BÍ ẨN LỊCH SỬ 137
- Nhận đường liên kết
- X
- Ứng dụng khác
(ĐC sưu tầm trên NẸT)
Nên khai quật khu vực gần chùa Thiền Lâm
(Kiến Thức) - Có ý kiến cho rằng, vua Quang Trung là
người sáng suốt nên ngay khi còn sống, ông đã lệnh cho xây dựng lăng mộ ở
một nơi bí mật.
"Nếu quả thực thi hài Hoàng đế Quang Trung đã được đưa ra khỏi Phú Xuân thì chỉ có Nghệ An vừa là quê cha đất tổ, vừa là kinh đô của vương triều, thế đất hiểm yếu, có thể khống chế thiên hạ, giữ được lâu dài, đủ yên tâm cho Hoàng đế nằm lại vĩnh viễn".
GS.TS Nguyễn Quang Ngọc (Chủ tịch Hội Sử học Hà Nội, nguyên Viện trưởng Viện Việt Nam học và Khoa học phát triển)
"Tìm mộ Hoàng đế Quang Trung là việc lớn nên chúng tôi đã đề xuất với Tỉnh ủy, UBND tỉnh Nghệ An mời các nhà khoa học, lịch sử có uy tín như GS Phan Huy Lê, GS.TS Nguyễn Quang Ngọc, Thiếu tướng Ngô Tiến Quý... cùng đông đảo các nhà nghiên cứu, thân nhân dòng họ Hồ có mối liên hệ với vua Quang Trung để có được những cứ liệu chính xác nhất trong việc chuẩn bị kế hoạch và thực hiện tìm hài cốt Quang Trung Hoàng đế được thuận lợi".
Ông Nguyễn Hữu Bản (nguyên Bí thư Thành ủy Vinh, Nghệ An)
(Kiến Thức) - Nhiều nhà ngoại cảm bỗng nằm mê man trên
nền bia núi Quyết, một Thượng tá công an nằm mơ vẽ được bản đồ khu lăng
mộ Hoàng đế Quang Trung...
Cách đây vài ba chục năm, sau ngày đất nước hoà bình, các nhà khoa học mới lần giở lại những điều mà lịch sử viết chưa thỏa đáng về Hoàng đế Quang Trung và bắt đầu đi tìm sự thật về nơi an nghỉ của ông. Cũng đã có những người tâm huyết tìm kiếm nhiều năm ở phía Nam và cho rằng họ đã tìm được mộ Hoàng đế Quang Trung ở Lăng Ba Vành, Cung Đan Dương, phía Nam sông Hương...
- Chỉ 10 năm sau khi Quang Trung mất, triều đình Quang Toản vua thì hèn
kém, các đại thần gây bè kéo cánh, tàn hại lẫn nhau, lòng dân lìa tan
dẫn đến sự tàn lụi của cả một triểu đại.
[links()]
Nhà Tây Sơn và bài học lòng dân
Vua Quang Trung và triều đại Tây Sơn đã trải qua một thời gian dài mới thu phục được lòng dân. Và sau khi đã được lòng dân thì dù vào Nam ra Bắc trăm trận trăm thắng. Thế nhưng, để mất lòng dân cũng rất nhanh. Chỉ 10 năm sau khi Quang Trung mất, triều đình Quang Toản vua thì hèn kém, các đại thần thì gây bè kéo cánh, tàn hại lẫn nhau, lòng dân lìa tan.
Chúa Nguyễn Ánh sau khi tập kích chiếm được kinh đô Phú Xuân (5/1801), mùa xuân Nhâm Tuất (1802) bắt đầu vượt sông Gianh, chiếm châu Bố Chánh (Quảng Bình). Quân Tây Sơn tan vỡ, chạy về doanh Hà Trung (nay là Kỳ Anh, Hà Tĩnh). Ngày 25/8 Nhâm Tuất (1802) quân Nguyễn đổ bộ lên Đan Nhai (Cửa Hội) đánh chiếm được Nghệ An. Tháng 6, đánh chiếm được Thanh Hóa. Ngày 18/6 tiến ra Thăng Long. Quang Toản bỏ thành chạy về phía Bắc, bị thổ hào địa phương bắt được, giao cho quân Nguyễn đóng cũi giải về Phú Xuân. Triều đại Tây Sơn bị dẹp tan. Một kết cục thật chóng vánh.
Như vậy, tính từ khi đánh được Nghệ An, chỉ 20 ngày, quân Nguyễn đã chiếm được Thăng Long, chinh phục được hoàn toàn Bắc Hà. Đây cũng có thể được coi là cuộc tiến công thần tốc. Chung quy lại, chỉ vì triều đình Quang Toản để mất lòng dân. Cho nên, người xưa nói: "Mất lòng dân là mất tất cả".
Những giai thoại huyền bí lạ lùng về hoàng đế Quang Trung
(Kiến Thức) - Cũng giống như các vị “thiên tử”
khác, xung quanh vị hoàng đế Quang Trung có khá nhiều giai thoại huyền
ảo, lạ lùng.
Khi nói về Hoàng đế Quang Trung, người
ta thường nghĩ đến một vị vua bách chiến bách thắng, mưu trí dũng lược
vô song với những chiến công oai hùng, với nghệ thuật quân sự thần tốc…
Tuy nhiên, cũng giống như các vị “thiên tử” khác, xung quanh vị hoàng đế
này có nhiều giai thoại huyền ảo, lạ lùng.
Chuyện lạ về rồng bơi theo trên sông
Vua Quang Trung
là vị vua có nhiều tên gọi nhất, hồi nhỏ ông có tên là Hồ Thơm, khi
trưởng thành đổi họ Hồ sang họ Nguyễn và lấy tên là Nguyễn Văn Thơm, sau
đó được thầy học đổi tên là Nguyễn Huệ. Ngoài ra ông còn có tên khác là
Nguyễn Văn Huệ, Nguyễn Quang Bình, Nguyễn Văn Bình; trong số các tên đó
thì Nguyễn Huệ là tên được sử dụng phổ biến nhất và được mọi người biết
đến nhiều nhất.
Vì theo cách gọi thứ bậc ở miền trong nên khi bé, vị hoàng đế nổi danh
triều Tây Sơn này được gọi thân mật là Ba Thơm. Tương truyền Ba Thơm
thông minh nhưng rất hiếu động, thường dẫn đầu đám trẻ con chăn trâu bày
các trò tinh nghịch.
Chuyện kể rằng một lần cậu bé Thơm
cùng các bạn trong thôn thả trâu ăn cỏ ven đường, sau đó kéo nhau lên
rừng hái ổi, bắt chim rồi rủ nhau xuống Vực Muồng bơi lội, tắm táp.
Tương truyền rằng khi Hồ Thơm xuống
nước, cả đám trẻ rất kinh ngạc thấy mỗi lần Thơm vẫy vùng trong làn nước
và bơi ra xa thì có con rồng nước từ đáy vực nổi lên bơi theo như bảo
vệ. Đến lúc Thơm bơi vào bờ thì con rồng nước lại lặn biến vào đáy vực
sâu.
Được trời ban cho ấn vàng, gươm bạc
Theo truyền ngôn ở vùng An Khê (nay
thuộc thị xã An Khê, tỉnh Bình Định), xưa kia ở thượng nguồn sông Côn
thuộc địa bàn sinh sống của người Bana có một thanh gươm thần cắm sâu
vào tảng đá lớn, đã nhiều đời nhưng không ai đủ sức mạnh để rút được
thanh gươm đó. Người dân tin rằng thanh gươm đó được trời ban xuống
nhưng phải là người hiền tài, oai dũng mới có thể lấy được thanh gươm
ra.
Một hôm, Nguyễn Huệ trên
đường đi tìm chiêu mộ hào kiệt để cùng mưu việc lớn tình cờ đi qua vùng
này. Thấy người khách phương xa tướng mạo xuất chúng, ăn nói dễ chịu, có
sức thu phục cuốn hút lạ kỳ nên ai cũng đem lòng kính mến. Khi được
người dân dẫn đến chỗ thanh gươm, Nguyễn Huệ ướm bàn tay vạm vỡ vào
chuôi gươm rồi rút mạnh, tảng đã bỗng chốc vỡ tan còn thanh gươm xuất
hiện sáng lòa. Mọi người vô cùng kinh ngạc trước sức mạnh phi thường của
người tráng sĩ, họ đồng lòng quỳ lạy tỏ ý tôn phục.
Sau đó Nguyễn Huệ được rước về buôn
làng, người dân mở tiệc khoản đãi, họ quyết định bắt con gà trống lớn để
làm thịt mừng khách quý. Theo người dân, con gà này có cái cổ lớn khác
thường, nó sống đã trên trăm năm. Lúc mổ gà, người ta tìm thấy trong
bụng nó một cái ấn lớn bằng vàng, cho rằng đây là điềm tốt bèn mang dâng
lên cho Nguyễn Huệ. Trước buôn làng, cầm gươm ấn trong tay, Nguyễn Huệ
nói rằng: “Nếu gươm, ấn là do trời ban thì ta quyết không phụ lượng cao
dầy của trời đất và sự chờ mong của trăm họ”.
Rắn lớn đón đường dâng đao quý
Trong “Tây Sơn thập thần vũ khí” (tức
mười vũ khí lợi hại của Tây Sơn) không thể không nhắc đến cây thần đao
của Nguyễn Huệ. Cây đao này gọi là Ô Long đao, cùng với Huỳnh Long đao
của tướng Trần Quang Diệu và Xích Long đao của tướng Lê Sĩ Hoàng được
gọi là “Tây Sơn tam thần đao”.
Cây Ô Long đao của Quang Trung đã theo
ông trên các trận chiến đánh Đông dẹp Bắc, diệt nội phản, đánh đuổi
quân xâm lược Xiêm La và Mãn Thanh. Cây đao này có cán bằng gỗ mun đen
nhánh, lưỡi đao được rèn bằng kim khí màu đen, sắc bén vô cùng; khi rút
đao ra khỏi vỏ thì khí lạnh tỏa ra. Đao có trọng lượng rất nặng, phải 2
đến 3 người mới vác nổi.
Truyền rằng Nguyễn Huệ có được cây đao
này rất kỳ lạ, một hôm ông đi đến khu vực đèo An Khê, bỗng trong rừng
xuất hiện hai con rắn mun to lớn, mắt bằng quả dừa có màu xanh ngọc
trườn ra đón đường dâng lên thanh đao quý, sau đó cúi đầu từ tạ trở lại
rừng. Có thuyết nói mỗi con rắn ngậm một vật, đó là kiếm vàng và ấn ngọc
dâng lên Nguyễn Huệ, ông tin rằng đó là hai sứ giả của Thiên đình vâng
lệnh Ngọc hoàng thượng đế ban cho vật báu nên nâng cả hai bảo vật lên
ngang trán cung kính cảm tạ trời đất.
Để ghi nhớ sự kiện ấy, sau đó Nguyễn
Huệ cho lập một ngôi miếu thờ đôi rắn kia, người dân thường gọi là miếu
Xà; còn con đường đôi rắn từ núi bò ra là một đoạn dốc giữa đèo An Khê
được gọi là dốc Ông Dài (Ông Dài là từ địa phương chỉ con trăn hoặc rắn
lớn).
Chữ hiện trên lá cây làm điềm báo
Thời anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ,
Nguyễn Lữ mới khởi nghĩa, bỗng người dân khắp vùng đất Tây Sơn khi vào
rừng kiếm củi, săn bắt thì thấy một chuyện lạ, trên các lá cây rừng lớn
xuất hiện nhiều chữ. Những người có học đọc được thành câu: “Nguyễn
Nhạc vi vương, Nguyễn Huệ vi tướng” (Nghĩa là: Nguyễn Nhạc làm vua,
Nguyễn Huệ làm tướng), ai cũng cho là điềm lạ trời báo sự xuất hiện chân
chúa cứu đời.
Chuyện lạ đó nhanh chóng được lan
truyền, dân chúng khắp vùng Tây Sơn thượng đạo, Tây Sơn hạ đạo cho đến
các nơi khác rủ nhau nô nức đi theo anh em họ Nguyễn.
Thực ra đây là một mẹo của Nguyễn Huệ,
để thu hút quần chúng và lấy uy tín dựa trên những điềm báo thần kỳ mà
người đương thời tin tưởng, ông đã lập kế học theo cách của vua Lê Thái
Tổ khi xưa, bí mật sai người dùng mỡ viết chữ lên lá rừng, kiến ăn mỡ
đục lá thành điềm trời báo để quần chúng kính phục. Chính vì thế ngày
nay ở vùng Tây Sơn, Bình Định vẫn lưu truyền câu ca:
“Nguyễn Nhạc vi vương,
Nguyễn Huệ vi tướng”
Kiến trổ lá rừng
Trời trưng gươm báu…”.
Đây là một cách thu phục lòng dân rất
đặc biệt, lá được kiến đục trổ thành chữ khi rụng xuống, theo dòng suối
chảy về xuôi làm điềm trời báo cho dân. Nguyễn Huệ còn cho người thân
tín dùng dao vạt các thân cây cổ thụ rồi khắc trên đó 8 chữ này cũng như
để làm điềm trời báo về thiên mệnh đế vương của anh em nhà Tây Sơn vì thế cũng có câu rằng:
“Ai vô rừng cấm
Thấy tấm biển đề:
“Nguyễn Nhạc vi vương,
Nguyễn Huệ vi tướng”
Đồn đại bốn phương
Tây Sơn dấy nghĩa”.
Trên đây chỉ là một vài giai thoại về
một vị vua triều Tây Sơn, những chuyện kỳ lạ này cũng giống như những
câu chuyện ly kỳ khác về các vị vua trong lịch sử Việt Nam, nó tô điểm
thêm những nét huyền bí về các bậc đế vương được tôn xưng là “thiên tử”
(con trời), nhất là đối với Nguyễn Huệ, những sáng tác dân gian về ông
chính là cách thể hiện tình cảm tin yêu, kính trọng người anh hùng áo
vải cờ đào đã “giúp dân xây dựng xiết bao công trình” (Ai tư vãn).
Lê Thái Dũng
Tiết lộ động trời về cái chết bí ẩn của vua Quang Trung
Mùa Thu 1792, vua Quang Trung băng hà, triều thần
Tây Sơn mới có thể khám phá ra được ý nghĩa của "7 đại tự" kim tuyến
thêu trong "chiếc áo" tai ác kia!
Theo cách chiết tự và diễn nghĩa từ 7 chữ "Xa Tâm Chiết Trục Ða Ðiền Thử" đã có ý nói rõ: vua Quang Trung chết vào năm Tý.
Vì chữ "Xa" và chữ "Tâm" đem ghép lại
là chữ "Huệ"; "Chiết Trục" là gẫy trục; "Thử" là chuột mà chuột là "Tý",
hay năm Tý... Như thế, phải chăng từ năm 1790 trở về trước, Càn Long đã
đoán được số mạng của vua Quang Trung sẽ mất vào năm Tý?
Chuyện "Chiếc áo ấm" mà Càn Long (vua
Thanh) cẩn tặng vua Quang Trung để mặc lúc ngự hàn, là một nghi vấn nằm
trong những nghi vấn khác mang tính: "khó tin nhưng có thật", vì chỉ có
nó mới có thể nói lên cả một kế hoạch lâu dài của các nhà "lý số" Tàu
dưới triều Càn Long quyết hại chết vua ta, để trừ mọi hậu hoạn nơi bờ
cõi phương Nam của họ.
Sách "Ngụy Tây Liệt Truyện" của bộ sử
ký "Ðại Nam Chính Biên Liệt Truyện", quyển 30 trang 42, các sử quan
triều Nguyễn ghi như sau:
"...Một hôm về chiều, Quang Trung
đang ngồi, bỗng xây xẩm tối tăm, thấy một ông già đầu bạc từ trên trời
xuống, mặc áo trắng, cầm gậy sắt mắng rằng: Ông cha ngươi sống ở đất của
Chúa, đời đời làm dân của Chúa, Ngươi sao dám phạm đến lăng tẩm?
Rồi lấy gậy đánh vào trán, Quang Trung mê man ngã xuống,
bất tỉnh nhân sự, lâu lắm. Lúc tỉnh dậy nhà vua đem việc ấy nói với
quan trung thư Trần Văn Kỷ. Từ đó bịnh chuyển nặng mới triệu quan trấn
thủ Nghệ An Trần Quang Diệu về bàn bạc để dời đô ra đó. Thương nghị chưa
xong thì Thế Tổ ta đã lấy lại được Gia Ðịnh, chiếm Bình Thuận, Bình
Khang, Diên Khánh, thanh thế chấn động.
Quang Trung nghe được lo buồn, bịnh ngày càng kịch liệt...".
Ðọc sử Việt Nam, có rất nhiều cách
giải thích khác về cái chết của vị anh hùng dân tộc của chúng ta, nhưng
không mấy hấp dẫn. Do đó, người viết phải tìm thấy thêm trong "Ðại Thanh
Thực Lục" và "Ðông Hoa Toàn Lục" (Sử Trung Quốc) ghi rằng: "Năm Càn
Long thứ 58 (vào tháng 1 năm 1793), Quách Thế Huân khấu báo lên Càn Long
là An Nam quốc vương Quang Trung đã chết vì bệnh".
Càn Long, hơi giật mình rồi như đang
suy nghiệm một điều gì có thể đúng với dự tính trước đó của ông ta...
Phải chăng, vua Thanh đã biết trước được một chuyện gì chăng về cái phải
xảy ra với vua Quang Trung? Theo hắn ta phải sớm hơn... (vì khoảng sáu
tháng sau ngày vua Quang Trung băng hà, Càn Long mới biết tin). Tại Bắc
kinh, trước lúc đó, Vũ Văn Dũng được tin mật, vị trưởng đoàn sứ thần này
xỉu đi... Khi tỉnh lại, liền gấp rút từ tạ vua Thanh mà trở về Phú Xuân
ngay.
Vua Quang Trung mất vào mùa Thu 1792,
nửa năm sau Mãn Thanh mới biết, và cho người sang báo tang. Sự chậm trễ
này không phải do Quách Thế Trung, mà chính do sự sắp đặt của hoàng
triều Phú Xuân muốn làm vậy. Trong "Ðông Hoa Toàn Lục", quyển 117, trang
5s, đã ghi lại ý trách móc của Càn Long:
"Quốc Vương Nguyễn Quang Bình đã mất ở
Nghệ An vào tháng 9 năm ngoái. Vua Càn Long liền quở trách người đưa
tin như thế là quá chậm, chắc bây giờ đã tống táng rồi".
Sự việc rõ ràng bên trong có dụng ý
riêng, vì không phải báo về cái chết của Nguyễn Quang Bình chậm, mà còn
sai chỗ nữa (Phú Xuân chứ không phải Nghệ An). Mặt khác, Phú Xuân còn
cho làm mộ giả của vua bên Hồ Tây để đón sứ thần Mãn Thanh sang phúng
điếu. Sứ Thanh đến, muốn vào thăm Phú Xuân, triều thần Tây Sơn nhất định
không cho, còn tìm mọi cách đánh lạc hướng như dẫn họ lên tận Sơn Tây,
khi sứ Thanh phát hiện, triều thần Tây Sơn mới chịu dẫn họ trở lại,
nhưng chỉ dừng ở Thăng Long mà thôi.
Những việc nhà Thanh làm rất mâu thuẫn và bí mật, nhất là việc đòi phải vào đến tận Phú Xuân xem xét...
Năm 1789, chính Thành Lâm không chịu
vào Phú Xuân để phong vương cho vua Quang Trung (lần đầu sau khi Phạm
Công Trị đóng vua Quang Trung giả), mà chỉ tại Thăng Long, viện lý do
không được trái lệ thường (Các triều đại trước mỗi khi Trung Hoa cho sứ
sang nước ta làm lễ phong vương, đều thực hiện tại Thăng Long theo qui
lệ của các vua Trung Hoa), nhưng lần này lại đòi vào tận Phú Xuân để
điếu tang.
Tại sao triều thần Tây Sơn không cho
Thành lâm vào Phú Xuân? Cũng như vua Quang Trung luôn cho người giả mình
để tiếp xúc với nhà Thanh? Tất cả mọi nghi vấn như thế này chỉ có vua
Quang Trung và các cận thần của ông ta mới biết! Ngày nay, chúng ta sao
có thể suy đoán rằng: triều thần Tây sơn sợ các thầy địa lý Tàu ếm bùa
ếm ngãi nơi mộ vua Quang Trung!(?). Giai đoạn xã hội lúc đó, chuyện xảy
ra như thế này không phải là không có.
Mời quý độc giả xem video Chuyện ấy của các Hoàng đế xưa (nguồn Youtube):
Theo VnTinnhanh
Bí ẩn lăng mộ vua Quang Trung: Cần tiến hành khảo cổ
Để làm rõ thêm những tranh luận về dấu tích lăng mộ vua Quang Trung, các nhà nghiên cứu đề nghị cần phải tiến hành khảo cổ học.
Để làm rõ thêm những tranh luận về dấu tích lăng mộ vua Quang Trung,
các nhà nghiên cứu đề nghị cần phải tiến hành khảo cổ học, đồng thời có
kế hoạch bảo vệ và đưa vào khai thác đối với những gì đã phát hiện.
Theo PGS-TS Đỗ Bang, Phó Chủ tịch Hội
Khoa học Lịch sử Việt Nam kiêm Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử tỉnh Thừa
Thiên - Huế, nhìn chung những giả thuyết về cung điện Đan Dương là có cơ
sở tư liệu nhưng để chứng minh cung điện này nằm ở đâu thì cần đầu tư
nghiên cứu thêm.
Nên khai quật khu vực gần chùa Thiền Lâm
“Những tài liệu thơ văn của tác giả
Nguyễn Đắc Xuân thì không đủ cơ sở khoa học, các văn bản chữ Hán thì
không chuẩn và bị nghi ngờ quá nhiều. Trong khi đó, các vật thể ở hiện
trường được cho là có cung điện Đan Dương thì không có cái nào đích thực
của triều Tây Sơn, của vua Quang Trung trong khi của chúa Nguyễn thì
lại quá nhiều” - ông Đỗ Bang nêu ý kiến.
Cũng theo ông Bang, việc mở rộng
nghiên cứu nhằm chứng minh tư liệu khảo cổ học với những di tích, di vật
trực tiếp thời Tây Sơn có liên quan đến cung điện và lăng mộ Quang
Trung; làm sáng tỏ số phận phủ Dương Xuân có tồn tại vào thời chúa
Nguyễn đến lúc quân Trịnh chiếm đóng (từ năm 1775-1786) hay không và sau
đó Tây Sơn đã sử dụng phủ này ra sao, vì sao bị xóa sổ...
Trong khi đó, GS Phan Huy Lê, Chủ tịch
Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, cho rằng việc kết luận có hay không cung
điện Đan Dương là một vấn đề rất lớn, cần phải có thời gian và nhiều
phương pháp nghiên cứu thêm mới có thể khẳng định được.
Theo chính sử triều Nguyễn, lăng mộ vua Quang Trung nằm ở phía Nam sông Hương (Hương Giang chi Nam).
GS Phan Huy Lê cho rằng vua Quang
Trung chết do bệnh nhưng không phải đột ngột đến mức không kịp dặn dò
gì. “Quang Trung biết chắc mình sẽ không qua khỏi và Quang Toản sẽ không
thể nào đánh được Nguyễn Ánh nên đã chỉ dụ phải nhanh chóng dời đô ra
Phượng Hoàng trung đô ở Nghệ An. Với đầu óc quân sự như Quang Trung thì
chắc chắn ông lường trước được hậu họa rằng sẽ bị Nguyễn Ánh trả thù và
quật mả. Vì vậy, cũng có thể lăng mộ mà triều Nguyễn mô tả và thi hài mà
Nguyễn Ánh quật lên đó có thể không phải của vua Quang Trung” - GS Phan
Huy Lê nêu giả thuyết, đồng thời đề xuất phải có cuộc khai quật khảo cổ
học khu vực chùa Thiền Lâm mở rộng để xác định thêm cứ liệu lịch sử
phục vụ cho việc nghiên cứu.
PGS-TS Đỗ Bang cũng đồng tình với
phương án tiến hành khảo cổ học để có cứ liệu cho các bước nghiên cứu
tiếp theo. Tuy nhiên, theo ông, cần cân nhắc lựa chọn vị trí khai quật
bởi kết quả nghiên cứu của ông Nguyễn Đắc Xuân không nói rõ chỗ nào là
cung điện Đan Dương. “Ở khu vực được cho là nơi cung điện Đan Dương tọa
lạc hiện toàn là nhà cửa nên phải nghiên cứu, điều tra lại kỹ lưỡng nhằm
khoanh vùng, chọn vị trí chính xác trước khi tiến hành khai quật. Đây
là vấn đề rất quan trọng, nếu không có cái này thì không thể nào khai
quật. Chúng tôi đang chờ ý kiến kết luận của GS Phan Huy Lê để có những
kế hoạch tiếp theo” - PGS Đỗ Bang thông tin.
Phải bảo tồn những gì đã có
Về việc này, GS Phan Huy Lê cho rằng
có thể kết luận được một số vấn đề mấu chốt quan trọng, như đã xác định
được vị trí chùa Thiền Lâm chính là nơi mà thái sư Bùi Đắc Tuyên thời
Tây Sơn biến thành dinh cơ riêng của mình để ở và làm việc; đã có các tư
liệu của Ngô Thì Nhậm và Phan Huy Ích hiện là những tài liệu quý giá
bậc nhất trong việc nghiên cứu về cung điện Đan Dương và lăng mộ vua Quang Trung.
Về cảm nhận cá nhân, GS Phan Huy Lê
nói ông tin có cung điện Đan Dương và lăng của vua Quang Trung được an
táng tại đó. “Nơi làm việc của thái sư Bùi Đắc Tuyên đã xác định được
thì cũng có thể trung tâm bộ máy triều đại Tây Sơn dưới thời vua Quang
Trung phải được đặt gần đó, còn vị trí nào thì phải được nghiên cứu
thêm” - GS Lê lý giải và khẳng định sẽ tổ chức thêm những cuộc hội thảo
liên quan đến triều Tây Sơn, lăng mộ vua Quang Trung với quy mô lớn hơn,
theo từng chủ đề không những ở Huế mà còn ở Hà Nội và có sự tham gia
của các chuyên gia đầu ngành về Hán Nôm, về sử học.
Người đứng đầu Hội Khoa học Lịch sử
Việt Nam đề nghị tỉnh Thừa Thiên - Huế phải có kế hoạch, chương trình
đưa vào bảo tồn nhằm hạn chế, ngăn cấm phá hoại, mua bán đối với tất cả
những gì đã phát hiện liên quan đến triều Tây Sơn và lăng mộ vua Quang
Trung, dù đã nhất trí hay chưa. Đối với một số vấn đề mà các nhà nghiên
cứu đã đi tới sự thống nhất tương đối hoặc thống nhất trong một số phạm
vi nào đó thì địa phương có thể đưa vào khai thác dựa trên kế hoạch bảo
tồn và phát huy giá trị giáo dục.
“Không nên chờ nghiên cứu xong rồi mới
khai thác, phải làm song song với nhau, nghiên cứu tới đâu nên phát huy
tới đó” - GS Phan Huy Lê kiến nghị.
Theo Người lao động
Hành trình tìm mộ Hoàng đế Quang Trung (1)
(Kiến Thức) - Có ý kiến cho rằng, vua Quang Trung là
người sáng suốt nên ngay khi còn sống, ông đã lệnh cho xây dựng lăng mộ ở
một nơi bí mật.
Nguyễn Huệ còn được biết đến là Quang
Trung Hoàng đế, vua Quang Trung hay Bắc Bình Vương - là một anh hùng áo
vải kiệt xuất của dân tộc. Cái chết đột ngột của ông vẫn còn là một bí
ẩn với lịch sử. Nhưng hài cốt của vua Quang Trung thực sự được chôn cất ở
đâu càng là một bí mật không dễ giải mật. Lịch sử cho rằng, để trả thù,
Nguyễn Ánh sai đào mộ Nguyễn Huệ tán hài cốt thành bột nhồi thuốc súng
bắn và bỏ xương sọ vào "vò" giam trong ngục tối. Lăng mộ của vua Quang
Trung tại Phú Xuân cũng bị san phẳng, gia quyến thân thích bị giết sạch.
Tuy nhiên thời gian gần đây, không ít nhà khoa học và lãnh đạo TP Vinh (Nghệ An) đã liên hệ trao đổi với tòa soạn về phần mộ Hoàng đế Quang Trung. Phần lớn các ý kiến cho rằng, vua Quang Trung là một người sáng suốt lại hiểu rõ mình có nhiều kẻ thù nên ngay khi còn sống, ông đã lệnh cho hạ cấp trung thành xây dựng lăng mộ ở một nơi bí mật. Vì vậy, lăng mộ mà Nguyễn Ánh quật lên chỉ là mộ giả mà vua Quang Trung tạo ra. Đó là căn cứ để các nhà lịch sử đi tìm phần mộ của vua Quang Trung.
Tuy nhiên thời gian gần đây, không ít nhà khoa học và lãnh đạo TP Vinh (Nghệ An) đã liên hệ trao đổi với tòa soạn về phần mộ Hoàng đế Quang Trung. Phần lớn các ý kiến cho rằng, vua Quang Trung là một người sáng suốt lại hiểu rõ mình có nhiều kẻ thù nên ngay khi còn sống, ông đã lệnh cho hạ cấp trung thành xây dựng lăng mộ ở một nơi bí mật. Vì vậy, lăng mộ mà Nguyễn Ánh quật lên chỉ là mộ giả mà vua Quang Trung tạo ra. Đó là căn cứ để các nhà lịch sử đi tìm phần mộ của vua Quang Trung.
Lần theo những thông tin được các nhà
khoa học cung cấp, chúng tôi đã liên lạc được với ông Nguyễn Hữu Bản,
nguyên Bí thư Thành ủy Vinh - Nghệ An. Nhiều năm nay, ông Bản khởi xướng
và đứng đầu nhóm tìm kiếm phần mộ Hoàng đế Quang Trung. Trong quá trình
tìm kiếm, không ít chuyện lạ với những linh ứng thần kỳ đã xảy ra.
Chúng tôi xin gửi tới các nhà khoa học, lịch sử và quý độc giả những cứ
liệu sát thực và mong mỏi những góp ý để cuộc tìm kiếm được thuận lợi và
có kết quả.
"Vua Quang Trung rất tin về mồ mả nên
khi chiếm được thành Phú Xuân, ông đã cho quật mồ nhà Nguyễn để răn đe.
Hơn nữa, Huế là đất cung phủ nhà Nguyễn, vua Quang Trung không bao giờ
lại chôn cất mình ở đất ấy", ông Nguyễn Hữu Bản, nguyên Bí thư Thành ủy
Vinh - Nghệ An cho hay.
Bức thư của nhà Huế học?
Ngày 31/5/2011, được sự đồng ý của
lãnh đạo UBND tỉnh Nghệ An, TP Vinh đã tổ chức cuộc Hội thảo "Hoàng đế
Quang Trung với Phượng Hoàng Trung Đô" thu hút nhiều nhà khoa học hàng
đầu Việt Nam tham dự, đặc biệt hội thảo cũng có sự góp mặt của nhà Huế
học Nguyễn Đắc Xuân, người từng khẳng định hài cốt của Hoàng đế Quang
Trung đã bị Nguyễn Ánh đốt thành tro bắn vào không trung và chính ông đã
tìm được vị trí an táng Hoàng đế ở cung Đan Dương (Huế).
Tuy nhiên, ý kiến của Nhà Huế học
Nguyễn Đắc Xuân tại cuộc hội thảo bị nhiều người phản đối, trong đó có
nhà khảo cổ Đỗ Đình Truật. Ngày 1/6, ông Xuân lên tàu về Huế, đến ngày
4/6 thì Tỉnh ủy Nghệ An nhận được bức thư của ông Xuân với nội dung phản
biện việc tìm hài cốt của nhóm tìm mộ vua Quang Trung tại tỉnh Nghệ An.
Đồng thời, bức thư cũng nói rõ:
"Nguyễn Ánh Gia Long quật mồ anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ không thể
nhầm. Thứ nhất: Quật mộ để cắt đứt sự trỗi dậy của dòng họ Nguyễn Tây
Sơn, nếu sai thì vô cùng tai hại. Thứ hai: Quật mộ cho đúng để trả thù
cho chín đời. Thứ ba: Huế là đất của nhà Nguyễn, lúc nào cũng có người
của nhà Nguyễn ở lại Phú Xuân theo dõi mọi động tĩnh của phong trào Tây
Sơn, vì thế họ biết chắc vua Quang Trung được táng nơi đâu để khi trở
lại họ báo lại cho Nguyễn Ánh. Thứ tư: Các quan hàng đầu Nguyễn Ánh như
Lê Chất, Ngô Văn Sở phải chỉ điểm đúng mộ của vua Quang Trung, nếu chỉ
sai sẽ bị chặt đầu.
Vì thế, đừng bao giờ mơ tưởng hài cốt
vua Quang Trung vẫn còn ở đâu đó trên đất nước Việt Nam... Vì thế, đi
tìm huyệt mộ có hài cốt vua Quang Trung là chuyện không tưởng vô ích.
Bao nhiêu năm nay, tôi nghiên cứu chỉ mong tìm được dấu tích, địa chỉ cụ
thể nơi từng mai táng thi hài vua Quang Trung mà thôi. Nơi ấy tôi đã
tìm được là cung điện Đan Dương ở gần chùa Thiền Lâm. Nếu muốn, Thừa
Thiên - Huế cũng chỉ có thể dựng lại được Cung điện Đan Dương mà thôi".
Việc tìm mộ mới chỉ bắt đầu
Là người khởi xướng cuộc tìm kiếm mộ
phần Hoàng đế Quang Trung, lại là người tham mưu cho TP Vinh tổ chức
cuộc hội thảo "Hoàng đế Quang Trung với Phượng Hoàng Trung Đô", ông
Nguyễn Hữu Bản đã có thư phúc đáp tới Nhà Huế học Nguyễn Đắc Xuân, ông
Bản cho rằng, việc tìm mộ mới chỉ bắt đầu, chưa chắc chắn được một điều
gì.
Ông Bản cũng cho hay: "Trước khi hội
thảo, chúng tôi đã tham khảo ý kiến của nhiều nhà khoa học, trong đó có
GS Phan Huy Lê. Còn thực sự hài cốt của vua Quang Trung có còn nữa hay
không? Và nếu còn thì hiện nay ở đâu? Đây là vấn đề rất hệ trọng không
chỉ lệ thuộc vào ý chí của chúng ta mà còn phụ thuộc vào phần âm (Ngài
có cho phép hay không?) nên mọi việc đang ở phía trước".
Ông Bản đưa ra dẫn chứng chứng minh
việc ông khởi xướng là có căn cứ thuyết phục. Ngoài những luận cứ có thể
dễ dàng suy luận về việc xây dựng lăng mộ thật, thì dựa vào lời sấm
truyền của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm về thế thời lịch sử cũng là căn
cứ để nhà Tây Sơn bí mật chọn cho mình một khu đất để xây mộ phần,
tránh sự trả thù của nhà Nguyễn.
"Đoài cung một sớm đổi thay/Chấn cung
sao cũng sa ngay chẳng còn/Đầu cha lộn xuống chân con/Mười bốn năm tròn
hết số thì thôi". Lời sấm truyền của Nguyễn Bỉnh Khiêm đã khiến vua
Quang Trung ý thức được mệnh của mình không dài cho nên đã sớm nghĩ đến
việc xây dựng lăng mộ. Và việc xây mộ không đơn thuần hoặc khuếch trương
cho người khác biết, mà rất bí mật để tránh hậu họa bị quật mồ như lịch
sử đã ghi.
(Còn tiếp...)
(Còn tiếp...)
- Hội thảo khoa học "Hoàng đế Quang Trung" với
Phượng Hoàng Trung Đô diễn ra vào ngày 31/5/2012 tại TP Vinh - Nghệ An.
Hội thảo với mục đích tìm hiểu sự gắn bó giữa Hoàng đế Quang Trung với
Phượng Hoàng Trung Đô. Ngày 1/10/1788, Nguyễn Huệ gửi thư cho La Sơn phu
tử Nguyễn Thiếp quyết định xây dựng thành Trung Đô tại khu vực núi Dũng
Quyết (Vinh). Tuy nhiên, khi dự định lớn lao là dời đô về Nghệ An và
việc xây dựng thành Phượng Hoàng Đô đang dang dở thì vua Quang Trung đột
ngột qua đời.
- "Hội thảo khoa học "Hoàng đế Quang
Trung với Phượng Hoàng Trung Đô" có sự tham gia của nhiều nhà quản lý,
nhà khoa học, nhà nghiên cứu, các ý kiến cơ bản thống nhất: Cần lập dự
án phục hồi di tích lịch sử thành Phượng Hoàng Trung Đô và tiếp tục tìm
kiếm lăng mộ Hoàng đế Quang Trung tại Nghệ An".
Ông Nguyễn Xuân Đường (Chủ tịch UBND tỉnh Nghệ An)
|
Hành trình tìm mộ Hoàng đế Quang Trung (2)
(Kiến Thức) - Nhiều nhà khoa học khẳng định, thành Phượng Hoàng Trung Đô là nơi chôn cất mộ thật của Hoàng đế.
Vua Quang Trung muốn dời đô ra Nghệ An và cho xây dựng thành Phượng
Hoàng Trung Đô. Tuy nhiên, thành xây dở dang thì vua Quang Trung đột
ngột qua đời. Sự gắn bó của ông với Phượng Hoàng Trung Đô là một trong
những căn cứ để nhóm tìm mộ coi đây là "điểm huyệt" chôn cất hài cốt
Hoàng đế Quang Trung.
Chọn quê xây thành
Chọn quê xây thành
Theo các nhà sử học, Nguyễn Huệ vốn
tên thật là Hồ Thơm. Tổ bốn đời của Nguyễn Huệ người làng Hương Cái,
tổng Hải Đô (nay thuộc xã Hưng Đạo, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An). Đó
là ông Hồ Phi Long vào lập nghiệp ở phủ Quy Nhơn, dinh Quảng Nam thời
Thịnh Đức.
Hoàng Lê nhất thống chí của
Ngô Gia văn phái ghi: Ở ấp Tây Sơn có người họ Nguyễn tên Văn Nhạc tổ
tiên nguyên là người Nghệ An. Khoảng năm Thịnh Đức, quân Nhà Nguyễn đánh
ra Nghệ An, chiếm cứ được 7 huyện phía Nam sông Cả rồi dồn bắt tất cả
dân cư đưa vào Nam cho sống ở vùng Tây Sơn. Tổ bốn đời của Nguyễn Nhạc
chuyến ấy cũng bị bắt vào trong đó.
Sách Tư liệu về Tây Sơn - Nguyễn Huệ trên đất Nghĩa Bình
do Sở Văn hoá - Thông tin tỉnh Nghĩa Bình ấn hành năm 1998 viết: Tổ
tiên bốn đời của các thủ lĩnh Tây Sơn: Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn
Lữ vốn họ Hồ quê ở Nghệ An, khoảng giữa thế kỷ XVII bị quân Nguyễn bắt
vào Đằng Trong.
Nhiều nhà khoa học khẳng định, thành Phượng Hoàng Trung Đô là nơi chôn cất mộ thật của Hoàng đế. |
Theo di huấn của tổ tiên, Nguyễn Huệ
dù xa quê vẫn một lòng nhớ về nơi đất Tổ. Vì vậy, theo các nhà khoa học
việc vua Quang Trung chọn Nghệ An để xây thành Phượng Hoàng Trung Đô có
một lý do lớn. Hơn nữa, trong thư gửi La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp, Nguyễn
Huệ viết:
"... Nay Phú Xuân thì hình thế cách
trở, ở xa trị Bắc Hà, sự thế rất khó khăn. Theo đình thần nghĩ rằng chỉ
có đóng đô ở Nghệ An là độ đường vừa cân, vừa có thể khống chế được
trong Nam ngoài Bắc, và sẽ làm cho người tứ phương đến kêu kiện, tiện
việc đi về".
Theo PGS.TS sử học Nguyễn Quang Hồng,
ngoài lý do chọn đất Tổ Nghệ An xây thành, vua Quang Trung còn muốn
"cân" độ dài đi lại để dễ bề trị nước. Vì ở Nghệ An, ngoài đường núi và
đường sông dễ dàng ngược xuôi Nam Bắc, lại còn đường biển và đường núi ở
giữa các vùng, nếu có biến sẽ dễ dàng di chuyển quân đội.
Địa linh núi Quyết
Theo PGS.TS Nguyễn Quang Hồng, La Sơn
phu tử Nguyễn Thiếp biết không thể chối ý định dời đô từ Phú Xuân về
Nghệ An của Hoàng đế Quang Trung nên ông đã xuống núi, vận dụng hết khả
năng phong thuỷ và chọn được vùng đất ở núi Dũng Quyết (nay thuộc phường
Trung Đô, TP Vinh) để xây dựng kinh đô.
Núi Dũng Quyết còn có tên là núi
Phượng Hoàng bởi thế núi trông giống con chim Phượng đang vỗ cánh bay ra
biển lớn. Phía Tây Nam của núi lại có đền Hoàng Mười mà người xưa gọi
là "Mỏ Hạc linh từ". Đứng trên đỉnh Dũng Quyết nhìn ra phía Nam là dãy
Thiên Nhẫn trùng điệp chạy dài tạo thế vững chãi cho dải đất thiêng dọc
đôi bờ tả - hữu ngạn sông Lam.
Vùng đất xây dựng thành Phượng Hoàng
để thực hiện ý định dời đô của Hoàng đế Quang Trung từ Phú Xuân về Nghệ
An nằm ở phía Nam núi Dũng Quyết, trong khoảng giữa núi Quyết và "Miêu
Nhi Phong" mà người địa phương gọi là "Rú Con Mèo" hội đủ khí trời tạo
thành thế "vinh sơn thủy tụ".
Sự dang dở của thành Trung Đô
Theo sách Hoàng Lê nhất thống chí
thì triều đình Tây Sơn đã xây dựng ở Nghệ An được một số công trình như
đắp hoàn chỉnh thành đất xung quanh, xây dựng xong Lầu Rồng ba tầng,
điện Thái Hòa và hai dãy hành lang rộng lớn: "Quang Trung liền sai trưng
dụng rất nhiều thợ thuyền, chuyên chở gỗ đá, gạch ngói để xây dựng cung
phủ, lâu đài. Đắp thành đất xung quanh và sai các quân lính đào đá ong ở
địa phương để xây thành trong. Dựng tòa lầu ba tầng cùng hai dãy hành
lang, để phòng dùng đến khi có lễ triều hạ".
Lịch sử cũng đã ghi nhận công cuộc xây
dựng thành Phượng Hoàng Trung Đô đang tiến hành thì vua Quang Trung đột
ngột qua đời vào năm 1792. Trước khi nhắm mắt, vua Quang Trung còn cho
triệu viên Trấn thủ Nghệ An là Trần Quang Diệu về kinh dặn rằng: "Sau
khi ta mất, nên trong một tháng táng cho xong. Việc táng làm qua loa mà
thôi. Chúng ngươi nên giúp lập Thái tử sớm dời đô ra Nghệ An để khống
chế thiên hạ. Nếu không thế thì quân Gia Định sẽ tới, chúng ngươi không
có chỗ chôn thân".
Tuy nhiên, sau khi vua Quang Trung
mất, việc xây dựng Phượng Hoàng Trung Đô đã bị gác lại. Vua con kế nhiệm
Nguyễn Quang Toản không hề nhắc đến việc dời đô ra Nghệ An như ý nguyện
của vua cha trước khi mất. Năm 1801, sau khi Phú Xuân thất thủ, triều
đình Quang Toản đã kéo nhau ra Bắc Hà và đóng đô ở Thăng Long. Chuyện lạ
xảy ra, Lầu Rồng ba tầng tự nhiên sụp đổ là điềm báo trước về sự sụp đổ
của triều đại Tây Sơn.
Việc Quang Toản không nhắc gì đến
thành Phượng Hoàng, cũng được các sử gia và các nhà khoa học nhắc đến
trong cuộc hội thảo tại TP Vinh ngày 31/5/2011. Có người cho rằng, việc
không nhắc đến thành Phượng Hoàng là có lý do chính đáng. Vì thực chất
việc xây thành tốn rất nhiều thời gian. Trong khi đó, khu lăng mộ bí mật
của vua Quang Trung dưới sự giám sát của tướng Trần Quang Diệu đã hoàn
thành. Ngừng xây thành Phượng Hoàng là cách đánh lạc hướng những ánh mắt
trung thành với triều đình nhà Nguyễn.
Nhiều nhà sử học trong hội thảo tại TP
Vinh đã cho rằng: Sau 2 - 3 tháng Quang Trung băng hà mới phát tang.
Thành Phú Xuân "nội bất xuất, ngoại bất nhập", đường sông đường biển đều
bị kiểm soát. Đây là thời gian để tâm phúc vua Quang Trung đưa thi hài
vua ra Nghệ An mai táng. Và người đóng giả vua Quang Trung để chết và an
táng tại Phú Xuân chính là tướng Phạm Công Trị (người từng đóng giả vua
Quang Trung đi sứ nhà Thanh). "Nếu quả thực thi hài Hoàng đế Quang Trung đã được đưa ra khỏi Phú Xuân thì chỉ có Nghệ An vừa là quê cha đất tổ, vừa là kinh đô của vương triều, thế đất hiểm yếu, có thể khống chế thiên hạ, giữ được lâu dài, đủ yên tâm cho Hoàng đế nằm lại vĩnh viễn".
GS.TS Nguyễn Quang Ngọc (Chủ tịch Hội Sử học Hà Nội, nguyên Viện trưởng Viện Việt Nam học và Khoa học phát triển)
Hành trình tìm mộ Hoàng đế Quang Trung (3)
(Kiến Thức) - Từ
những cứ liệu lịch sử, nhóm tìm kiếm lăng mộ vua Quang Trung tại Nghệ An
đã dần bóc tách những bí mật để tìm ra vị trí cuối cùng.
Nhiều thập kỷ qua, một
số nhà khoa học đã dày công khảo sát trên thực tế, lần tìm dấu tích ở
Huế và Bình Định, tập hợp các tài liệu trong các kho lưu trữ của quốc
gia và địa phương có liên quan đến Hoàng đế Quang Trung. Trong đó có nhà
Huế học Nguyễn Đắc Xuân đã dành nửa đời mình vào công việc này và ông
đã phát hiện vị trí mộ Hoàng đế Quang Trung ở cung Đan Dương. Tuy nhiên,
phát hiện này đã bị không ít các nhà khoa học bác bỏ.
Lịch sử mới chỉ nhìn một phía
Hoàng đế Quang Trung băng hà đến nay
trên 220 năm. Theo sử sách đang lưu hành thì khi chiếm lại thành Phú
Xuân (Huế), Nguyễn Ánh đã trả thù rất khốc liệt quân thần Tây Sơn bằng
việc quật mộ vua Quang Trung lên chặt đầu bỏ vào vò đem nhốt vào ngục
tối, thân thể xương cốt bị đốt thành than trộn thuốc súng bắn vào không
trung.
Theo ông Nguyễn Hữu Bản, Trưởng nhóm
tìm kiếm mộ vua Quang Trung tại Nghệ An: "Lịch sử có khi viết đúng, có
khi viết sai bởi nhiều lúc mới chỉ nhìn một phía cho nên nhiều thập kỷ
qua, một số nhà khoa học đã dày công khảo sát trên thực tế, lần tìm dấu
tích ở Huế, tập hợp các tài liệu trong các kho lưu trữ của quốc gia và
địa phương có liên quan đến Hoàng đế Quang Trung".
Trong đó có nhà Huế học Nguyễn Đắc
Xuân đã dành phần nửa đời mình vào công việc này và ông đã phát hiện
được mộ Hoàng đế Quang Trung ở cung Đan Dương. Từ đó, ông khẳng định:
Sau khi Hoàng đế Quang Trung băng hà 3 tháng mới phát tang.
Tại cung Đan Dương, "nội bất xuất,
ngoại bất nhập", đường bộ, đường biển đi ra Bắc đều kiểm tra nghiêm
ngặt. Không thể đưa thi hài Hoàng đế Quang Trung ra khỏi Huế. Hơn nữa,
sau khi Hoàng đế Quang Trung băng hà, một số tướng sĩ Tây Sơn đã đầu
hàng Nguyễn Ánh.
Và đất Huế là đất của nhà Nguyễn,
người nhà Nguyễn ắt sẽ giám sát chặt chẽ mọi động tĩnh của triều đình
Tây Sơn. Từ những dẫn chứng đó ông Xuân khẳng định, mộ thật của vua
Quang Trung là ở Huế và Quang Trung đã bị trả thù như sử lưu hành cũng
là sự thật.
Các nhà khoa học cho rằng, thi thể vua Quang Trung bí mật theo đường biển vào sông Lam, sông Vinh để an táng. |
Những nghi vấn đáng ngờ
Không đồng tình với những lập luận của
Nhà Huế học Nguyễn Đắc Xuân, người đứng đầu nhóm tìm kiếm mộ vua Quang
Trung tại Nghệ An là ông Nguyễn Hữu Bản đã nghiên cứu những cứ liệu lịch
sử và tham vấn ý kiến của nhiều nhà khoa học hàng đầu Việt Nam và phát
hiện những lỗ hổng nên đặt ra những câu hỏi: Tại sao Bắc Bình Vương
Nguyễn Huệ lại chọn vùng đất Yên Trường (núi Dũng Quyết) để xây thành
Phượng Hoàng Trung Đô? Tại sao một con người mưu lược như Quang Trung
Nguyễn Huệ lại cho xây lăng mộ mình ở Huế và những quân thần thân tín
như Trần Quang Diệu lại chịu an táng Hoàng đế trên đất đối thủ. Để 10
năm sau khi chiếm lại thành Phú Xuân, Nguyễn Ánh dễ dàng quật mộ thủ
lĩnh Tây Sơn lên trả thù?
Ông Nguyễn Hữu Bản cho hay: "Đọc lại
lịch sử Việt Nam đang lưu hành và những trang viết của ông Nguyễn Đắc
Xuân về Hoàng đế Quang Trung, chúng tôi thấy nhiều điều chưa thật thỏa
đáng cả mặt lập luận và thực tiễn, bởi thời điểm xây mộ thật và mộ giả
vào lúc nào?".
Theo giải thích của ông Bản, thông
thường các triều đại phong kiến, mộ của vua được xây khi còn sống (một
mộ thật, nhiều mộ giả). Đặc biệt, Hoàng đế Quang Trung là người có nhiều
kẻ thù (Lê, Trịnh, Thanh, Xiêm...) nên không thể chỉ xây duy nhất một
mộ ở Huế. Năm 1786, khi diệt tan quân Trịnh (phò Lê diệt Trịnh), vua Lê
Hiển Tông đã ban thưởng cho Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ công chúa Ngọc Hân
và vùng đất Nghệ An.
Hai năm sau, ngày 1/10/1788, vua Quang
Trung quyết định cho xây thành Phượng Hoàng Trung Đô trên đất được vua
Lê ban thưởng và xây miếu Tổ ở Thái Lão (tức quê gốc họ Hồ - PV). Phải
chăng, khi xây thành Phượng Hoàng Trung Đô, vua Quang Trung đã cho xây
lăng mộ của mình tại đây.
Các nhà khoa học vào cuộc
Theo hướng lập luận này thì mộ Hoàng
đế Quang Trung được quyết định xây tại Phượng Hoàng Trung Đô khi Nguyễn
Huệ đang là Bắc Bình Vương. Hơn nữa Nguyễn Huệ cũng đủ sáng suốt để "đọc
ý" qua lời tiên tri Nguyễn Bỉnh Khiêm để nhận ra mệnh của mình không
dài nên đã sớm quyết định việc xây lăng mộ tại Nghệ An. Còn lăng mộ được
ông Xuân phát hiện ở Huế đã bị Nguyễn Ánh quật lên đều là giả.
Ông Bản đưa ra suy luận: Trong 3 tháng
"bế quan toả cảng" ở thành Phú Xuân chính là thời điểm những người thân
tín của Hoàng đế chuẩn bị thực hiện lễ an táng Quang Trung giả vào lăng
mộ giả. Còn thi thể Hoàng đế Quang Trung được đưa theo đường biển, sau
đó vòng theo đường sông an táng tại lăng mộ đã có sẵn ở Phượng Hoàng
Trung Đô.
Ông Bản cho hay: "Qua lời căn dặn của
Hoàng đế khi lâm bệnh nói với Quang Toản càng rõ thêm: "Nghệ An là đất
của cha mẹ ta, đất ấy là nơi hiểm yếu có thể tin cậy được. Ta đắp thành
dày để làm Trung Đô. Nếu có biến cố còn có thể giữ được...".
Hơn nữa, chính sử đã ghi rất rõ vua
Quang Trung cho gọi Trấn sở Nghệ An Trần Quang Diệu vào và dặn rằng:
"Những việc còn lại ở Vĩnh Đô (Phượng Hoàng Trung Đô), các ngươi phải lo
làm xong sớm. Nếu để chậm sẽ không có đất mà chôn".
Ông Bản kết luận: "Từ các mối liên hệ
của lịch sử và sự cảm nhận của các nhà ngoại cảm, nhà tâm linh về lăng
mộ của Hoàng đế Quang Trung ở thành Phượng Hoàng Trung Đô, chúng tôi
thấy sự cần thiết phải nhờ các nhà khoa học vào cuộc và đã mời Liên hiệp
Khoa học Công nghệ Tin học Ứng dụng - UIA, Trung tâm Nghiên cứu Tiềm
năng Con người cùng một số nhà khoa học thuộc các lĩnh vực khác nhau và
có cả thiết bị thăm dò địa vật lý của Đại học Quốc gia Hà Nội vào cuộc"."Tìm mộ Hoàng đế Quang Trung là việc lớn nên chúng tôi đã đề xuất với Tỉnh ủy, UBND tỉnh Nghệ An mời các nhà khoa học, lịch sử có uy tín như GS Phan Huy Lê, GS.TS Nguyễn Quang Ngọc, Thiếu tướng Ngô Tiến Quý... cùng đông đảo các nhà nghiên cứu, thân nhân dòng họ Hồ có mối liên hệ với vua Quang Trung để có được những cứ liệu chính xác nhất trong việc chuẩn bị kế hoạch và thực hiện tìm hài cốt Quang Trung Hoàng đế được thuận lợi".
Ông Nguyễn Hữu Bản (nguyên Bí thư Thành ủy Vinh, Nghệ An)
Hành trình tìm mộ Hoàng đế Quang Trung (4)
(Kiến Thức) - Nhiều nhà ngoại cảm bỗng nằm mê man trên
nền bia núi Quyết, một Thượng tá công an nằm mơ vẽ được bản đồ khu lăng
mộ Hoàng đế Quang Trung...
Nhà ngoại cảm mê man
Ông Nguyễn Hữu Bản, nguyên Bí thư
Thành uỷ Vinh - Nghệ An, Trưởng nhóm tìm kiếm mộ Hoàng đế Quang Trung
cho hay, năm 2005, TP Vinh khởi công xây dựng đền thờ vua Quang Trung trên đỉnh núi Quyết tại phường Trung Đô, đến năm 2008 thì công trình hoàn thành.
Sau lễ khánh thành, một số nhà ngoại cảm
như Trương Thị Phước, Điền Thiên Dung, Bạch Ngọc Hoa, Trần Hồ Long,
Hoàng Thị Yến... đến thắp hương và bỗng dưng nhà ngoại cảm Điền Thiên
Dung và Bạch Ngọc Hoa rơi vào trạng thái mê man nằm vật ra trên vị trí
nền bia. Một lúc sau, hai nhà ngoại cảm cho hay có hài cốt thủ lĩnh Tây
Sơn ở phía dưới cũng nằm theo hướng đó, tức là tại bia Dẫn Tích ở dưới
núi, gần đền thờ Rú Mèo.
Mọi chuyện rơi vào quên lãng, đến
tháng 12/2010 nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Lư thuộc Liên hiệp Khoa học Công
nghệ Tin học Ứng dụng - UIA tại Hà Nội đã được Hoàng đế Quang Trung báo
mộng về nơi an nghỉ. Đến đêm 16/12/2010, nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Lư đã
vào Vinh cùng một số lãnh đạo lên đền làm lễ.
Thượng tá Hồ Sỹ Quang và bản đồ an táng vua Quang Trung sau giấc mơ. |
Trong khi đang khấn thì ông Lư cho biết, có vong linh ba
đồng chí của tỉnh Nghệ An cũng về và đứng phía sau. Một người xưng tên
Dũng, một người tên Hoan và người kia tên Sơn. Trong ba ông thì hai
người chết đột tử, một người chết trong đau đớn. Ông Bản nhớ lại, thì
đúng là các đồng chí của mình chỉ mất cách đây vài tháng.
Làm lễ xong, đoàn của ông Bản cùng nhà
ngoại cảm Nguyễn Văn Lư đi xe xuống núi rồi tiếp tục đi bộ. Khi đi
ngang qua bia Dẫn Tích của thành Phượng Hoàng Trung Đô thì đột nhiên ông
Lư khuỵu xuống rồi quay lại phía bia và bảo: Mộ Hoàng đế Quang Trung ở
đây, trong mộ hiện rõ 3 bộ long bào, 2 thanh bảo kiếm có chữ nho còn rõ
nét, 1 két sắt trong có ấn chỉ.
Hai người lạ và giấc mơ trùng khớp
Qua quá trình tìm hiểu những thông tin
và nhân chứng liên quan đến quá trình tìm mộ vua Quang Trung, chúng tôi
được giới thiệu 2 người ở 2 địa phương hoàn toàn khác nhau và từ trước
tới khi diễn ra hội thảo về vua Quang Trung vào năm 2011, hai người này
mới gặp và ngỡ ngàng bởi cùng có một giấc mơ lạ.
Người đầu tiên chúng tôi tìm gặp là
Thượng tá Hồ Sỹ Quang, Phó Chánh thanh tra Công an tỉnh Hà Tĩnh. Ông
Quang cho biết: "Đêm 4/1/2008 tức là vào ngày chủ nhật, tôi được nghỉ và
về quê tại xã Xuân Giang (Nghi Xuân, Hà Tĩnh) để nghỉ ngơi. Khoảng 3
giờ sáng thì tôi có giấc mơ lạ về cuộc hành quân và việc chôn cất thi
hài vua Quang Trung. Tôi tỉnh dậy và vẽ lại sơ đồ nhưng cất vào trong tủ
vì mình nghĩ đó chỉ là một giấc mơ, không có gì đáng quan tâm".
Nhóm vận hành máy khảo sát địa chấn tìm mộ vua Quang Trung. |
Ông Quang cho biết thêm, một thời gian
sau thì tình cờ gặp ông Trần Ngọc Lữ, Phó trưởng ban Ban Quản lý đền
Quang Trung và cùng nhau lên đền thắp hương. Ở đây, ông Quang lại gặp bà
Trương Thị Phước, một Phật tử quê tại Đồng Hới, Quảng Bình. Nghe bà
Phước kể về giấc mơ lạ liên quan đến mộ vua Quang Trung, ông Quang mới
tá hoả đem bản đồ mà mình vẽ lại sau giấc mơ năm 2008 ra đối chiếu thì
hoàn toàn trùng hợp.
Phóng viên đã trực tiếp gặp và thẩm
định thông tin này từ bà Trương Thị Phước và được bà Phước khẳng định đó
là sự thật. Được biết, bà Phước còn là người chuyên đi tìm mộ vua chúa
và quan lại thời phong kiến. Bà đã tìm được 17 mộ vua chúa, trong đó có
mộ của phò mã triều Lý là Hồ Đức Cưỡng và công chúa Lý Kiều Oanh. Bà
Phước cũng là người tìm ra mộ vua Cảnh Thịnh.
Máy khởi động lại hỏng
Để chắc chắn về phần mộ của Hoàng đế
Quang Trung nằm dưới bia Dẫn Tích, GS Phan Huy Lê đã khuyên ông Nguyễn
Hữu Bản, Trưởng nhóm tìm kiếm thuê máy khảo sát của trường Đại học Quốc
gia Hà Nội. Ngày 22/5/2012 thì máy khảo sát được đưa vào Vinh và Nhà
nghiên cứu vật lý địa chấn PGS.TS Vũ Đức Minh trực tiếp vận hành.
Đám mây hình chim phượng hoàng xuất hiện khi máy phát hiện vật thể lạ. |
Dưới sự chứng kiến của các nhà khoa
học, máy khảo sát di chuyển được vài mét thì phát hiện vật lạ dưới tầng
đất phía dưới bia thì máy bị hỏng lần thứ nhất. Đội sửa chữa nhanh chóng
vào cuộc, ngày hôm sau đội tìm kiếm tiếp tục cho máy hoạt động nhưng cứ
đến gần bia Dẫn Tích thì máy lại hỏng. Lúc ấy, PSG.TS Vũ Đức Minh nói
với mọi người đây là chuyện lạ, vì bao nhiêu năm nay ông đi khảo sát
khắp các thành trì mà không xảy ra chuyện máy hỏng.
Ông Bản lại gặp một nhà ngoại cảm ở
Nghệ An và được biết, Hoàng đế Quang Trung không đồng ý vì chưa có sự
góp mặt thống nhất của người họ Hồ (Vì vua Quang Trung là người họ Hồ,
tên là Hồ Thơm). Ông Bản mới tìm đến TS Hồ Bá Quỳnh hiện sống ở Vinh, là
hậu duệ họ Hồ. Ông Quỳnh đồng ý và cùng đoàn tìm kiếm lên đền vua Quang
Trung thắp hương.
Chuyện lạ xảy ra, máy đang hỏng bỗng
hoạt động trở lại một cách bình thường. Đến khoảng 4 giờ chiều ngày 23/5
thì máy phát hiện một vật thể ở độ sâu 5 - 6m vẫn trong khu vực bia
thuộc thành Phượng Hoàng Trung Đô. Ông Bản cho hay, lúc ấy máy hú lên
inh ỏi và mọi người mừng rỡ nhìn lên bầu trời thì phát hiện một đám mây
lạ hình chim Phượng Hoàng ngay phía trên đầu đoàn tìm kiếm. Mọi người
cho rằng, đây là sự linh ứng mà Hoàng đế Quang Trung cho mọi người nhận
biết.
"Bia Dẫn Tích được xây
dựng năm 1998 trên nền của điện Thái Hoà mà Quang Trung Hoàng đế đã cho
xây dựng cùng với thời điểm xây dựng thành Phượng Hoàng Trung Đô. Đây là
một vùng đất thiêng, bên cạnh Rú Mèo phía chân núi Dũng Quyết. Đó cũng
là khu vực được các nhà khoa học cũng như các nhà ngoại cảm xác định là
phần mộ của vua Quang Trung".
Ông Nguyễn Hữu Bản (nguyên Bí thư Thành ủy Vinh, Trưởng nhóm tìm kiếm mộ vua Quang Trung)
Hành trình tìm mộ Hoàng đế Quang Trung (5)
(Kiến Thức) - Núi Dũng Quyết hội đủ long - ly - quy - phượng và được Quang Trung chọn để xây thành Phượng Hoàng Trung Đô. Nhưng, ngọn núi tứ linh đã bị chặt đứt "cổ rùa".
Khi nhóm tìm kiếm mộ
Hoàng đế Quang Trung tại Nghệ An chưa tiến hành thì việc "cổ rùa" ở núi
Quyết bị chặt đứt để làm đường chỉ là điều bình thường theo quy hoạch
giao thông đô thị. Thế nhưng, khi bắt tay vào việc tìm kiếm lăng mộ
quanh thành Phượng Hoàng Trung Đô thì nhiều nhà khoa học cũng như các
chuyên gia phong thủy đã tá hỏa thương tiếc cho một ngọn núi thiêng
không còn giữ được thế long mạch.
Đất "long mạch"
Nhiều nhà phong thủy của Việt Nam lẫn
nước ngoài khi đến TP Vinh (Nghệ An) đều dễ dàng nhận ra ngọn núi Quyết
linh thiêng và độc đáo. Cả một dải đất bằng phẳng nhô lên một ngọn núi
cao, phía bên kia tức tỉnh Hà Tĩnh nhô lên 99 ngọn núi cao khác cách
biệt bởi dòng sông Lam.
Truyền thuyết kể rằng, có 100 con chim
phượng hoàng bay trên bầu trời. 99 con bay trước và đậu bên kia bờ sông
Lam chờ đợi con thứ 100. Thế nhưng, chờ mãi mà không thấy đã khiến 99
con phượng hoàng hoá thành 99 ngọn Hồng Lĩnh. Chim phượng hoàng thứ 100
hoá thành núi Dũng Quyết phía bên này sông Lam nên núi Dũng Quyết có
hình dáng giống như chim phượng hoàng.
Đặc biệt, núi hội đủ tứ linh là long -
ly - quy - phượng ở 4 hướng. Ở phía Tây là mỏm núi hình rồng, tại đây
còn có một đền Rồng toạ lạc. Vòng theo hướng Nam giáp sông Vinh là núi
con mèo, người dân còn quen gọi là Rú Mèo. Vòng theo dòng sông Vinh
xuống phía Đông là mỏm núi con rùa. Đi sang hướng Bắc (tức khu vực quốc
lộ 1A) là mỏm núi con phượng.
Theo sử sách ghi lại, sở dĩ Hoàng đế
Quang Trung muốn chọn núi Quyết để xây thành Phượng Hoàng Trung Đô ngoài
lý do quê quán, còn được sự tham mưu của La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp.
Nguyễn Thiếp là người giỏi phong thủy nên ông nhanh chóng nhận biết
"long mạch" chính ở ngọn núi Quyết. Vì thế, việc xây thành được tiến
hành. "Hiện nay, cấu trúc thành Phượng Hoàng Trung Đô không còn nữa,
nhưng những ghi chép của các bộ sách sử và kết quả khảo sát trên hiện
trường cho phép chúng ta đoán định thành Phượng Hoàng ở núi Quyết ngoảnh
mặt về hướng Nam", PGS.TS sử học Nguyễn Quang Hồng cho biết.
Chặt đứt "cổ rùa"
Tuy nhiên, núi Dũng Quyết với long -
ly - quy - phượng đã bị mất thế tứ linh, "long mạch" bị đứt từ khi con
đường lớn từ Bến Thủy đi huyện Hưng Nguyên được khởi công. Để làm được
con đường này đoạn qua núi Quyết, người ta đã phải xẻ đôi mỏm núi phía
đông để thi công. Tuy nhiên, không ai biết hành động xẻ núi đơn thuần
này đã phạm vào long mạch làm "cổ rùa" bị đứt.
Ngay khi dự án đang thi công, đã có
nhà phong thủy đi qua và nhận ra "long mạch" núi Dũng Quyết bị hủy vì
chặt đứt mỏm núi rùa. Đồng thời, thầy phong thủy này cũng nêu ra những
cảnh báo nhưng lúc ấy, chẳng mấy ai để ý. Cho đến mãi khi thi công xong,
con đường đi vào hoạt động, nhiều người mới nhận ra lời cảnh báo ấy là
sự thật.
Theo một số người dân địa phương, khu
vực đường đi chỗ "cổ rùa" rất hay xảy ra tai nạn. Có những người đang đi
trên đường, không va chạm với các phương tiện khác cũng bỗng dưng ngã
xe phải vào viện. Thậm chí, người dân địa phương khu vực "cổ rùa" làm
ăn, sinh sống cũng khó khăn, chậm phát triển hơn tất cả các vùng lân
cận. Một số người liên quan đến dự án làm đường cũng gặp những tai ương
bất trắc.
Ông Nguyễn Hữu Bản, nguyên Bí thư
Thành ủy Vinh cho hay: "Đã từ lâu, người ta nhận ra việc bị hỏng "long
mạch" vì chặt đứt "cổ rùa". Chính quyền địa phương cũng đã cho làm một
cây cầu sắt trên cao nối lại cổ rùa, tuy nhiên tôi đã tham vấn ý kiến
của nhiều nhà khoa học và cách làm này chỉ là tạm thời. Trước sau gì
cũng phải "hàn long mạch" bằng cách mở con đường khác".
Ông Nguyễn Xuân Huân, Chủ tịch UBND
phường Trung Đô cũng thừa nhận về sự chậm phát triển của khu vực "cổ
rùa". Đồng thời, ông Huân cũng cho hay, ở khối 3 số người bị tâm thần
cũng nhiều hơn tất cả các khối khác. Ông Huân đưa ra nhiều lý do để giải
thích cho sự bất thường của khu vực này, tuy nhiên ông cũng phủ định
những nguyên nhân mang tính tâm linh.
Khai quật thành Phượng Hoàng?
Theo ông Nguyễn Hữu Bản: "Vị trí đặt
mộ vua Quang Trung đã được đông đảo các nhà ngoại cảm cũng như các nhà
khoa học công nhận dưới bia Dẫn Tích. Tuy nhiên, để kết quả thực sự được
thoả mãn thì chúng ta cần phải khai quật toàn bộ thành Phượng Hoàng
Trung Đô để xác định quy mô cũng như có những động tác để chứng minh
phần mộ Hoàng đế".
Theo ông Bản, việc khai quật thành
Phượng Hoàng Trung Đô là hết sức cần thiết. Bởi vì, khai quật thì mới
xác định được thực hư và chỉ khi xác định được sự thật thì mới đủ căn cứ
và cơ sở để công nhận thành Phượng Hoàng Trung Đô là di tích lịch sử.
Ông Nguyễn Xuân Đường, Chủ tịch UBND
tỉnh Nghệ An trong công văn số 4680 gửi Thủ tướng Chính phủ về việc xin ý
kiến chỉ đạo phục hồi di tích Phượng Hoàng Trung Đô và tìm mộ Hoàng đế
Quang Trung cũng rất thiết tha để nhanh chóng xúc tiến việc tìm kiếm
lăng mộ Hoàng đế Quang Trung tại Nghệ An.
"Việc xác định mộ thật của Hoàng đế Quang Trung tuy
rất khó nhưng lại rất đơn giản vì hiện nay chúng ta có các bị hiện đại
hỗ trợ xác định. Chúng tôi cũng đã tiếp tục đề nghị các ngành chức năng
cùng trường Đại học Quốc gia Hà Nội đưa máy khảo sát về phối hợp với các
nhà khảo cổ khai quật toàn bộ khu vực thành Phượng Hoàng Trung Đô để
sớm đi đến kết quả cuối cùng".
Ông Nguyễn Hữu Bản (nguyên Bí thư Thành ủy Vinh, Trưởng nhóm tìm kiếm mộ Hoàng đế Quang Trung tại Nghệ An)
|
Hành trình tìm mộ Hoàng đế Quang Trung (6)
(Kiến Thức) - "Nguyễn
Huệ đã cho xây thành Phượng Hoàng trên vùng đất giữa núi Con Mèo và núi
Quyết, phía dưới là lăng mộ vua là hoàn toàn có căn cứ".
Sau khi đăng tải loạt bài về hành trình tìm mộ Hoàng đế Quang Trung, tòa soạn đã
nhận được những ý kiến xoay quanh vấn đề mộ Hoàng đế Quang Trung còn
hay mất, nếu còn thì hiện đang ở đâu? Bài viết của ông Nguyễn Hữu Bản,
nguyên Bí thư Thành ủy Vinh - Nghệ An, Trưởng nhóm tìm kiếm mộ vua Quang
Trung khẳng định có đủ căn cứ xác định mộ vua Quang Trung tại Nghệ An.
Trước hết phải khẳng định, vua Quang Trung rất nặng tình nghĩa với quê cha đất tổ Nghệ An. Lịch sử đã ghi chép tỉ mỉ những lần hành quân phò Lê, diệt Trịnh và đánh đuổi giặc Mãn Thanh, Nguyễn Huệ đã dừng chân tại Nghệ An. Đặc biệt, trong cuộc đại phá quân Thanh ở Thăng Long, Quang Trung đã chiêu tập hơn 1 vạn trai tráng của Nghệ An gia nhập vào đạo quân chính.
Trước hết phải khẳng định, vua Quang Trung rất nặng tình nghĩa với quê cha đất tổ Nghệ An. Lịch sử đã ghi chép tỉ mỉ những lần hành quân phò Lê, diệt Trịnh và đánh đuổi giặc Mãn Thanh, Nguyễn Huệ đã dừng chân tại Nghệ An. Đặc biệt, trong cuộc đại phá quân Thanh ở Thăng Long, Quang Trung đã chiêu tập hơn 1 vạn trai tráng của Nghệ An gia nhập vào đạo quân chính.
Cuộc tập trận và duyệt binh lớn của
hơn 10 vạn người trước khi xuất quân ra Bắc cũng diễn ra tại đây chứng
tỏ vua Quang Trung rất gắn bó với quê hương xứ Nghệ. Việc ông cho xây
thành Phượng Hoàng Trung Đô tại Nghệ An là một minh chứng rõ rệt về tình
cảm đó. Ông cũng cho lập Sùng Chính viện tại Nghệ An để mở mang dân
trí, đào tạo nhân tài.
Câu hỏi về việc xây lăng mộ
Tôi đồng tình với ý kiến của nhà Khảo
cổ Đỗ Đình Truật tại Hội thảo "Hoàng đế Quang Trung với Phượng Hoàng
Trung Đô" tổ chức tại TP Vinh ngày 31/5/2011. Ông cho rằng, vùng đất núi
Dũng Quyết địa linh hội đủ tứ linh. Nơi đây vừa có sông, vừa có núi, là
nơi đắc địa hiếm có trong trời đất nên Nguyễn Huệ đã cho xây thành
Phượng Hoàng trên vùng đất giữa núi Con Mèo và núi Quyết, phía dưới là
lăng mộ vua là hoàn toàn có căn cứ.
Thời điểm quyết định xây mộ là năm
1786, sau khi dẹp tan quân Trịnh và được vua Lê Hiển Tông ban tặng Ngọc
Hân công chúa và đất Nghệ An. Sau 2 năm Quang Trung quyết định xây
Phượng Hoàng Trung Đô, nhờ La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp thiết kế và giao
cho Trấn thủ Thận thi hành. Khi mọi việc đi vào ổn định, Quang Trung đã
chuyển ông Thận sang công việc khác và đưa Trần Quang Diệu là tướng thân
tín nhất về thay thế. Phải chăng, đây là giai đoạn thực thi một công
việc hết sức bí mật (xây mộ) nên phải đưa người thực sự tin tưởng đảm
nhiệm?
Trong thời gian 4 năm khẩn trương
(1788 - 1792), công việc xây thành và xây mộ cơ bản hoàn thành. Trong
các tài liệu lịch sử hiện có mô tả thành Phượng Hoàng được xây thành 2
lớp. Thành ngoại có chu vi 2.820m, rộng 20ha, thành nội có chu vi
1.600m. Trong thành nội có điện Thái Hòa, có Lầu rồng 3 tầng, có nơi
thiết triều. Năm 1998, nhân kỷ niệm 210 năm Phượng Hoàng Trung Đô -
Vinh, TP Vinh đã cho xây dựng Bia dẫn tích thành Phượng Hoàng. Rất tình
cờ, khu vực chúng tôi đào móng đúng vào vị trí thành xưa, những viên
gạch đá ong xây thành vẫn còn nguyên rõ.
Khẳng định vua Quang Trung mất mộ là... vội
Khi Hoàng đế Quang Trung băng hà,
tướng Trần Quang Diệu đã cho lùi phát tang ba tháng. Thời gian này "nội
bất xuất, ngoại bất nhập", đường bộ, đường biển đều bị kiểm soát nghiêm
ngặt. Ba tháng ấy đủ cho quần thần Tây Sơn xây lăng mộ giả ở Phú Xuân và
cho người cháu Phạm Công Trị đã từng đóng giả vua đi sứ nhà Thanh chết
và chôn ở đó. Thi hài của Quang Trung được đưa ra Bắc theo đường biển
vào Cửa Hội ngược sông Lam vào sông Vinh rồi bí mật đưa lên bộ (từ bến
đò đến Thành nội khoảng 200m), khơi nắp đút quan tài vào mộ đã xây sẵn
và hạ xuống đúng độ sâu cần thiết.
Mười năm sau (1802), khi Nguyễn Ánh
chiếm lại thành Phú Xuân, với sự căm phẫn tột độ đã cho lính tàn sát
người sống và quật mộ người chết của những ai có liên quan đến triều đại
Tây Sơn để trả thù. Ngôi mộ được gọi là mộ Quang Trung bị quật lên,
trong mộ cũng có một bộ hài cốt hao hao giống Quang Trung cùng với đồ tế
khí trong quan tài. Nguyễn Ánh cho chặt đầu bỏ vào vò giam ngục tối,
xương cốt còn lại đốt thành than trộn thuốc súng bắn ra biển. Khi đó
chưa có thử ADN nên không thể khẳng định đó là hài cốt Quang Trung. Cho
nên, việc khẳng định vua Quang Trung không còn mộ là quá vội vàng.
Cách đây vài ba chục năm, sau ngày đất nước hoà bình, các nhà khoa học mới lần giở lại những điều mà lịch sử viết chưa thỏa đáng về Hoàng đế Quang Trung và bắt đầu đi tìm sự thật về nơi an nghỉ của ông. Cũng đã có những người tâm huyết tìm kiếm nhiều năm ở phía Nam và cho rằng họ đã tìm được mộ Hoàng đế Quang Trung ở Lăng Ba Vành, Cung Đan Dương, phía Nam sông Hương...
Trùng khớp tâm linh
Đến năm 2005, đền thờ Hoàng đế Quang
Trung được khởi dựng ở đỉnh núi Quyết, năm 2008 khánh thành. Đến giữa
tháng 12/2010, nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Lư ở Liên hiệp Khoa học Công
nghệ Tin học Ứng dụng - UIA được Hoàng đế Quang Trung báo mộng về phần
mộ ở thành Phượng Hoàng.
Cùng với những cảm nhận của các nhà
ngoại cảm, những hiện tượng tâm linh cần được nghiên cứu như xuất hiện
ánh hào quang trên nóc đền thờ Quang Trung. Trong một dịp lễ, có người
đã chụp được bức ảnh ánh hào quang tỏa sáng trên nóc đền. Nhà nghiên cứu
văn hóa quân sự Nguyễn Huy Toàn đã cung cấp bức ảnh này cho các nhà
khoa học.
Thứ hai là sự xuất hiện Phượng Hoàng
bay: Trước hội thảo, nhóm tìm kiếm đã mời tổ máy Địa - Vật lý của Đại
học Quốc gia Hà Nội về khảo sát tại khu vực thành. Qua nhiều lần vận
hành, khi vừa phát hiện vật lạ ở dưới tầng đất thì máy bị hỏng. Sau đó
phải mời một số con cháu họ Hồ ở TP Vinh đến làm thắp hương thì máy mới
tiếp tục hoạt động. Khi phát hiện được một số vật ở độ sâu 5 - 6m thì
đột nhiên trên bầu trời xuất hiện đám mây tụ hình chim phượng hoàng ở tư
thế chúi đầu xuống, 2 cánh giang ra. Các nhà ngoại cảm cho rằng, đây là
sự linh ứng thiêng liêng mà vua Quang Trung cho biết.
Hoàng đế Quang Trung là một nhà quân
sự kiệt xuất, ông có rất nhiều mưu lược, kể cả việc chọn nơi an nghỉ của
mình. Nhiều nhà khoa học đều khẳng định, vua không thể để Nguyễn Ánh
quật mộ mình một cách đơn giản như vậy. Từ những mối liên hệ lịch sử và
những cảm nhận của các nhà ngoại cảm cùng kết quả khảo sát bước đầu của
các chuyên gia Đại học Quốc gia Hà Nội, cho phép chúng ta được hy vọng
Hoàng đế Quang Trung đang an nghỉ tại thành Phượng Hoàng Trung Đô.
Hội thảo "Hoàng đế Quang Trung với
Phượng Hoàng Trung Đô" đã ghi nhận thành Phượng Hoàng là một di tích cần
phục dựng. Đồng thời cần khảo sát kỹ hơn và tiếp tục xác định lăng mộ
Hoàng đế Quang Trung tại Nghệ An để đi đến một kết luận cuối cùng, chấm
dứt những hoài nghi về việc nhà Nguyễn quật mộ thật của Hoàng đế Quang
Trung.
"Từ những dẫn chứng lịch sử cũng như qua quá trình
khảo sát thực tiễn về lăng mộ vua Quang Trung đang mở ra một lối đi tích
cực. Vì vậy, cần sớm có sự vào cuộc chuyên sâu và đồng bộ của các nhà
khoa học. Trên tinh thần học thuật và ý thức trách nhiệm, chúng ta có cơ
hội cùng nhau giải mã về lăng mộ Quang Trung Hoàng đế".
GS.TS Nguyễn Quang Ngọc
Giải mã kết cục “thảm” của con cháu vua Quang Trung
Chỉ 10 năm sau khi Quang Trung mất, triều đình Quang Toản vua thì hèn kém, các đại thần gây bè kéo cánh, tàn hại lẫn nhau...
[links()]
Trăm họ chất đường vui tiếp nghênh
Từ khi Lê Chiêu Thống cầu cứu quân Thanh xâm lược nước ta, nhân dân ta thấy được vai trò nhà Lê đã hết, Lê Chiêu Thống là ông vua bán nước, rước voi giày mả tổ. Trong khoảng một tháng rưỡi trở lại cầm quyền ở Thăng Long (từ 11/11 Mậu Thân đến trước ngày mồng 5/1 Kỷ Dậu 1789), Lê Chiêu Thống chỉ chăm chú vào việc trả thù hèn hạ những người từng theo Tây Sơn trước đây, không kể đó là hoàng thân, quốc thích.
Từ khi Lê Chiêu Thống cầu cứu quân Thanh xâm lược nước ta, nhân dân ta thấy được vai trò nhà Lê đã hết, Lê Chiêu Thống là ông vua bán nước, rước voi giày mả tổ. Trong khoảng một tháng rưỡi trở lại cầm quyền ở Thăng Long (từ 11/11 Mậu Thân đến trước ngày mồng 5/1 Kỷ Dậu 1789), Lê Chiêu Thống chỉ chăm chú vào việc trả thù hèn hạ những người từng theo Tây Sơn trước đây, không kể đó là hoàng thân, quốc thích.
Việc trả thù, chém giết tràn lan, đến
nỗi bà Thái hậu phải nổi giận kêu lên: "Ta phải trèo đèo lội suối vất vả
mới xin được quân (chỉ quân Thanh) sang đây. Phỏng chừng nhà nước chịu
được mấy phen ơn thù phá hoại như thế? Nếu cứ cách ấy mà làm thì trị sao
được thiên hạ? Gái già này lại đến làm đứa lưu vong mất thôi". Rồi Thái
hậu gào khóc không chịu vào cung" (Hoàng Lê nhất thống chí).
Đối với nội bộ thì như thế, đối với quân Thanh thì chịu luồn cúi đê hèn, hằng ngày phải chầu chực trước dinh Tôn Sĩ Nghị xin ý kiến, chỉ thị. Đến nỗi người ta nói với nhau rằng: "Nước Nam ta từ khi có đế vương đến nay chưa thấy bao giờ có ông vua luồn cúi đê hèn như thế" (Hoàng Lê nhất thống chí).
Đối với nội bộ thì như thế, đối với quân Thanh thì chịu luồn cúi đê hèn, hằng ngày phải chầu chực trước dinh Tôn Sĩ Nghị xin ý kiến, chỉ thị. Đến nỗi người ta nói với nhau rằng: "Nước Nam ta từ khi có đế vương đến nay chưa thấy bao giờ có ông vua luồn cúi đê hèn như thế" (Hoàng Lê nhất thống chí).
Chút tình cảm còn lại đối với nhà Lê
đến đây đã hết. Lòng người hướng về Tây Sơn, về Quang Trung Nguyễn Huệ.
Chính vì thế mà trên đường từ Phú Xuân ra Thăng Long, quân ta đi đến đâu
nhân dân ta lại nô nức lên đường tòng quân. Hàng chục vạn quân Tây Sơn
đã được bổ sung như thế.
Ở Thăng Long, ngay phía bên này là Khương Thượng - Chùa Bộc sào huyệt của quân Thanh thì phía bên kia sông Tô, ngay cạnh Cống Mộc, làng Nhân Mục là nơi ẩn giấu quân ta từ trước 30 Tết mà giặc không hề hay biết.
Ở Thăng Long, ngay phía bên này là Khương Thượng - Chùa Bộc sào huyệt của quân Thanh thì phía bên kia sông Tô, ngay cạnh Cống Mộc, làng Nhân Mục là nơi ẩn giấu quân ta từ trước 30 Tết mà giặc không hề hay biết.
Đó chính là đội quân tiên phong của Đô
đốc Long bí mật ém sát từ trước để điều tra tình hình địch. Để rồi đêm
mồng 4 rạng mồng 5 Tết Kỷ Dậu, ta bất ngờ tập kích vào Khương Thượng -
Đống Đa, làm cho địch hoang mang bối rối tưởng như quân ta "tướng từ
trên trời xuống, quân từ dưới đất chui lên" (từ dùng của tướng giặc).
Trận địa rồng lửa của nhân dân ta từ
các làng xung quanh: Khương Thượng, Thịnh Quang, Nam Đồng cùng khép chặt
vòng vây trợ chiến, làm cho quân Thanh ở đây hoàn toàn tan rã. Tướng
giặc Sầm Nghi Đống không kịp tẩu thoát, phải thắt cổ tự tử.
Trận tập kích bất ngờ, táo bạo vào Khương Thượng - Đống Đa là một mũi dao nhọn, thọc sâu vào nách địch, làm cho chúng choáng váng, mất tinh thần, tạo điều kiện cho hướng chính Quang Trung đập tan tập đoàn mạnh nhất của địch cố thủ ở Ngọc Hồi, mở toang cánh cửa vào Thăng Long. Trưa mồng 5/1 Kỷ Dậu, đạo quân chiến thắng đã rầm rộ tiến vào kinh đô, trong niềm hân hoan phấn khởi chào đón của trăm họ. Một nhà thơ đương thời đã kịp ghi lại cảnh hào hùng có một không hai trong lịch sử này:
(Ngô Ngọc Du - Long thành quang phục kỷ thực)
Trận tập kích bất ngờ, táo bạo vào Khương Thượng - Đống Đa là một mũi dao nhọn, thọc sâu vào nách địch, làm cho chúng choáng váng, mất tinh thần, tạo điều kiện cho hướng chính Quang Trung đập tan tập đoàn mạnh nhất của địch cố thủ ở Ngọc Hồi, mở toang cánh cửa vào Thăng Long. Trưa mồng 5/1 Kỷ Dậu, đạo quân chiến thắng đã rầm rộ tiến vào kinh đô, trong niềm hân hoan phấn khởi chào đón của trăm họ. Một nhà thơ đương thời đã kịp ghi lại cảnh hào hùng có một không hai trong lịch sử này:
Ba quân đội ngũ chỉnh tề tiến
Trăm họ chật đường vui tiếp nghênh
Mây tạnh, mù tan, trời lại sáng
Đầy thành già trẻ mặt như hoa,
Chen vai thích cánh cùng nhau nói:
Cố đô vẫn thuộc núi sông ta.
Trăm họ chật đường vui tiếp nghênh
Mây tạnh, mù tan, trời lại sáng
Đầy thành già trẻ mặt như hoa,
Chen vai thích cánh cùng nhau nói:
Cố đô vẫn thuộc núi sông ta.
(Ngô Ngọc Du - Long thành quang phục kỷ thực)
Minh họa chiến thắng Ngọc Hồi. |
Nhà Tây Sơn và bài học lòng dân
Vua Quang Trung và triều đại Tây Sơn đã trải qua một thời gian dài mới thu phục được lòng dân. Và sau khi đã được lòng dân thì dù vào Nam ra Bắc trăm trận trăm thắng. Thế nhưng, để mất lòng dân cũng rất nhanh. Chỉ 10 năm sau khi Quang Trung mất, triều đình Quang Toản vua thì hèn kém, các đại thần thì gây bè kéo cánh, tàn hại lẫn nhau, lòng dân lìa tan.
Chúa Nguyễn Ánh sau khi tập kích chiếm được kinh đô Phú Xuân (5/1801), mùa xuân Nhâm Tuất (1802) bắt đầu vượt sông Gianh, chiếm châu Bố Chánh (Quảng Bình). Quân Tây Sơn tan vỡ, chạy về doanh Hà Trung (nay là Kỳ Anh, Hà Tĩnh). Ngày 25/8 Nhâm Tuất (1802) quân Nguyễn đổ bộ lên Đan Nhai (Cửa Hội) đánh chiếm được Nghệ An. Tháng 6, đánh chiếm được Thanh Hóa. Ngày 18/6 tiến ra Thăng Long. Quang Toản bỏ thành chạy về phía Bắc, bị thổ hào địa phương bắt được, giao cho quân Nguyễn đóng cũi giải về Phú Xuân. Triều đại Tây Sơn bị dẹp tan. Một kết cục thật chóng vánh.
Như vậy, tính từ khi đánh được Nghệ An, chỉ 20 ngày, quân Nguyễn đã chiếm được Thăng Long, chinh phục được hoàn toàn Bắc Hà. Đây cũng có thể được coi là cuộc tiến công thần tốc. Chung quy lại, chỉ vì triều đình Quang Toản để mất lòng dân. Cho nên, người xưa nói: "Mất lòng dân là mất tất cả".
Phan Duy Kha
- Nhận đường liên kết
- X
- Ứng dụng khác
Nhận xét
Đăng nhận xét