Thứ Hai, 15 tháng 8, 2016

CÂU CHUYỆN LICH SỬ c-113

(ĐC sưu tầm trên NET)


Việt Nam qua tư liệu của người phương Tây (phần 7): Những hình phạt tàn khốc dành cho tử tù




Untitled-1

Tóm tắt bài viết

Cuối thế kỷ 16, quan hệ giao thương giữa Việt Nam và các nước phương Tây (Bồ Đào Nha, Anh, Pháp...) bắt đầu phát triển. Thuận theo đó, các giáo sĩ, thương nhân cũng lũ lượt vượt biển đến nước ta truyền đạo, buôn bán, làm ăn. Trong quá trình truyền đạo, để lưu dấu những ngày tháng sống ở đất khách quê người, các giáo sĩ, thương nhân đã ghi chép rất tỉ mỉ về phong tục, văn hóa, sinh hoạt của người bản địa. Đại Kỷ Nguyên xin phép được trích đăng lại những tư liệu quý giá đó, thông qua bản dịch của học giả Nguyễn Trọng Phấn (1910 – 1996) đăng trên tạp chí Thanh Nghị.
Marini (1608 – 1682), sinh ra ở Taggia (Ý), từng có 14 năm ở Bắc kỳ, ông có những ghi chép rất tỉ mỉ về cuộc sống ở đây, khi đó vẫn còn gọi Đàng Ngoài. Một trong những vấn đề được ông quan tâm là hình pháp và tội phạm đã được thuật lại rất sinh động trong những bản chép tay của mình. 
Ngục hình và tử tội
Tại các tỉnh không có nhà ngục, trong nhà quan tỉnh vẫn có đủ dụng cụ để cầm giữ tra khảo: xiềng, xích, khóa tay và những dụng cụ bằng sắt khác nữa. Thông dụng nhất là gông. Gông làm bằng hai thanh gỗ to và dài như một cái thang, có hai miếng gỗ ngang nối thanh nọ với thanh kia, hai miếng gỗ ngang đặt như hai bậc thang kẹp đầu vào giữa không thể nào kéo ra được; phạm nhân phải đeo gông đến ngày tuyên án.



(Ảnh minh hoạ: Internet)
Khi bị bắt, tội nhân thường phải đeo gông. (Ảnh minh hoạ: Internet)
(Ảnh minh hoạ: Internet)
Hoặc cũng có thể bị nhốt lại trong cũi. (Ảnh minh hoạ: Internet)

Ở Kẻ Chợ có nhiều ngục thất. Ngục hình thì làm dưới đất, không có cửa, chỉ có ánh sáng từ một ngọn nến viên cai ngục thắp cho và bắt tội nhân đến hạn phải trả tiền. Nếu người khốn nạn này không có tiền thì ngục tốt không ái ngại, đánh cho máu me đầm đìa, thừa sống thiếu chết, tội nhân không có ai để nói chuyện và than khổ bao giờ…
Chỉ có thân quyến mới được phép nói chuyện với tội nhân thôi. Họ đến báo cho tội nhân biết bản án tử hình và tụ họp lại để theo sau khi tội nhân được dẫn ra pháp trường. Ra đến nơi, tội nhân đã thấy có một bữa ăn sắp sẵn. Đến giờ hành hình, đao phủ thủ hoặc một tên lính nào đấy bảo hắn là đến lúc phải tuân vương mệnh; cứ ngồi sệp xuống đất chẳng xê xích đi đâu, hắn đưa tay cho người ta trói gập ra đằng sau. Xong rồi người ta búi tóc hắn lên đỉnh đầu và chẳng cần theo một nghi thức gì khác, đao phủ cầm đao đến gần và hạ thủ.



(Ảnh minh hoạ: Internet)
Tội nhân lĩnh án tử hình bằng cách bị chém đầu. (Ảnh minh hoạ: Internet)

Các thân vương quý tộc không bị chém đầu như bọn thường dân. Lưu huyết là một điều nhục nhã đối với tôn tộc, người hoàng phái, quý phái. Vì thế nên các quốc thích chỉ bị người ta dùng một cái gậy bằng gỗ hoàng đàn dài ba thước, to vừa phải phang một gậy vào đầu cho chết, còn người quý phái nào bị tử hình thì chỉ bị thắt cổ, treo cổ, hoặc ban thuốc độc để chết thôi – một lối chết danh giá nhất, ít nhục nhã nhất.



(Ảnh minh hoạ: Internet)
Ban thuốc độc là một trong những cách phổ biến nhất đối với hoàng thân quốc thích. (Ảnh minh hoạ: Internet)
(Ảnh minh hoạ: Internet)
Hoặc dùng cách thắt cổ. (Ảnh minh hoạ: Internet)

Bọn trộm cướp trước khi chết bị đem bêu ba ngày giữa một công viên cho công chúng sỉ vả, trên một chiếc xe bò dưới ánh nắng gay gắt của mặt trời, chẳng có gì che phủ cả. Hình phạt này nhục nhã nhất đối với tội nhân và rất có công hiệu đối với quần chúng.
Một quốc thích nào đã làm loạn hoặc xui dân làm loạn thì bị kẹp cổ vào hai chiếc gậy gỗ như vào giữa hai bậc thang, rồi những kẻ đứng ra hành hình bóp hết sức chặt làm cho phạm nhân nghẹt thở và chết. Muốn thử xem phạm nhân đã chết chưa, người ta đốt hai chiếc đèn, đem hai bàn chân kề sát vào ngọn lửa; nếu tội nhân hơi còn một chút cảm giác thì hai đao phủ kẹp cho đến khi người ấy chết hẳn không cử động được nữa.
Lính đào ngũ bị xẻo mũi; quan binh đào ngũ bị chặt thêm hai bàn chân. Bọn du côn hay sinh sự cãi nhau, đánh nhau bị chặt một, một nửa hay tất cả các ngón tay.
Hình phạt
Nhân dịp này tôi kể một câu chuyện mới xảy ra lúc tiên đế sinh ra đức vua đang tại vị thăng hà. Đức Kim thượng ban chiếu muốn rút nửa lương các võ quan và quân lính. Sự cải cách này không làm vừa ý một quan cận thần của tiên đế đứng vào hàng thứ hai các triều thần, được tiên đế biệt đãi vì tài năng và đức tính. Viên thái giám này phẫn nộ đến nỗi dám cầm xé tờ chiếu trước mặt nhiều người.



(Ảnh minh hoạ: Internet)
Những đại thần của Hoàng Đế trước phạm tội, nhất là tội khi quân, thì vua lại càng khó xử. (Ảnh minh hoạ: Internet)

Nhiều viên cố vấn được cắt ra để xét tội khi quân. Họ một phần vì ghen ghét địa vị cao sang của viên thái giám nên quyết nghị xin chặt một tay viên thái giám. Thiếu quân muốn tha thứ; ban rằng từ lúc tiên đế thăng hà, hình án này là hình án đầu tiên, ngài không muốn trừng phạt một tín thần của tiên đế, một đại thần lương đống của ngài; hơn nữa tiên đế khuyên ngài trong mọi việc nên độ lượng quảng đại, khoan hồng hơn là nghiêm khắc.
Nhưng các quan biết rõ ý vua nhất định xin thi hành bản án và tâu rằng nếu bắt đầu dung túng những kẻ khinh nhờn phép vua tức là một việc nguy hại đến thanh danh của ngài, khi dân chúng đã cảm mến ngài và tin rằng ngài là một vị vua công bình chính trực nhất. Hơn nữa, đem trừng phạt một vị đại thần càng làm vững chắc uy danh ngài.



(Ảnh minh hoạ: Internet)
Không phạt thì hình ảnh của Ngài sẽ suy giảm, còn nếu phạt thì cũng không đành lòng. (Ảnh minh hoạ: Internet)

Sau cùng, đức vua cũng không chịu nhận rằng tội ấy đáng phạt, nhưng bảo các quan nể ngài, phạt rút nhẹ đi một nửa. Viên thái giám tưởng chuyện đến lúc này có thể đút lót các án quan, xin đưa cứ mỗi ngón tay là một trăm đồng vàng. Nhưng các quan trót đã xin vua nghiêm phạt lại muốn tỏ rằng mình không vị lợi, cứ y án…
Sát nhân phải giả tử. Kẻ giết người không những phải thường mạng lại còn phải nộp cho ngân khố số tiền thuế người chết phải đóng từ năm hai mươi đến năm sáu mươi: tội nhân không có thì họ hàng phải đóng thay; nếu hắn không có bà con, hoặc họ hàng thì làng mạc phải chịu.



(Ảnh minh hoạ: Internet)
Một khi vua đã giao kẻ sát nhân cho người nhà nạn nhân xử tội, thì mọi chuyện đều có thể xảy ra, nỗi căm phẫn này sẽ trút hết lên đầu kẻ sát nhân. (Ảnh minh hoạ: Internet)
(Ảnh minh hoạ: Internet)
Dù đó là đàn ông hay phụ nữ. (Ảnh minh hoạ: Internet)

Cũng có khi vua giao kẻ sát nhân cho gia đình người bị giết để cho bọn này tự trả thù lấy bằng các thứ hình phạt cho hả cơn giận. Cách đây không lâu đã có người muốn báo thù cho một thân nhân bị chết đã chém bằng búa và băm kẻ sát nhân ra làm nhiều mảnh từ chân lên đến đầu, để hắn chết dần.
Những kẻ gian tham trộm cướp không bị tội chết vì thế nên bọn bất lương rất nhiều; nhưng khi có chứng cớ thì họ bị nghiêm phạt, quan cũng vậy. Những người bình sinh là người can đảm mà mắc tội tử hình thì chẳng những được vua tha tội chết cho mà còn được trọng dụng trong quân đội.
Nguyễn Trọng Phấn (dịch)

Việt Nam qua tư liệu của người phương Tây (phần 8): Tang lễ của vua Lê




Vua Lê băng hà. (Ảnh minh hoạ: Internet)
Vua Lê băng hà. (Ảnh minh hoạ: Internet)

Tóm tắt bài viết

Cuối thế kỷ 16, quan hệ giao thương giữa Việt Nam và các nước phương Tây (Bồ Đào Nha, Anh, Pháp...) bắt đầu phát triển. Thuận theo đó, các giáo sĩ, thương nhân cũng lũ lượt vượt biển đến nước ta truyền đạo, buôn bán, làm ăn. Trong quá trình truyền đạo, để lưu dấu những ngày tháng sống ở đất khách quê người, các giáo sĩ, thương nhân đã ghi chép rất tỉ mỉ về phong tục, văn hóa, sinh hoạt của người bản địa. Đại Kỷ Nguyên xin phép được trích đăng lại những tư liệu quý giá đó, thông qua bản dịch của học giả Nguyễn Trọng Phấn (1910 – 1996) đăng trên tạp chí Thanh Nghị.
Jean Baptiste Tavernier (1605 – 1689) là một thương nhân buôn ngọc người Pháp, đã từng tự bỏ tiền ra chu du hơn 120.000 dặm vòng quanh thế giới. Giữa những năm 1630 – 1668, ông đã thực hiện 6 chuyến du hành đến Ba Tư và Ấn Độ. Khi đang buôn bán ở Ấn Độ, Tavernier có nhiều dịp được giao lưu với người Việt ở Đàng Ngoài. Nghe những lời kể của họ, đồng thời khai thác tư liệu riêng, ông đã có cho mình những ghi chép rất tỉ mỉ sau này được tập hợp lại trong cuốn “Sáu cuộc hành trình”, xuất bản năm 1675. Dưới đây là những ghi chép của ông về lễ tang của vua nhà Lê ở Đàng Ngoài khi ấy. 
Tuy đức vua nhà Lê thời này không có uy quyền và tất cả thế lực đều vào tay chúa Trịnh, ngài vẫn được thần dân tôn trọng và triều đình vẫn được rực rỡ oai nghi. Ngày rằm và mùng một, các đình thần bận triều phục vào lễ vua. Chúa Trịnh trước kia cũng phải vào dự lễ bái vua, nhưng dần dần ngài đã biết cách xin miễn và cử một người khác đi thay! Vào chầu vua, quan phải bận phẩm phục màu tím, quân đi hầu cũng phải mặc áo đồng màu.
Mỗi năm vào dịp Tết Trung nguyên, vua ban thưởng cho các đình thần và con cháu các vị công thần vàng bạc; phóng xá cho tội nhân.



(Ảnh minh hoạ: Internet)
Những buổi thiết tiệc cho các văn võ bá quan trong triều. (Ảnh minh hoạ: Internet)
vua le 10
Và các điệu múa để chúc mừng ngày tết cổ truyền của dân tộc. (Ảnh minh hoạ: Internet)
Bao giờ cũng vậy, cứ đến ba ngày cuối năm, bốn mươi quan đại thần đi bắt các quan cao thấp văn lẫn võ tuyên thệ lúc nào cũng trung thành với đức vua và nếu biết có cuộc âm mưu hại đến long thể, đến cuộc trị nguy của quốc gia thì phải đi tố cáo. Nếu kẻ đi báo đã làm quan thì đức vua có ban thưởng hay không là tùy ý, nếu là dân dã thì được thưởng năm mươi lạng vàng và năm trăm lạng bạc.
Đám tang nhà vua
Khi vua băng hà thì người ta đem ướp tử thi ngài ngay và đặt lên long sàng. Trong sáu mươi lăm ngày dân chúng được phép chiêm ngưỡng. Vẫn hầu hạ, dâng cơm như khi ngài còn sống; cơm cúng xong thì một nửa đem biếu các sư và một nửa đem bố thí cho người nghèo đói.
Khi ngài vừa tắt nghỉ thì chúa Trịnh báo tin ngay cho các quan đầu các đạo và định thời hạn để tang là bao lâu: thường thường thì quan võ và quan văn ba năm; tôn thất sáu tháng; triều thần sáu tháng và dân sự ba tháng. Trong ba năm để tang vua, bỏ hết các cuộc vui trừ lễ đăng quang tân quân.



(Ảnh minh hoạ: Internet)
Khi Hoàng Đế mới lên ngôi thì đó là điều ngoại lệ duy nhất trong 3 năm chịu tang vua trước. (Ảnh minh hoạ: Internet)
Những món ăn dâng vua mới đều đựng trong đĩa phủ sơn đen; vua cạo đầu và đội mũ gai. Các hoàng thân và bốn mươi quan đại thần cũng để tang như vậy đến khi nào rước linh cữu xuống thuyền đem đi an táng một nơi đã định mới thôi. Ba quả chuông đặt trên một ngọn tháp cũng đánh mãi đến khi linh cữu rước xuống thuyền.
Hôm tam nhật, các quan mới được vào làm ai điếu tiên vương và từ hôm thứ mười giở đi dân sự mới được vào chiêm bái. Trong thời hạn sáu mươi lăm ngày này, chúa Trịnh sửa soạn tang lễ; vì lễ càng rực rỡ bao nhiêu chúa càng được tiếng bấy nhiêu.
Từ cung ra đến bến đậu thuyền chở linh cữu, đi mất hai ngày đường và đường che vải tím là màu của vua. Nhưng cũng con đường này đám tang đi về mất những mười sáu ngày. Cứ cách một phần tư dặm lại có dựng một cái quán có chứa nước uống và dựng bếp để hút thuốc. Lúc vua mới trở về thì số vải nói trên được cuộn lại và đem về phân phát cho các nhà sư.



(Ảnh minh hoạ: Internet)
Một phần thức ăn đã cúng và vải được đem đi bố thí cho các nhà sư. (Ảnh minh hoạ: Internet)
Đám tang đi theo thứ tự như sau: Hai người đi đầu là cấm binh vẫn canh gác cửa cung hai tay cầm hai cái chùy; chùy chứa đầy pháo bông; đi trước hô tên vua lên. Mười hai người đi sau là mười hai người đầu trong bọn thủy binh kéo linh xa trên có viết tên tiên vương.
tiêRồi đến một đoàn mười hai con voi: bốn con đầu, có bốn người cưỡi tay cầm cờ của vua; bốn con sau có đóng bành; mỗi con mang sáu người vác súng hoặc cầm hỏa thương, bốn con cuối mang bốn cái hòm; hai hòm đầu thì bịt kín mặt đàng trước và hai bên đều lồng kính; hai hòm sau thì có sáu mặt và bịt lưới thép hoặc cửa kính.



(Ảnh minh hoạ: Internet)
(Ảnh minh hoạ: Internet)
Tiếp vào đấy là một quan Đại tư mã cưỡi ngựa, theo sau có hai quan hầu cũng ngồi ngựa. Liền đấy có sáu cặp ngựa không người cưỡi, nhưng mỗi con có một quan vệ úy kèm giữ. Sáu con ngựa đầu yên cương rất quý giá, hàm thiếc và các vật dụng kim khí ở yên cương đều bằng vàng, yên thêu chỉ vàng; sáu con sau yên cương cũng nạm vàng.
Đoạn thứ năm là xe linh cữu vua có tám con hươu đã luyện thuần thục kéo; mỗi con có một quan vệ úy đi kèm giữ. Tân vương đi theo sau linh cữu, bận sa tanh trắng, đầu đội mũ rơm; các vương đệ cũng vậy. Chung quanh có phường bát âm.



(Ảnh minh hoạ: Internet)
Từ tân vương cho đến bá quan văn võ đều đi sau linh cữu tiên đế. (Ảnh minh hoạ: Internet)
Sau các vương tử là các phi tần, công chúa bận sa tanh trắng, có các mệnh phụ thể nữ theo hầu bận màu tím. Chung quanh lại có phường bát âm. Rồi đến các thân vương mặc áo tím, mũ rơm; bốn quan tổng trấn vai vác gậy quàng một cái túi vàng là tiền các trấn đem về dâng liệu để tiêu dùng dưới hoàng tuyền.
Theo sau còn hai chiếc xe, mỗi xe tám ngựa kéo; trên mỗi xe có một hòm đầy vàng bạc và đồ quý giá để tiên đế đem sang chi dùng thế giới bên kia. Đi đoạn hậu là văn võ bách quan, một phần cưỡi ngựa, tùy theo chức phẩm.
Linh cữu ra đến bến Bồ Đề thì khiêng xuống thuyền có sáu quan thái giám đi hộ tống, chở đến chôn tại một nơi rất kín. Các quan thái giám phải thề là giữ kín không cho ai biết chỗ lăng vua; một lẽ vì sợ có kẻ đến đào trộm lấy bạc vàng gấm vóc chôn theo nhiều lắm, nói là để tiên đế dùng.
Nguyễn Trọng Phấn (dịch)

Việt Nam qua tư liệu của người phương Tây (phần 9): Lối ăn uống và tiệc tùng của người Đàng Trong




Untitled-1
Cristoforo Borri (1585 – 1632) là một cố đạo người Ý sang Trung kỳ vào khoảng 1618. Ông từng lưu lại ở Hội An trong khoảng 4 năm (1618 – 1622). Năm 1631, khi trở về Roma, ông cho xuất bản quyển sách in đầu tiên của châu Âu nói về Trung kỳ của Việt Nam có tên: “Tường thuật về sứ mạng mới của các cha Dòng Tên tại Vương quốc Đàng Trong”. Dưới đây là những dòng viết về thực phẩm và cách ăn uống của người Trung Kỳ. 
Thức ăn thông thường nhất của người Đàng Trong là cơm và thật kỳ lạ: toàn lãnh thổ có rất nhiều thứ thịt, gà, vịt, cá và trái cây đủ loại, thế mà với họ trong bữa ăn ngon nhất lại là cơm.
Họ xới thật nhiều cơm ngay khi ngồi vào mâm, rồi chỉ gắp sơ sơ và nếm náp các món thịt như để theo nghi lễ.
Bữa ăn hằng ngày
Lương thực chính yếu của họ là cơm, như bánh mì là lương thực của chúng ta. Họ ăn không, nghĩa là chỉ có cơm, không cần nước xốt hay món gì khác vì sợ dần dần đâm chán. Họ không bỏ thêm bơ hay muối hay dầu mỡ hay đường. Họ thổi cơm bằng nước lã. Họ đổ vừa vừa nước thôi để cho cơm không dính vào nồi hay bị cháy. Vì thế hạt cơm còn nguyên vẹn, chỉ mềm một chút và dẻo.



(Ảnh: Internet)
Cơm là thức ăn chính của người Việt xưa, chỉ cần cho nước vào gạo là đã có món cơm ngon ăn mãi không chán. (Ảnh: Internet)

Họ còn kinh nghiệm thấy rằng không thêm mắm muối vào cơm, nên cơm dễ tiêu hơn. Vì thế hầu hết các người sống ở phương Đông thường ăn mỗi ngày bốn lần và ăn rất nhiều.
Người Đàng Trong ngồi trên đất để ăn, chân xếp lại, trước một bàn tròn (mâm) cao ngang bụng, mâm được khắc vẽ chạm trổ tỉ mỉ, riềm bịt bạc hay vàng tùy gia thếvà khả năng của người dùng.
an uong 20
Mâm này không lớn vì theo tục lệ, mỗi người một mâm riêng, cho nên trong bữa tiệc có bao nhiêu khách mời thì là bấy nhiêu mâm. Khi ăn riêng ở nhà họ cũng giữ như vậy, trừ khi thỉnh thoảng vợ chồng, cha con dùng chung một mâm.



(Ảnh: Internet)
Mâm cơm cũng là một nét văn hoá ẩm thực từ xưa tới nay, nơi mọi người quần tụ bên mâm cơm và cùng nhau ăn, rất đầm ấm. (Ảnh: Internet)

Họ không dùng dao hay xiên trong mâm. Họ không cần dao vì họ đã thái thịt thành từng miếng nhỏ ở trong bếp và thay vì xiên thì họ dùng những chiếc đũa nhỏ rất nhẵn nhụi cầm giữa các ngón tay để gắp một cách rất khéo léo nên không cần gì khác. Họ cũng không cần khăn ăn vì không hề dùng tay, không bao giờ lấy thịt thà mà không dùng đũa.



(Ảnh minh hoạ: Internet)
Văn hoá ăn đũa có lẽ chỉ có ở Châu Á, điều này khiến không ít người ngoại quốc cảm thấy rất ‘lạ’ và khâm phục sự khéo léo của người phương Đông. (Ảnh minh hoạ: Internet)

Thói quen tiệc tùng
Tiệc tùng cũng khá thông thường giữa lân bang với nhau, trong đó họ dùng nhiều thứ thịt khác nhau, những thứ tôi đã nói trước đây. Họ không cần cơm vì cho là ai cũng sẵn có ở nhà mình. Và mặc dầu người mời là người nghèo, người ta không tin ông thành thực, nếu mỗi khách mời không có trong mâm ít nhất là một số các món ăn.
Bởi vì họ có thói quen mời tiệc tất cả bạn bè, họ hàng lân bang, nên bao giờ bữa tiệc cũng có chừng ba mươi, bốn mươi, năm mươi người, có khi một trăm và tới hai trăm. Có lần tôi được mời dự một đám tiệc rất linh đình có tới gần hai, ba nghìn người. Cho nên tiệc này phải làm ở thôn quê là nơi có chỗ rộng để bày mâm.
an uong 31
Không ai cho là kỳ lạ khi thấy những mâm nhỏ như chúng tôi đã nói. Trên đó bày tới cả trăm món, và trong những dịp này, họ có một kế hoạch rất khéo, họ đặt mâm trên một cái gác với những thanh nứa nhiều tầng. Trên đó họ bày và chồng chất rất ngoạn mục hết các món, gồm tất cả những thổ sản trong xứ như thịt, cá, gà vịt, thú vật bốn cẳng, gia súc hay dã thú, với hết các thứ trái cây có thể có trong mùa. Nếu chẳng may thiếu một thứ gì thì gia chủ bị quở trách nặng, và người ta không coi bữa ăn đó là bữa tiệc.
Chủ nhà ăn trước còn gia nhân bậc trên thì đứng hầu, khi chủ ăn xong đứng lên thì tới phiên toán gia nhân bậc trên có đầy tớ bậc kém hơn phục dịch. Sau cùng mới đến lượt những người đầy tớ bậc thấp này. Và để không làm phí phạm tất cả những món đầy rẫy đó và theo tục lệ thì tất cả các món phải dùng cho hết và phải dùng cho thỏa thuê.



(Ảnh minh hoạ: Internet)
Theo thứ tự, từ chủ nhà, gia nhân bậc trên rồi mới tới gia nhân bậc dưới sẽ ăn theo trình tự đó. (Ảnh minh hoạ: Internet)

Một mâm khác dành cho đầy tớ cấp thấp nhất: chúng ăn thuê thỏa, còn thừa thì cho vào những túi dành riêng cho việc này và đem về nhà cho vợ con được no nê. Thế là chấm dứt hết các nghi lễ ở đây.
Đôi giày vướng víu
Các cha ở Đàng Trong không đi giày như tục người châu Âu hay đi dép như người bản xứ: vì giày châu Âu thì làm gì có mà đi và cũng không ai biết làm, còn dép bản xứ thì không sao đi được vì rất bất tiện cho người chưa quen nên đau chân, bởi vì các khuy làm cho ngón chân giãn ra, ngón nọ cách xa ngón kia.
an uong 34
Do đó, các ngài ưa đi chân không và bị đau chân hoài, nhất là trong lúc đầu, vì đất ẩm ướt, và vì chưa quen. Sau một thời gian thì theo tính tự nhiên cũng quen dần, da cứng lại đến nỗi không còn thấy khó chịu, mặc dầu phải đi trên đường có nhiều đá sỏi và gai. Riêng tôi, tôi đã quen đi chân không đến nỗi khi trở về Macao, tôi không chịu được giày, cảm thấy chúng thật nặng nề và làm chân tôi vướng víu làm sao.
Nhóm dịch NXB Tổng hợp TP.HCM

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét