trụ không có.
Trong một phần của một tranh luận khoa học kéo dài khác, Hawking đã khẳng định dứt khoát, và đánh cược, rằng sẽ không bao giờ tìm thấy được Boson Higgs. Hạt này, được Peter Higgs đề xuất năm 1964 trong lý thuyết Peter Higgs, trở nên có khả năng phát hiện với sự ra đời của siêu máy gia tốc Tevatron thuộc Fermilab gần Chicago và LEP (va đập electron-positron) cùng LHC (va đập hadron) tại CERN Hawking và Higgs tham gia vào một cuộc tranh cãi nảy lửa công khai về vấn đề này năm 2002 và tiếp tục năm 2008, trong đó Higgs chỉ trích công trình của Hawking và phàn nàn rằng "vị thế nổi tiếng của Hawking đem lại cho ông ta sự tin cậy mà người khác không có." Hạt Higgs cuối cùng được tập thể nghiên cứu hùng hậu tại CERN phát hiện tháng 7 năm 2012 (và xác nhận chính thức tháng 3 năm 2013): Hawking nhanh chóng thừa nhận thua cuộc và nói rằng Higgs nên nhận được Giải Nobel Vật lý.
Sự suy yếu do bệnh tật vẫn tiếp tục, và năm 2005 ông bắt đầu phải điều khiển thiết bị giao tiếp bằng cử động của cơ má do không thể sử dụng tay nữa, với tốc độ chỉ một từ mỗi phút Điều này đặt Hawking trước nguy cơ bại liệt hoàn toàn (tiếng Anh: locked-in syndrome-LIS, tình trạng vẫn tỉnh táo nhưng không thể cử động bất cứ bộ phận nào ngoài mắt), vì vậy ông đang hợp tác với các nhà nghiên cứu về các hệ thống có thể diễn dịch các hình ảnh não bộ hoặc biểu diễn nét mặt thành phương thức kích hoạt công tắc Đến năm 2009 ông không còn có thể tự lái xe lăn nữa. Ông ngày càng thở khó khăn hơn, đôi khi cần đến máy thở, và đã phải nhập viện vài lần. Năm 2002, trong một cuộc bầu chọn trên toàn vương quốc Anh và Bắc Ailen, BBC đưa ông vào danh sách 100 người Anh vĩ đại nhất trong lịch sử. Hawking cũng nhận Huy chương Copley từ Hội Hoàng gia (2006), vinh dự dân sự cao nhất của Hoa Kỳ-Huân chương Tự do Tổng thống (2009), và Giải thưởng Vật lý Cơ bản Nga (2012)
Theo yêu cầu của quy chế trường đại học, Hawking nghỉ chức Giáo sư Toán học Lucasian năm 2009. Bất chấp những gợi ý rằng ông có thể rời nước Anh để phản đối những cắt giảm trợ cấp chính phủ cho các hoạt động nghiên cứu khoa học cơ bản Hawking vẫn tiếp tục làm một giám đốc nghiên cứu ở Khoa Toán học Ứng dụng và Vật lý Lý thuyết, và không tỏ ra có kế hoạch nào về chuyện nghỉ hưu.
Hawking từng khẳng định rằng mình "không tín ngưỡng theo nghĩa thông thường" và rằng ông tin "vũ trụ được vận hành bằng các định luật khoa học. Các định luật đó có thể được Chúa Trời ban bố, nhưng Chúa không can thiệp để phá vỡ chúng." Trong một bài phỏng vấn trên tờ The Guardian, Hawking xem quan niệm về Thiên đường là một huyền thoại, tin rằng "không có thiên đường hay thế giới bên kia" và rằng một khái niệm như thế là "một truyện cổ tích dành cho những người sợ bóng tối." Năm 2011, khi dẫn tập đầu tiên của sê-ri truyền hình Curiosity trên Discovery Channel, Hawking tuyên bố rằng "Không có Chúa. Không ai tạo nên vũ trụ và không ai định vận mệnh chúng ta. Điều này dẫn tôi tới một nhận thức sâu sắc rằng chắc hẳn cũng không có cả thiên đường lẫn thế giới bên kia."
Tại Hội nghị Zeitgeist do Google tổ chức năm 2011, Hawking nói rằng "triết học đã chết". Ông tin rằng các triết gia "không bắt kịp với những tiến bộ khoa học hiện đại" và rằng các nhà khoa học "đã trở thành người mang ngọn đuốc khám phá trong cuộc truy tầm tri thức của chúng ta." Ông nói rằng các vấn đề triết học có thể được khoa học trả lời, đặc biệt là những lý thuyết khoa học mới "dẫn chúng ta tới một bức tranh mới và hết sức khác biệt về vũ trụ và vị trí của chúng ta trong nó" Tháng 8 năm 2012 Hawking dẫn chương trình đoạn Khai sáng trong Lễ khai mạc tại Thế vận hội Paralympic 2012.
Tác phẩm
Công trình học thuật tiêu biểu
- Hawking, S. W.; Penrose, R. (1970). “The Singularities of Gravitational Collapse and Cosmology”. Proceedings of the Royal Society A: Mathematical, Physical and Engineering Sciences 314 (1519): 529–548. Bibcode:1970RSPSA.314..529H. doi:10.1098/rspa.1970.0021.
- Hawking, S. (1971). “Gravitational Radiation from Colliding Black Holes”. Physical Review Letters 26 (21): 1344–1346. Bibcode:1971PhRvL..26.1344H. doi:10.1103/PhysRevLett.26.1344.
- Hawking, S.W. (1972). “Black holes in general relativity”. Communications in Mathematical Physics 25 (2): 152–166. Bibcode:1972CMaPh..25..152H. doi:10.1007/BF01877517.
- Hawking, S. W. (1974). “Black hole explosions?”. Nature 248 (5443): 30–31. Bibcode:1974Natur.248...30H. doi:10.1038/248030a0.
- Hawking, S.W. (1982). “The development of irregularities in a single bubble inflationary universe”. Physics Letters B 115 (4): 295–297. Bibcode:1982PhLB..115..295H. doi:10.1016/0370-2693(82)90373-2.
- Hartle, J.; Hawking, S. (1983). “Wave function of the Universe”. Physical Review D 28 (12): 2960–2975. Bibcode:1983PhRvD..28.2960H. doi:10.1103/PhysRevD.28.2960.
- Hawking, S. (2005). “Information loss in black holes”. Physical Review D 72 (8). arXiv:hep-th/0507171. Bibcode:2005PhRvD..72h4013H. doi:10.1103/PhysRevD.72.084013.
Tác phẩm phổ biến khoa học
- A Brief History of Time (1988)
- Bản tiếng Việt: Lược sử thời gian, Cao Chi và Phạm Văn Thiều dịch, Hà Nội: Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật, 1995;
- Black Holes and Baby Universes and Other Essays (1993)
- Stephen Hawking, The Universe in a Nutshell, Bantam, 2001.
- Bản tiếng Việt: Vũ trụ trong vỏ hạt dẻ, Nguyễn Tiến Dũng và Vũ Hồng Nam dịch, Đặng Vĩnh Thiên và Chu Hảo hiệu đính, Thành phố Hồ Chí Minh: Nhà xuất bản Trẻ & Tạp chí Tia Sáng, 2004
- Bản dịch khác: Vũ trụ trong một vỏ hạt, Dạ Trạch dịch, Võ Quang Nhân hiệu đính
- On The Shoulders of Giants. The Great Works of Physics and Astronomy, (Running Press 2002) ISBN 0-7624-1698-X
- A Briefer History of Time, cùng viết với nhà vật lý người Mỹ sinh năm 1954 Leonard Mlodinow, (Bantam Books 2005) ISBN 0-553-80436-7
- God Created the Integers: The Mathematical Breakthroughs That Changed History (2005)
- The Grand Design, cùng viết với Leonard Mlodinow, (Bantam Press 2010) ISBN 0-553-80537-1
Truyện thiếu nhi
- George's Secret Key to the Universe (2007)
- George's Cosmic Treasure Hunt (2009)
- George and the Big Bang (2011)
- Trang này được sửa đổi lần cuối lúc 10:33 ngày 4 tháng 8 năm 2016.
Cuộc đời 'ông hoàng vật lý' Stephen Hawking qua ảnh
Tình
trạng sức khỏe sút kém của Giáo sư Stephen Hawking đang gây sự chú ý,
bởi ông là một trong những nhà toán học và vật lý có ảnh hưởng nhất thế
giới hiện nay và được biết đến nhiều với nghiên cứu về lỗ đen vũ trụ.
> Giáo sư Stephen Hawking ốm nặng
Cậu bé Stephen Hawking (trái) chào đời năm 1942 chụp ảnh cùng em gái Mary. Ảnh: Telegraph.
|
Hawking năm 12 tuổi tại vườn nhà ở St Alban và trong lễ tốt nghiệp Đại học Oxford năm 1962 (phải). Ảnh: MMP Cambrige.
|
Làm lễ cưới với cô dâu Jane Wilde năm 1965. Ảnh: Telegraph.
|
Stephen Hawking cùng vợ Jane Wilde và con trai Tim, sau
khi nhận bằng danh dự tại Đại học Cambridge. Ở tuổi 21, ông mắc bệnh xơ
cứng teo cơ và khiến ông bị liệt gần như hoàn toàn. Ảnh: Telegraph.
|
Lễ cưới của Stephen Hawking với người vợ thứ hai Elaine Mason năm 1995. Ảnh: PA.
|
Stephen Hawking tháng 4/1996. Ông nổi tiếng với những
công trình nghiên cứu về hố đen trong vũ trụ và theo đuổi mục tiêu tìm
ra một “lý thuyết thống nhất”, để giải quyết các mâu thuẫn giữa thuyết
tương đối của Albert Einstein và thuyết lượng tử. Ảnh: AP.
|
Giáo sư Stephen Hawking xuất hiện trên một phần của bộ phim hoạt hình dài tập nổi tiếng The Simpsons (Gia đình Simpsons) có tên They Saved Lisa's Brain (Họ đã cứu bộ não của Lisa), phát lần đầu tại Mỹ năm 1999. Ảnh: Telegraph.
|
Giáo sư Hawking giảng bài tại Trung tâm toán học, Đại
học Cambridge tháng 10/2001. Ông giao tiếp thông qua một thiết bị tổng
hợp tiếng nói gắn với máy tính. Mỗi khi cần nói, ông gõ chữ vào máy
tính. Ảnh: Martin Pope.
|
Tháng 10/2004, Giáo sư Hawking đang nhắc đến cuộc chiến tại Iraq. Ảnh: Eddie Mulholland.
|
Nữ hoàng Anh Elizabeth II gặp Giáo sư Stephen Hawking tại Phòng Âm nhạc trong Điện Buckingham, ngày 18/5/2006. Ảnh: AP.
|
Giáo sư Hawking trải nghiệm tình trạng không trọng lực
trên một chiếc máy bay trên bầu trời Đại Tây Dương, ngoài khơi bang
Florida của Mỹ tháng 4/2007. Ảnh: AP.
|
Giáo sư Stephen Hawking kéo bức rèm khai trương chiếc
Đồng hồ Corpus mới lắp đặt tại Trường Corpus Christi College thuộc Đại
học Cambridge, tháng 9/2008. Vị giáo sư 67 tuổi này đang ốm nặng tại
bệnh viện Addenbrooke, thành phố Cambridge của Anh. Ảnh: PA.
|
Đình Chính
Giải mã sự sống của Stephen Hawking - người mắc chứng 'hóa đá'
Ông hoàng vật lý thế giới Stephen Hawking vẫn kiên cường chống chọi bệnh tật suốt hơn 50 năm qua, dù được bác sĩ chẩn đoán là chỉ có thể sống thêm hai năm sau khi phát hiện bệnh xơ cứng teo cơ (ALS).
"Ông hoàng vật lý" Stephen Hawking. Ảnh: Guardian
|
Ngày 20/4/2009, Stephen Hawking rơi vào tình trạng nguy kịch vì căn
bệnh nan y ALS. Người phát ngôn Đại học Cambrigde, Anh, thông báo rằng
giáo sư Hawking "phải nhập viện và đang rất yếu". Các tờ báo bắt đầu
đăng tải những bài tóm lược vinh danh cuộc đời của ông hoàng vật lý lý
thuyết như cáo phó sớm. Nhiều chuyên gia lo ngại thời gian của ông sắp
hết. Thế nhưng, căn bệnh không thể khuất phục được Hawking.
Ở tuổi 73, cùng với hội chứng vô phương cứu chữa, Stephen được cho là
không thể tiếp tục thuyết hình thành vũ trụ, nghiên cứu về mối lo ngại
của trí tuệ nhân tạo...
Vượt qua tất cả những điều đó, Stephen Hawking đã làm nên kỳ tích sống
sót với căn bệnh ALS, khiến không ít chuyên gia bất ngờ.
Hội chứng xơ cứng teo cơ (ALS) là căn bệnh khiến các tế bào thần kinh
tê liệt. Một khi mắc bệnh, bệnh nhân sẽ cảm nhận cơ thể từ từ đông cứng
cho tới khi liệt hẳn. Họ dần mất khả năng vận động, không thể nhai
thuốc, thức ăn và gặp khó khăn khi hít thở.
Theo hiệp hội ALS (ALS Association), bệnh nhân thường chỉ có thể sống
được 2-5 năm sau khi phát hiện. Hơn 50% người sống tới năm thứ ba, 20%
sống được 5 năm nữa, nhưng vượt qua ngưỡng này, tỷ lệ sống sót giảm
mạnh. Chỉ hơn 5% bệnh nhân có thể chống chọi bệnh trong 20 năm. Stephen
Hawking là một trong số hơn 5% hiếm hoi ấy. Thiên tài khoa học đã hai
lần đánh dấu cột mốc 20 năm sống cùng ALS.
Khả năng sống sót phi thường của Hawking khiến nhiều chuyên gia cho
rằng có thể ông đã chiến thắng hội chứng ALS. "Ông là một ngoại lệ. Tôi
chưa từng thấy ai sống sót với căn bệnh này lâu đến thế. Điều phi thường
không chỉ dừng lại ở độ dài thời gian, mà ở chỗ căn bệnh dường như đang
suy yếu. Tình trạng bệnh ổn định như vậy là cực kỳ hiếm", Nigel Leigh,
giáo sư về thần kinh học lâm sàng tại King’s College, London, phát biểu
trên British Medical Journal năm 2002.
Hơn một thập kỷ sau nhận định của giáo sư Nigel, khi Hawking bước sang
tuổi 70 vào năm 2012, nhiều nhà nghiên cứu tiếp tục bày tỏ sự kinh ngạc.
"Hawking thật phi thường. Tôi không biết ai từng sống sót lâu như vậy",
AP dẫn lời chuyên gia Anmar al-Chalabi nói.
Theo nhiều nhà khoa học, cuộc chiến với ALS được bắt đầu sớm có thể
phần nào lý giải cho kỳ tích sống sót của ông. Độ tuổi trung bình được
chẩn đoán ALS là 55, trong khi các triệu chứng bắt đầu với Hawking khi
ông còn rất trẻ.
"Vào năm thứ ba tại Oxford, tôi nhận thấy mình ngày một vụng về. Tôi bị
ngã một vài lần mà không rõ lý do. Mãi tới khi vào học tại Cambrigde,
cha tôi mới chú ý và đưa tôi gặp bác sĩ. Ông ấy gửi tôi đến một chuyên
gia và ngay sau sinh nhật 21 tuổi, tôi bắt đầu làm các xét nghiệm tại
bệnh viện. Tin mình mắc bệnh thần kinh vận động làm tôi vô cùng sửng
sốt", Hawking từng viết.
Stephen Hawking bị liệt toàn thân và phải giao tiếp qua một thiết bị hỗ trợ phát giọng nói. Ảnh: Flickr
|
Kết quả chẩn đoán sớm đưa Stephen vào chuỗi ngày sống chung với bệnh
tật. Dù vậy, điều này đồng thời là cơ hội giúp ông sống sót lâu hơn so
những người phát bệnh muộn. "Chúng tôi nhận thấy tỷ lệ sống sót ở bệnh
nhân trẻ tuổi cao hơn rất nhiều. Một vài trường hợp có thể sống hơn 10
năm nữa", Leigh nói.
Giáo sư Leo McCluskey từ Đại học Pennsylvania, Mỹ, cho biết ALS có thể
gây tử vong theo hai cách. ALS làm suy yếu các cơ hô hấp, khiến người
bệnh không thể hít thở. Mặt khác, căn bệnh cướp đi khả năng nhai nuốt
gây mất nước, suy dinh dưỡng và dần lấy đi mạng sống. Nếu không nằm
trong hai trường hợp trên, nhiều khả năng bệnh nhân sẽ sống sót trong
thời gian dài.
Dù vậy, thời gian sống của Hawking vẫn là một kỳ tích. Về phần mình,
Hawking cho rằng công việc nghiên cứu đã tặng cho ông nhiều thời gian mà
người khác không thể có được. "Tôi có một công việc và được chăm sóc
đặc biệt. Điều này chắc chắn đóng vai trò vô cùng quan trọng. Tôi may
mắn làm việc trong ngành vật lý lý thuyết, một trong số ít lĩnh vực mà
sự tàn tật không phải là khuyết điểm quá quan trọng", Stephen chia sẻ
với New York Times năm 2011.
Cuộc chiến bền bỉ chống lại căn bệnh hiểm nghèo của Hawking, dù được
giải thích bằng lý do nào đi nữa, cũng khiến ông trở thành một minh
chứng kỳ diệu cho sức sống của con người.
Thu Hiền (theo Washington Post)Chuyện tình của "ông hoàng vật lý" Stephen Hawking
| 11:17 16/06/2015
Nghị lực sống phi thường cùng tình yêu với
người vợ đầu tiên đã giúp "ông hoàng vật lý" Stephen Hawking làm nên
những điều kì diệu khiến cả thế giới xúc động.
Stephen Hawking (sinh năm 1942) là nhà vật lý học, khoa học vũ trụ được biết đến với công trình nổi tiếng Lược sử thời gian và Thuyết vạn vật trong thế kỷ 21.
Không chỉ được ghi nhận bởi những đóng góp to lớn về khoa học, ông còn được thế giới ngưỡng mộ bởi ý chí, nghị lực phi thường khi vượt qua căn bệnh hiểm nghèo để tiếp tục sống và theo đuổi đam mê nghiên cứu.
Ở tuổi 22, Stephen Hawking mắc phải căn bệnh nghiệt ngã và được cho là sắp chết, nhưng ông đã hành động như vừa được tái sinh. Khi hầu hết những người trưởng thành trẻ tuổi chào đón tương lai rộng mở tràn trề triển vọng, Hawking đã bị trao cho một án tử hình.
Các bác sĩ chẩn đoán ông bị bệnh ASL - một căn bệnh về thần kinh vận động liên quan tới hội chứng teo cơ bên ngay sau sinh nhật 21 của ông. Chứng bệnh đó đang tiến triển nhanh chóng, và bác sĩ nói rằng ông chắc chắn không thể sống quá 25 tuổi. Tuy nhiên, sau khi chìm sâu vào trầm cảm, nhà vật lý trẻ tuổi đã tìm thấy được sự hồi phục sức mạnh ở một nguồn động lực không ngờ tới.
Cô đã cảm phục Hawking, hứa hẹn sẽ chăm sóc ông khi tình trạng sức khỏe của ông xấu đi. Và không lâu sau, cô đón nhận lời cầu hôn của Hawking trong hạnh phúc. Hawking nhớ lại: "Jane Wilde và tình yêu không điều kiện của cô ấy đã thay đổi cuộc đời tôi. Nó đã cho tôi một nguồn sức mạnh để sống".
Năm 1965, Hawking công bố luận án của mình và được Cambridge trao bằng tiến sĩ. Tác phẩm này đã tạo ra sự ngưỡng mộ trên toàn thế giới về vũ trụ học và tạo ra một sự nghiệp vững chắc cho Hawking. Ngay sau khi nhận bằng tiến sĩ, ông đã kiếm được một công việc. Và ngay sau đó, ông kết hôn với Jane Wilde.
Đã có lúc bác sĩ hỏi Jane về việc chấm dứt các thiết bị duy trì sự sống của ông. Bà kiên quyết từ chối và ông đã sống sót, nhưng phải trải qua một ca phẫu thuật mở khí quản đòi hỏi chăm sóc điều dưỡng suốt ngày đêm và loại bỏ năng lực phát âm ít ỏi còn lại của ông.
Tuy nhiên, Hawking trở nên ngày càng gần gũi với một trong số các y
tá của ông, Elaine Mason. Cuối cùng Hawking nói với Jane rằng ông đang
rời bỏ bà để tới với Elaine và rời ngôi nhà chung của hai người vào
tháng 2 năm 1990. Hawking và Jane chính thức ly dị vào mùa xuân năm
1995, sau đó tới tháng 9 Hawking kết hôn với Elaine.
Cuộc hôn nhân thứ hai này không mấy hạnh phúc. Năm 2006, Hawking và Elaine lặng lẽ ly dị. Từ đó, Hawking nối lại quan hệ gần gũi hơn với Jane, cũng như các con và cháu của mình. Qua bao nhiêu trở ngại, họ lại trở về bên nhau.
Dựa trên cuốn hồi ký Travelling to Infinity: My Life with Stephen của Jane Wilde, các nhà làm phim đã tái hiện cuộc đời và chuyện tình của nhà vật lý Stephen Hawing qua tác phẩm điện ảnh The Theory of Everything.
Không chỉ được ghi nhận bởi những đóng góp to lớn về khoa học, ông còn được thế giới ngưỡng mộ bởi ý chí, nghị lực phi thường khi vượt qua căn bệnh hiểm nghèo để tiếp tục sống và theo đuổi đam mê nghiên cứu.
Ở tuổi 22, Stephen Hawking mắc phải căn bệnh nghiệt ngã và được cho là sắp chết, nhưng ông đã hành động như vừa được tái sinh. Khi hầu hết những người trưởng thành trẻ tuổi chào đón tương lai rộng mở tràn trề triển vọng, Hawking đã bị trao cho một án tử hình.
Các bác sĩ chẩn đoán ông bị bệnh ASL - một căn bệnh về thần kinh vận động liên quan tới hội chứng teo cơ bên ngay sau sinh nhật 21 của ông. Chứng bệnh đó đang tiến triển nhanh chóng, và bác sĩ nói rằng ông chắc chắn không thể sống quá 25 tuổi. Tuy nhiên, sau khi chìm sâu vào trầm cảm, nhà vật lý trẻ tuổi đã tìm thấy được sự hồi phục sức mạnh ở một nguồn động lực không ngờ tới.
Stephen Hawking đem lòng yêu Jane Wilde, cô nữ sinh cùng trường mê văn chương và sùng đạo
Dẫu cho giấc mơ được giảm nhẹ bệnh dường như không thể xảy ra,
Hawking đã tìm thấy cảm hứng trong một lĩnh vực mà ở đó ông chưa bao giờ
có được nhiều may mắn: Tình yêu. Ông đã yêu Jane Wilde, cô nữ sinh cùng
trường mê văn chương và sùng đạo.Cô đã cảm phục Hawking, hứa hẹn sẽ chăm sóc ông khi tình trạng sức khỏe của ông xấu đi. Và không lâu sau, cô đón nhận lời cầu hôn của Hawking trong hạnh phúc. Hawking nhớ lại: "Jane Wilde và tình yêu không điều kiện của cô ấy đã thay đổi cuộc đời tôi. Nó đã cho tôi một nguồn sức mạnh để sống".
Lễ cưới của Stephen Hawing với cô dâu Jane Wilde năm 1965
Ở tuổi 22, Hawking đã quyết định quên đi sự trầm cảm của mình.
"Bạn cần phải đủ chín chắn để nhận thức được rằng cuộc sống không công
bằng. Hãy làm những gì tốt nhất trong điều kiện của mình", sau này Hawking nói. "Bởi vậy, tôi đã bắt đầu đi làm lần đầu tiên trong đời. Ngạc nhiên thay, tôi nhận ra rằng mình thích được làm việc".Năm 1965, Hawking công bố luận án của mình và được Cambridge trao bằng tiến sĩ. Tác phẩm này đã tạo ra sự ngưỡng mộ trên toàn thế giới về vũ trụ học và tạo ra một sự nghiệp vững chắc cho Hawking. Ngay sau khi nhận bằng tiến sĩ, ông đã kiếm được một công việc. Và ngay sau đó, ông kết hôn với Jane Wilde.
Stephen Hawking cùng vợ Jane Wilde và con trai Tim, sau khi nhận bằng danh dự tại Đại học Cambridge.
Chính tình yêu dành cho khoa học cùng sự cổ vũ hết mình của Jane đã
tiếp thêm sức mạnh cho Stephen Hawking để ông tiến lên phía trước và
dành được những thành tựu không tưởng. Họ hạnh phúc ngắm nhìn ba đứa trẻ
- kết tinh tình yêu của họ - lần lượt chào đời.
Vợ chồng Hawing hạnh phúc bên ba con
Stephen đã có với Jane ba đứa con: Lucy, Tim và Robert (từ trái qua)
Stephen chơi cờ cùng cậu con trai Tim
Jane đã từng có những lúc yếu lòng và nảy sinh tình cảm với Jonathan
Hellyer Jones – một nhạc công đàn organ tại dàn nhạc nhà thờ, người rất
quan tâm và ngày càng trở nên gần gũi với gia đình Hawking. Stephen
Hawking hiểu những gánh nặng trên đôi vai bé nhỏ của Jane và chấp nhận
hoàn cảnh đó. Tuy nhiên, Jane là một người vợ chung thủy và trong sâu
thẳm bà vẫn dành tình yêu cho người chồng đã gắn bó với mình hơn 20 năm
qua. Bà và Hellyer Jones quyết định không phá vỡ gia đình và mối quan hệ
giữa hai người vẫn giữ trong sáng trong một thời gian dài.Đã có lúc bác sĩ hỏi Jane về việc chấm dứt các thiết bị duy trì sự sống của ông. Bà kiên quyết từ chối và ông đã sống sót, nhưng phải trải qua một ca phẫu thuật mở khí quản đòi hỏi chăm sóc điều dưỡng suốt ngày đêm và loại bỏ năng lực phát âm ít ỏi còn lại của ông.
Tình yêu với Jane Wilde đã giúp Stephen Hawking vượt qua căn bệnh hiểm nghèo
Cuộc hôn nhân thứ hai này không mấy hạnh phúc. Năm 2006, Hawking và Elaine lặng lẽ ly dị. Từ đó, Hawking nối lại quan hệ gần gũi hơn với Jane, cũng như các con và cháu của mình. Qua bao nhiêu trở ngại, họ lại trở về bên nhau.
Dựa trên cuốn hồi ký Travelling to Infinity: My Life with Stephen của Jane Wilde, các nhà làm phim đã tái hiện cuộc đời và chuyện tình của nhà vật lý Stephen Hawing qua tác phẩm điện ảnh The Theory of Everything.
Vợ chồng Stephen Hawking thật và 2 diễn viên chính trong phim "The Theory of Everything"
The Theory of Everything dựng kể lại câu chuyện cổ tích đầy
tươi sáng, lạc quan về "ông hoàng vật lý" của thế kỷ 21. Không đi quá
sâu vào phần bi kịch cá nhân, những mặt trái của cuộc sống hôn nhân đổ
vỡ, là cách đạo diễn lựa chọn để xoa dịu những mất mát, đau thương,
hướng mọi người đến ngày mai và những điều tốt đẹp vẫn đâu đó quanh đây
trong cuộc sống. Nhiều khán giả cho biết, họ đã thấy những giọt nước mắt
rơi trên gương mặt già nua, nhàu nhĩ của Stephen Hawking trong đêm công
chiếu bộ phim hơn hai tiếng về cuộc đời ông.
Stephen Hawking và Jane tham dự lễ ra mắt phim "The Theory of Everything"
Chụp ảnh cùng hai diễn viên đã hóa thân thành họ trên màn ảnh.
Minh Trang1929-
Vương Quốc
Vật Lý
Peter Higgs
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Peter Higgs | |
---|---|
Higgs at birthday celebration for Michael Atiyah, April 2009
|
|
Sinh | Peter Ware Higgs 29 tháng 5, 1929 (87 tuổi) Newcastle upon Tyne, Anh Cách Lan |
Tôn giáo | Vô thần |
Ngành | Vật lý học (Lý thuyết) |
Nơi công tác | Đại học Edinburgh Imperial College London Đại học College London |
Alma mater | King's College London |
Người hướng dẫn luận án tiến sĩ | Charles Coulson |
Các sinh viên nổi tiếng | Christopher Bishop Lewis Ryder David Wallace |
Nổi tiếng vì | Đối xứng phá vỡ trong thuyết điện từ yếu Hạt Higgs Trường Higgs Cơ chế Higgs |
Giải thưởng | Giải Wolf về Vật lý (2004) Giải Sakurai (2010) Huy chương Dirac (1997) |
Ông được biết đến với đề nghị năm 1960 của ông về việc sự đối xứng trong thuyết điện yếu bị phá vỡ, với đề xuất này, Higgs giải thích nguồn gốc của khối lượng của hạt cơ bản nói chung và của W và Z boson đặc biệt. Điều này được gọi là cơ chế Higgs, đã được đề xuất bởi nhà vật lý bên cạnh Higgs tại cùng một thời điểm, dự đoán sự tồn tại của một hạt mới, các boson Higgs (thường được mô tả là "hạt được săn lùng nhất trong vật lý hiện đại"). CERN công bố vào ngày 04 tháng 7 năm 2012 rằng họ đã thử nghiệm thiết lập sự tồn tại của một boson Higgs như, nhưng công việc tiếp theo cần thiết để phân tích thuộc tính của nó và xem nó có các tính chất dự kiến từ Standard Model Higgs boson. cơ chế Higgs thường được chấp nhận như một thành phần quan trọng trong mô hình chuẩn của vật lí hạt, mà không có các hạt không có khối lượng. Peter Higgs và Francois Englert là hai khoa học đã giành được giải Nobel Vật lý năm 2013 với công trình nghiên cứu lý thuyết về "hạt của Chúa" hay còn gọi là "Hạt Higgs".
Higgs đã được vinh danh với một số giải thưởng trong sự công nhận của công việc của mình, bao gồm Huy chương Dirac năm 1997 và giải thưởng cho những đóng góp xuất sắc cho vật lý lý thuyết Viện Vật lý, các năm 1997 năng lượng cao và Vật Lý Hạt giải thưởng của Hội Vật lý châu Âu, năm 2004 giải thưởng Wolf trong Vật lý và giải thưởng Vật lý Hạt lý thuyết JJ Sakurai 2010.
- Trang này được sửa đổi lần cuối lúc 13:23 ngày 6 tháng 10 năm 2015.
Nhà khoa học tìm ra 'Hạt của Chúa' giành giải Nobel Vật lý 2013
Nhà vật lý học Peter Higgs, người Anh, và Francois Englert, người Bỉ, vừa được công bố giành giải Nobel Vật lý năm nay với công trình nghiên cứu lý thuyết về 'hạt của Chúa'.
Francois Englert và Peter Higgs, chủ nhân của giải Nobel Vật lý 2013. Ảnh: AFP
|
Francois Englert và Peter Higgs vinh dự được nhận giải thưởng
Nobel Vật lý 2013 với công trình nghiên cứu xác định và phát hiện ra hạt
Higgs, hay còn gọi là "hạt của Chúa", BBC đưa tin.
Việc phát hiện ra hạt Higgs, một loại hạt hạ nguyên tử, có thể giúp
loài người giải thích nguyên nhân tại sao mọi dạng vật chất trong vũ trụ
có khối lượng. Không chỉ có ý nghĩa đối với vũ trụ, với hạt Higgs, con
người sẽ có thêm nguồn năng lượng mới, giúp tạo nên những thành tựu công
nghệ đột phá trong giao thông và viễn thông.
Francois Englert, 80 tuổi, hiện là giáo sư danh dự tại trường Đại học
Libre de Bruxelles nói ông "rất vui và vinh dự" khi nhận được giải
thưởng này.
Professor Higgs, 84 tuổi, giáo sư vật lý của Trường Đại học Edinburgh,
bày tỏ: "Tôi rất bất ngờ khi nhận được giải thưởng này. Tôi rất cảm ơn
Viện Hàn lâm Khoa học hoàng gia Thụy Điển".
Peter Higgs và Englert sẽ chia sẻ phần thưởng trị giá 1,2 triệu USD tại lễ trao giải thưởng tại Stockholm, Thụy Điển, vào ngày 10/12, ngày mất của người sáng lập giải Alfred Nobel.
Một số nhà vật lý dự đoán sự tồn tại của hạt Higgs trong thập niên 60.
Năm 1964, Peter Higgs là người đầu tiên công bố giả thuyết về hạt Higgs.
Cơ chế dự đoán Higgs cuối cùng được phát hiện ra vào năm 2012 tại Large
Hadron Collider, Thụy Sĩ.
Hình mô phỏng quá trình tìm kiếm hạt Higgs bằng cách cho các luồng
hạt proton va chạm trực diện với tốc độ cực lớn trong máy gia tốc. Ảnh: Tamu.edu
|
Thùy Linh
Peter Higgs là ai?
Những người không làm việc trong lĩnh vực vật lý hạt chỉ biết cha đẻ “hạt của chúa” là Peter Higgs, người mà hạt này mang tên. Cuộc đời của Peter Higgs từ một “người vô tích sự” đến quá nổi tiếng và hiện đã 85 tuổi
Peter Higgs sinh năm
1929 ở Newcastle, Anh Quốc. Cha ông là một kỹ sư âm thanh của đài BBC.
Khi gia đình chuyển đến Bristol, ông đã tỏ ra là một học sinh xuất sắc
của trường phổ thông Cotham Grammar, người đã đoạt nhiều giải thưởng,
chỉ trừ môn vật lý.
Một người vô tích sự!
Nhưng rồi một ngày,
trong thời gian đang xảy ra thế chiến thứ II, đang ngồi dự một cuộc họp
chán ngắt, ông chợt nhìn thấy một cái tên nổi tiếng trên bảng danh dự
ghi tên các cựu học sinh của trường: nhà vật lý đoạt giải Nobel Paul
Dirac. Từ đó, ông đã hăm hở nghiên cứu về Dirac và các vấn đề của vật lý
vào thời điểm đó. Sau khi tốt nghiệp phổ thông, Higgs theo học vật lý
tại King’s College London, một trường danh giá của Anh Quốc và chọn
nghiên cứu về lý thuyết mới nhất lúc đó.
Một bạn học cùng
thời là Michael Fisher - giờ là giáo sư tại Đại học Maryland - nhớ rằng
Higgs đã xuất sắc ngay trong kỳ thi đầu tiên về môn học này: “Như tôi
nhớ thì ông phải giải một bài toán về cơ học lượng tử. Bài toán này dựa
theo một bài báo mới được công bố lúc đó... và ông đã giải bài toán đó
còn hay hơn so với bản gốc bài báo khoa học mà tác giả đã thực hiện, chỉ
trong có 3 giờ.” Higgs tốt nghiệp thủ khoa vào năm 1950. Ông đã nộp đơn
xin làm giảng viên tại King’s College nhưng bạn của ông là Michael
Fisher mới là người được nhận. Sau đó, Higgs sang làm việc ở Scotland.
Giáo sư Peter Higgs trong lễ khánh thành Trung tâm Khoa học Dirac-Higgs tại Trường THPT Cotham, nơi ông và Paul Dirac từng học
Là một nhà nghiên
cứu 31 tuổi ở Đại học Edinburgh, ông bị coi là vô tích sự bởi vì ông
chọn nghiên cứu một vấn đề được xem là vớ vẩn. Đó là một loại vật lý mà
mọi người nghĩ rằng sẽ chẳng đi được tới đâu.
Nhưng ông cả quyết:
“Không, các bạn chưa hiểu nó như tôi hiểu và tôi nghĩ rằng nó có một cái
gì đó và rất đáng để theo đuổi”. Sẽ thật buồn nếu không theo đuổi nó -
và hầu như là chỉ một mình ông đơn độc làm việc đó, nhất là ở Vương quốc
Anh - ông sẽ không có lý thuyết của mình và chúng ta sẽ chẳng bao giờ
được nghe nói về ông.
Khoảnh khắc đầy cảm hứng
Và rồi vào năm 1964,
trong một khoảnh khắc đầy cảm hứng khi đi bộ trên dãy Cairngorms, ông
đã viết hai bài báo về hạt Higgs. Bài thứ hai ban đầu đã bị tạp chí
Physics Letters từ chối, đã từng làm ông khó chịu. Sau đó, ông nói rõ
ràng là họ không hiểu ông nhưng rồi cuối cùng bài báo cũng được công bố không lâu sau đó trên Physical Review Letters, một tạp chí hàng đầu khác.
Sau đó, ông trở nên
nổi tiếng. Vốn là người sống lặng lẽ và khiêm tốn, ông thường bối rối
khi được mọi người ca ngợi và khá lúng túng khi mà người ta gọi cái hạt
boson mà ông tiên đoán là hạt Higgs theo tên ông. Trong lần thuyết trình
gần đây tại Trường Đại học Oxford, ông đã đặt cho bài nói chuyện của
mình một cái tên khá thú vị: “Đời tôi là một boson”.
Vẫn sống khắc khổ
Bên ngoài giới khoa
học, Peter Higgs ít được biết tới. Trong 20 năm sau đó, ông tiếp tục
giảng dạy và nghiên cứu nhưng có những khó khăn trong cả đời sống chuyên
môn cũng như riêng tư.
Ông lấy vợ và có 2 con trai, rồi vợ
chồng ông chia tay. Ông về hưu năm 2006 nhưng vẫn tiếp tục theo dõi sát
sao công cuộc tìm kiếm cái hạt boson - con đẻ của ông, đặc biệt là các
thí nghiệm đang tiến hành tại máy gia tốc LHC ở Geneva, Thụy Sĩ. Giờ
đây, nhà vật lý 83 tuổi sống không TV, không máy tính, hiếm khi trả lời
điện thoại, mặc dù ông vẫn cập nhật thông tin thông qua các tạp chí vật
lý mới nhất.
Thực ra, không chỉ
có Peter Higgs tiên đoán sự tồn tại “hạt của chúa” vào năm 1964. Ngoài
ông ra còn có 5 nhà vật lý khác đã độc lập công bố những lý thuyết tương
tự cũng vào khoảng thời gian ấy. Hai người đầu tiên công bố vào tháng
8-1964 là Robert Brout (vừa qua đời năm 2011) và François Englert thuộc
Đại học Tự do Brussels.
Người thứ ba công bố
là Peter Higgs. Ông công bố 2 bài báo quan trọng vào tháng 9 và 10 năm
đó. Trong bài báo thứ hai, ông là người đầu tiên nói một cách rõ ràng lý
thuyết đòi hỏi một hạt mới về bản chất, mà sau này, vào năm 1972, người
ta gọi là boson Higgs. Tạo ra sự chú ý tới một hạt như vậy là rất quan
trọng, bởi vì nó cho các nhà khoa học một cái gì đó cụ thể để săn tìm.
Lần công bố tiếp theo là của nhóm gồm 3 nhà vật lý, trong đó có 2 người
Mỹ là Dick Hagen, Gerry Guralnik và 1 người Anh là Tom Kibble vào tháng
11-1964. Cả ba nhóm đều làm việc hoàn toàn độc lập.
Ba bài báo viết vào
năm 1964 đã được công nhận là cái mốc quan trọng trong lễ kỷ niệm sinh
nhật lần thứ 50 của tạp chí Physical Review Letters. Sáu tác giả của
chúng, vào năm 2010, cũng đã được trao tặng giải thưởng Vật lý Lý thuyết
hạt JJ Sakurai cho các công trình này.
Hạt Higgs: Vũ trụ trong hạt bụi?
18/07/2012 10:57 GMT+7
TTCT - Vũ trụ trong một hạt bụi,
theo nghĩa những tính chất cơ bản nhất của vũ trụ có thể tìm thấy trong
một hạt bụi nhỏ, là một ám ảnh không chỉ của phương Đông mà còn của
nhiều người làm khoa học.
Phải chăng hạt boson Higgs vừa được tìm thấy tuần qua là một hạt như vậy?
Phóng to |
Giáo sư Peter Higgs - Ảnh: reuters |
Ngược dòng lịch sử
Từ xa xưa, con người đã có tham vọng tìm hiểu cấu trúc
sâu xa nhất của vật chất. Mỗi trường phái đều đưa ra những giả thiết
khác nhau tùy thuộc vào trải nghiệm và văn hóa của chính họ.
Chẳng hạn trong thời Hi Lạp cổ đại, Thales (624-546
trước Công nguyên - TCN) cho rằng vạn vật được tạo thành từ nước,
Anaximenes (585-528 TCN) lại cho rằng vạn vật được tạo thành từ không
khí, Heraclitus (khoảng 535-475 TCN), người nổi tiếng với câu nói “Không
ai có thể tắm hai lần trên một dòng sông”, cho rằng vạn vật được tạo
thành từ lửa vì lửa linh động và thay đổi không ngừng, còn Empedocles
(490-430 TCN) lại cho rằng vạn vật được tạo thành bởi bốn nguyên tố là
đất - nước - lửa - không khí, được liên kết với nhau bởi hai loại lực
hút và lực đẩy.
Ở phương Đông cũng có những giả thiết tương tự. Nổi bật
nhất là hai trường phái âm - dương và ngũ hành. Phái âm - dương cho
rằng vạn vật đều do hai yếu tố âm và dương tương tác mà thành. Còn phái
ngũ hành thì cho rằng vạn vật là do năm yếu tố kim - mộc - thủy - hỏa -
thổ tương hợp với nhau theo luật tương sinh - tương khắc mà tạo thành.
Tuy nhiên, đáng lưu ý là Anaxagoras (500-428 TCN) khi
cho rằng vạn vật được cấu thành từ vô vàn những vật rất nhỏ, và đặc biệt
là quan điểm của Democritus (460-370 TCN) khi cho rằng vạn vật được tạo
thành từ các nguyên tử - tức các phần tử nguyên, nhỏ bé đến mức không
thể phân chia thành nhỏ hơn được nữa.
Giả thiết về sự tồn tại của nguyên tử như là thành phần
cấu tạo nên vật chất cuối cùng cũng được khoa học kiểm nghiệm sau hơn
20 thế kỷ. Chẳng hạn, năm 1808, Dalton đã tiến hành những thí nghiệm
khẳng định sự tồn tại của nguyên tử. Nhưng phải sang thế kỷ 20, lý
thuyết về vật lý nguyên tử mới có được những cơ sở chắc chắn, và cuối
cùng phải đến những năm 1980 con người mới có thể trực tiếp nhìn được
các nguyên tử thông qua kính hiển vi lực nguyên tử.
Như vậy trong 2.500 năm qua, con người đã đi qua những
nấc thang nhận thức khác nhau về cấu trúc của vật chất. Ban đầu chỉ dừng
lại ở những giả thuyết về sự tồn tại của các nguyên tố cơ bản cấu thành
vạn vật, sau đó đi xa hơn bằng việc kiểm chứng bằng thực nghiệm sự tồn
tại của không chỉ các nguyên tố, mà còn ở đơn vị cấu trúc nhỏ nhất của
nó là các nguyên tử, và cuối cùng là ở mức hạ nguyên tử, tức các hạt cơ
bản.
Phóng to |
Máy gia tốc hạt lớn LHC - Ảnh: cms.desy.de |
Thế giới của nhà Vật lý
Nhờ sự phát triển của vật lý ở thế kỷ 20, con người
biết được nguyên tử không phải là đơn vị nhỏ nhất để cấu tạo nên vật
chất - như gợi ý từ tên gọi của nó. Trên thực tế, các nguyên tử lại được
cấu tạo từ các hạt nhỏ bé hơn nữa gọi là các hạt cơ bản.
Các hạt này được chia làm hai nhóm lớn: nhóm hạt
Fermion tạo ra vật chất, như các quarks trong hạt nhân nguyên tử và các
electron ở vỏ nguyên tử..., và nhóm các hạt boson tạo ra trường lực như
các gluon (hạt truyền lực mạnh), W & Z boson (hạt truyền lực yếu),
photon (hạt truyền lực điện từ) và graviton (hạt truyền lực hấp dẫn).
Vì không ai có thể nói chính xác con đường mình khai
phá sẽ ra sao, khi chỉ mới mở được cánh cửa để bước vào đó, nên những
tiên đoán về hệ quả của khám phá này mang lại đối với khoa học là không
thể. Tuy nhiên, người ta có quyền hi vọng vào những hé lộ mới mà khám
phá này có thể mang lại trong việc hiểu sâu hơn về cấu trúc của vật
chất, về cơ chế phá vỡ đối xứng của tự nhiên và đưa ra những gợi ý trong
việc tìm kiếm những loại hạt khác. Từ đó có thể giúp hiểu rõ hơn về vật
chất và vũ trụ, đặc biệt ở thời điểm mới hình thành.
|
Kích thước của các hạt cơ bản vô cùng nhỏ bé, cỡ một
phần triệu tỉ mét. Vì thế, muốn hiểu các hạt này thì phải có các lý
thuyết để khảo sát ở kích thước này. Lý thuyết đó là cơ học lượng tử.
Theo lý thuyết này thì các hạt nhỏ bé trên có các hành
xử vô cùng khác lạ so với vật thể vĩ mô trong thế giới thông thường.
Chẳng hạn, chúng vừa là sóng, tức có khả năng lan truyền, lại vừa là
hạt, tức đứng yên tại chỗ. Thực tế chúng nhảy múa không ngừng. Không
gian càng hẹp, chúng nhảy múa càng dữ dội.
Lực ngự trị trong thế giới lượng tử là lực mạnh, lực yếu và lực điện từ, tùy thuộc vào đối tượng khảo sát.
Ở đầu kia của biên giới, tức ở khoảng cách cực lớn,
thường chỉ hiện hữu trong các nghiên cứu thiên văn, thì thế giới lại
được mô tả bởi một lý thuyết khác. Đó là thuyết tương đối. Theo thuyết
này thì không gian và thời gian gắn chặt với nhau và không thể tách rời,
năng lượng và khối lượng có thể quy đổi cho nhau và vận tốc ánh sáng là
vận tốc giới hạn của vũ trụ. Lực ngự trị trong thế giới thiên văn là
lực hấp dẫn.
Như vậy là có bốn loại lực ngự trị trong tự nhiên là
lực mạnh, lực yếu, lực điện từ và lực hấp dẫn. Hẳn nhiên là bất cứ nhà
vật lý nào cũng mong muốn tìm được một lý thuyết có thể thống nhất được
cả bốn loại lực trên. Điều này thật cám dỗ, nhưng không dễ. Thực tế việc
thống nhất bốn loại lực trong tự nhiên được coi là thách thức lớn nhất
của vật lý hiện đại.
Tuy nhiên, họ đã thành công trong việc thống nhất ba
lực yếu, lực mạnh và lực điện từ bằng một lý thuyết gọi là mô hình chuẩn
- một trong những thành tựu đáng nể của vật lý thế kỷ 20. Mô hình chuẩn
cho phép giải thích được nhiều điều trong thế giới lượng tử. Chẳng hạn,
lý thuyết này đòi hỏi sự tồn tại của các hạt gluon, boson và photon.
Thực nghiệm đã kiểm chứng điều này với độ chính xác rất cao. Trên thực
tế, mô hình chuẩn đóng vai trò dẫn dắt trong các nghiên cứu về vật lý
hạt. Trước khi tìm kiếm một hạt mới, người ta có thể tiên đoán chính xác
tính chất của hạt đó ra sao.
Nhưng có nhiều câu hỏi còn bỏ ngỏ mà mô hình chuẩn chưa có câu trả lời. Chẳng hạn, vì sao các hạt cơ bản lại có khối lượng?
Rõ ràng, cách thông minh nhất để trả lời câu hỏi này là
giả thiết rằng tồn tại một loại hạt mới, có trách nhiệm mang lại khối
lượng cho các hạt cơ bản khác thông qua tương tác với chúng. Ý tưởng này
được sáu nhà vật lý đưa ra vào năm 1964. Hạt này sau được gọi là hạt
boson Higgs. Tuy nhiên, sự tồn tại của hạt boson Higgs này rất khó kiểm
chứng. Một trong những lý do là mô hình chuẩn không tiên đoán được chính
xác khối lượng của hạt này, nên thực nghiệm chỉ còn cách mò mẫm!
Nếu tìm ra được hạt boson Higgs thì không chỉ giải
thích được vì sao các hạt cơ bản khác lại có khối lượng, mà còn chứng
minh được mô hình chuẩn là khả tín, vì hạt Higgs được coi là mảnh ghép
cuối cùng trong bức tranh thế giới mà mô hình chuẩn vẽ ra. Sâu xa hơn,
nó cũng giúp con người hiểu rõ hơn về cấu trúc của vật chất và do đó là
sự hình thành của vũ trụ, đặc biệt là ở giai đoạn khởi đầu khi bốn loại
lực trong tự nhiên còn thống nhất với nhau.
Đó là lý do vì sao hàng chục nghìn nhà khoa học đã dành
nhiều nỗ lực hàng chục năm ròng để vượt qua vô vàn khó khăn trong việc
tìm kiếm hạt Higgs trong các máy gia tốc lớn.
Boson Higgs: Hạt của chúa?
“Hạt của Chúa” là tên gọi của boson Higgs trong truyền
thông đại chúng. Tiếc thay tên gọi này không giúp gì cho việc hiểu bản
chất của hạt boson Higgs, mà chỉ phủ thêm một màn huyền bí giật gân lên
hạt Higgs vốn đã rất khó hiểu. Trên thực tế, hạt này ban đầu bị Leon M.
Lederman, nhà vật lý hạt đoạt giải Nobel năm 1988, gọi là “hạt chết
tiệt” (goddamn particle) trong một cuốn sách khoa học đại chúng nhưng
biên tập viên tòa soạn e ngại từ goddamn vốn hay dùng để chửi thề nên
sửa thành “God particle” - tức hạt của Chúa.
Không ai biết được vì sao những hạt cơ bản lại có khối
lượng. Nói cách khác, cơ chế sinh ra khối lượng còn là điều bí ẩn. Nhưng
rõ ràng là chúng ta đều có khối lượng và nhiều người còn theo dõi chúng
một cách sát sao. Nên rõ ràng hiểu được vì sao các hạt lại có khối
lượng là một điều quan trọng. Đó chính là lý do vì sao việc truy tìm hạt
Higgs và qua đó làm rõ bằng cách nào các hạt lại có khối lượng, để từ
đó hình thành nên vật chất có cấu trúc lại thu hút sự quan tâm lớn như
vậy của cộng đồng khoa học.
Để hình dung xem bằng cách nào mà hạt boson Higgs mang
lại khối lượng cho các hạt khác, bạn có sẵn lòng ra đường phố Hà Nội
hoặc TP.HCM vào giờ tan tầm? Nếu đường thông thoáng ở mức lý tưởng, xe
bạn sẽ chạy như bay. Bạn có thể tiếp tục nhấn ga và mơ đến vận tốc ánh
sáng. Xe lướt nhẹ tênh như không trọng lượng. Nhưng vào giờ tan tầm,
đường phố chật cứng, xe bạn nhích từng mét hoặc giậm chân tại chỗ hàng
giờ, bạn phải nghiêng bên nọ, lách bên kia nên không còn ở trạng thái
đối xứng hoàn hảo nữa. Bỗng nhiên cả bạn và xe bỗng trở nên chậm chạp
nặng nề như bị một khối lượng hàng trăm tấn kéo lại, không thể di chuyển
hay nhúc nhích được.
Sự thật là sao? Có phải là bạn và xe bỗng nhiên nặng nề
hơn vào giờ tan tầm nên di chuyển chậm hơn? Chắc hẳn là không. Nhưng
nếu bạn hiểu khối lượng không phải là chỉ số trên bàn cân mà là độ chậm
chạp khi di chuyển thì lại đúng là bạn đã bị tăng cân. Chính tắc đường
đã làm cho bạn di chuyển chậm chạp, vì phải tương tác với các phương
tiện giao thông khác. Điều này đồng nghĩa với việc xe bạn bỗng nhiên
nặng nề hơn hàng chục lần, bằng chứng là bạn không di chuyển được!
Đó chính là cách hạt boson Higgs mang lại khối lượng
cho các hạt cơ bản khác. Nói cách khác, hạt Higgs tương tác với các hạt
cơ bản khác làm chúng chuyển động chậm lại, không còn tự do bay với vận
tốc ánh sáng được nữa. Và các hạt khác tìm thấy khối lượng của mình
thông qua tương tác đó.
Nếu không có hạt boson Higgs sẽ không có Trái đất, Mặt
trăng, Mặt trời, các ngôi sao..., vì khi đó tất cả các hạt cơ bản đều
không có khối lượng, chuyển động với vận tốc ánh sáng, nên không có gì
có thể giữ chúng lại với nhau để hình thành vật chất có cấu trúc được.
Chúng ta, tất nhiên cũng sẽ không tồn tại. Đó có thể là lý do vì sao đại
chúng lại chấp nhận gọi đây là “hạt của Chúa”, dù được khai sinh một
cách ngẫu nhiên và không hề có ẩn ý tôn giáo.
Kỷ nguyên khoa học mới
Hạt boson Higgs có đến sáu cha đẻ khác nhau. Đó là
Robert Brout, François Englert, Gerald Guralnik, Carl Richard Hagen,
Peter Higgs và Thomas Kibble. Tiên đoán về sự tồn tại của hạt boson này
được công bố độc lập trong ba bài báo khoa học năm 1964.
|
Hiện giờ nhà khoa học còn thận trọng, chỉ xác nhận đó
là một loại hạt mới, có nhiều đặc điểm của hạt boson Higgs, chứ chưa thể
khẳng định đó là hạt boson Higgs theo tiên đoán của mô hình chuẩn.
Trong thông cáo báo chí CERN viết: Hai nhóm ATLAS và CMS đã giới thiệu
những kết quả thực nghiệm mới nhất trong việc tìm kiếm hạt Boson Higgs.
Các thực nghiệm này cho thấy những chỉ dấu mạnh về sự tồn tại của một
loại hạt mới, có thể là hạt boson Higgs, có khối lượng khoảng 126 GeV
(giga electron volts).
Nhưng giới chuyên môn đều cho rằng đây là một đại sự
kiện trong khoa học đương đại và là khởi đầu của một kỷ nguyên khoa học
mới. Chưa ai có thể nói chính xác mọi chuyện sẽ diễn ra như thế nào vì
một lẽ đơn giản: đây là một sự khởi đầu chứ không phải là một kết cục.
Nhưng có thể dự đoán những nghiên cứu trong máy gia tốc LHC thời gian
tới sẽ tập trung vào làm rõ tính chất của hạt mới được khám phá, để
khẳng định xem đó có phải là hạt boson Higgs theo dự đoán của mô hình
chuẩn hay không. Việc tìm ra hạt Higgs sẽ mở ra một kỷ nguyên mới cho
khoa học trong hành trình khám phá vật chất và vũ trụ, có thể cả nhiều
lĩnh vực khác nữa.
Chỉ có một khoa học
Trong buổi họp báo sau báo cáo khoa học, khi một phóng
viên trẻ người Nhật hỏi vị chủ tọa, giáo sư Rolf-Dieter Heuer, tổng giám
đốc của Tổ chức Nghiên cứu hạt nhân châu Âu (CERN), rằng trong hoàn
cảnh kinh tế khó khăn như hiện thời thì liệu những nghiên cứu cơ bản như
thế này có lãng phí? Nên chăng cần tập trung cho nghiên cứu ứng dụng có
thể giúp hàng triệu người?
Đây là một câu hỏi khó, không phải vì ở bản thân câu
hỏi mà ở việc giải thích cho những người ngoài giới hiểu được vai trò
của khoa học cơ bản, do sự khác biệt về quan điểm và tầm nhìn. Giáo sư
Heuer đã giải thích rất thông minh, đại ý: chỉ có một khoa học và do đó
không nên chia ra thành khoa học cơ bản và khoa học ứng dụng.
Khoa học cơ bản là gốc rễ của sáng tạo, không nên tính
chuyện chỉ tập trung cho khoa học cơ bản hay ứng dụng, mà cần phải tìm
ra một cân bằng đúng. Tỉ như anh có một lượng ngũ cốc, anh phải chia ra
thành hai phần, một phần để ăn, một phần để gieo trồng. Anh không thể ăn
hết, vì như thế thì không còn gì cho mùa sau nữa. Anh cũng không thể
mang đi trồng hết, vì như thế sẽ bị chết đói. Vì thế, điều quan trọng là
cần phải tìm được một tỉ lệ đầu tư đúng giữa cơ bản và ứng dụng.
|
Ba thế giới, ba bí mật
Rõ ràng việc tìm kiếm hạt Higgs được khích lệ bởi niềm
tin vào mô hình chuẩn. Nếu không có niềm tin này, không ai có thể dành
ngần ấy thời gian và nguồn lực để tìm kiếm hạt Higgs trong suốt ngần ấy
năm.
Nhưng
vì đâu mà một lý thuyết, như mô hình chuẩn, lại có thể là nguồn khích
lệ lớn đến như vậy trong việc khám phá khoa học? Và vì sao các lý thuyết
khoa học, như mô hình chuẩn chẳng hạn, lại mô tả chính xác thực tại đến
như vậy là một câu hỏi còn bỏ ngỏ. Rõ ràng, con người được hình thành
từ vật chất. Nhưng bằng cách nào mà khối vật chất đó lại sinh ra đời
sống tinh thần, và từ trong đời sống tinh thần đó lại sinh ra các định
luật khoa học có khả năng mô tả ngược lại thế giới vật chất xung quanh?
Theo Penrose, nhà toán học Anh, thì đó là những bí mật
lớn mà con người cần giải đáp. Mà bước đầu tiên là xác thực rằng có một
mối liên hệ giữa thế giới toán học, hay rộng hơn là thế giới các định
luật khoa học, với thế giới thực tại. Cụ thể: lý thuyết khoa học có thể
mô tả chính xác được thực tại, trong đó mô hình chuẩn là một điển hình.
Chính vì thế, việc kiểm chứng tính đúng đắn của mô hình
chuẩn không chỉ có ý nghĩa trong vật lý, mà còn có những hệ quả sâu xa
hơn trong khoa học và triết học, đặc biệt là trong nhận thức về vật chất
và thế giới, và cả nhận thức về chính bản thân nhận thức nữa.
|
__________
Cuộc săn lùng tưởng chừng vô vọng
Cuộc săn lùng loại hạt cơ bản ấy bắt đầu từ khi nhà vật
lý lý thuyết Peter Higgs công bố phỏng đoán về sự tồn tại của nó năm
1964, cuối cùng mới kết thúc vào sáng thứ tư 4-7-2012! Giới vật lý toàn
thế giới thở phào nhẹ nhõm vì đã có thể tạm thời... “rửa tay gác kiếm”!
Dù vậy, vẫn cần khoảng dăm bảy tháng nữa để hoàn tất việc phân tích cả
một núi dữ liệu chất chồng.
Phóng to |
Cái nhìn từ trên không ở biên giới Pháp - Thụy Sĩ, mô phỏng quy mô đường hầm dẫn hạt của máy gia tốc LHC - Ảnh: dailymail.co.uk |
“Tôi
không dám nghĩ rằng sự kiện này xảy ra khi tôi còn sống!” - Peter
Higgs, năm nay 83 tuổi, cảm động thốt lên khi bay từ Edinburgh đến
Geneva dự buổi họp sáng hôm ấy.
Các hạt cơ bản có thể chia ra loại hạt vật chất và loại
hạt truyền lực (hay còn gọi là hạt truyền tương tác) - loại hạt trung
gian này làm công việc tựa như anh giao liên thời chiến truyền “tương
tác” giữa cấp trên và cấp dưới. Chẳng hạn, hạt photon (hạt ánh sáng)
truyền tương tác điện từ, hạt gluon truyền tương tác hạt nhân mạnh, các
hạt W và Z truyền tương tác hạt nhân yếu, hạt graviton truyền tương tác
hấp dẫn và hạt Higgs tạo ra khối lượng quán tính cho các hạt cơ bản
khác. Nếu không tìm thấy hạt Higgs và trường Higgs thì không sao hiểu
nổi cơ chế hình thành khối lượng.
Việc tìm ra hạt Higgs còn giúp soi rọi thuở vũ trụ sơ
sinh cũng như thúc đẩy nghiên cứu vật chất tối (dark matter), năng lượng
tối (dark energy)... Nhưng tại sao lại gọi là hạt boson? Theo phép
thống kê, người ta xếp các hạt cơ bản thành hai loại: boson và fermion.
Boson là đặt theo tên nhà vật lý Ấn Độ lỗi lạc Satyandra Nath Bose. Còn
fermion là đặt theo tên nhà vật lý Enrico Fermi, Giải Nobel, người Ý di
cư sang Mỹ năm 1938, cũng như Albert Einstein, để tránh thảm họa phát
xít ở châu Âu.
|
LHC có đường hầm dẫn hạt - như tôi chứng kiến - dài
suýt soát 27km, nằm sâu dưới mặt đất 50-175m, chạy vòng tròn trong lòng
đất ở vùng biên giới Pháp - Thụy Sĩ, dưới chân ngọn núi lửa Jura đã tắt
và dãy Alps ngất trời với đỉnh Mont Blanc. Độ dài của nó gấp hơn hai lần
chiều dài con đường lượn vòng vèo quanh hồ Tây của Hà Nội.
Một mùa phượng cháy chưa xa, tôi rời Hà Nội lần lượt
đến Chicago, Geneva và được tận mắt thỏa thuê nhìn ngắm hai “cỗ máy”
khổng lồ ngoài sức tưởng tượng kia. GS Boaz Klima, giám đốc Dzero, chỉ
vẽ cho tôi thăm Fermilab. Nhà bác học Jack Steinberger, Giải Nobel vật
lý, và GS Patrick Aurenche, làm việc tại Tổ chức Nghiên cứu hạt nhân
châu Âu (CERN) (nhưng cùng lúc nhận thêm chức vụ không lương là đồng
giám đốc Trường Vật lý Việt Nam), hướng dẫn tôi suốt cả chuyến thăm
CERN.
Gọi là “cỗ máy” cho nôm na dễ hiểu, chứ thật ra là cả
một hệ thống nhiều nhà máy lớn, công nghệ đỉnh cao, tối tân tuyệt kỳ,
được xây cất trên mặt đất và trong lòng đất, gọi là các “phòng” thí
nghiệm mang tên Dzero, CDF (ở Fermilab) hay ATLAS, CMS, ALICE, LHCb,
LHCf, TOTEM (ở Geneva). Đường hầm dẫn hạt trông tựa như đường xe điện
ngầm với mái vòm cao lồng lộng.
Ở CERN luôn hiện diện 5.000-6.000 nhà bác học và kỹ sư
thuộc hơn 15 quốc tịch cùng làm việc, chụm đầu bên nhau trong hòa bình
và tình bạn. LHC là máy gia tốc lớn nhất hành tinh do CERN bỏ tiền ra
xây dựng. Nhưng đến đây nghiên cứu không chỉ có các nhà vật lý thuộc
Liên minh châu Âu. Rất nhiều nhà vật lý các nước khác (Mỹ, Canada, Nga,
Nhật Bản, Trung Quốc, Ấn Độ, Hàn Quốc, Úc...) và cả một số nhà vật lý
Việt Nam như Nguyễn Văn Hiệu, Đào Vọng Đức, Phạm Xuân Yêm, Trần Minh
Tâm, Nguyễn Mậu Chung, Lã Thị Việt Nga... cũng từng làm việc tại CERN.
Anh bạn “cố tri” P. Aurenche nói cho tôi về các chùm
proton, loại hạt có khối lượng gấp 1.836 lần khối lượng hạt electron,
nên mới gọi là hạt nặng (hadron) được gia tốc trong những đường dẫn
riêng biệt, ngược chiều nhau, bằng 1.600 “thanh” nam châm điện siêu dẫn
khổng lồ, “thanh” nặng nhất tới... 27 tấn!
Khi đạt tới vận tốc bằng 99,9999991% vận tốc ánh sáng,
tức xấp xỉ 300.000km/giây, hai chùm hạt kia được “lái” để va vào nhau
trực diện (head-on collision), từ đó văng ra vô số mảnh. Nhờ vậy các nhà
vật lý có thể “thấy” cấu trúc bên trong cũng như quá trình phân rã của
hạt proton, và sự xuất hiện bất ngờ của một loại hạt mới nào đó ở vùng
năng lượng cực cao, đến hàng trăm, hàng nghìn tỉ điện tử volt
(gigaelectronvolt/GeV). Cứ mỗi giây đồng hồ, chùm hạt lại bay quanh
đường hầm... 11.000 vòng!
Thập niên 1970, một khung lý thuyết của vật lý hạt được
xây dựng, gọi là Mô hình chuẩn (Standard Model). Mô hình ấy, qua kiểm
chứng của thực nghiệm, đã tỏ rõ đạt độ chính xác cao. Hạt boson Higgs là
hạt cơ bản thứ 17 có mặt trong Mô hình chuẩn và là hạt duy nhất vẫn...
chưa tìm thấy! Một tập thể các nhà vật lý liền cho in cuốn The Higgs
Hunter’s Guide (Sách hướng dẫn người săn lùng hạt Higgs). Các tác giả
viết: “Thành công của Mô hình chuẩn thật đáng ngạc nhiên. Vấn đề trung
tâm hiện nay của vật lý hạt là hiểu được trường Higgs”.
Không tìm được hạt Higgs, không làm sáng tỏ được trường
Higgs thì mô hình chuẩn ắt bị lung lay, nếu không muốn nói là... sụp
đổ!
Boson Higgs chẳng xa lạ với người Việt Nam
Ngày 7-3-2012, trong một bức email gửi cho tôi, GS Trần
Thanh Vân cho biết: Tại cuộc gặp gỡ Moriond hôm ấy ở La Thuile, các nhà
vật lý thuộc ATLAS và CMS của CERN, cũng như Dzero của Fermilab đã
trình bày những kết quả tìm kiếm chung, bước đầu “thấy” boson Higgs.
Đó là một niềm tự hào của Gặp gỡ Moriond do GS Vân sáng
lập và làm chủ tịch nhiều thập niên. Ông tin tưởng trong tương lai
không xa, Trung tâm Quốc tế khoa học và giáo dục liên ngành đang xây
dựng trên mảnh đất rộng 20ha bên bờ biển Quy Nhơn lộng gió sẽ thu hút
được nhiều nhà vật lý quốc tế đến thông báo những khám phá vang dội như
thế.
GS Trần Minh Tâm, Trường đại học Bách khoa liên bang ở
Lausanne (Thụy Sĩ), cũng đã hợp tác với TS Nguyễn Mậu Chung ở Trường đại
học Khoa học tự nhiên Hà Nội, thành lập từ ngày 1-1-2009 nhóm vật lý
năng lượng cao gồm một số nghiên cứu sinh Hà Nội lần lượt đến làm việc ở
Lausanne và ở phòng thí nghiệm LHCb của CERN. Nhóm đã có công trình
công bố quốc tế.
Còn TS Vũ Anh Tuấn đang tham gia nghiên cứu ở phòng thí nghiệm ATLAS cũng của CERN.
“Thật hay khi đôi khi bạn đúng"
Ngày 4-7, nhà vật lý 83 tuổi Peter Higgs đã lau nước
mắt khi nghe các nhà khoa học ở CERN (Geneva) thông báo tìm thấy “hạt
của Chúa”, chứng minh giả thuyết ông đã đưa ra cách nay gần 50 năm.
Là con trai của một kỹ sư từ Newcastle chuyên trách về
âm thanh cho Hãng BBC, Peter Higgs lớn lên ở Bristol. Khi học trung học
tại Trường Cotham, Peter Higgs thấy tên một cựu học sinh của trường trên
bảng danh dự, nhà vật lý lý thuyết người Anh P.A.M Dirac. Tò mò, Higgs
tìm đọc công trình của nhà khoa học này và nhanh chóng bị thu hút vào
khoa học vật lý. Khi cùng các đồng nghiệp đưa ra giả thuyết về trường
Higgs và công bố năm 1964, Higgs cùng các đồng nghiệp đã bị các khoa học
gia khác giễu cợt. Họ kêu gọi Higgs rút lại công trình nếu không muốn
một nguy cơ “tự sát nghề nghiệp”.
Trong số những nhà khoa học từng hoài nghi đó có
Stephen Hawking, người vừa khẳng định GS Higgs xứng đáng một Nobel vật
lý, dù thừa nhận mình đã phải “trả giá”: “Tôi đã cá với Gordon Kane ở
Đại học Michigan rằng người ta sẽ không tìm ra hạt Higgs. Và tôi đã thua
cược 100 USD”.
Trả lời tại cuộc họp báo sau đó về ứng dụng của hạt
Higgs, ông Peter Higgs cho biết: “Nó tồn tại rất ngắn, chỉ khoảng một
phần triệu của một phần triệu của một phần triệu của một phần triệu
giây... Tìm ứng dụng cho những thứ có đời sống dài hơn một chút trước
khi phân rã cũng đủ khó rồi. Một số thứ có đời sống khoảng một phần
triệu giây có thể sử dụng trong y học. Nhưng làm cách nào có một ứng
dụng cho hạt có đời sống vô cùng ngắn ngủi này thì tôi không biết”.
Tuy nhiên theo Alan Walker - một đồng nghiệp của GS
Higgs tại Trường Vật lý thiên văn của Đại học Endinburgh, cũng đã có một
tình trạng không chắc chắn tương tự khi người ta mới tìm thấy electron.
Khám phá này, theo các nhà khoa học, chỉ là kết thúc của một khởi đầu.
Kết quả này có được sau 48 năm tìm kiếm không ngơi nghỉ
của nhiều thế hệ các nhà khoa học. Tuy nhiên, Higgs thừa nhận ông chưa
từng dám nghĩ sẽ tìm ra “hạt của Chúa” khi mình còn sống, nên cuối cùng
ông đã có thể thở phào: “Thật hay khi đôi khi bạn đúng”.
Báo chí Anh cho biết ông Higgs đã từ chối mọi lời mời
phỏng vấn hay bình luận về thành tựu này, cho rằng vinh quang nên tập
trung cho những nhà khoa học đã chứng minh được học thuyết của ông.
|
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét