Thứ Bảy, 10 tháng 2, 2018

VÕ THUẬT TINH HOA 62

(ĐC sưu tầm trên NET)
 
Cả thế giới sửng sốt trước huyền thoại võ thuật Việt khiến "Võ Lâm" cúi đầu

Huyền thoại những đệ nhất võ lâm trời Nam (kỳ 1)

(GDVN) - Với những cao thủ bây giờ thì họ là những bậc tiền bối, công phu đã danh trấn thiên hạ bấy lâu. Dù đến giờ, đa phần đã thành người thiên cổ...

(GDVN) - Với những cao thủ bây giờ thì họ là những bậc tiền bối, công phu đã danh trấn thiên hạ bấy lâu. Sống dưới chế độ thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, quãng thời gian mà tinh thần thượng võ bị triệt tiêu tới mức tối đa (phòng ngừa phản kháng), họ đã là cầu nối, đã bôn ba khắp nơi để tầm sư, rèn võ, cứu rỗi cả nền võ thuật Việt Nam trong buổi suy tàn. Dù đến giờ, đa phần đã thành người thiên cổ nhưng tài đức của họ thì vẫn là tiếng thơm để hậu bối noi theo...
{iarelatednews articleid='4782'}
Đệ nhất roi Hồ Ngạch và hai lần đánh cướp Dư Đành
Cố võ sư Hồ Ngạch
Cố võ sư Hồ Ngạch
Luận về võ công, không thể không nhắc đến đất võ Bình Định, cụ thể hơn là những địa danh như Thuận Truyền, An Vinh, An Thái. Những địa danh trên đã đi vào ca dao, huyền thoại bởi là nơi phát tích, “nuôi nấng” những dòng võ cũng như những võ sư danh trấn thiên hạ.
Đến giờ, tại nơi nghĩa quân Tây Sơn dấy binh đánh đuổi quân thù ấy vẫn còn truyền tụng những câu tục ngữ nói về tinh thần thượng võ của những địa danh này. “Roi Thuận Truyền, quyền An Thái” hay “Trai An Thái, gái An Vinh”… Thôn Thuận Truyền nằm ở xã Bình Thuận, thôn An Vinh thuộc xã Bình An (quận Bình Khê), An Thái thuộc xã Nhơn Phúc huyện An Nhơn, giờ vẫn tồn tại rất nhiều những lò võ nức tiếng xa gần. 
Roi Thuận Truyền không rõ sáng tổ là ai nhưng từ trước đến nay vẫn tôn vinh tên tuổi của võ sư Hồ Ngạch. Hồ Ngạch tên thật là Hồ Nhu, ông sinh năm 1891, mất năm 1976, nguyên quán thôn Háo Ngãi, xã Bình An, sinh sống tại thôn Thuận Truyền, Bình Thuận. Cha ông là Đốc Năm (Hồ Đức Phổ), một võ quan của triều đình Huế, mẹ ông bà Lê Thị Huỳnh Hà, cũng là một người nức tiếng giỏi võ trong vùng.
Bởi thế, ngay từ nhỏ, ông đã được cha mẹ truyền dạy võ công. Lớn lên, ông được gia đình gửi vào lò võ của cao sư Ba Đề, tiếp đến là Đội Sẻ, Hồ Khiêm, toàn những người nổi tiếng. Bởi thế, từ những đường roi của các cao nhân như Ba Đề, Hồ Khiêm kết hợp với nội công học được từ thầy Đội Sẻ đã tạo ra một Hồ Ngạch với những đường công biến hoá, sâu hiểm khôn lường. Theo sự truyền tụng của giới võ lâm khi ấy, đường roi của Hồ Ngạch là tuyệt kĩ vô song. Sau hơn chục năm lăn lộn với côn, quyền tiếng tăm của Hồ Ngạch ngày một vang xa hệt như diều gặp gió.
Hồ Ngạch vốn trầm tĩnh, ít nói và đặc biệt, ông không bao giờ để lộ tài năng võ thuật của mình. Tuy thế, trong đời luyện võ của mình, ông đã để lại rất nhiều giai thoại, đó là những trận so tài với các cao thủ võ lâm có một không hai.
Có lẽ, hữu xạ tự nhiên hương, bởi danh tiếng lẫy lừng, nên Hồ Ngạch thường được những người học võ tìm đến để thi thố tài nghệ. Dân Bình Định đến giờ vẫn truyền tụng nhiều câu chuyện Hồ Ngạch bị các cao thủ khiêu chiến, thậm chí cả “đánh úp” hết sức lạ lùng. Các cao nhân thử tài với Hồ Ngạch thì nhiều lắm, nhưng nổi tiếng nhất vẫn là những trận thư hùng với lực sĩ Dư Đành.
Dư Đành là tướng cướp, về võ công thì đến cả quân lính triều đình khi nghe thấy tên cũng đã hồn xiêu phách tán. Tung hoành khắp vùng không có đối thủ, nghe tiếng Hồ Ngạch, Dư Đành nhiều lần gửi lời khiêu chiến. Chối từ mãi không được, sau cùng Hồ Ngạch cũng phải nhận lời thách đấu. Lần ấy, Dư Đành đem lũ lâu la về tận Thuận Truyền và hống hách đưa ra điều kiện, nếu Hồ Ngạch đấu thua thì phải ra nhập đảng cướp của y.
Vậy là, tại bãi vắng ngay sát thôn Thuận Truyền đêm ấy, một mình Hồ Ngạch đã đánh bại cả chục tên đệ tử của Dư Đành, vốn đều là những cao thủ võ lâm. Khi đám tay chân mỗi tên nằm một góc thì Dư Đành xuất hiện. Phải nói thêm rằng, Dư Đành có sức mạnh chẳng ai sánh kịp. Đã có lần, để diễu võ dương oai, một tay y đã cắp cả một con nghé hệt như người ta nhẹ nhàng bồng trên tay đứa trẻ. Với thanh đao sáng loáng trên tay, vừa xuất hiện là Dư Đành tung đòn tới tấp. Thế nhưng, với đường roi thượng thừa của mình, Hồ Ngạch cũng chẳng hề nao núng. Đánh mãi mà vẫn không tìm được kẽ hở để “ăn sống nuốt tươi” đối phương, Dư Đành thấy máu nóng dồn lên mặt.
Và khi ấy, Hồ Ngạch đã ra đòn tuyệt kỹ. Tránh đòn truy hồn của đối phương, ông nhẹ nhàng tung người đá văng thanh đao cắm xuống đất, đồng thời xoay người giở đòn đánh nghịch. Biết đã vào thế hiểm, tiến thoái lưỡng nan, Dư Đành đành nhắm mắt chờ đường roi sát thủ. Thế nhưng, sau khi tiếng roi vun vút cất lên, Dư Đành đã thở phào choàng tỉnh bởi đường roi vừa chạm áo thì đối thủ đã thu về không đánh nữa. 
Trận thư hùng ấy, dù đã nợ Hồ Ngạch một mạng nhưng Dư Đành vẫn không chịu phục. Y rắp tâm kiếm cơ hội trả thù. Bởi thế, một chiều, đang mải mê với những chiêu thức  võ thuật thì Hồ Ngạch được mọi người báo tin không biết ai đã đến nương sắn nhà mình và nhổ hết sắn đóng vào những giỏ lớn. Điều lạ lùng là tất cả số sắn đó, kẻ trộm không lấy mang đi mà vẫn để nguyên trên rẫy. Hồ Ngạch đâu biết rằng đó là một âm mưu của Dư Đành.
Ra rẫy, thấy sắn bị nhổ, chẳng còn cách nào khác, Hồ Ngạch đành phải quẩy những sọt sắn trĩu nặng ấy về. Vừa đi được một đoạn thì từ bụi cây bên đường, Dư Đành vọt ra với chiếc bắp cày trên tay. Chẳng nói chẳng rằng, y tung luôn một đường sát thủ. Nghe tiếng gió, Hồ Ngạch vội thụt xuống, đường cày vụt qua đầu, văng thẳng vào cây bồ lời làm thân cây gẫy gập.
Lợi dụng luôn cú đánh hụt ấy, Hồ Ngạch tức tốc áp sát, nhanh như chớp, chụp luôn tay Dư Đành rồi sử dụng thế lạc côn, không những hoá giải mà còn biến sức đối phương thành lực của mình, hất thẳng Dư Đành xuống bụi tre gần đó. Mắc kẹt giữa đám tre gai góc, lúc ấy, Dư Đành mới khẩn khoản xin tha và hứa từ đó không bao giờ dám về làng Thuận Truyền quậy phá nữa.
Tỉ thí võ thuật Nam Hàn vinh danh làng quyền cổ
Sáng tổ của làng quyền An Vinh là Nguyễn Ngạc, tức Hương Mục Ngạc. Theo nhiều người thì bà tổ cô của Nguyễn Ngạc chính là thầy dạy võ của nữ tướng Bùi Thị Xuân. Bởi thế, Nguyễn Ngạc xuất thân trong một gia đình có truyền thống võ học.
Tiếp thu sở học của gia đình cũng như nhiều tiền nhân lúc bấy giờ, chuyên tâm nghiên cứu quyền pháp, Nguyễn Ngạc đã sáng tạo ra nhiều tuyệt kỹ điêu luyện, đặc biệt là ngón song xỉ đã nức danh khắp chốn. Quyền An Vinh thiên về đánh hiểm, đánh móc, đánh không hết tay, phản đòn nhanh, liên tục. Khi đánh, thường phải áp sát đối phương mới tìm được lợi thế cho mình. Nguyễn Ngạc có nhiều học trò, họ đều là những võ sư ưu tú, tiếng tăm lừng lẫy. Trong số ấy phải kể đến Bảy Lụt, Tám Cảng, Chín Giác, Sáu Hà, Tám Tự, Hai Tửu, Hương Kiểm Mỹ…
Bảy Lụt tên thật là Nguyễn An là con trai của Nguyễn Ngạc. Ông sáng dạ, sức khoẻ thì phi phàm, lanh lẹ tựa cọp beo. Năm 1935, Bảy Lụt cùng em mình là Chín Giác và Hương Kiểm Mỹ tham dự giải đấu võ đài toàn quốc tại Huế. Thi đấu thắng hàng loạt đối thủ, ông đã đem về cho làng quyền An Vinh huy chương vàng. Từ đây, danh tiếng về làng võ này đã được các môn sinh khắp nơi biết đến.
Thừa hưởng các bí kíp quyền pháp của cha, không để thất truyền, Bảy Lụt cũng chiêu mộ nhiều đệ tử. Trong số ấy, nổi danh nhất là võ sư Phan Thọ, người gốc Bình Nghi (Tây Sơn) người đã thừa kế di sản đồ sộ của môn phái quyền An Vinh.
Võ sư Phan Thọ sinh năm 1925, bắt đầu học võ từ năm 17 tuổi. Ông bảo, ông là người may mắn bởi được sinh ra ở cái nôi của võ thuật Tây Sơn. Mê võ, thủa thiếu niên, đã nhiều lần ông xin gia đình bán ruộng, bán bò để quyết chí theo đuổi sở thích của mình. Ông được lĩnh hội võ thuật cao siêu của rất nhiều tiền bối. Các bài quyền, roi, kiếm, đao, thương ông học từ thầy Bảy Lụt, Tàu Sáu (Diệp Trường Phát). Các môn kích, gản, phủ, lăn khiên, chuỳ… ông học từ thầy Sáu Hà (Lê Hải). Các môn côn, thước, xích, độc bút, xà mâu, đinh ba… ông lĩnh hội từ thầy Hồ Ngạch.
Tuy thế, sở trường của ông vẫn là quyền, thứ mà ông được thầy Bảy Lụt dày công dạy dỗ. Cũng giống như nhiều võ sư nổi tiếng khác, võ sư Phan Thọ cũng đã có nhiều trận thi tài mà đến giờ nhiều người khi nhắc tới đều vẫn ngả mũ thán phục tài năng.
Ngày ấy, khu vực Nam bộ, Trung Nam bộ rộ lên phong trào thi đấu võ đài theo kiểu tự do. Dù đã thượng đài rất nhiều lần nhưng Phan Thọ vẫn chưa có đối thủ. Tiếng tăm ông mỗi lúc một vang xa. Năm 1972, một võ sư taekwondo đệ ngũ đẳng huyền đai, vốn là một sĩ quan quân đội Nam Hàn đã tìm đến ông gửi lời khiêu chiến. Bị “áp đáo tại gia”, dù mến khách nhưng không có cách nào khác, ông phải nhận lời.
Trận tỉ thí diễn ra ngay trong nhà. Không khách khí, khách tung đòn trước. Đó là một cú đá có sức mạnh kinh hồn. Nhanh như sóc, Phan Thọ cúi người né tránh khiến chiếc cột giữa nhà thành… nạn nhân bất đắc dĩ. Thiết cước ấy làm cả gian nhà rung chuyển. Thủ thế đến chiêu thức thứ ba, khi đối phương vẫn hăng say tung những cú đá nhanh như chảo chớp của mình. Lựa một cú đá quét ngang mặt của đối phương, ông liền giở thế tấn mã tam chiến, một chân quét, một tay đỡ đòn, tay còn lại dương hổ trảo, hạ luôn đối thủ. Chỉ một cú đánh ấy, viên sĩ quan Nam Hàn đã nằm sõng soài ngay góc nhà.
Và, đương nhiên, anh ta chắp tay kính phục. Tuổi xưa nay hiếm nhưng lão võ sư Phan Thọ vẫn phải đứng ra nhận lời thách đấu của giới võ lâm. Khi ấy, năm 1998, một đoàn võ sĩ cũng của Hàn Quốc lại tìm đến nhà ông. Họ cho rằng, võ cổ truyền của Việt Nam chỉ là võ vườn, không có đẳng cấp như taekwondo nước họ.
Tuy đã có tuổi, chẳng còn máu hơn thua nhưng với khi đã chạm đến lòng tự hào dân tộc, lão võ sư lại sắn áo “thượng đài”. Lợi dụng sức trẻ, võ sinh Hàn Quốc ra đòn vun vút. Có cú sát thủ đến nỗi cả mang vữa tường rơi lả tả. Lão võ sư cứ nhẹ nhàng tránh né, hoá giải, chờ cơ hội. Và cơ hội ấy cũng đã đến khi đối phương tung một cú đòn lỡ chớn. Chỉ chờ có vậy, lão võ sư liền cúi người, quét luôn chân trụ. Chỉ một cú đòn ấy, đám khách không mời đã phải chắp tay: “Kung fu Tây Sơn danh bất hư truyền!”.
Long tranh hổ đấu
Năm 1924, làng võ Bình Định xuất hiện thêm một dòng võ mới đó là quyền Tàu. Người sáng lập ra dòng võ này là Tàu Sáu, tên thật là Diệp Trường Phát, sinh năm 1896 tại An Thái. Tuy là người Trung Quốc nhưng gia đình Diệp Trường Phát sinh sống ở An Thái đã được mấy đời.
Hấp thụ tinh thần thượng võ từ An Thái, 13 tuổi, Diệp Trường Phát được gia đình gửi về Trung Quốc để học võ từ các cao sức của Thiếu lâm Bắc phái. Sau 15 năm thụ giáo tại cố hương, 28 tuổi, Diệp Trường Phát trở lại An Thái mở lò dạy quyền Tàu. Đến giờ, dân làng An Thái vẫn truyền tai nhau chuyện thi tài giữa Sáu Tàu và đệ nhất roi Hồ Ngạch. Bởi đó là cuộc thí võ kết bạn nên hai bên đã giao ước không gây thương tích, chỉ dùng mực ghi dấu trên y phục đối phương.
Trước sự chứng kiến của nhiều môn đồ, hai ông giao kèo lấy một tuần nhang là một hiệp đấu. Sau hiệp đấu quyền, khán giả đếm được những vết mực trên áo hai người là như nhau, tuy thế, Hồ Ngạch vẫn chắp tay bái phục Tàu Sáu, thừa nhận mình kém hơn một bậc. Khán giả hết sức ngạc nhiên.
Khi ấy, Hồ Ngạch mới giải thích, các vết mực Tàu Sáu lưu trên y phục mình có phần nhạt hơn. Điều đó chứng tỏ rằng, đường quyền thế cước của Tàu Sáu đã ở mức thượng thừa. Bởi vậy nên ông mới có thể vận hành công lực như ý muốn nên đòn ra mới nhẹ nhàng, dấu mực mới nhạt. Nếu cũng những quyền thế ấy, thi triển hết 12 thành công lực thì sức mạnh sẽ rất kinh hoàng, có thể lấy mạng người trong chớp mắt.
Về côn, tuyệt kỹ của Hồ Ngạch, hai bên cũng quần thảo kinh hồn. Người xem chỉ thấy tiếng gậy va vào nhau chan chát còn bóng người thì lấp loá, mờ ảo. Sau tuần nhang, Tàu Sáu thấy trên người mình nhiều vết mực hơn. Trước đông đảo mọi người, ông đã chắp tay bái phục: “Đoản côn ở Thuận Truyền chỉ có Hồ Ngạch làm chủ!”.
Phiêu bạt tìm thầy
Về tinh thần thượng võ, ham học hỏi của người Việt, bây giờ, cụ Hàn Bái (Lê Bái) sáng tổ Hàn Bái đường, Thiếu lâm Hài Bái vẫn được giới võ lâm hết mực tôn thờ. Lê Bái sinh năm 1889, xuất thân từ một gia đình quyền quý.
Ngày ấy, người Pháp cho xây dựng tuyến đường sắt nối liền Côn Minh (Vân Nam, Trung Quốc) với Hải Phòng bởi thế giao lưu đi lại đã thêm bề thuận tiện. Biết Trung Hoa là nơi có nhiều kỳ tài võ học nên Lê Bái đã xin làm Sở Hoả xa tại tỉnh Vân Nam để tìm cơ hội trau dồi võ nghệ. Sau một thời gian nghe ngóng, thấy ở Phúc Kiến có bậc cao nhân từng làm giáo đầu trong triều, Lê Bái đã xin nghỉ việc để tìm lên thọ giáo.
Vị sư phụ ấy họ Lý, tên Quân ở Trung Hoa đã danh vang tứ hải. Thấy Lê Bái khôi ngô, tinh hoa phát tiết, Lý sư phụ mừng lắm, vui vẻ thu nạp làm đệ tử. Thế nhưng, trước khi bái sư, Lý sư phụ muốn thử tài năng của cậu học trò mình. Trước thịnh tình của vị sư phụ Lê Bái cũng chẳng khách khí, xuất luôn chiêu Hắc hổ xuyên tâm, đánh thẳng vào ngực đối phương với dự tính trong đầu, nếu bị hoá giải sẽ tiếp tục dùng thức Thanh xà nhập động sở trường của mình mà tấn công đối thủ.
Thế nhưng, dự tính ấy đã bị vị quyền sư bắt bài. Ông không gạt tay đối thủ mà nhẹ nhàng tóm thẳng cổ tay, giật xuôi theo đà lao của Lê Bái, đồng thời, quét luôn chân trụ của đối phương, hất văng xa ra. Tuy đau đớn nhưng cú đánh ấy làm Lê Bái mừng rơn. Bái biết, đấy đích thị là người thầy mà bấy lâu nay mình tìm kiếm.
Ba năm luyện võ tại nhà Lý sư phụ, Lê Bái đã trưởng thành, tên tuổi cũng đã lừng danh khu Phúc Kiến. Khi ấy, Lý sư phụ đưa cho người đệ tử yêu của mình lá thư tay, nói là quay lại Vân Nam tìm thầy Triệu Quang Chảo, một cao nhân của Thiếu lâm. Theo Lý sư phụ thì tuy là bạn nhưng luận về võ công, so với Quang Chảo, ông chỉ là hậu bối.
Quay lại Côn Minh, Lê Bái tiếp tục những tháng ngày khổ luyện và đến năm 1918 thì trở về quê nhà. Sau một thời gian kỳ bạt giang hồ, dạy võ ở khắ nơi, thọ bệnh, ông mất năm 1928, khi vừa tròn 40 tuổi. Bây giờ, đệ tử của ông, tiêu biểu là đại sư Vũ Bá Oai vẫn tiếp tục sự nghiệp hiển hách, hoằng dương tinh thần thượng võ của vị sư phụ kỳ tài của mình.
Đào Thanh Tuy
Huyền thoại những đệ nhất võ lâm (kỳ 2)
Ngày đăng: 10-05-2012 lúc 08:53:01 AM - Lượt xem: 1520

Khi tài năng đang độ chín muồi, khi Bình Định Gia đang khởi sắc, phát triển võ đường đến hầu hết các tỉnh phía bắc với hàng vạn môn sinh theo học thì một tai nạn giao thông thương tâm, Trần Hưng Hiệp đã không còn nữa. Lão võ sư Trần Hưng Quang bảo, hôm nghe tin con trai mình mất, ông chết điếng và cả mấy tháng sau, cứ thấy mình như đi trên mây khói.Cha con “ông Ốc” và nghiệp võ “một thời vang bóng”


Ông hệt như Lão Ngoan Đồng Chu Bá Thông, một nhân vật võ công cái thế, tóc bạc như cước nhưng lúc nào cũng hồn nhiên như trẻ nhỏ trong tiểu thuyết nổi tiếng Thần điêu đại hiệp của Kim Dung. Từng nổi danh với vai Ốc trong vở tuồng kinh điển Nghêu- Sò- Ốc- Hến, lại thêm cái vẻ hóm hỉnh ngoài đời nên ít ai có thể ngờ rằng ông lão có vóc người nhỏ bé tuổi ngoại bát tuần ấy lại là chưởng môn của môn phái một thời lừng danh, môn phái Bình Định Gia.


Ông là võ sư Trần Hưng Quang, giang hồ thường gọi là Quang “Ốc”, hay còn gọi thân mật là “ông Ốc”, trong giới võ lâm bây giờ, ông được suy tôn vào hàng trưởng lão. Những năm 90 của thế kỷ trước, đặc biệt khi người con trai Trần Hưng Hiệp tài năng thiên bẩm của ông còn sống, võ phái Bình Định Gia là mái nhà chung của cả vạn môn sinh đam mê quyền cước…


Lão võ sư Trần Hưng Quang là người nghiện thuốc lá. Thuốc Thủ đô ngày ông đốt đến cả bao. Ông bảo, người luyện võ thì phải kiêng tất cả những chất kích thích, ông cũng thế nhưng thuốc lá thì không tài nào bỏ được. Bởi thế, ở võ đường Việt- An, (sân trường Việt Nam- Angiêri, đường Nguyễn Quý Đức, Thanh Xuân, Hà Nội) dù đám môn tối nào cũng rộn rã những tiếng la hét, tiếng dậm chân huỳnh huỵch, tiếng binh khí va vào nhau loảng xoảng thì trên thềm, ông vẫn ngồi đăm chiêu với điếu thuốc trên tay.

Hình bên - Trần Hưng Quang cùng các học trò

Tuy ngồi bất động như thiền nhưng ánh mắt quắc thước của ông vẫn dõi theo từng động tác của đám học trò. Hễ ai tập sai, như điện giật, ông bật dậy, hấp tấp chạy tới, lúc la hét, khi ngọt ngào uốn nắn. Xong việc, ông lại thong thả bước lên thềm. Lại thả hồn theo làn khói trắng.


Ông quê gốc ở Bình Định. Theo đồng đạo võ lâm thì ông là người duy nhất đưa võ cổ truyền Bình Định bắc tiến thành công. Nói về võ phái của mình, ông bảo, cách đây trên 200 năm, cụ Trần Đại Chí, sáng tổ của môn phái, vốn là một võ tướng, võ công đệ nhất, thao lược tài danh, bởi mâu thuẫn với nhà Thanh mà chạy dạt sang đất Việt.


Theo gia phả của dòng họ thì thủa nhỏ, cụ Chí được gia đình gửi vào Thiếu Lâm học võ. Hơn chục năm trời theo thầy miệt mài với thập bát ban, thành thạo, cụ lai kinh những mong đem chút tài mọn phụng giúp quốc gia, vinh danh dòng họ. Thế nhưng, Mãn Thanh vào buổi suy tàn, bất mãn, mâu thuẫn trong việc triều chính, cụ đã đưa cả gia quyến xuôi về phương Nam.


Nơi đầu tiên cụ đặt chân tới là đất Thăng Long, nhưng ngày ấy, kinh kỳ hỗn loạn, chẳng thể náu thân an toàn, cụ dạt vào Bình Định. Tại đây, duyên kỳ ngộ, cụ đã kết bạn với võ tướng Võ Văn Dũng, một trong những tướng tài của vua Quang Trung, từng nhiều phen vào sinh ra tử trong sự nghiệp đại phá quân Thanh.


Tri kỷ, hai người suốt ngày trà dư tửu hậu, bàn luận chuyện võ học tinh hoa. Và, những ngày tháng ấy, hai người đã trao đổi cho nhau tất cả những bí kíp võ công mà cả đời mình tầm sư học được. Qua cụ Dũng, cụ Chí đã lĩnh hội được toàn bộ võ công chân truyền của Bình Định, đồng thời, nhờ cụ mà cụ Dũng đã thông tuệ võ học Trung Hoa.


Sau khi cụ Võ Văn Dũng qua đời, cụ Trần Đại Chí đã nghiên cứu, chắt lọc, tổng hợp những tinh hoa của hai nền võ thuật Trung Hoa và Việt Nam, sáng lập dòng Bình Định gia truyền theo nguyên tắc kết hợp giữa cương, nhu, trường, đoản, hư, thực.


Đường lối của các võ phái thời ấy thường nêu cao tính chất chiến đấu, không nặng về biểu diễn khoa trương. Theo lão võ sư Trần Hưng Quang thì võ phái mà sáng tổ Trần Đại Chí sáng lập suốt mấy trăm năm chỉ truyền thụ cho con cháu trong dòng họ, tuyệt nhiên không phát lộ ra ngoài. Qua mấy đời chưởng môn (Trần Đại Chí, Trần Đại Si, Trần Đại Xy, Trần Đại Y) đến đời ông (chưởng môn thứ 5) thì Bình Định Gia mới thực sự là môn phái được đông đảo quần hùng biết đến.


Võ sư Quang bảo, nghiệp võ với ông cũng hệt như… thuốc lá. Đã “dính” vào rồi thì không thể nào dứt ra cho được. Tuổi lên 10, ông được cha mình truyền thụ võ nghệ. Ông kể, ngày ấy, học võ gian nan lắm.


Cha ông là người nghiêm khắc, lại thêm quan niệm, học võ là để giữ gìn gia phong nên ông phải khổ luyện tối ngày. Đến năm 13 tuổi, với tư chất lanh lẹ, tinh tuý của phái võ gia truyền đã được ông cơ bản lĩnh hội. Tuy không muốn để lộ khả năng võ thuật của mình nhưng tiếng tăm về cậu bé anh hùng xuất thiếu niên ở Phú Cát là ông vẫn ngày một vang xa.


Tiếng lành ấy kinh động đến cả phủ quan, bởi thế, rất nhiều lần, họ triệu tập ông đến chỉ với mục đích được thực mục sở thị ông thi triển quyền cước. Năm 14 tuổi, biết đã hết “vốn” để dạy cho đứa con khiếu võ, cha ông bắt đầu hành trình tìm thầy để mở rộng khả năng cho con mình.


Gần chục năm dòng, hễ thầy nào có tiếng ở Bình Định thì cha ông đều dắt ông tới học. Chỉ một vài năm, thậm chí vài tháng thì lại lên đường đi tìm thầy mới. Bây giờ, một trong những giai thoại tầm sư học đạo của ông vẫn được người Bình Định truyền tai nhau.


Ngày ấy, thầy Hà Trọng Sơn ở Phước Sơn (Tuy Phước) có môn song kiếm thuộc loại tuyệt kỹ, mỗi khi đường kiếm vung lên thì chẳng khác nào phượng múa rồng bay. Nhu cương hài hoà, mềm mại nhưng sự lợi hại thì kinh hồn bạt vía. Độc chiêu ấy, dù đệ tử rất đông, nhưng không ai lĩnh hội vẹn toàn. Theo cha, ông đến và thật ngạc nhiên, chỉ sau ít bữa “ăn nhờ ở đậu”, ông đã “nuốt gọn” nhẹ nhàng. Thậm chí, trong đường kiếm ông đi, có nét nhàn nhã, thảnh thơi chẳng khác gì diều bay giữa trời quang đãng.


Thanh niên, tuy tạng người nhỏ bé, nhưng cũng như bao người luyện võ khác ở Bình Định, ông mải mê với sở thích đi đánh võ đài. Ông kể, thủa ấy, ở Bình Định, bất cứ làng võ nào cũng có võ đài. Người luyện võ thường đăng đài thi thố tài năng, đấu võ để kết bạn, để trau dồi kiến thức. Lần thượng đài nào ông cũng giành cho mình phần thắng.


Đến giờ, người mê võ ở Bình Định hẳn chưa thể nào quên trận thư hùng kinh điển giữa ông và võ sĩ Đào Duy Hạ tại Quy Nhơn.


Trận đấu diễn ra dưới sự cổ vũ cuồng nhiệt của cả mấy trăm người. Hai ông giao kèo đánh 3 hiệp, mỗi hiệp là 1 phút rưỡi. Trong 3 hiệp ấy, ai rớt đài trước thì là người thua cuộc. Vào trận, tuy đã mặc khác màu áo nhưng bởi chiêu thức được tung ra quá nhanh nên khán giả vẫn không thể phân biệt được đâu là ông Hạ, đâu là ông Quang. Ba hiệp đấu trôi qua, cả hai võ sĩ đều thở dốc mà vẫn chưa phân thắng phụ. Đó là trận đấu duy nhất ông gặp đối thủ ngang tài ngang sức.


Ông theo nghiệp tuồng, cũng là một “tài sản” gia truyền. Và, trong cuộc đời nghệ sĩ của mình, ông đã ghi dấu ấn bởi đã đưa võ vào tuồng. Năm 1980, nghỉ hưu, ông về Hà Nội sinh sống. Suốt mấy chục năm sống xa nhà, vào nam ra bắc, ngay chuyện đi tàu của ông cũng có lắm giai thoại. Một lần, bởi khi ra đến nhà ga thì tàu đã chuyển bánh.


Bế hai con nhỏ trên tay, túi khoác trên lưng, ông cắm đầu cắm cổ đuổi theo. Khi vừa theo kịp thì cửa toa tàu đã đóng im ỉm từ lúc nào, gọi mãi mà chẳng thấy ai mở. Quá cấp bách, chẳng còn cách nào khác, ông đành sử dụng luôn món “Thiết đầu công” mà mình đã khổ công rèn luyện. Cú húc như trời giáng ấy đã làm cánh cửa sắt bật tung. Vẫn ôm con trên tay, ông vọt lên tàu một cách nhẹ nhàng.


Năm 1982, Bình Định Gia chính thức có mặt ở Hà Nội. Ông kể, hồi ấy, buổi sơ khai, võ phái của ông ít người biết đến. Nhưng chỉ một lần kéo đệ tử lên CLB võ thuật quận Đống Đa biểu diễn, võ phái của ông đã làm những quan chức của Sở Thể dục- Thể thao Hà Nội mê mệt. Và, ngay lập tức họ đã mời ông tham gia Liên đoàn Võ thuật cổ truyền Hà Nội.

Gặp lão võ sư mấy lần, nhưng đến giờ, trong sâu thẳm những nghĩ suy của ông, nhiều lúc tôi vẫn chưa hiểu được. Trong con người ông, niềm vui, sự hóm hỉnh lúc nào cũng thường trực, nhưng nỗi buồn phiền, thểu não thì cũng ở rất gần.


Nhiều môn sinh của ông kể, trong lúc dạy học trò, thăng hoa, một mình giữa trời ông biểu diễn luôn một tiết mục tuồng khiến mọi người cười ngặt nghẽo. Thế nhưng, có lúc, đang nói cười tếu táo, bỗng dưng nhớ tới người con, cũng là người học trò cưng quá cố, võ sư Trần Hưng Hiệp, ông lại nước mắt nghẹn ngào.


Mà bây giờ, khi tuổi đã về già, cái sự tiếc thương ấy nó đến thường xuyên lắm. Bất cứ cái gì gợi cho ông nhớ đến con mình, đều khiến ông xúc động. Võ sư Văn Thắng, Chưởng môn phái Thăng Long võ đạo kể, một buổi đi sinh hoạt ở Liên đoàn võ thuật Hà Nội, gặp lão võ sư, vô tình ông khoe, ông vừa tìm thấy một tấm ảnh ông chụp chung với Hiệp.


Chỉ nghe đến đó thôi, ngay lập tức lão võ sư lại khóc, lại ngồi thảm thiết nhớ về những kỷ niệm của con mình. Ông có 3 người con, 2 trai một gái. Cố võ sư Trần Hưng Hiệp là thứ hai. Với ông thì dường như Hiệp sinh ra là để học võ. Ông kể, ngay từ tấm bé, ông đã phát hiện ra năng khiếu võ thuật thiên bẩm của cậu con trai mình. Bởi thế, những bài quyền, thế cước ông rèn cặp, Hiệp đã lĩnh hội rất nhanh.


Nối nghiệp cha, Hiệp cũng theo học môn Tuồng cổ ở trường Sân khấu- Điện ảnh và dốc toàn bộ thời gian còn lại vào việc luyện rèn võ thuật. Thời gian ấy, hễ nghe tiếng ở đâu có thầy giỏi là ngay lập tức anh tìm đến bái sư theo học. Bởi thế, khi tuổi mới đôi mươi, vốn liếng võ công của anh đã được võ lâm đồng đạo bái phục, kính nể và trở thành vị võ sư trẻ tuổi nhất trong làng võ cổ truyền. Lão võ sư Trần Hưng Quang bảo, nhờ có Hiệp mà Bình Định Gia trở nên nổi tiếng, được đông đảo môn sinh theo học, quần hùng mến mộ.


Tuổi trẻ, võ công cái thế, nhưng tính Hiệp điềm đạm, trầm tĩnh, sống nội tâm. Lão võ sư Trần Hưng Quang kể, có lần, trong khu nội trú trường Sân khấu- Điện ảnh, có nhóm đầu gấu bên ngoài vào trường quậy phá, bắt nạt sinh viên. Không muốn va chạm nhưng cũng chẳng thể ngồi yên, Hiệp đành ra mặt.


Chọn tên có vẻ gấu nhất, anh mời vào phòng mình nói chuyện. Thấy cậu sinh viên người nhỏ bé, mặt mũi thư sinh, vị khách mời không những không tiếp thu những lời phải quấy mà còn tỏ thái độ thách thức, chửi bới om xòm. Biết không thể nói suông với kẻ không biết điều ấy, đứng phắt dậy, Hiệp bảo: “Nếu anh thích đánh nhau thì đánh nhau với tôi! Nhưng cho tôi hỏi, chân tay anh liệu có cứng bằng chiếc chân giường này không?”.


Hỏi chưa dứt câu, bất thình lình anh tung chân đá quét. “Dính chưởng”, chiếc chân giường vuông thành sắc cạnh gẫy gập làm đôi, văng ra phía cửa. Nhìn thấy cảnh ấy, “kẻ đầu gấu” mặt cắt không ra máu, ú ớ lùi ra rồi hô lũ đàn em chuồn thẳng. Sau này, bởi ấn tượng với võ công thâm hậu và tinh thần thượng võ ấy, gã đầu gấu đã tìm đến anh, bái làm sư phụ, tu chí luyện rèn võ nghệ.

Cũng trong thời gian ấy, một chiều đi học về, gặp người quen, anh được mời vào quán uống bia. Bàn bên cạnh, mấy gã đã ngà ngà, nói năng toàn lời tục tĩu. Hết chuyện, thấy bàn bên cạnh có cậu trai cứ ngồi im, chẳng nói chẳng rằng (anh không uống được bia) thì lấy làm… ngứa mắt. Chúng buông lời bóng gió cợt nhả, rồi cười hô hố với nhau.


Thấy vậy, anh quay đi, chẳng thèm để ý. Sự phớt lờ của anh khiến chúng càng thêm tức tối, ỉ đông, chúng quay sang gây sự. Mấy “chiến hữu” cùng bàn với anh ai cũng nóng mắt, nhưng thấy “quân ta” yếu thế hơn nên chẳng ai dám động thủ. Trấn an các bạn, anh đứng dậy quay sang bàn bên.


Giơ cốc bia đang uống dở lên, hướng về phía đối phương, anh bóp mạnh. Chiếc cốc vỡ vụn, phát ra những âm thanh sởn ga gà. Chưa dừng lại, tay phải anh tung luôn một cú thôi sơn vào bức tường kiên cố ngay bên cạnh. Cú đấm uy lực, thấy đã gặp phải cao thủ, biết có đông cũng đánh không lại, nhóm anh chị bàn bên bỗng im phăng phắc. Phía bên này, sau những cú thị uy ấy, Hiệp lại chậm rãi ngồi xuống uống bia như chẳng có chuyện gì.


Cho đến bây giờ, võ lâm đồng đạo vẫn suy tôn Linh giác công của Trần Hưng Hiệp là thiên hạ đệ nhất, không ai bì kịp. Biểu diễn tuyệt chiêu này đòi hỏi người võ sư phải có công lực thượng thừa và cái tâm luôn tĩnh. Với tuyệt chiêu này, đã nhiều lần Hiệp làm người xem thót tim vì sợ.


Lão võ sư Trần Hưng Quang kể, khi biểu diễn Linh giác, Hiệp thường đặt quả cam, táo, hoặc một mẩu thân chuối dài chừng gần chục cm lên đỉnh đầu người đối diện. Sau ấy, bằng mảnh vải đen, anh bịt kín mắt mình, tay cầm kiếm sắc, từ từ tiến tới. Mắt bịt kín, nhưng bằng giác quan, anh vẫn xác định được vị trí của mục tiêu và vung kiếm chém tới.


Dù chém ngang, hay dọc thì đường kiếm ngọt ngào ấy cũng chỉ phạt đôi vật thể trên đầu chứ chẳng mảy may làm tổn thương một cọng tóc của người trợ diễn. Ngay cả lão võ sư, đã nhiều lần xem con mình biểu diễn, nhưng lần nào ông cũng… hoảng. Ông cấm con mình tuyệt đối không được dậy chiêu thức nguy hiểm ấy cho ai. Dặn con vậy không phải vì ông muốn giữ độc chiêu cho gia đình mình mà vì sợ. Đám học trò hiếu động, học chưa đến nơi đến chốn, chém phạt đầu nhau thì vô cùng nguy khốn.


Tuy quá nổi danh với Linh giác công nhưng sau này, mọi người đã không được thấy anh biểu diễn tuyệt chiêu này nữa. Nguyên nhân, theo lão võ sư Trần Hưng Quang thì con ông là người cẩn trọng, không bao giờ thích chuyện phiêu lưu hay những trò chơi nguy hiểm. Bởi thế, một lần, diễn Linh giác bị hỏng, anh đã quyết tâm từ bỏ sở trường này.


Lần ấy, Bình Định Gia tổ chức biểu diễn ở Nhà văn hoá huyện Từ Liêm. Tiết mục Linh giác trứ danh của Hiệp được toàn thể khán giả đón đợi. Lần thứ nhất, quả táo Tầu nhỏ xíu trên đầu người trợ diễn đã bị anh chém toác đôi. Nhiều người kinh hãi không dám nhìn nhưng cũng nhiều người ưa cảm giác mạnh, muốn anh diễn lại. Không thể chối từ thịnh tình của người mến mộ, anh lại bịt băng đen che mắt, lại tiếp tục diễn trò.


Thế nhưng, khi thanh kiếm sáng loáng trong tay vừa vung lên thì anh bỗng khựng người lại, buông kiếm xuống. Tiếp tục một lần nữa cũng vẫn vậy, thanh kiếm trên tay anh chẳng thể lượn một đường ngọt sớt như nó vẫn thường thi triển, vẫn làm người xem kinh hãi. Có lẽ, linh giác đã mách bảo anh rằng, trong một tâm trạng không được thoải mái, anh không nên dụng trò nguy hiểm ấy.


Đắn đo, sau cùng, anh đã xin lỗi khán giả và thay bằng việc đặt quả táo lên đầu người trợ diễn thì anh đặt quả táo lên thành ghế. Nhát kiếm chí tử được tung ra. Quả táo bị chém phạt phần dưới, tung lên rồi lăn lông lốc trên sàn nhà. Mọi người vẫn vỗ tay dầm dập. Thế nhưng, trên mặt anh vẫn không thấy nụ cười. Chào khán giả, anh vội vàng lùi vào phía trong.


Lão võ sư Trần Hưng Quang kể, về nhà, con trai ông đã kể cho ông “sự kiện lạ lùng” ấy. Và, anh còn tiết lộ, hàng đinh đóng trên thành chiếc ghế đã bị anh chém bay hết mũ. Nếu hôm ấy, nếu là người thật thì không biết hậu quả thế nào. Vậy là, nghe theo lời khuyên của ông, cùng với tính cẩn trọng của mình, anh đã từ bỏ môn võ mà mình đã khổ công rèn luyện.


Khi tài năng đang độ chín muồi, khi Bình Định Gia đang khởi sắc, phát triển võ đường đến hầu hết các tỉnh phía bắc với hàng vạn môn sinh theo học thì một tai nạn giao thông thương tâm, Trần Hưng Hiệp đã không còn nữa. Lão võ sư Trần Hưng Quang bảo, hôm nghe tin con trai mình mất, ông chết điếng và cả mấy tháng sau, cứ thấy mình như đi trên mây khói.

Ai là thiên hạ đệ nhất võ Việt?

Ai là thiên hạ đệ nhất võ Việt?

Giadinh.net - Ai là thiên hạ đệ nhất cao thủ võ Việt? “Đó người cả đời cống hiến, hi sinh cho võ thuật và hết mình với nền võ học nước nhà” - lời Huyền Đạo Công Trần Công.

Huyền Công Đạo Trần Công khí công cự phách, ám khí kinh hồn; Thanh Hư Chân nhân Đoàn Tâm ảnh xuất quỷ nhập thần, nghiệp võ huy hoàng vài thập kỉ; lão võ sư Trần Tiến, Hà Châu tuổi đã xấp xỉ bách niên nhưng quyền thuật thì vẫn mạnh như mãnh thú, gần xa nô nức khen tài... Kế đến, “lớp trẻ” như võ sư Chu Há, Băng Sơn, Vũ Quang Tín, Văn Thắng... cũng tài danh lừng lẫy, gây dựng nghiệp võ khiến người người thán phục, ngợi ca.
Vậy, trong số những “ngôi sao sáng chói” ấy, ai là thiên hạ đệ nhất?
Hùng kê đệ nhất?
Ông Trương Quang Trung, Phó Chủ tịch Liên đoàn Võ thuật cổ truyền Việt Nam, nguyên là Vụ trưởng Vụ Thể dục Thể thao quần chúng (đồng thời là Tổng Thư ký đầu tiên của Liên đoàn Võ thuật cổ truyền Việt Nam, từ năm 1991 tới năm 2007), đã được sống, được gắn bó với nhiều võ sư tên tuổi của làng võ Việt Nam.
Đặc biệt hơn, ông chính là người đã tiến hành biên soạn, xuất bản cuốn sách "Đời người - Nghiệp võ", được tạm gọi là phác thảo đầu tiên về “khuôn mặt” những cao thủ của võ lâm Việt Nam suốt từ Nam chí Bắc.
Trong cuốn sách ấy, ông đã giới thiệu 23 võ sư, họ đều là những người nổi tiếng, có đóng góp tích cực cho phong trào võ thuật nước nhà. Tuy thế, khi hỏi ông về nhân vật số một trong làng võ đương đại, quan điểm cá nhân, ông đã không ngần ngại mà trả lời, người ấy là lão võ sư Ngô Bông, truyền nhân của bài võ Hùng kê quyền, hiện đang sinh sống ở Quảng Ngãi.
Theo ông Trung, lão võ sư Ngô Bông là người vô cùng say mê với võ thuật. Bất cứ nơi nào có “chuyện võ” là nơi ấy có sự “góp vui” của lão võ sư ấy.
Lão võ sư Ngô Bông sinh năm 1923, trong một gia đình nghèo ở Tư Nghĩa, Quảng Ngãi. Cha bị giặc Pháp sát hại, mẹ mất sớm nên ông phải về ở với nhà ngoại của mình. Tại đó, ông đã được hai cậu ruột của mình là Lê Chót và Lê Thuỳ dạy võ Tây Sơn. Trong số những bài võ ấy có Hùng kê quyền, tương truyền do Nguyễn Lữ sáng tác từ các thế đánh của gà chọi.
Tiếp đến, khi đã thành một thanh niên vạm vỡ, ông đã theo học Thiếu lâm với hai người thầy nổi tiếng ở Quảng Ngãi là Bảo Truy Phong (Gấu già) và Lâm Võ. Và cũng như nhiều võ sinh lúc bấy giờ, võ sư Ngô Bông cũng đã nhiều lần thượng đài thi đấu quyền Anh và võ tự do. Ông đã từng thắng nhiều võ sĩ tên tuổi lúc bấy giờ như Đinh Hổ (võ sĩ Campuchia), Đinh Đam (võ sĩ người Huế), Trực Hùng, Trực Ninh...
Với những đóng góp của mình cho phong trào võ thuật, khi Liên đoàn Võ thuật cổ truyền Việt Nam được thành lập, ông được mời làm cố vấn. Năm 1993, trong một hội thảo chuyên môn, bài Hùng kê quyền do ông là truyền nhân đã được bình chọn là một trong những bài võ thống nhất (nằm trong thể thức thi đấu) của Liên đoàn. Đặc biệt hơn, năm 2004, khi đã ngoài 80 tuổi, tại Liên hoan võ thuật truyền thống thế giới tổ chức tại Hàn Quốc, trước 70 môn phái Võ thuật nổi tiếng của khắp các quốc gia, với bài Hùng kê quyền do chính lão võ sư Ngô Bông thể hiện đã nhận được sự hoan nghênh nhiệt liệt của tất thảy mọi người.
Mãnh sư Trần Tiến ở ngôi đầu?
Võ sư Phan Dương Bình (Bình “bún”) lại có “quan điểm” khác. Luận bàn về chủ đề này, quan điểm cá nhân, võ sư Phan Dương Bình “đề cử” ngay rằng trong số những võ sư đương đại, ông thấy lão võ sư Trần Tiến xứng đáng được ngồi vào “ghế” đầu tiên.
Võ sư Phan Dương Bình kể, ông vừa mới đi Nam về. Chuyến đi ấy, vào Thành phố Hồ Chí Minh, ông và lão võ sư Trần Tiến đã có nhiều thời gian để trao đổi với nhau những điều tâm huyết về võ thuật. Điều ông thấy mừng là dù tuổi đã xấp xỉ bách niên nhưng lão võ sư Trần Tiến vẫn vô cùng rắn rỏi, minh mẫn. Điều ấy là minh chứng rõ ràng nhất cho sự uyên thâm của lão võ sư trên “con đường” võ học của mình.
Lão võ sư Trần Tiến sinh năm 1911, trong một gia đình có truyền thống võ học ở Bắc Giang. Ông nội ông là cụ Hoàng Hảo, bố là Hoàng Tân, cùng chi họ và từng tham gia nghĩa quân của hùm xám Yên Thế Hoàng Hoa Thám.
Khi nghĩa quân tan rã, để tránh sự truy sát của quân giặc, gia đình ông đã phải dạt về Đồ Sơn, Hải Phòng và đổi sang họ Trần. Ông được ông nội và cha mình truyền dạy võ công từ khi còn nhỏ. Năm 15 tuổi, cơ duyên, ông đã được lãnh hội võ công của một nhà sư người Trung Quốc sang Việt Nam lánh nạn, tên là Lý Giang Nam, quê ở Phúc Kiến, thuộc phái Thiếu Lâm.
5 năm sau đó, ông tiếp tục thụ giáo Nhu thuật và Judo của 2 võ sĩ người Nhật tên là Tanabe và Karachi. Với tinh thần ham học hỏi, ông còn tập cả quyền Anh do võ sĩ người Pháp Lafeur chỉ dạy.
Khi mới ngoài 20 tuổi, võ sư Trần Tiến đã danh nổi như cồn khi giành ngôi vô địch kiếm thuật ở Bắc Kỳ. Bởi bị giặc Pháp săn đuổi vì lý do “kích động kẻ xấu luyện võ gây mất an ninh trật tự” nên cuối năm 1936, võ sư Trần Tiến phải khăn gói vào Nam. Quãng thời gian này, bởi mưu sinh và cũng bởi sự sốc nổi của tuổi trẻ nên võ sư Trần Tiến đã rất nhiều lần thượng đài ở khắp các nước Đông Nam Á với nhiều đối thủ khác nhau và đều giành về mình phần thắng.
Theo võ sư Trần Tiến thì trận thượng đài cuối cùng của ông diễn ra trên đất Singapore. Sau khi loại hàng loạt các đấu thủ, trận “chung kết” ông gặp một đối thủ là võ sĩ người bản địa có biệt hiệu là Tiểu Lâm Xung.
Tiểu Lâm Xung là võ sĩ có thân hình cao lớn, rắn chắc. Trước đó, nhiều trận đấu, Tiểu Lâm Xung để đối thủ thoải mái tung quyền, cước vào người mà chẳng hề hấn gì. Khi đã thấm mệt, chỉ một đòn là Tiểu Lâm Xung hạ nốc ao đối thủ. Trước trận đấu căng thẳng ấy, trong lần tổ chức họp báo, Tiểu Lâm Xung đã thề sẽ đánh gục võ sĩ người Việt để “rửa hận” cho những “chiến hữu” đã bị ông triệt hạ. Thời gian ấy, võ sư Trần Tiến đang là nhân vật để một hãng giày nổi tiếng thực hiện quảng bá hình ảnh. Bởi thế, sự quan tâm của công chúng tới trận đấu “sinh tử” của ông là cơ hội tuyệt vời để hãng giày đó khuếch trương thương hiệu của mình. Do vậy, trước trận đấu, ông đã nhận được “tối hậu thư” của “đơn vị tài trợ”, buộc ông phải thắng.
Lên đài, với “bàn tay sắt” của mình, như để thị uy, doạ nạt đối phương, Tiểu Lâm Xung đã tung những cú đấm sấm sét của mình vào những tấm gỗ dày đến 5 cm khiến chúng vỡ tan. Trước đòn phủ đầu ấy, ông vẫn không hề nao núng. Cậy sức, Tiểu Lâm Xung ra đòn tới tấp,  nhưng với thân thủ nhanh nhẹn, võ sư Trần Tiến đã khéo léo tránh, né, đỡ đòn. Già nửa thời gian của trận đấu trôi qua, tuy chưa bị dính đòn nào nhưng phần thắng đã có vẻ nghiêng hẳn về võ sĩ người bản địa vì lợi thế tấn công nhiều hơn. Trong lúc say máu tấn công, Tiểu Lâm Xung đã bộc lộ nhiều sơ hở. Và, trong một tích tắc “ham công bỏ thủ” ấy, võ sư Trần Tiến đã nhanh chóng áp sát. Hạ thấp tấn, bằng một thế xà quyền, ông đã đánh thốc vào hạ bộ đối phương. Chỉ một đòn ấy, Tiểu Lâm Xung đã đổ đánh huỵch xuống sàn, không tài nào gượng dậy được. Vậy là, phần thắng đã thuộc về võ sư người Việt.
Thế nhưng, trong phút giây vinh quang ấy, thấy Tiểu Lâm Xung nằm bất động trên sàn, ông bỗng thấy ăn năn, day dứt. Thật ra, đòn ấy, với võ đài thi đấu kiểu tự do như trên thì chẳng có gì là sai luật, nay với tinh thần võ đạo, cú đánh ấy lại là cấm kỵ bởi tính sát thủ kinh hồn. Vậy nên ông tự nhận mình là người thua cuộc. Sau trận đấu ấy, ông đã tránh xa “kiếp sống võ đài”.
Năm 1945, ra Hà Nội, được Việt Minh giác ngộ, lão võ sư Trần Tiến tham gia cách mạng. Vào quân ngũ, với khả năng quyền thuật siêu phàm của mình, ông đã được tổ chức phân công huấn luyện bộ đội tinh nhuệ (lực lượng đặc công sau này).
Năm 1978, ông rời quân ngũ nhưng vẫn tự nguyện tham gia dạy võ thuật cho một số sĩ quan quân đội Campuchia suốt hơn chục năm trời. “Về hưu” nhưng với nghiệp võ thì ông vẫn miệt mài theo đuổi.
Chắt lọc, đúc kết những tinh hoa võ học mà mình cả đời tích luỹ, lão võ sư Trần Tiến đã sáng lập võ phái Thiếu lâm nội gia võ thuật đạo Việt Nam. Đến giờ, võ phái của ông đã thu hút cả ngàn môn sinh. Trong số ấy, có rất nhiều môn sinh người Âu, Mỹ, Phi... bởi nghe danh mà lặn lội tìm về theo học. Với một sự nghiệp huy hoàng như trên, theo võ sư Phan Dương Bình, trong số những võ sư Việt Nam hiện đang còn sống và tham gia hoạt động võ thuật, lão võ sư Trần Tiến xứng đáng được xếp ở ngôi đầu.
Nhất Công nhì Ảnh?
Lão võ sư Trần Hưng Quang (Quang “ốc”, Chưởng môn phái Bình Định Gia) là người vô cùng nghiêm túc trên con đường võ đạo đồng thời rất khắt khe với những nhận xét của mình. Tuy vậy, khi hỏi người đầu tiên mà ông nghĩ tới khi “lập bảng phong thần” thì ông đã trả lời ngay, người ấy là Huyền Công Đạo Trần Công, Chưởng môn phái Không Động.
Theo lão võ sư Trần Hưng Quang thì Huyền Công Đạo là người có đóng góp rất lớn cho võ thuật cổ truyền, đặc biệt là làng võ thủ đô Hà Nội. Huyền Công Đạo được biết tới như một người có nội công, khí công siêu phàm đồng thời là “cha đẻ” của rất nhiều binh khí đặc dị. Trong số ấy, độc môn ám khí của lão võ sư đã danh trấn giang hồ, không ai bì kịp. Làng võ Việt Nam, rất nhiều những võ sư nổi tiếng đều đã tìm đến lão võ sư để nhờ người chỉ giáo.
Nhận xét trên của lão võ sư Trần Hưng Quang cũng trùng với ý kiến của nhiều người. Bắc Phong Chân nhân Băng Sơn, Chưởng môn phái Võ lâm Phật gia cũng đồng quan điểm ấy. Có một giai thoại do võ sư Băng Sơn kể lại, năm 1991, khi Đại hội võ thuật toàn quốc được tổ chức tại Hà Nội, một số võ sư đã tiến hành “bình bầu” xem ai là đệ nhất cao thủ võ Việt. Và theo như kết quả của cuộc “bầu chọn” ấy, lão võ sư Trần Công đã ở ngôi đầu, kế đến là Thanh Hư Chân nhân Đoàn Tâm Ảnh.
Khi chúng tôi gặp để xác minh thông tin này, thì viện lý do tuổi cao, lão võ sư Trần Công bảo ông không còn nhớ gì đến chi tiết này nữa. Và, nếu điều này thực sự... đã diễn ra thì ông cám ơn mọi người đã tỏ lòng mến mộ.
Còn với riêng Huyền Công Đạo, vị võ sư mà ông nể phục phải là người vẹn đức vẹn tài. Theo đại sư Trần Công, võ lâm Việt Nam đương đại, người ấy chính là hai lão võ sư Trần Tiến và Thanh Hư Chân nhân Đoàn Tâm Ảnh. Theo Huyền Công Đạo, tuy chỉ gặp gỡ một vài lần hiếm hoi nhưng tính cách, khả năng chuyên môn của hai đồng đạo trên đã khiến ông cảm phục. Giống như lão võ sư Trần Công, võ sư Nguyễn Văn Thắng, Chưởng môn phái Thăng Long võ đạo cũng vô cùng hâm mộ nghiệp võ của hai lão võ sư trên, đặc biệt là với quyền sư Đoàn Tâm Ảnh. Theo võ sư Văn Thắng thì danh tiếng, khả năng siêu phàm của lão võ sư giờ đã 107 tuổi ấy (Đoàn Tâm Ảnh) không chỉ người trong nước biết tới mà nhiều môn sinh của các môn phái khác trên thế giới đều xuýt xoa, nể phục khi nhắc tới tên. Đoàn Tâm Ảnh chính là một huyền thoại của làng võ Việt Nam.
Những “người kế thừa vĩ đại”
Võ thuật có tính kế thừa và phát triển. Từ những năm đầu thập niên 80 của thế kỷ trước, khi phong trào võ thuật được khôi phục, trên bầu trời vốn đã nhiều tinh tú ấy lại xuất hiện thêm những ngôi sao sáng chói. Những “ngôi sao” ấy không những kế thừa tinh thần thượng võ - “vốn liếng”, tinh hoa của thế hệ đi trước, mà còn đưa nền võ thuật nước nhà phát dương quang đại.
Võ sư Chu Há thuộc tuýp người khiêm tốn, rất ít khi đưa ra nhận xét về người khác. Tuy thế, khi đề cập đến vấn đề này, quan điểm cá nhân, với “thế hệ kế thừa” hiện nay, ông đã “tiến cử” hai võ sư, một của môn phái Vịnh Xuân, một của môn phái Võ lâm Phật gia.
Môn đồ của Vịnh Xuân, theo võ sư Chu Há, là võ sư Trương Quốc định, đệ tử của  cố võ sư Trần Văn Phùng (một trong 5 học trò ưu tú nhất của võ sư Tế Công). Hiện tại, võ sư Định đang dạy Vịnh Xuân ở làng Ngọc Hà (Hà Nội).
Người thuộc môn phái Võ lâm Phật gia không ai khác là võ sư chưởng môn Băng Sơn (Bắc Phong Chân nhân). Theo võ sư Chu Há, những năm gần đây, môn phái của võ sư Băng Sơn đã “gặt hái” được nhiều thành công rực rỡ, thể hiện qua những tấm huy chương từ các lần “võ lâm đại hội”...
Võ học thâm như Đông Hải...
“Văn vô đệ nhất, võ vô đệ nhị”, đó là quan điểm của ông Trương Quang Trung, Phó Chủ tịch Liên đoàn võ thuật cổ truyền và cũng là quan điểm chung của tất cả các võ sư khi nói về anh tài làng võ. Bởi thế, rất khó có thể tìm ra trong số rất nhiều những ngôi sao sáng trên bầu trời võ thuật Việt Nam, ngôi sao nào sáng nhất.
Điều này, càng được khẳng định qua câu nói của sáng tổ Trương Tam Phong, Chưởng môn phái Võ Đang, một võ phái nổi tiếng ở Trung Quốc. Câu nói này đã được lão võ sư Nguyễn Tỵ, Chưởng môn phái Nam Hồng Sơn, một môn phái đang thu hút rất đông đệ tử hiện nay ghi nắn nót ngay trên... tường nhà mình: “Võ học thâm như Đông Hải - Siêu quần võ sĩ đa thi sa số hằng hà”. Nghĩa câu nói ấy, theo lão võ sư Nguyễn Tỵ thì võ học thâm sâu chẳng khác gì bể đông, anh tài thì đông đảo chẳng khác gì sao ở trên trời. Bởi thế, trong võ luôn có đạo, người học võ phải biết giữ lấy cái đạo của mình. Trong đạo ấy, thì điều đầu tiên là phải xóa bỏ cái tôi, không tự kiêu, tự phụ, coi thường người khác. Mình tài nhưng bể học bao la, ra ngoài xã hội chắc chắn có người tài giỏi hơn. Bởi thế, theo lão võ sư, viết câu đó lên tường, ngày ngày nhìn thấy thì mọi nơi, mọi lúc ông đều tự điều chỉnh tất cả những hành vi của bản thân mình.
Võ sư Văn Thắng có một kỷ niệm mà đến giờ, ông vẫn chẳng giây phút nào quên. Kỷ niệm ấy đã nhắc nhở ông rằng, trong thiên hạ, người tài là vô số kể. Cách đây cỡ độ chục năm, bởi chưa xây dựng được võ đường qui mô như bây giờ, ông phải dạy môn đồ của mình ở một sân chùa gần nhà. Tối nào cũng vậy, hễ khi những tiếng “hây ha” của buổi tập bắt đầu thì lại có một ông già không biết từ đâu ra khoảng sân ấy thảnh thơi hóng mát.
Một buổi, ngồi nhìn ông đi một bài quyền làm mẫu cho học trò, ông già kỳ lạ ấy đã đến bên nhẹ nhàng... góp ý. Theo ông lão thì võ sư Văn Thắng đi quyền quá chính xác, nhưng về cuối bài quyền, động tác cần mạnh và dứt khoát hơn, có vậy mới lộ rõ uy lực. Đó là những lời hoàn toàn chính xác.
Biết ông lão cũng chẳng phải “người thường”, võ sư Văn Thắng đã mời ông chỉ giáo thêm. Ngay tối đó, trước rất đông môn sinh của Thăng Long võ đạo, ông già kỳ lạ ấy đã đi liên tiếp mấy bài quyền, côn khiến mọi người được một phen... mở mắt. Biểu diễn xong, ông lịch sự cúi chào mọi người rồi vội vã rút lui, không để lại danh tính dù võ sư Văn Thắng đã nằng nặc hỏi. Các tối sau, dù đã cố tình chờ đợi, nhưng chẳng biết bởi lí do gì, ông lão ấy đã không trở lại thêm một lần nào nữa.
Ai là thiên hạ đệ nhất cao thủ võ Việt? “Đó người cả đời cống hiến, hi sinh cho võ thuật và hết mình với nền võ học nước nhà” (lời võ sư Trần Công). Từ quan điểm này, thì bất cứ người nào đam mê nghiệp võ, giương cao tinh thần võ đạo và xả thân vì nền võ học nước nhà thì đều xứng đáng được tôn vinh là những đệ nhất anh tài trong rừng võ Việt Nam.
Đào Thanh Tuy

Làng võ Sài Gòn xưa – Những võ sĩ huyền thoại

0
822

Hầu như nơi nào vùng đất phương Nam cũng đều có những “thầy võ”, những võ sĩ vô danh, chuyên “thấy chuyện bất bằng chẳng tha”. Vùng Thất Sơn (Bảy Núi) ở An Giang đã có bao nhiêu truyền thuyết về những tay cao thủ võ lâm, đượm màu huyền thoại, không thua gì các Hảo Hán Trung Hoa, song được nhắc đến nhiều, được thêu dệt vá ái mộ, lại chính là các võ sĩ xuất thân hoặc “hành hiệp” tại Sài Gòn. Dân Sài Gòn từ bao đời vốn trọng đạo nghĩa, sống phóng khoáng, nên rất thích nghề võ. Họ là một phần làm phong phú cho nền văn hóa, văn minh của Sài Gòn 300 năm lịch sử.


Một thứ không thể mất
Theo truyền thuyết, khi anh em nhà Tây Sơn nổi lên chống nhà Nguyễn, nhất là khi Nguyễn Lữ được phái vào Gia Định để trấn giữ vùng đất phía Nam, thì môn võ lâu đời của Tây Sơn đã được mang theo. Trong dân gian từng lưu truyền nhiều giai thoại về thú mê đá gà và các trò giải trí của vị “phó vương” Nguyễn Lữ.
Những trường gà nổi tiếng được mở ra khắp vùng Gia Định, tạo nên phong trào sưu tầm và nuôi gà đá rất độc đáo ở Gia Định và các tỉnh miền Tây. Bên cạnh đó, phong trào luyện võ Bình Định cũng bắt đầu lan rộng. Dân phương Nam, từ trước đó rất mê luyện võ Thiếu Lâm (do các Hoa kiều chạy nạn Mãn Thanh mang sang), nhưng từ khi được tiếp xúc với võ Tây Sơn thì lại chuyển hướng sang tập luyện môn võ này. Tương truyền, đầu tiên võ Tây Sơn đã thâm nhập giới tu sĩ, nổi bật nhất là các nhà sư vùng Cần Giuộc và Chợ Quán. Những vị sư này võ nghệ rất cao cường, thường giúp dân chống lại ác thú và đánh đuổi bọn cướp.
Theo một thống kê không chính thức, trong số các phái võ ở vùng Sài Gòn – Gia Định từ thế kỷ XVIII trở về sau, đa phần thuộc gốc Tây Sơn, số còn lại là Thiếu Lâm, hoặc pha trộn giữa các phái để trở thành võ phái địa phương. Sau này, giai đoạn 1930-1950, những “hảo Hán” xưng hùng ở Bình Xuyên, Bà Điểm, Hóc Môn, Cần Giuộc, Cần Đước như: Ba Dương, Tám Mạnh, Cố Hoạch, Bảy Viễn, Mười Trí… ít nhiều thừa hưởng chiêu thức võ công từ đất Tây Sơn, do các võ sư gốc di dân như Ba Thi (Chợ Lớn), Sáu Lầu (Bình Khánh, Nhà Bè), Bộ Dực (Bến Tre), Bảy Khuyên (Hóc Môn), Hai Ngàn (Tân Khánh, Bà Trà), Tư Thêm (Vàm Láng), và Sáu Cường (Trà Vinh)… đã truyền cho họ.
Sau khi Nguyễn Ánh chiếm lại Gia Định, hầu như những gì của Tây Sơn đều bị triệt tiêu. Nhưng có một thứ không thể mất, đó là võ Bình Định. Những phái võ có xuất xứ từ đất võ Tây Sơn vẫn tồn tại ở Gia Định và các tỉnh Nam kỳ. Võ Duy Dương, là võ quan triều Nguyễn, rất giỏi võ Bình Định, khi theo Nguyễn Tri Phương vào trấn giữ Sài Gòn đã từng là cho binh sĩ dưới quyền nể mặt bởi võ nghệ tuyệt luân của ông.
Khi Pháp đánh chiếm Sài Gòn, phá vỡ đồn Kỳ Hòa, Võ Duy Dương rút về cố thủ ở vùng Đồng Tháp Mười, chỉ mang 24 bộ tướng. Tương truyền, đây là 24 thuộc hạ võ nghệ cao cường nhất của ông. Tại cứ địa Đồng Tháp Mười, Võ Duy Dương và 24 thuộc hạ tụ tập binh mã, rèn luyện võ thuật cho họ, trở thành đội ngũ tinh nhuệ, thiện chiến, sau đó mở những trận tập kích, làm cho quân Pháp phải kiêng nể. Về sau, Võ Duy Dương (được dân địa phương gọi là Thiên Hộ Dương) chết, trong số đệ tử chân truyền của ông có một số người bí mật rút về vùng Thất Sơn (An Giang), tạo ra những huyền thoại võ lâm mới…
Tư giang hồ với chiêu cầm nã
Trong số các nhân vật giang hồ hảo Hán của Sài Gòn hồi đầu thế kỷ XX có Tư Mắt, một nhân vật nửa tướng cướp, nửa hảo Hán. Ông ta có “nghề võ” rất cao cường, khi ra hành hiệp thì được dân anh chị Sài Gòn kiêng nể, tôn là đại ca. Theo nhiều người kể lại, Tư Mắt giỏi võ Thiếu Lâm, do được một võ sư môn phái Thái Cực Đường Lang của Thiếu Lâm Tự từ Trung Hoa sang dạy cho. Nhưng một số giai thoại khác do những người từng sống chung với Tư Mắt ở chùa Giác Lâm (lúc tay anh chị này hết thời về sống nương nhờ cửa Phật tại đây) kể lại, thì võ công của Tư Mắt đích thị là võ Việt Nam có pha trộn võ Thiếu Lâm. “Anh Tư” (tên giang hồ của Tư Mắt) có vài chiêu thức cực kỳ lợi hại, trong đó, lạ lùng và nguy hiểm nhất là chiêu cầm nã thủ: khi xuất chiêu nhanh như gió, chỉ thoáng một cái, năm ngón tay đã chộp vào cổ họng của địch thủ, hạ gục trong nháy mắt!
Tư Mắt đã làm trùm anh chị Sài Gòn và cả các tỉnh Nam kỳ một thời gian dài, từng đụng với các võ sĩ người Pháp. Chúng xem thường người An Nam, chẳng coi Tư Mắt ra gì. Có một giai thoại kể lại rằng, vào năm 1912, tên Aman, một võ sĩ quyền Anh hạng lông rất nổi tiếng, nhân theo tàu buồm Pháp ghé bến Sài Gòn. Lên bờ và mở võ đài ở câu lạc bộ hàng hải Pháp, thách các võ sĩ bản xứ đấu với anh ta. Aman lớn lối tuyên bố là chấp mỗi đêm 10 võ sĩ bất kể hạng cân của Sài Gòn lên võ đài. Ngay đêm đầu, chỉ cần một mình Tư Mắt với một đòn duy nhất, tên võ sĩ kiêu căng nọ đã bị đo ván.
Sáu Cường với cú đá song phi
Vào những năm trước Chiến tranh Thế giới lần thứ II, ở Sài Gòn và vùng Nam kỳ lục tỉnh nổi lên Sáu Cường, là võ sĩ vô địch. Ông người Trà Vinh, học võ với “một ai đó” không tên tuổi. Lúc ra “giang hồ” Sáu Cường tròn 20 tuổi. Bấy giờ ở Sài Gòn và vùng lục tỉnh đã nổi lên phong trào “nghề võ” rất ồn ào. Hầu hết các cao thủ đều là người Pháp, Miên (Campuchia), Lào, Thái Lan. Họ thích làm mưa làm gió trên các võ đài, khiến cho phần đông người bản xứ tức giận và cứ mong “ai đó” ra tay! Mà “người nào đó” không ai khác ngoài Sáu Cường. Ông xuất hiện đầu tiên ở một trận đấu tại thành phố Cần Thơ, do viên Chủ tịch tỉnh lúc đó tổ chức cho võ sĩ Pháp gốc Ấn Độ (có bản lĩnh võ thuật rất lạ, phối hợp giữa quyền Anh và võ Ấn). Anh chàng võ sĩ này đã từng đấu 10 trận ở khu vực Đông Nam Á, thắng cả 10. Nhưng khi Sáu Cường thượng đài, thì đó là trận đầu tiên anh chàng võ sĩ gốc Ấn này bị nằm dài, ngay trong hiệp 2, bởi cú đá song phi của Sáu Cường.
Sau trận đó 3 tháng, Sáu Cường lại được dịp thượng đài ở Sài Gòn, với một võ sĩ Xiêm (Thái Lan) tên là Anthuong Chay. Đây là một võ sĩ từng thi đấu nhiều nước ở châu Âu, thắng đến 30 trận, chưa biết nếm mùi thất bại. Anh ta đánh một thứ võ gọi là Muong Thai, vừa đánh bằng tay, vừa sử dụng chân đá, rất lợi hại. Kết quả: Sáu Cường lại thắng! Có thể nói, vào thời điểm đó, Sáu Cường đã trở thành một huyền thoại của làng võ Nam kỳ lục tỉnh. Sáu Cường chưa hề nếm mùi thất bại.
Từ Kid Dempsey không đối thủ đến Minh Cảnh vô địch Đông Dương
Trong những “huyền thoại” cận đại, phải kể đến võ sĩ Kid Dempsey và Minh Cảnh. Những người này đã làm rạng dang làng võ Việt Nam từ những năm trước và sau chiến trang thế giới lần thứ 2. Kid Dempsey thật sự là một người Việt Nam. Tên thật là Văn Phát (Nguyễn Văn Phát), sinh năm 1914, do ái mộ võ sĩ vô địch hạng nặng của Mỹ là Jack Dempsey nên đã tự đặt cho mình cái tên Kid Dempsey. Phải nói rằng, đây là một võ sĩ Việt Nam đầu tiên từng làm mưa làm gió trên võ đài trong nước và ngoài nước. Sau khi thắng trận đầu tiên vào năm 1939, đoạt chức vô địch Đông Dương, Kid Dempsey được mời sang Pháp thi đấu. Từ đó đến năm 1958, ông lưu trú luôn tại đất Pháp, hành nghề võ sĩ, với các trận thắng vang dội các võ sĩ người Pháp tại những thành phố lớn như Paris, Marseilles… rồi lấy vợ Pháp, sinh con. Năm 1958, Kid Dempsey trở lại Sài Gòn, tiếp tục thượng đài và hầu như không có đối thủ. Ông thắng hầu hết gần trăm trận đấu khắp miền Nam và cả khu vực Đông Dương. Đến năm 1983, ông qua đời tại quê hưong, đất Sài Gòn.
Sau Kid Dempsey một thời gian, năm 1944, tại Sài Gòn đã nổi lên một tài năng khác của làng võ. Đó là Minh Cảnh, một huyền thoại mới về quyền Anh. Năm đó, Minh Cảnh đoạt chức vô địch quyền Anh Đông Dương, được tổ chức tại Hà Nội. Ông vốn là đệ tử của võ sư Muôn, nhà vô địch quyền Anh Việt Nam vào thời 1938-1940, lại được các võ sĩ tiền bối như Sáu Cường, Thái Ngọc Kỳ (Rạch Giá) truyền dạy thêm những tuyệt kỹ, nên ở Minh Cảnh có được tinh hoa của môn quyền Anh mang đặc tính phù hợp với thể chất người châu Á, với căn bản kỹ thuật hoàn chỉnh, cộng thêm sự gan lì hiếm thấy ở một võ sĩ. Minh Cảnh đã gây được tiếng vang lớn trên khắp võ đài Đông Dương. Nhiều võ sĩ châu Âu đã bị Minh Cảnh hạ đo ván ngay tại Sài Gòn, sau đó phải “tâm phục khẩu phục”, công nhận tài nghệ thật sự của người có thể hình nhỏ nhắn, nhưng cực kỳ nhanh nhẹn và dũng cảm. Hiện nay, võ sĩ Minh Cảnh đã lớn tuổi, vẫn sống đạm bạc ở Sài Gòn.
Huyền thoại võ Thiếu Lâm ở Chợ Lớn
Nói đến võ thuật ở Sài Gòn mà không đề cập đến võ Thiếu Lâm là một thiếu sót. Bởi vì, như đã nói ở phần đầu, làng võ Sài Gòn đã tích lũy cái vốn rất quý của hai nguồn cội võ thuật, đó là võ dân tộc (võ Bình Định là chính) và võ Thiếu Lâm. Chính các lưu dân gốc Trung Hoa, khi chạy nạn Mãn Thanh, đã đem sang Việt Nam các tinh hoa võ thuật xứ họ, mà Thiếu Lâm là cái gốc.
Võ Thiếu Lâm chia ra nhiều hệ phái ngay tại nguồn gốc của nó và khi truyền sang Việt Nam cũng giữ nguyên như vậy. Vùng Sài Gòn – Chợ lớn là nơi tiếp nhận và sau đó phổ biến các nơi. Có thể kê ra những phái chính của võ Thiếu Lâm được truyền dạy ở Chợ Lớn ngay từ những năm của thế kỷ XVIII: Thái Cực Đường Lang, Thiếu Lâm Hồng Gia, Thiếu Lâm Châu Gia, Thái Lý Phật, Nga Mi, Võ Đang. Đã có những tên tuổi đáng gọi là “huyền thoại” trong làng võ Thiếu Lâm Chợ Lớn, như Triệu Thúc Khê, Tạ Xy Vinh, Tạ Nam, Trần Nhất Minh, Đặng Văn Thành, Tăng Huê, Triệu Di Văn, Huỳnh Thuận Quý (đệ tử đời thứ ba của Tổ sư Thiếu Lâm Hồng Gia, Hồng Hy Quang)… Những tên tuổi trên đã làm rạng danh sư Tổ của họ như Trương Tam Phong, Hồng Hy Quang, Lý Bá Sơn, Ngũ Mai Sư Thái, Phùng Đạo Đức, Miêu Hiển, Chí Thiện Thiền Sư, Tân Uyên Trưởng Lão, Châu Gia Ngũ Hổ…
Làng võ Sài Gòn theo dòng lịch sử
Cái hay của võ sĩ Việt Nam là tuy tiếp thu cả nền võ học nước ngoài như Thiếu Lâm, nhưng đã khéo léo cải biên, chắt lọc tinh hoa, để có riêng một số trường phái mang đậm bản sắc dân tộc, gọi chung là võ Việt Nam. Người ta gọi Sài Gòn là cái nôi của làng võ, bởi sự tiếp thu rộng rãi và biết chắt lọc, phát huy như thế. Những huyền thoại của làng võ Sài Gòn sẽ còn tiếp nối các tên tuổi khác đang theo dòng lịch sử…

Theo Thượng Hồng / Địachi

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét