Thứ Bảy, 27 tháng 8, 2016

KÝ ỨC CHÓI LỌI 34

(ĐC sưu tầm trên NET)
 

Những trận không chiến nổi tiếng của Không quân Việt Nam và Mỹ (Kỳ 1)

Thứ sáu, 29/04/2016, 22:10 (GMT+7) (Xã hội - Pháp luật) - Ngày 13/4/2016, tại Hà Nội đã diễn ra một cuộc gặp gỡ lịch sử giữa một số phi công tiêm kích lừng danh của Việt Nam và một số phi công Mỹ đã từng tham chiến ở Việt Nam từ những năm 1965-1972.
Tại cuộc gặp này, một số phi công Mỹ đã từng tham chiến ở chiến tranh Triều Tiên, đã đối đầu với phi công Liên Xô cũ, Trung Quốc, Triều Tiên đã phải công nhận rằng, phi công tiêm kích Việt Nam là những người xuất sắc nhất trong những người xuất sắc.
BBT xin giới thiệu với bạn đọc hai trận đánh nổi tiếng của Không quân Việt Nam trong cuộc chiến đấu bảo vệ vùng trời miền Bắc trước cuộc chiến tranh phá hoại bằng Không quân của Mỹ.
I – CÁC TRẬN KHÔNG CHIẾN NGÀY 10/5/1972
(Một trong những ngày không chiến dài nhất trong chiến tranh trên không ở Việt Nam)
Ngày 10/5/1972 (ngày đầu tiên của chiến dịch) phía Mỹ tiến hành đồng thời hai chiến dịch Linebacker I và Operation Custom Tailor trên quy mô lớn, với 414 lần/chuyến cất cánh của lực lượng máy bay chiến đấu thuộc Bộ tư lệnh không quân số 7 và Bộ tư lệnh đặc nhiệm 77 của hải quân Mỹ. Phía Mỹ huy động lực lượng lớn các máy bay A-6 (Intruder), A-7 (Corsair) và F-4 (Phantom) từ các tàu sân bay trên biển Đông cất cánh bay vào đánh phá các mục tiêu quanh khu vực Hải Phòng và các mục tiêu phía đông nam Hà Nội. Lúc 8 giờ sáng, các phi đội tấn công đầu tiên cất cánh từ tàu USS Constellation và USS Kitty Hawk hướng về Hải Phòng, sau đó 20 phút là các biên đội từ hai tàu USS Coral Sea và USS Okinawa cất cánh để tiến hành chiến dịch tấn công mang mật danh Alpha Strike. Trong trận này các máy bay Mỹ đeo bom hạng nặng để ném bom sân bay Kiến An và các trận địa tên lửa phòng không.
nhung tran khong chien noi tieng cua khong quan viet nam va my ky 1
Ngày 10/5/1972, lần đầu tiên Không quân Việt Nam tiến hành xuất kích đánh hiệp đồng cả 4 trung đoàn không quân.
Trong khi đó tại các căn cứ không quân ở Thái Lan, các phi đoàn không quân chiến thuật Mỹ đã chuẩn bị cất cánh từ sáng sớm để tấn công các mục tiêu sâu trong lãnh thổ miền Bắc Việt Nam. Trong ngày 10/5/1972, không quân Mỹ huy động 120 máy bay tham gia tấn công, trong đó 16 máy bay F-4 và 5 chiếc F-105 bay vào trước để chế áp lực lượng phòng không và máy bay MiG, 20 chiếc F-4 và năm chiếc F-105 khác làm nhiệm vụ đánh cầu Long Biên, 24 chiếc F-4 và 5 chiếc F-105 tham gia đánh nhà ga Yên Viên, ngoài ra còn có 88 chiếc máy bay các loại làm nhiệm vụ hỗ trợ. Một trong những nhiệm vụ của không quân và hải quân Mỹ trong ngày 10/5/1972 là phải đánh sập cầu Long Biên bắc qua sông Hồng mà trước đó, trong suốt bảy năm trời không quân Mỹ chưa đánh sập được.
Lúc 4 giờ sáng tại khách sạn Metropol, một nhóm các nhà báo quốc tế được đánh thức dậy để di chuyển xuống Hải Phòng, nơi dự kiến có thể ghi nhận các hình ảnh về các trận đánh phá của hải quân Mỹ xuống Hải Phòng và tham dự buổi họp báo về việc tố cáo Mỹ thả mìn phong tỏa cảng Hải Phòng. Trong số các nhà báo quốc tế có hai nhà báo Pháp Theodore Ronco và Claude Julien của tờ L’Humanité và tờ Le Monde. Đây sẽ là các nhân chứng sống chứng kiến các máy bay Mỹ đánh phá các mục tiêu dân sự.
Trước ý đồ của Không quân và Hải quân Mỹ, Bộ Tư lệnh Quân chủng Phòng không – Không quân quyết định tổ chức đánh hiệp đồng cả ba loại MiG của bốn trung đoàn Không quân tiêm kích với lực lượng tên lửa, pháo Phòng không. Ý định tác chiến của Bộ Tư lệnh là triển khai theo phương án đánh các tốp máy bay cường kích của Hải quân và Không quân Mỹ ở cả ba hướng: hướng Đông bảo vệ Hải Phòng, hướng Đông Bắc bảo vệ cầu Long Biên, các mục tiêu Đường 1 Bắc và hướng Tây, bảo vệ đập Bái Thượng, sân bay Yên Bái.
nhung tran khong chien noi tieng cua khong quan viet nam va my ky 1
Các phi công – Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân giai đoạn 1964 – 1973
Chủ trì kíp trực chỉ huy tại Sở chỉ huy Không quân là Tư lệnh Đào Đình Luyện, cùng có mặt gồm các Phó Tư lệnh Trần Mạnh, Trần Hanh, phó Chính ủy Hồ Luật, trực ban dẫn đường Lê Thành Chơn, Khổng Đức Thi, Đỗ Cát Lâm, Lê Viết Diện. Trung đoàn 921 sử dụng các biên đội 2 chiếc Đặng Ngọc Ngự và Nguyễn Văn Ngãi, Nguyễn Công Huy và Cao Sơn Khảo; Trung đoàn 927 là biên đội 2 chiếc Lê Thanh Đạo và Vũ Văn Hợp; Trung đoàn 923 sử dụng ba biên đội 4 chiếc và hai biên đội 2 chiếc MiG-17 trực ban chiến đấu tại sân bay Kép. Trung đoàn 925 tổ chức hai biên đội 4 chiếc trực ở hai đầu sân bay Yên Bái gồm: Hoàng Cao Bổng, Phạm Cao Hà, Nguyễn Văn Cương, Lê Văn Tưởng và Phạm Ngọc Tâm, Phạm Hùng Sơn C, Nguyễn Văn Phúc, Lê Đức Oánh. Trong ngày 10/5, phía Không quân Việt Nam xuất kích 64 lần/chiếc (số lượng lớn nhất trong các trận không chiến giai đoạn hai).
Tại Trung đoàn Không quân 923: Lúc 7 giờ 53 phút, Bộ Tư lệnh cho trạm ra đa C-53 mở máy và phát hiện máy bay Mỹ hoạt động quanh khu vực Hải Phòng. Lúc 8 giờ 40 phút biên đội Mig-17 gồm Vũ Văn Đang, Nguyễn Công Ngũ, Trịnh Văn Quy, Nguyễn Văn Lâm cất cánh từ sân bay Kép, vào khu chờ Phả Lại, không gặp đối phương đã quay về hạ cánh. Đến 8 giờ 55 phút Sở chỉ huy Trung đoàn 923 cho biên đội MiG-17 Đỗ Hạng và Nguyễn Xuân Hiển cất cánh từ Kép, nhưng do không gặp đối phương đã quay về hạ cánh. Sau đó, từ 9 giờ 05 phút đến 17 giờ 08 phút chiều, đã có thêm 10 tốp Mig-17 với 32 lần/chiếc của Trung đoàn 923 cất cánh làm nhiệm vụ (trong đó có nhiều biên đội cất cánh hai lần, riêng các phi công Vũ Văn Đang, Nguyễn Xuân Hiển cất cánh ba lần).
nhung tran khong chien noi tieng cua khong quan viet nam va my ky 1
Trung tướng Nguyễn Đức Soát, Anh hùng LLVT trò chuyện với một cựu phi công Mỹ (ngày 13/4/2016)
Tại Trung đoàn Không quan 921, lúc 8 giờ 52 phút, Sở chỉ huy lệnh biên đội MiG-21 Ngự – Ngãi cất cánh từ sân bay Kép. Khi biên đội mới rời đất và thu càng thì hai chiếc F-4J (Silver Kite) phát hiện, xông vào công kích. Đây là hai chiếc F-4J do Đại úy Austin Hawkins thuộc Phi đoàn VF-92, tàu sân bay USS Constellation dẫn đầu đang bay tuần tiễu trên độ cao 5.000m. Khi bay ngang qua sân bay Kép, hai chiếc F-4 này đã phát hiện MiG của Đặng Ngọc Ngự và Nguyễn Văn Ngãi cất cánh. Chiếc F-4 số 2 do Đại úy Curt Dose và thiếu tá James McDevitt điều khiển bám theo, phóng hai quả tên lửa AIM-9G, quả thứ hai đã trúng chiếc MiG số hai của Ngãi. Lúc đó anh mới lên độ cao 150-200m, Ngãi không kịp nhảy dù nên đã hy sinh.
Trong khi đó, Đặng Ngọc Ngự đã lên độ cao 600m, tốc độ 750-800km/h, phát hiện 2 chiếc F-4 phía sau đang phóng tên lửa về phía mình, anh nhanh chóng cơ động tránh tên lửa, ngay lúc đó anh phát hiện thêm 2 chiếc F-4 khác đang đối đầu cự ly 4-6km, anh nhanh chóng vứt thùng dầu phụ, bật tăng lực, tăng tốc độ lên 900km/h và cô động gấp. Lúc đó 2 chiếc F-4 cũng phát hiện chiếc MiG-21 nên cơ động vòng gấp bên trái bám theo anh.
Hai chiếc F-4 cơ động, theo chiến thuật tách đội hình, đan chéo, một chiếc trên cao, một chiếc dưới thấp. Phi công Đặng Ngọc Ngự rơi vào thế một mình đối đầu 2 chiếc F-4. Anh làm động tác giả định bám theo chiếc F-4 bên dưới, lúc đó chiếc F-4 trên cao liền đổi hướng bám theo, anh lập tức vòng gấp bám theo chiếc này, tức thì chiếc bên dưới quay lại bám theo anh. Phi công Đặng Ngọc Ngự quyết định đổi hướng, nhanh chóng bám theo chiếc F-4 bên dưới, đưa mục tiêu vào vòng ngắm, khi cự ly là 1.200m, tốc độ đạt 1.100km/h, độ cao 1.500m, anh ấn nút phóng quả tên lửa R-3S bên trái, sau đó anh nhanh chóng thoát ly, chuyển sang bám chiếc F-4 còn lại, đến cự ly 1.200m anh ấn nút phóng quả tên lửa thứ hai, nhưng rất may cho viên phi công F-4, quả tên lửa bên phải không đi. Phi công Đặng  Ngọc Ngự nhanh chóng thoát ly về Nội Bài hạ cánh, lúc 9 giờ 12 phút.
Như vậy trong trận không chiến ngày 10/5/1972, biên đội MiG-21, Đặng Ngọc Ngự và Nguyễn Văn Ngãi của Trung đoàn 921, đã bắn rơi 1 chiếc F-4. Trong khi phi công Nguyễn Văn Ngãi số 2 đã hy sinh, tỷ số của trận không chiến là 1/1.
Ghi theo lời kể của phi công Lê Thanh Đạo:
nhung tran khong chien noi tieng cua khong quan viet nam va my ky 1
Phi công Lê Thanh Đạo
“Lúc đó biên đội chúng tôi (Đạo – Hợp) đang ngồi trong buồng lái chờ cất cánh ở đầu đường băng sân bay, nên chứng kiến từ khi biên đội Ngự – Ngãi cất cánh, thấy rõ khi máy bay số 2 mới rời đất đang thu càng đã bị tên lửa Mỹ bắn trúng, lúc đó chúng tôi rất căm thù và quyết tâm nếu cất cánh phải đánh tốt trả thù cho đồng đội.
Cũng lúc ấy chúng tôi đã dùng liên lạc đối không thông báo cho số 1 Ngự biết có F-4 đang đuổi theo. Nhờ được Đạo-Hợp cảnh báo, Ngự đã cơ động với tốc độ lớn trên độ cao thấp nên tránh được tên lửa của F-4(F-4 số 1 bắn liên tiếp 3 quả AIM-9G, F-4 số 2 bắn 1 quả nhưng Ngự đều tránh được). Hai chiếc F-4 chỉ còn lại tên lửa điều khiển AIM-7 và không kịp sử dụng pháo, nên không làm gì được Ngự, mặc dù ở vị trí rất có lợi…”.
Sau đó chưa đầy một tiếng, ở hướng Tây Bắc, 84 chiếc F-4 và 5 chiếc F-105 với đội hình có cả máy bay ném bom, máy bay làm nhiệm vụ yểm trợ, tìm diệt MiG trinh sát, cứu nguy, trực thăng, thông qua phía Bắc Lào và Thái Lan bay vào miền Bắc Việt Nam. Do nắm trước được ý đồ không quân Mỹ sẽ đánh đập Bái Thượng và sân bay Yên Bái, Sở chỉ huy Không quân đã chuẩn bị phương án và quyết định sử dụng biên đội MiG-21 (Nguyễn Công Huy số 1 và Cao Sơn Khảo số 2) làm nhiệm vụ nghi binh và yểm trợ cho MiG-19 đánh bảo vệ các mục tiêu ở khu chiến Yên Bái – Tuyên Quang.
Lúc 9 giờ 39 phút, chiến dịch bắt đầu, khi biên đội MiG-21 (Huy và Khảo) cất cánh, theo ghi chép nhật ký chiến đấu của Không quân Việt Nam, thì 2 chiếc MiG-21 của Trung đoàn 921 cũng cất cánh từ Nội Bài, hướng về Tuyên Quang (theo báo cáo của phi công Mỹ có đến 4 chiếc MiG-21).
Biên đội Huy số 1 – Khảo số 2, sau khi cất cánh bay hướng 320 độ, giữ độ cao 2.000m. Đến 9 giờ 53 phút, Sở chỉ huy cho lên 6.000m. Do bị nhiễu nặng không liên lạc đối không được, sở chỉ huy cho chuyển sang rãnh liên lạc số 5. Lúc này biên đội 4 chiếc F-4D (mật danh Oyster) của Mỹ do thiếu tá Robert A. Lodge và Đại úy Roger C. Locher dẫn đầu, bay số 3 là Đại úy S.Rittchie và Đại úy DeBellevue (2 phi công sau này sẽ trở thành các phi công Aces đầu tiên của Không quân Mỹ) làm nhiệm vụ chế áp MiG trên vùng trời Tuyên Quang yểm trợ đội hình cường kích tấn công cầu Long Biên, Hà Nội và ga Yên Viên.
Theo các tin tức tình báo thì máy bay F-4D này là thế hệ F-4 cải tiến, được lắp thêm cánh tà trước, và là những chiếc F-4D đầu tiên được trang bị hệ thống tác chiến điện tử – chỉ dẫn tập trung APX-80 Combat Tree IFF Interrogator, biên chế tại căn cứ Udorn, Thái Lan với thiết bị QRC-248 có khả năng thu và giải mã tần số (integrated) vào hệ thống phân biệt địch ta SRO-2 và SRZO-2 của MiG. Vì vậy mà biên đội F-4 tiếp cận các máy bay MiG trong khi biên đội MiG không hề hay biết.
Lúc 8 giờ 23 phút, nhiều khả năng, hệ thống cảnh báo sớm trên tàu USS Chicago đã cảnh báo cho đội hình F-4 có MiG xuất hiện, các máy bay F-4 đã tiếp cận từ độ cao thấp ở thế đối đầu và phóng 2 quả tên lửa AIM-7E-2 về phía biên đội MiG. Số 1 Huy, trong khi quan sát, tìm kiếm mục tiêu đã phát hiện 2 tên lửa từ bên trái phía sau lao đến, anh lệnh vòng phải gấp! Nhưng không thấy số 2 trả lời. Chiếc F-4 đã phóng tên lửa về phía chiếc MiG của Khảo do Trung úy nhất John D.Markle và Đại úy Steven D.Eaves thuộc Phi đoàn 555 Không đoàn 432 FFW điều khiển.
Ngay lúc đó số 1 phát hiện 4 chiếc F-4 ở phía sau hướng 160 độ bay theo từng đôi một, đang vòng phải bám theo anh. Sau khi 2 chiếc F-4 và MiG số 1 Huy vòng bám nhau một vòng không có kết quả, cả hai phía để mất mục tiêu. Số 1 Huy ngay lúc đó lại phát hiện 1 chiếc F-4 đang bay từ trái sang phải, kéo lên ở độ cao cao hơn anh khoảng 1.000m. Anh lập tức tăng lực, bám theo, đến cự ly 3.000m, tốc độ 850km/h, anh đưa mục tiêu vào vòng ngắm và khi ổn định, ấn nút phóng quả tên lửa bên trái, anh nhanh chóng lật úp máy bay, kéo xuống thoát ly.
Sau khi nghe Sở chỉ huy cảnh báo: “Chú ý cảnh giới bên ngoài phải”, số 1 Huy phát hiện từ phía bên phải, phía sau khoảng 4km, 2 chiếc F-4 khác đang phóng tên lửa về phía mình. Anh nhanh chóng lật úp, vòng lại đối đầu với 2 chiếc F-4, rồi bay vút ngang qua 2 chiếc F-4 này và thoát ly. Số 1 Huy hạ thấp độ cao, bay men theo triền dãy Tam Đảo quen thuộc, về sân bay Kép hạ cánh lúc 10 giờ 28 phút, khi máy bay lăn vào anh  nhìn thấy đồng hồ báo lượng dầu chỉ 300 lít, và sau đó các thợ máy đã đếm được 16 lỗ thủng trên thân máy bay.
Riêng về số 2 Cao Sơn Khảo, kể từ khi số 1 hô vòng phải gấp, không có liên lạc gì từ lúc 9 giờ 57 phút. Do vậy các thông tin chính xác về động tác trên không của số 2 cũng không có điều kiện dựng lại. Tuy nhiên, theo phản ánh, xác nhận của địa phương, những người chứng kiến hành động chiến đấu trên không của số 2 và công nhận của Quân chủng thì phi công Cao Sơn Khảo, trong trận này đã bắn rơi 1 chiếc F-4, trước khi bị trúng tên lửa địch và rơi ở Trấn Yên, Yên Bái, Cao Sơn Khảo nhảy dù nhưng không thành công. Anh hy sinh sau khi tiếp đất.
Trích từ cuốn “Tôi từng là phi công tiêm kích”:
“Biên đội chúng tôi (Huy – Khảo) xuất kích từ sân bay Đa Phúc, bay nhiệm vụ nghi binh yểm trợ cho biên đội MiG-19. Khi chúng tôi bay về phía Tuyên Quang và lên độ cao 6.000m thì được Sở Chỉ huy thông báo có mục tiêu phía trước. Ngay lúc đó tôi phát hiện các máy bay F-4 phía trước đang bay đối đầu, khi nhìn thấy dưới cánh tóe lửa màu xanh, tôi hiểu ngay là các máy bay F-4 đang phóng tên lửa uy hiếp về phía biên đội MiG. Tôi hô cho số 2 cơ động, rồi hô tiếp vứt thùng dầu phụ, tăng lực, vòng phải gấp.
Đúng lúc đó, tôi thấy 1 quả tên lửa bay vút về phía trước, ngay trên đầu mình và lao về phía chiếc máy bay phía trước. Do ở xa nên tôi không phân biệt rõ đó là MiG-21 hay F-4. Để chắc chắn, tôi hô số 2 “Cơ động gấp!”, nhưng không thấy phản ứng gì, quả tên lửa lao thẳng vào chiếc máy bay, bốc cháy bùng lên. Tôi lại hô: “Nhảy dù” nhưng cũng không thấy động tĩnh gì. Ngay lúc đó lai thấy chiếc máy bay vừa bắn rơi chiếc phía trước cũng trúng tên lửa bốc cháy, tôi lại hô: “Nhảy dù” lần nữa nhưng cũng không thấy động tĩnh gì. Tôi đoán, số 2 Khảo đã bắn rơi 1 chiếc F-4, nhưng ngay sau đó, do không động cơ kịp thời đã bị chiếc F-4 phía sau bắn rơi.
Khi thấy 1 chiếc F-4 phía trước, tôi nhanh chóng bám theo, đặt điểm ngắm rồi phóng 1 quả tên lửa. Cũng không kịp quan sát kết quả, tôi lập tức lật úp máy bay, kéo xuống thoát ly, tôi kéo máy bay ra ở độ cao thấp, rồi bay sát ngọn cây rừng Tam Đảo, ép sát dãy núi để tận dụng núi che chở một bên, chỉ phải quan sát, cảnh giới một bên. Khi về đến ngang hồ Đại Lải thì nghe thông báo có một tốp F-4 bay từ Hòa Lạc sang đang bay phong tỏa chế áp sân bay Nội Bài, tôi quyết định chuyển hướng về sân bay Kép hạ cánh.
Khi kéo máy bay về ụ cất giấu, các đồng chí thợ máy bất ngờ và kinh ngạc phát hiện ra hàng chục lỗ thủng trên thân chiếc MiG-21 của tôi. Tất cả có hơn 30 lỗ to nhỏ khác nhau chạy suốt từ đuôi lên thân và cánh, kể cả chóp nón cũng bị, riêng buồng lái không có vết nào…”.
(Theo Petrotimes)

(An ninh quốc phòng) - Tối ngày 10/5/1972, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã trực tiếp nghe Tư lệnh Không quân Đào Đình Luyện báo cáo về trận không chiến ác liệt và dài nhất trong ngày 10/5/1972.
Trận không chiến giữa 8 chiếc MIG-19 và các máy bay F-4D trên trời Yên Bái
Gần như cùng lúc với biên đội MiG-21 bay nhiệm vụ nghi binh cất cánh, Sở chỉ huy Trung đoàn 925 (chủ trì là Phó Trung đoàn trưởng Hồ Văn Quỳ, trực dẫn đường là Lưu Văn Cộng, Triệu Sỹ Việt) đã quyết định cho biên đội trực ban cất cánh. Lúc 9 giờ 44 phút, 4 chiếc MiG-19 ở đầu nam sân bay Yên Bái gồm các phi công Tâm, Sơn, Phúc và Oánh cất cánh, bay chờ trên đỉnh sân bay. 20 phút sau, bốn chiếc MiG-19 ở đầu bắc sân bay Yên Bái gồm các phi công Bổng, Hà, Cương và Tưởng cất cánh, cũng bay chờ trên đỉnh sân bay Yên Bái chuẩn bị đánh tốp cường kích của Không quân Mỹ.
nhung tran khong chien noi tieng cua khong quan viet nam va my ky 2
Ngày 10/5/1972 ghi nhận kỷ lục về số lần xuất kích của các máy bay Mỹ.
Sau khi rời đất, biên đội vòng trên đỉnh sân ba vòng, đến vòng thứ ba thì phát hiện mục tiêu bay từ phía Tây Nam lên. Đây là đội hình gồm 32 chiếc F-4 của Không đoàn tiêm kích chiến thuật số 432 của Mỹ với đường bay theo hướng sẽ đánh phá cầu Long Biên, ga xe lửa Yên Viên. Chiếc F-4 do Thiếu tá Robert Alfred Lodge và Đại úy Roger C. Locher điều khiển làm đội trưởng, dẫn đầu biên đội bay nhiệm vụ chế áp MiG. Chắc lúc này đài ra đa “Red Crown” của Hải quân đã cảnh báo cho biên đội F-4 về sự xuất hiện của MiG.
Có thể lúc này biên đội F-4 đang tìm kiếm sự xuất hiện của 2 chiếc MiG-21 bay nghi binh (Huy – Khảo) trên độ cao 5.000m, thì bị 4 chiếc MiG-19 lao vào tấn công. Biên đội F-4 quay lại đối đầu với đội hình MiG-19, sau khi liên tục phóng tên lửa AIM-7 về phía biên đội MiG, các máy bay F-4 tách thành 2 tốp bay vượt qua các máy bay MiG. Thiếu tá Lodge (Oyster 01) quyết định vòng gắt lại, bám theo chiếc MiG số 1 và thông báo cho chiếc F-4 số 3 do Đại úy S. Ritchie và Đại úy DeBellevue điều khiển biết. Khi cách chiếc MiG-19 khoảng 8km, Lodge tăng tốc bám theo và phóng liên tiếp 2 quả tên lửa Sparrow vào MiG số 1.
Khi phát hiện đội hình máy bay Mỹ, biên đội MiG-19 lao về phía mục tiêu, do cự ly quá gần, góc vào lớn, nên số 1 Tâm bắn 45 viên đạn nhưng không trúng mục tiêu. Khia phát hiện dầu còn ít, anh quyết định quay về hạ cánh. Lúc này hai chiếc F-4 đang mải bám theo chiếc MiG-21 số 1 bay nhiệm vụ nghi binh trên độ cao 6.000m, nên không phát hiện hai chiếc MiG-19 (số 3 và số 4) đang lao đến với tốc độ rất lớn, thậm chí xông lên ngang với chiếc F-4 mà viên phi công vẫn không biết. Hai chiếc F-4 vẫn đang cố bám theo chiếc MiG-21 bay phía trước thì MiG-19 số 3 Nguyễn Văn Phúc bám sát được 2 chiếc F-4D, và nổ 2 loạt đạn pháo vào chiếc F-4D số 1 của Thiếu tá Lodge.
Tuy đã được chiếc F-4 số 2 cảnh báo, nhưng Lodge không kịp cơ động tránh đạn, chiếc F-4D số 1 trúng đạn, chững lại rồi đổ vào xoáy ốc, chiếc MiG-19 số 3 lao vào bồi tiếp loạt đạn thứ ba, chiếc F-4D gãy đôi và bốc cháy. Phi công trên chiếc F-4D bị bắn rơi này gồm thiếu tá Robert A. Lodge, chủ nhiệm về vũ khí chiến thuật (chủ nhiệm xạ kích) của Không đoàn 432 TFW, đây là viên phi công đầy triển vọng trở thành phi công Ace đầu tiên (vì trước đó đã tuyên bố bắn rơi 3 chiếc MiG),  và phi công ngồi buồng sau là đại úy Roger C. Locher. Thiếu tá Lodge được coi là chết trận, riêng đại úy C. Locher nhảy dù và lang thang trong rừng 23 ngày trước khi được cứu thoát. Locher trở thành phi công Mỹ có thời gian sau khi bị bắn rơi đến khi được giải cứu dài nhất, với một chiến dịch giải cứu cũng dài nhất.
Số 3 Nguyễn Văn Phúc về hạ cánh lúc 10 giờ 19 phút tại sân bay Yên Bái.
Số 4 Oánh, trong khi yểm hộ cho số 3 đã phát hiện một tốp phía sau, anh quyết định quay lại phản kích, bắn gần hết cơ số đạn nhưng không trúng mục tiêu. Cùng lúc đó 2 chiếc F-4 phía sau đã phóng tên lửa trúng máy bay của anh. Oánh nhảy dù nhưng bị tuột mất dù, rơi tự do ở chân núi Là, Tuyên Quang và hy sinh.
Trận đánh kéo dài 20 phút, các máy bay MiG-19 đã gần cạn dầu nhưng máy bay Mỹ tiếp tục vào. Lúc này Sở chỉ huy lệnh cho biên đội số 2 từ đầu bắc sân bay cất cánh yểm trợ cho biên đội số 1 về hạ cánh. Số 1 và số 3 biên đội 1 lúc quay về hạ cánh phải quay lại phản kích, nhưng sau khi máy bay Mỹ bỏ chạy đã hạ cánh an toàn. Số 2 khi về hạ cánh thì hết dầu, động cơ chết máy, từ độ cao 1.600m, anh lao xuống hạ cánh, tiếp đất 2/3 đường băng, máy bay lao ra ngoài, nhưng phi công an toàn.
Biên đội thứ 2 cất cánh từ đầu bắc lúc 10 giờ 2 phút, gồm các phi công Hoàng Cao Bổng số 1, Phạm Cao Hà số 2, Nguyễn Văn Cương số 3, Lê Văn Tưởng số 4 cũng đã gặp tốp máy bay F-4 của Không quân Mỹ. Đó là biên đội F-4E làm nhiệm vụ yểm hộ tốp cường kích ném bom laser (mật danh là Cleveland). Bốn chiếc MiG-19 tiếp cận đối phương với góc gần như 90 độ. Cả biên đội vòng gắt để cắt vào sau đội hình F-4.
Riêng số 4, do bay phía sau có cự ly đủ xa hơn, đã vòng cắt một cách đáng kinh ngạc và bám được phía sau chiếc F-4E số 4, anh nhanh chóng đặt điểm ngắm và bắn ra hai loạt đạn, trúng ngay cánh bên phải của chiếc F-4E. Chiếc F-4E rơi xuống phía Tây Nam sân bay. Tổ bay chiếc F-4E này gồm Đại úy Jeffrey Lyndon Harris và Đại úy Dennis Edward Wilkinson không nhảy dù được và đều coi đã chết. (Các thành viên trong biên đội và nhân chứng dưới đất đều nhìn thấy chiếc MiG-19 số 4 bắn cháy 1 chiếc F-4).
Trong lúc số 4 Tưởng bám theo công kích chiếc F-4E số 4 thì các F-4 khác vẫn bám theo phía sau anh. Khi gần hết dầu, anh quay về hạ cánh, từ trên độ cao 1.400m, động cơ chết máy, anh lao xuống hạ cánh, nhưng khi tiếp đất cao, xử lý chưa tốt máy bay xông ra ngoài, vượt qua đê sông Hồng, phi công Lê Văn Tưởng đã hi sinh. Số 1 Bổng và số 2 Hà quần nhau với F-4 nhưng không có điều kiện nổ súng. Số 3 Cương bắn hết 201 viên nhưng không trúng mục tiêu.
Trận đánh của biên đội MiG-19 thứ 2 đã kéo dài 18 phút, Sở chỉ huy lệnh cho biên đội thoát ly về hạ cánh. Số 1 và số 3 hạ cánh tốt, số 2 khi hạ cánh nghe Sở chỉ huy thông báo có F-4 phía sau đã quay lại phản kích, sau đó hạ cánh an toàn lúc 10 giờ 47 phút.
Mặt trận hướng Đông, chiều ngày 10/5/1972
Từ 12 giờ 15 phút chiều ngày 10/5/1972, Hải quân Mỹ huy động lực lượng lớn máy bay với khoảng 66 lần/chiếc, bao gồm cả F-4B, A-6, A-7 tổ chức các đợt tấn công (Alpha Strike) vào các mục tiêu khu vực Hải Phòng, Hải Dương, đặc biệt là các cây cầu Lai Vu và Phú Lương trên trục Đường số 5. Các máy bay của Hải quân Mỹ bay vào với các thiết bị gây nhiễu mới chế áp các trạm ra đa mặt đất của phía Việt Nam, khiến hệ thống chỉ huy mặt đất trợ giúp phi công MiG rất khó khăn, đồng thời giai đoạn này hệ thống APX-80 Combat Tree vẫn có khả năng xâm nhập vào hệ thống liên lạc trên không và hệ thống phân biệt địch-ta của MiG, đã thông báo cho các phi công F-4 về sự xuất hiện của MiG trên không.
Bộ Tư lệnh không quân giao cho Trung đoàn 923 sử dụng MiG-17 cất cánh từ sân bay Kép, hiện đồng theo độ cao với MiG-21 của Trung đoàn 927 để đánh chặn tốp cường kích của Hải quân Mỹ bay vào từ hướng Đông. Chủ trì kíp trực tại Sở chỉ huy Trung đoàn 923 là Phó Trung đoàn trưởng Lâm Văn Lích, trực ban dẫn đường Phạm Từ Tịnh và Đặng Văn Hảo A.
nhung tran khong chien noi tieng cua khong quan viet nam va my ky 2
Các phi công – Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân tham gia chiến đấu giai đoạn 1964 – 1973
Trong kế hoạch hiệp đồng với MiG-21 của Trung đoàn 927, biên đội 4 chiếc MiG-17 bao gồm Nguyễn Văn Thọ – máy bay 2036, Tạ Đông Trung – máy bay 2056, Đỗ Hạng – máy bay 2069, Trà Văn Kiếm – máy bay 2012 được lệnh cất cánh lúc 12 giờ 56 phút từ sân bay Kép. Sau khi rời đất, vòng trái theo hướng 160 độ, giữ độ cao 500m bay về khu vực Bắc Giang. Sở chỉ huy liên tục thông báo tin về đối phương, và nhắc chỉ công tác trên độ cao thấp (để phối hợp với biên đội MiG-12). Khi bay gần đến Phả Lại, cự ly 20km, chú ý cảnh giới.
Lúc 12 giờ 58 phút, khi biên đội bay qua Phả Lại, và đang tăng lực kéo lên 1.000m thì số 1 Thọ phát hiện 4 máy bay Mỹ ở hướng Đông Nam đang bay vào. Anh lệnh biên đội vứt thùng dầu phụ, tăng tốc độ lên 850-900km/h, độ cao 1.500m. Số 1 nhìn rõ 4 chiếc A-7 tách thành 2 tốp đang kéo cao sau khi cắt bom. Anh quyết định  cắt vào bám chiếc A-7 số 3, nhưng do tốc độ của chiếc A-7 lớn, anh quyết định chuyển sang bám theo chiếc số 4.
Khi viên phi công chiếc A-7 số 4 vừa kịp cải bằng, số 1 nhanh chóng bao vòng quang điểm sáng về trước 30mm giác, góc vào 20-25 độ, anh bóp cò, thấy đạn pháo trùm lên đầu chiếc A-7, chiêc A-7 lật ngửa, chúi xuống. Số 1 nhanh chóng vòng phải, thì phát hiện 8 chiếc F-4 đang bay từ phía biển vào, anh quyết định xông thẳng vào đội hình F-4, nhưng 8 chiếc F-4 này không hiểu sao không tham chiến mà quay thẳng ra biển.
Anh quay lại quan sát thấy 4 chiếc F-4 khác nhau đang bám sau tốp 2 chiếc MiG-17 của Hạng và Kiếm và phóng tên lửa, anh hô to: “Cơ động!” nhưng chỉ có số 4 cơ động kịp, số 3 không kịp cơ động, chiếc MiG-17 số 3 trúng tên lửa, phi công Hạng nhảy dù, dù mở tốt, nhưng ngay sau đó F-4 lao đến dùng súng 20mm vào dù của Hạng. Phi công Đỗ Hạng hy sinh tại Toại An, Đông Kỳ, Tứ Kỳ, Hải Dương. Sau này có một số tài liệu phía Mỹ cho rằng, do máy bay F-4 của Mỹ không có súng 20mm nên không thể bắn vào dù của Hạng, nhưng thực tế từ tháng 5-1967, một số máy bay F-4 đã được trang bị súng MK61 Vulcan 20mm để không chiến cự ly gần với MiG.
Số 2 Tạ Đông Trung, khi yểm hộ số 1, thấy số 1 chuyển sang bám chiếc số 4, anh đã quyết định vọt lên bám chiếc số 3 của tốp A-7. Chiếc A-7 số 3 hạ thấp độ cao chạy thẳng ra biển. Trung cố bám theo vừa đuổi vừa bắn, đến bờ biển thì anh quyết định quay lai, bay dọc theo sông Thái Bình về Kép hạ cánh lúc 13 giờ 23 phút.
Sau khi số 3 Đỗ Hạng hy sinh, số 1 Thọ đã quay lại yểm trợ cho số 4 Trà Văn Kiếm. Hai chiếc MiG-17 quần nhau với các máy bay F-4. Số 1 Thọ bám theo một chiếc, do cự ly với góc đón 66 ly giác, bóp cò, đạn rơi phía trước, anh tiếp tục bám theo nổ súng hai loạt nữa, nhưng hết đạn. Ngay lúc đó, anh nhận thấy máy bay rung mạnh, không điều khiển được, anh quyết định  nhảy dù ở độ cao 1.000m, đề phòng F-4 bắn dù, xuống đến 500m anh mới bật dù. Khi bay lơ lửng trên dù anh vẫn thấy Kiếm đang quần nhau với F-4. Thọ tiếp đất ở Ngọc Kỳ, Tứ Kỳ, Hải Dương.
Trong khi đó, phi công trẻ số 4 Trà Văn Kiếm, tiếp tục quần nhau với các máy bay tiêm kích của Hải quân Mỹ. Do số lượng máy bay Mỹ rất nhiều, một  mình Kiếm quần nhau, anh liên tục tránh tên lửa do máy bay Mỹ phóng ra. Số 4 Kiếm mất liên lạc, sau này tổ cấp cứu đi tìm, đến hiện trường, thấy máy bay của Kiếm rơi ở Tây Nam Thanh Hà, phi công Trà Văn Kiếm bị trúng tên lửa của máy bay Mỹ, anh không nhảy dù được, đã anh dũng hy sinh.
Một số tác giả Mỹ mô tả trận không chiến chiều ngày 10/5/1972 giữa Hải quân Mỹ và các máy bay MiG-17, MiG-19 rất ác liệt. (Nhưng thực ra tại thời điểm đó, tại khu chiến chỉ có 4 chiếc MiG-17 đụng độ với máy bay của Hải quân Mỹ). Theo thống kê của một số tác giả Mỹ, chiếc F-4J làm nhiệm vụ tiêm kích, hộ tống đã bắn rơi 1 chiếc MiG-17, 1 chiếc F-4J khác làm nhiệm vụ chế áp MiG (mật danh Showtime 100) do Đại úy Randal H. Cunningham và Trung úy William P. Driscoll thuộc Phi đoàn VF-96 tàu USS Constellation điều khiển đã tuyên bố bắn rơi 3 chiếc MiG-17. Ngoài ra chiếc F-4J mật danh Showtime 106 do Đại úy Matthew J. Connelly và Đại úy Thomas J.J. Blonski thuộc Phi đoàn VF-96, tàu USS Constellation điều khiển cũng tuyên bố bắn rơi 2 chiếc MiG-17.
Chiếc F-4J của Đại úy Cunningham sau khi thoát ly, đang trên đường rút về thì gặp 1 chiếc MiG-17 bay lẻ ở hướng đối đầu (đây có thể là Thiếu úy, phi công Trà Văn Kiếm), Cunningham áp sát chiếc MiG-17, định nổ súng uy hiếp thì MiG-17 đã nổ súng trước. Chiếc F-4 bị bất ngờ vội kéo lên thẳng đứng, hy vọng MiG-17 sẽ không theo kịp. Nhưng Trà Văn Kiếm tỏ ra có kỹ thuật không chiến rất điêu luyện, anh đã bám sát và cơ động trên mặt thẳng đứng cùng với chiếc F-4. Có những thời điểm, hai máy bay và hai buồng lái gần như áp sát nhau, cả 2 phi công nhìn rõ khuôn mặt của đối phương.
Hai chiếc quần nhau trên mặt phẳng đứng, phi công MiG-17 (Trà Văn Kiếm) nhiều lần bám được phía sau và nổ súng rất mãnh liệt. Viên Đại úy Cunningham áp dụng kỹ thuật “Feather Duster” kéo lên thẳng đứng rồi đột ngột thả giảm tốc, khiến máy bay MiG xông lên trước, lập tức chiếc F-4 bám theo phóng ra quả tên lửa AIM-9G, MiG-17 bị thương nhẹ, nhưng do thất tốc đã lao xuống đất. (Đã có một thời gian, truyền thông Mỹ tuyên truyền rằng đây chính là chiếc MiG Đại tá Nguyễn Tom (phi công huyền thoại bắn rơi đến 13 máy bay Mỹ). Nhưng thực tế, đây lại là Thiếu úy, phi công trẻ Trà Văn Kiếm. Dù lần đầu xuất kích gặp đối phương nhưng anh cũng có thể thực hiện các động tác cơ động tài chính khiến Cunningham tưởng rằng mình đang đối đầu với Đại tá Nguyễn Tom!). Sau khi không chiến với các máy bay MiG-17, trên đường trở về tàu sân bay, chiếc F-4J của Cunningham đã bị tên lửa SAM bắn rơi, 2 phi công nhảy dù và được cứu thoát.
Tại phía Đông Bắc, theo tình hình báo từ 12 giờ 40 phút đến 13 giờ 40 phút sẽ có đợt hoạt động lớn của Hải quân Mỹ đánh vào khu vực cầu Lai Vu và Phú Lương trên Đường số 5. Bộ Tư lệnh Không quân giao cho Trung đoàn 927 tổ chức hiệp đồng chiến đấu với MiG-17 đánh tốp cường kích tấn công hai cây cầu này.
Chủ trì kíp trực tại Sở chỉ huy Trung đoàn là Trung đoàn trưởng Nguyễn Hồng Nhị, các trực ban dẫn đường là Vũ Đức Bình, Nguyễn Văn Được, trực ban ra đa hiện sóng là Lê Thiết Hùng, Trung đoàn 927 phân công biên đội MiG-21 gồm Lê Thanh Đạo và Vũ Văn Hợp sẵn sàng cất cánh, đánh cường kích và tiêm kích đối phương trên tầng cao, phối hợp với biên đội MiG-17 đánh ở tầng thấp, bảo vệ cầu Lai Vu và cầu Phú Lương.
Lúc 12 giờ 47 phút, mạng ra đa phát hiện một tốp 24 chiếc máy bay đang bay vào từ phía Đông Thanh Hóa. Trước đó, lúc 9 giờ 53 phút sáng, Trung đoàn 927 đã cho biên đội Nguyễn Đức Soát, Ngô Duy Thư, Nguyễn Văn Nghĩa và Hạ Vĩnh Thành cất cánh từ Nội Bài lên Đại Từ để bảo vệ sân bay, nhưng không gặp đối phương đã quay về hạ cánh.
nhung tran khong chien noi tieng cua khong quan viet nam va my ky 2
Các cựu phi công Mỹ đang xem lại bản đồ tường thuật một trận đánh
Lúc 12 giờ 56 phút, Sở chỉ huy Không quân cho 4 chiếc MiG-17 cất cánh, bay về khu vực cầu Lai Vu. Lúc 12 giờ 57 phút, biên đội MiG-21 Đạo – Hợp cất cánh, bay hướng 360 độ, độ cao 2.000m, rồi vòng phải hướng 180 độ. Khi biên đội MiG-21 đang bay hướng 200 độ, nghe thông báo địch bên trái 30 độ cự ly 30km, đối đầu, Đạo số 1 lập tức thả thùng dầu phụ, tăng cường quan sát. Ngay sau đó cả 2 phi công MiG đều phát hiện mục tiêu đang bay đối đầu ở độ cao 5.000m. Biên đội đã nghiên cứu và nắm vững thủ đoạn chiến thuật mới của F-4, đó là thủ đoạn 2 chiếc tách ra, một dưới thấp, một trên cao, bay đan chéo, buộc biên đội MiG cũng phải tách ra, F-4 sẽ lợi dụng ưu thế độ cao và tốc độ để quay lại bám theo chiếc MiG lúc này đã không còn sự yểm trợ của đồng đội.
Nắm vững thủ đoạn của đối phương, số 1 Đạo vẫn quyết định chớp thời cơ bám theo chiếc số 1, lệnh cho số 2 Hợp đánh chiếc số 2. Số 2 Hợp ép độ nghiêng cắt và bám theo chiếc F-4 số 2. Khi cự ly đến 1.800m, tốc độ là 1.200km/h, âm lượng đầu tên lửa nghe tốt, anh ấn nút phóng quả R-3S, quan sát thấy quả tên lửa hơi lệch về phía bên phải, anh quyết định tiếp tục ổn định vòng ngắm để phóng nốt quả thứ hai, nhưng ngay lúc đó, anh thấy chiếc F-4 đã bốc cháy. Hợp hô to: “Cháy rồi!” và thoát ly bên trái, về hạ cánh ở sân bay Kép lúc 13 giờ 18 phút.
Số 1 Lê Thanh Đạo khi nghe thấy số 2 hô: “Cháy rồi!” anh lập tức quan sát, thấy chiếc F-4 bị số 2 bắn trúng đang bốc cháy. Anh tiếp tục tăng tốc độ đuổi theo chiếc F-4 số 1. Ở độ cao 5.000m, anh bám sát mục tiêu, khi chiếc F-4 vừa kịp cải bằng độ nghiêng, anh nhanh chóng ổn định điểm ngắm và ấn nút phóng quả tên lửa thứ nhất ở độ cao 5.000m, tốc độ 1.100-1.200km/h, cự ly 1.800m. Cũng như Hợp, khi thấy quả tên lửa thứ nhất của mình hơi lệch phải, anh quyết định tiếp tục ổn định điểm ngắm để bắn quả thứ hai, nhưng ngay sau lúc đó anh đã thấy chiếc F-4 số 1 bốc cháy. Phi công Lê Thanh Đạo báo cáo: “Cháy rồi!” và nhanh chóng hạ thấp độ cao về hạ cánh ở sân bay Kép lúc 13 giờ 18 phút.
Chiếc F-4J bị Lê Thanh Đạo bắn rơi do Trung tá Harry Lee Blackburn và Trung úy Stephen Anthony Rudlof thuộc Phi đoàn VF-92, tàu USS Constellation điều khiển, cả 2 phi công bị bắt (sau đó Trung tá Blackburn đã chết). Khi biên đội Đạo – Hợp thoát ly, biên đội 2 chiếc MiG-21 Dũng – Liêm cất cánh yểm trợ. Đến 16 giờ 49 phút, Sở chỉ huy Trung đoàn 927 lệnh biên đội MiG-21 Nguyễn Đức Soát – Ngô Duy Thư cất cánh từ Nội Bài vào khu chờ Ân Thi, nhưng không gặp mục tiêu đã quay về Nội Bài hạ cánh.
Như vậy, ngày 10/5/1972, những trận không chiến ác liệt đã kết thúc với kết quả phía Không quân Việt Nam bắn hạ 6 máy bay Mỹ (MiG-21 bắn rơi 4 chiếc, MiG-19 bắn rơi 2 chiếc), 3 phi công Mỹ bị chết. Trong khi đó, phía Không quân Việt Nam có 6 chiếc MiG bị rơi, bao gồm 2 chiếc MiG-21 (Ngãi, Khảo), 3 chiếc MiG-17 (Thọ, Hạng, Kiếm) và 1 chiếc MiG-19 (Oánh), 5 phi công hy sinh.
Tối ngày 10/5/1972, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã trực tiếp nghe Tư lệnh Không quân Đào Đình Luyện báo cáo về trận không chiến ác liệt và dài nhất trong ngày 10/5/1972. Đại tướng Võ Nguyên Giáp khen ngợi tinh thần dũng cảm và chiến đấu mưu trí của các phi công MiG và chỉ đạo: “Bộ đội Không quân cần tiếp tục chủ động tấn công, bí mật bất ngờ, đánh chắc thắng và phê phán tư tưởng: “một đổi một” mới nảy sinh là không đúng đắn, cần loại trừ ngay.
Như vậy kết thúc một ngày mà các tài liệu Mỹ gọi là “một ngày trong cuộc chiến kéo dài”, ngày 10/5/1972 cuộc chiến tranh trên không ở miền Bắc Việt Nam (One day in long war – 10 May, 1972, Air War, North Vietnam – tác giả Jeffrey Ethell và Afred Price). Ngoài ra, tháng 12/2007, kênh Truyền hình TV History Channel kênh chuyên về đề tài Lịch sử đã chiếu một loạt phim về các trận không chiến ngày 10/5/1972, với tiêu đề Ngày đẫm máu (The Bloodiest Day).

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét