Thứ Sáu, 9 tháng 2, 2018

NỖI NIỀM OAN KHUẤT 26

(ĐC sưu tầm trên NET)
Những oan khuất thấu trời đằng sau “người đàn bà điên”
Một lá đơn của anh Cao Văn Bình (xã Ngọc Lập, Yên Lập, Phú Thọ) kêu cứu nỗi khổ cực, oan khuất: Vợ anh – chị Hoàng Thị Nhung sau những lần bị người nhà ông trưởng khu 16 (xã Ngọc Lập) hành hung nay đã trở nên điên dại, hoảng loạn và không kiểm soát được hành vi. Nhà vốn đã nghèo nên khi tai họa ập xuống, gia cảnh nhà anh càng thêm khốn đốn. Nguồn ANTV. 

Nỗi oan thấu trời của người đàn bà điên

00:09 28/12/2012

"Từ một người bình thường, nay vợ tôi trở thành người tâm thần. Việc kinh doanh phá sản, vợ lại bệnh tật, gia đình tôi đã phải rời Gia Lai về mượn tạm túp lều của người bà con ở xã Tiên Tiến, Thanh Hà, Hải Dương để sống tạm".

Người đàn bà ấy nằm thoi thóp, trong túp lều thỉnh thoảng lại gào thét trong cơn điên dại. Nhìn bà, ai có thể ngờ người đàn bà điên này đã từng là một doanh nhân?
Hai vợ chồng ông Phạm Văn Tư và bà Nguyễn Thị Minh
Tai họa bất ngờ
Trong túp lều trống trải, ngồi đối diện tôi, bà Nguyễn Thị Minh, thân hình tiều tụy, tóc rối bời, đôi mắt lờ đờ, vô hồn nhìn vào nơi vô định. Thấy người lạ, bà Minh sợ hãi co rúm người, miệng ú ớ kêu những câu vô nghĩa. Chỉ khi ông Từ (chồng bà) đến vỗ về bà mới trấn tĩnh. Cơn hoảng loạn của người đàn bà vốn trước kia là một doanh nhân khiến tôi trùng lòng.
Bà Minh không nói được gì về nỗi oan của mình. Ba năm qua ông Phạm Văn Từ, chồng bà đã đội hơn 10kg đơn thư đi gửi khắp các cơ quan tố tụng của tỉnh Gia Lai (trước đây vợ chồng ông sinh sống, làm ăn tại thị trấn Ia Kha, huyện Ia Grai, tỉnh Gia Lai) rồi lại lặn lội ra Hà Nội. Hành trình ấy đã khiến gia đình bà càng khó khăn hơn. Khuôn mặt ông Từ hằn lên những vết nhăn, khắc khổ. Nghẹn ngào, ông kể lại tai họa khiến cho gia đình ông tan nát...
Ông Từ kể, năm 2002, bà Nguyễn Thị Minh thành lập cơ sở Từ Minh ở 74 Hùng Vương, Thị trấn Ia Kha, huyện Ia Grai, tỉnh Gia Lai chuyên mua bán thức ăn gia súc. "Công việc kinh doanh đang tiến triển bình thường, đùng một cái ngày 14/8/2003, gia đình tôi đang ngồi ăn cơm thì công an huyện Ia Grai đến đọc quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can và bắt vợ tôi. Cả nhà tôi ngơ ngác không biết bà ấy bị bắt vì tội gì" - ông Từ kể.
Theo cơ quan cảnh sát điều tra công an tỉnh Gia Lai, bà Minh bị khởi tố về tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo Điều 140 BLHS vì còn nợ hơn 224 triệu đồng tiền mua 168 tấn phân bón của Công ty Thương mại Gia Lai. Do ốm nặng phải đi viện nên ngày 4/12/2003 bà Minh được tại ngoại. Tai họa bất ngờ giáng xuống khiến bà Minh hoảng loạn, mắc bệnh tâm thần, đi lang thang khắp nơi.
Ông Từ cho biết: "Từ một người bình thường, nay vợ tôi trở thành người tâm thần. Việc kinh doanh phá sản, vợ lại bệnh tật, gia đình tôi đã phải rời Gia Lai về mượn tạm túp lều của người bà con ở xã Tiên Tiến, Thanh Hà, Hải Dương để sống tạm".
Kêu trời chưa thấu!
Đúng 35 tháng sau ngày khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với bà Nguyễn Thị Minh, ngày 15/7/2006, VKSND tỉnh Gia Lai ra Quyết định số 01/VKS -P1 đình chỉ vụ án với nội dung: "Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Gia Lai có kết luận điều tra số 45 ngày 24/3/2006 đề nghị truy tố Nguyễn Thị Minh về tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, nhưng xét hành vi nêu trên của Nguyễn Thị Minh chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự".
Theo ông Từ thì đây là vụ án oan, nhưng cơ quan tố tụng tỉnh Gia Lai đã cố tình né tránh trách nhiệm của mình trong việc khởi tố, bắt oan bà Minh nên ra quyết định đình chỉ vụ án với lý do trên. Ông Từ đã phải thay vợ khởi kiện VKSND tỉnh Gia Lai, đòi bồi thường theo Nghị quyết 388.
Theo đơn kiện, gia đình ông Từ yêu cầu VKSND tỉnh Gia Lai phải bồi thường 3 tỷ đồng, tuy nhiên, khi xét xử, TAND huyện Ia Grai (sơ thẩm), TAND tỉnh Gia Lai chỉ chấp nhận một phần đơn khởi kiện, buộc VKSND tỉnh Gia Lai phải bồi thường cho bà Minh 74,2 triệu đồng.
Theo phản ánh của ông Từ, tuy bản án phúc thẩm đã có hiệu lực pháp luật nhưng đã 3 năm qua, gia đình ông vẫn chưa nhận một đồng nào tiền bồi thường từ VKSND tỉnh Gia Lai. Trong khi đó, bệnh tình của bà Minh ngày một nặng hơn, sức khỏe ngày càng yếu đi. Nhiều năm nay, ông Từ vẫn đội đơn đi kiện đòi quyền lợi cho vợ. Một gia đình đang từ chỗ khá giả, hạnh phúc nay rơi vào cảnh vô gia cư, bệnh tật hành hạ khiến nhiều người phải đau lòng. Lẽ nào các cơ quan tố tụng lại không để tâm tới nỗi đau của người dân?
Vương Hà

Giải mã chuyện rùng rợn về 'vật nuôi báo oán'

08:20 11/03/2013

Con trâu là vật nuôi gắn bó với người nông dân Việt Nam từ hàng ngàn năm trước, nó là đầu cơ nghiệp, là biểu tượng của nền văn minh lúa nước, vì thế, người ta tin nó có linh hồn.

Ông thủ từ đền Giang Xá (Hoài Đức Hà Nội) Hồ Xuân Đức nói rằng: “Con trâu là loài làm thật ăn giả. Nó chỉ ăn cỏ, ăn rơm, mà làm ra lúa gạo, tiền của nuôi sống con người. Gia đình nào tốt bụng còn lấy bao tải mặc cho nó, rồi căng bạt, đốt lửa sưởi ấm cho nó vào những ngày giá lạnh. Vậy mà con người nỡ giết nó, thì nặng nghiệp lắm”.
Chuyện của ông thủ từ ngôi đền thờ vua Lý Nam Đế cứ rủ rỉ rù rì mà đầy thương xót loài vật nuôi gần gũi với nhà nông. Ông Đức bảo rằng, mấy chục năm nay, ông theo dõi chủ lò mổ trâu, bò, ngựa, những con vật ăn cỏ, là đầu cơ nghiệp của nhà nông và nhận thấy rằng, hầu hết những gia đình đó đều có hậu vận không tốt, gặp họa đến nhiều đời sau nữa. Còn kiếp sau của những đồ tể đó thế nào, thì chỉ có về thế giới bên kia mới biết được.
Rồi ông Đức kể chuyện về ông ba toa H., nhà ở làng Giang Xá, Đức Giang. Ông H. có lò mổ trâu nhỏ, mỗi ngày giết 1 – 3 con. Nghề mổ trâu có từ đời cha ông H. Bố của ông cũng là thợ mổ trâu có tiếng. Bố chết, ông H. nối tiếp nghiệp sát sinh này. Là bạn thân nên ông Đức thường xuyên trò chuyện, tâm tình với ông H. về nghề sát sinh, đặc biệt là sát hại loài trâu. Ông H. làm giàu bằng nghề này, nên không thể nào bỏ được. Nghe khuyên giải nhiều quá, nhiều lần ông H. còn nổi cáu với người bạn thân.
Một hôm cách đây chừng 10 năm, ông H. khi đó ngoài 50 tuổi, ra đền Giang Xá uống nước với ông Đức và mấy cựu chiến binh trong xóm. Vừa thắp nhang trong đền xong, ngồi uống được mấy chén nước, rít điếu thuốc lào, ông H. kêu tức ngực, khó chịu trong người và bảo: “Mấy ông ngồi đây, tôi về nghỉ tí”. Nói rồi, ông H. lững thững đi về. Lát sau, vợ ông H. hớt hải chạy ra đền, mặt mũi xám ngoét: “Các bác vào nhà tôi xem thế nào, ông nhà tôi bị làm sao ấy”.
Xã hội - Giải mã chuyện rùng rợn về 'vật nuôi báo oán'
Ông Đức chạy vào, thấy ông H. nằm bất động trên giường, lay không dậy, gọi không thưa. Lát sau, y tế đến, thì ông H. co giật đùng đùng, rồi hộc máu chết. Ông chết một lúc rồi, mà dòng máu tươi vẫn rỉ ra từ miệng. Nhìn cảnh ấy, ai cũng hãi. Ông H. chết đi, nghe lời khuyên của ông Đức, con cháu dẹp bỏ lò mổ, không theo nghề sát sinh này nữa. Ông Đức kể, ông đã theo dõi một số vụ chết chóc của những người giết mổ gia súc và thấy rằng, rất nhiều trong số họ, dù chết trẻ hay chết già, đều có máu tươi chảy ra đằng miệng.
Câu chuyện về những đồ tể mổ trâu, còn gọi là ba toa, mà ông Hồ Xuân Đức, thủ từ đền Giang Xá kể, khiến tôi tò mò, tìm hiểu về nghề mổ trâu bò. Tôi tìm về ngôi làng có truyền thống mổ trâu bò lâu đời nhất Việt Nam, đó là làng Phúc Lâm ( Hoàng Ninh, Việt Yên, Bắc Giang).
Cả làng sống nhờ … trâu
Từ quốc lộ 1A cũ, rẽ vào đường liên huyện không xa, thì đến làng Phúc Lâm. Ngôi làng khá sầm uất, nhà cửa chen chúc, với cổng làng to tướng ghi rõ: Làng Phúc Lâm. Bước chân vào cổng làng, đủ thú mùi nồng nặc. Mùi thối của phân, khai của nước tiểu, tanh nồng của máu, mỡ, thịt chạy dưới những rãnh nước bốc lên xộc vào mũi. Tôi đang hí hoáy chụp cảnh rãnh nước ô nhiễm thì gặp ông Đỗ Văn Khuyến, phó thôn, từng là chủ lò mổ lớn nhất nhì làng Phúc Lâm, là tay buôn trâu, mổ trâu có hạng.
Ông Khuyến nhiệt tình tiếp đón chúng tôi trong căn nhà xây dựng kiểu cổ bằng gỗ rất đẹp, với đầy đủ sập gụ tủ chè. Tôi hỏi vui: “Chắc nghề buôn trâu mang lại cho đồng chí phó thôn sự giàu có, thịnh vượng?”.
Ông Khuyến xua tay: “Không có đâu nhà báo ạ. Ở làng này vốn cả làng làm nghề mổ trâu, lái trâu. Nhưng nói thật, làm cái nghề sát sinh ấy cũng bạc lắm, chẳng vương tướng gì đâu. Bao năm làm nghề, tôi nhẩm tính, nghề mổ trâu khắp cả nước này, chỉ thấy được vài phần ngàn là khá giả, còn lại đủ sống, đủ ăn thậm chí là thất bại nặng nề. Tôi vốn là thợ có tiếng, nhà có lò mổ to lắm, mỗi ngày giết 10 – 20 con trâu, lại đi buôn trâu xuyên Việt, nhưng nhận ra nghề này bạc lắm, nên tôi chuyển sang mở nhà hàng, cửa hàng cơ khí ngoài phố. Giờ tôi vẫn làm việc liên quan đến con trâu, nhưng chỉ là buôn da trâu thôi. Cả làng bán da trâu cho Trung Quốc, nghĩ mà xót xa, tiếc rẻ. Tôi bán cho họ giá 20.000 đồng một cân da. Nhưng 1 kg da trâu ấy, họ làm ra tấm áo da bán lại cho người Việt mình cả chục triệu đồng, thậm chí cả nghìn USD sang châu Âu. Rồi một bộ da trâu, sau khi chế biến, làm ra bộ ghế da, họ bán với giá cả trăm triệu đồng, đắt gấp mấy lần con trâu cũng là điều khiến tôi xót xa”.
Sau khi phân tích đủ thứ đau xót, tiếc rẻ về nguồn nguyên liệu da trâu, ông Khuyến quay về làng nghề mổ trâu có tiếng cả nước của mình. Làng vốn nằm cạnh ga Sen Hồ, là nơi trọng điểm bắn phá của cả Pháp và Mỹ. Người Pháp đóng chốt ở đây, bắn phá, càn quét làng, nên dân làng thường xuyên phải bỏ xứ đi nơi khác. Cũng chính vì đi nhiều nơi nên học được nhiều nghề, như làm bún, bánh đa, bánh dẻo … Nghề mổ trâu mới có ở làng 100 năm trước. Hai người đầu tiên đưa nghề mổ trâu về làng là ông cụ Đào và ông cụ Chắt người ở Lim (Bắc Ninh) lên đây.
Lò mổ của hai gia đình này phát triển mạnh, thuê mướn nhiều nhân công trong làng, nên dân làng từ đó học được nghề, rồi tự đứng ra lập lò mò, thu mua trâu về làm thịt. Từ hai lò mổ, tăng lên thành năm lò mổ và cứ thế, nghề mổ trâu ở làng Phúc Lâm lan rộng khắp cả làng. Thời kỳ cao điểm, vào thập niên 80 của thế kỷ trước, gần như cả làng Phúc Lâm đều làm nghề mổ trâu. Có tới 90% số hộ dân trong làng làm nghề giết mổ gia súc, cung cấp thịt trâu cho các thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh và hầu hết các tỉnh lân cận.
Làng Phúc Lâm có cả một đội quân lái trâu đi khắp cả nước, từ miền núi đến vùng xuôi, tận trong nam ngoài bắc, sang cả Lào, Campuchia, thậm chí Thái Lan để tuyển lựa, thu mua trâu. Trong những phiên chợ gia súc trên Hà Giang, Lào Cai, dân lái trâu Phúc Lâm còn đông hơn cả lượng đồng bào dắt trâu đi bán. Họ thu gom trâu, dồn lên những chiếc xe tải cỡ lớn chở về làng xẻ thịt.
Giết mổ rùng rợn
Để tận mắt chứng kiến cảnh tượng mổ trâu, 2h sáng trong vai người buôn bán, tôi hòa vào dòng người đông đúc đến làng Phúc Lâm. Ban ngày, làng Phúc Lâm khá êm đềm nhưng nửa đêm về sáng nhộn nhịp như một cái chợ lớn. Hàng trăm người tấp nập ra vào, điện sáng trưng ở các lò mổ. Trâu rống ấm ĩ làng xóm.
Lò mổ nhà anh B., có 5 trâu mộng buộc ở cọc. Chỉ có mỗi vợ chồng anh làm công việc nặng nhọc, nguy hiểm này. Anh B. dắt trâu vào sân, cột chặt lại. Chú trâu ngái ngủ, khuôn mặt ngơ ngác, như thể chưa hiểu chuyện gì sẽ xảy ra với mình. Như lực sĩ, anh vung chiếc vồ thép đập bốp trúng đầu. Con trâu mộng trúng nhát búa, choáng váng ngã khụy xuống nền gạch. Chị vợ đưa cho anh con dao nhỏ xíu, chỉ cỡ hai đầu ngón tay. Đây là dao mổ trâu sao? Cầm con dao nhỏ xíu, anh B. xiên một nhát thật ngọt ở cổ. Máu ồng ộc chảy ra, ngập 2 chiếc chậu lớn, tràn cả ra nền sân. Cảnh tượng quả thực vô cùng rùng rợn.
Cũng vẫn con dao nhỏ đó, anh B. rạch một đường ở cổ. Cứ một tay kéo da, một tay lướt con dao nhỏ rất điệu nghệ, bộ da trâu rất lớn tuột khỏi con trâu, lồ lộ một đống thịt. Anh B. bảo, dưới da trâu có một lớp màng mỡ, không dính liền với thịt, nên lột rất nhanh. Nói không ngoa, có tận mắt chứng kiến mới thấy, thợ mổ trâu ở Phúc Lâm lột da trâu nhanh như lột da gà. Cũng chỉ với con dao nhỏ xíu đó, từng tảng thịt được lóc ra. Đầu, chân, xương lần lượt được tách rời. Tính ra, mất 15 phút, con trâu to tướng chỉ còn lại đống bầy nhầy lòng phèo nằm giữa sân, thịt xương đã thành đống riêng biệt. Con trâu khác được dắt vào. Anh B. lại vung búa …
4h sáng, hàng chục lái buôn trâu đã đổ về lò mổ nhà anh B. Người chất thịt lên xe, người lấy xương, người lấy chân, đầu, gân cơ. Riêng nội tạng cũng có mấy người gom hàng, mỗi người lấy một món riêng biệt. Hàng chục con người vật lộn với đống bầy nhầy, người yếu bóng vía nhìn cảnh tượng máu me này chắc ngất xỉu.
Đại gia đình bỏ nghề vì sợ trâu “báo oán”
Sau khi chứng kiến cảnh sát trâu kinh hãi tôi trở lại gặp gỡ phó thôn Đỗ Văn Khuyến. Ông bảo rằng: “Ngẫm cho cùng, việc mổ trâu quả thục kinh hãi. Bao năm làm nghề, đến lúc cuối đời, tôi mới nhận ra nên bỏ nghề giết mổ này càng sớm càng tốt. Và tôi đã thưc hiện được. Không chỉ vậy, nhiều gia đình ở làng đã bỏ nghề”. Theo ông, thập kỷ 80 của thế kỷ trước, có tới 90% hộ dân dính dáng đến chuyện sát hại con trâu. Tuy nhiên, nghề mổ trâu ngày một mai một. Hiện tại cả làng với 500 hộ dân, chỉ còn cỡ 50 lò mổ. Số lượng trâu bỏ mạng ở làng Phúc Lâm cũng ít hơn xưa.
Theo ông, ngoài việc người ở đây nhận ra rằng, không thể làm giàu bằng nghề mổ trâu, thì có nhiều trường hợp bỏ nghề vì sợ hãi chuyện tâm linh. Những ngày đầu năm, rằm tháng 7, người dân làng đều nô nức lên chùa cúng bái, đốt vàng mã, giải hạn cho gia đình mình. Thế nhưng ở làng, vẫn xảy ra những chuyện không vui, khiến lòng người hoang mang. Ông chỉ nói vậy, chứ ông không dám nêu tên gia đình nào, bởi vấn đề này rất nhạy cảm.
Tìm hiểu ở làng, tôi được biết, có khá nhiều những cái chết bí ẩn ở ngôi làng này. Cõ những cái chết ở gia đình mổ trâu thì người dân liên hệ với chuyện bị oan hồn loài trâu báo oán, song cũng có cái chết liên quan trực tiếp tới con trâu, đặc biệt là bị trâu húc chết, khiến những người cầm dao mổ trâu cực kỳ sợ hãi.
Bi thương nhất trong chuyện bị loài trâu báo oán, phải kể đến gia đình ông K. Chuyện rằng, hai năm trước, ông K. vẫn là chủ lò mổ to nhất làng Phúc Lâm. Mỗi đêm, nhà ông hạ sát 15 - 17 con trâu lớn bé. Đại gia đình nhà oog có 4 người con trai làm công việc này. Người quanh năm suốt tháng lang bạt ở miền núi, để tìm những con trâu ngon, nhiều thịt, thậm chí sang cả Lào, Campuchia để lựa trâu. Hàng chục lái buôn trâu sục sạo khắp nơi mới cung cấp đủ trâu cho lò mổ nhà ông K. Cứ độ 12h đêm, một chiếc xe tải lớn lại chở mười mấy con trâu đến cổng lò mổ nhà ông, Với bề dày mấy chục năm giết mổ, đã có hàng vạn con trâu bỏ mạng tại nhà ông. Cũng vì thế, theo những người hiểu biết về tâm linh, sát khí ở mảnh đất này tỏa ra rất nặng.
Bữa đó, cũng như mọi ngày, chiếc xe tải chở 15 con trâu từ Hà Giang về, đỗ trước cổng lò mổ. Lần lượt từng con trâu bị hại sát. Đến con trâu cuối cùng, thì chuyện lạ xảy ra. Mấy người thay nhau kéo, nhưng con trâu nhất quyết không chịu xuống khỏi thùng xe tải, cứ ghì lại. Tức mình, cả chục người xông vào, trói con trâu lại rồi vần xuống khỏi xe tải. Khi vần trâu xuống khỏi xe, cởi trói, con trâu không chịu đứng lên, mà hai chân trước của nó quỳ xuống như phủ phục. Nó không rống lên, không giãy giụa nữa, nhưng nước mắt ứa ra. Một số người thấy con trâu có biểu hiện như vậy thì ngăn cản việc giết nó. Người làng Phúc Lâm vẫn tin rằng, những con trâu có biểu hiện như thế là có linh tính, tức nó mang linh hồn con người. Những con trâu như thế thường hiền lành, chịu khó cày bừa, thân thiện với con người và những thợ mổ tin vào thế giới tâm linh thường không giết hại nó. Tuy nhiên ông K. không tin vào chuyện đó. Mấy chục năm ông làm nghề, gia đình ông mỗi ngày thêm giàu có, chưa ai bị trâu báo oán, nên ông không tin, không sợ. Sau một lát bàn cãi, thì con trâu này cũng toi mạng.
Điều kinh dị như dự đoán xảy ra ngay khi giết hại con trâu có linh tính này. Con trâu bị sát hại vào tháng 2 thì đến tháng 4 người con trai của ông sinh năm 1968 tự dưng lăn đùng ra chết. Điều lạ lùng là anh này không theo nghề mổ của gia đình. Được ăn học tử tế, anh này tạo lập cuộc sống ở nơi khác. Bình thường, anh cũng không có bệnh tật gì cả. Thế nhưng, một hôm, đang ngồi xem ti vi trong nhà, anh đột nhiên kêu mệt nên vào giường ngủ. Nửa đêm, anh lên cơn co giật. Gia đình đưa đi bệnh viện nhưng không cứu được.
Cái chết của anh khiến gia đình hoang mang. Bà vợ ông đi xem bói, thầy phán rằng gia đình bị một oan hồn báo oán. Lúc này, gia đình ông mới liên hệ đến việc giết hại con trâu nọ. Khi trình bày điều này, ông thầy bói khẳng định chắc chắn là do linh hồn con trâu báo oán. Vợ ông cũng bái ghê lắm, sắm đủ các loại lễ, tốn kém hàng trăm triệu đồng. Thậm chí, bà K. mời cả giá đồng về nhà cúng giải hạn, siêu thoát cho linh hồn con trâu.
Thế nhưng, sự cố gắng của bà K. không mang lại hiệu quả. Thời gian ngắn sau đó, một người con nữa của ông bà đột nhiên trở nên ốm yếu. Anh này vốn rất khỏe mạnh, mổ trâu nhanh thoăn thoắt, giỏi nhất nhà, nhưng cơ thể cứ ốm yếu dần. Gia đình đưa đi khắp các bệnh viện điều trị nhưng không hiệu quả. Thời gian ngắn sau đó thì anh trút hơi thở cuối cùng. Gia đình giữ bí mật, nên hàng xóm không ai biết anh chết vì nguyên do gì. Vậy là, tin đồn bị oan hồn con trâu báo oán lại lan ra, khiến cả làng sợ hãi.
Đỉnh điểm của nỗi sợ hãi là cái chết của cô con gái út. Cô con gái út của ông đang học ở Hà Nội. Gia đình giàu có, cô được đi học tử tế, không dính dáng gì đến công việc giết mổ trâu bò. Thế nhưng, theo lời đồn, thì linh hồn con trâu sẽ giết hại những người quan trọng nhất của gia đình. Hồi giữa năm 2012, trên đường từ Hà Nội về thăm nhà, đang lái xe máy, thì chiếc xe tải mất phanh đâm thẳng vào cô. Gia đình đến nhận xác con gái thì bàng hoàng khủng khiếp. Cô con gái út xinh đẹp, giỏi giang, mà giờ chỉ còn nhận ra qua chiếc áo.
Sự việc chết chóc liên quan đến với gia đình ông K., khiến ông không thể không để tâm đến những lời đồn đại của dân làng, lời khuyên can của … thầy bói. Gia đình ông đã đi làm lễ ở rất nhiều nơi, gặp rất nhiều thầy bói và đều nhận được lời khuyên như nhau, là gia đình cần phải làm lễ cầu siêu cho loài trâu, làm lễ giải hạn cho gia đình và bỏ ngay nghề giết mổ. Chỉ trong hai năm, gia đình ông K. mất 3 mạng người, quả là một mất mát quá lớn.
Bao năm mổ trâu, thu về bao nhiêu tiền bạc, cũng không bù lại được những mất mát khủng khiếp như thế. Đến lúc này, ông và những người con của mình, không còn đủ dũng cảm cầm búa đập chết loài trâu và lột da, moi bụng chúng nữa. Đại gia đình nhà ông đã quyết tâm bỏ nghề. Thậm chí những người con dâu, vốn chỉ làm nghề buôn da, đổ mối thịt trâu cũng bỏ luôn nghề. Cứ ngày rằm, mùng 1, gia đình lại đến chùa Phúc Lâm tụng kinh, gõ mõ, nhờ thầy cúng bái giải hạn.
Sau sự việc khủng khiếp ấy, không chỉ gia đình ông K mà mấy hộ gia đình ở cạnh cũng sợ hãi, đóng cửa luôn lò mổ trâu. Chuyện khủng khiếp này có thể do trùng hợp ngẫu nhiên nhưng có lẽ bị ám ảnh cái nghề sát sinh quá đỗi ghê rợn ấy nên nhiều người ở Phúc Lâm cứ vin vào là do trâu báo oán khiến nhiều người thêm phần sợ hãi, hoang mang.
Theo Gia đình & Cuộc sống

'100 cung nữ báo oán' suối Giải Oan

10:32 06/03/2013

Trong vô vàn những câu chuyện bí ẩn, khó tin thì chuyện ở suối Giải Oan khiến không ít người phải rùng mình sợ hãi.

Đầu năm, Phật tử khắp cả nước nô nức rủ nhau hành hương về cõi Phật Yên Tử. Yên Tử không chỉ là đệ nhất danh thắng mà còn là dãy núi của tâm linh, vì thế, nơi đây có vô số chuyện kỳ bí cũng là điều dễ hiểu.
Trong vô vàn những câu chuyện bí ẩn, khó tin thì chuyện ở suối Giải Oan khiến không ít người phải rùng mình sợ hãi. Cái chết của 100 cung nữ khi xưa đã biến con suối thành chốn tâm linh với hàng trăm câu chuyện kỳ lạ được thêu dệt.
Người xưa đòi của?
Một ngày giữa năm 2007, khi đang lang thang ở suối Giải Oan, ông Lê Quang (phó giám đốc trung tâm quản lý Di tích – Danh thắng Yên Tử) gặp một cảnh tượng khá lạ: mấy chục người phụ nữ vừa quỳ lạy, vừa khóc bên bờ suối. Có người chấp tay với nén hương nghi ngút khói vái lấy vái để.
Thấy lạ, ông Quang liền tìm gặp tài xế chở những người phụ nữ này hỏi chuyện. Anh tài xế kể rằng, hồi đầu năm 2007, anh chở 50 chị em thuộc hội phụ nữ ở một phường của thành phố Lạng Sơn về trẩy hội Yên Tử. Cuối buổi hành hương, chị em làm lễ ở chùa Giải Oan xong thì kéo nhau ra miếu Bạch Mẫu Giải Oan để cúng bái. Xong xuôi, chị em kéo nhau xuống suối Giải Oan rửa chân, rửa tay.
> Đọc thêm: Mai táng trinh nữ để trông coi mộ Hán 
Lạ & Cười - '100 cung nữ báo oán' suối Giải Oan
Suối Giải Oan ở Yên Tử.
Suối Giải Oan ở Yên Tử.
Lúc về, mỗi người nhặt vài hòn cuội cho vào túi và đinh  ninh rằng, trong mỗi hòn cuội đều ẩn chứa linh hồn các cung nữ, nên dùng sỏi cuội này kỳ cọ thân thể, sẽ khiến da dẻ trắng đẹp, mịn màng chả khác gì … cung nữ thời Trần. Thấy vậy, anh tài xế cũng nhảy xuống nhặt vài viên về làm kỷ niệm.
Vợ anh thấy ông chồng bày mấy cục sỏi trên tủ thì mắng dở hơi. Nhưng khi anh kể chuyện dùng sỏi kỳ cọ, da dẻ sẽ hồng hào mịn màng như cung nữ thì cô vợ cũng lôi ra dùng khi tắm.
Ngay sau hôm vợ anh tài xế dùng hòn sỏi, chị vợ anh này hoảng hồn bảo rằng, cả đêm hễ cứ nhắm mắt là lại mơ thấy những cung nữ xinh đẹp với màu áo trắng, làn da trắng muốt, nhìn chị bằng đôi mắt giận dữ và hét lên: “Trả đá cuội cho ta”. Sau nhiều đêm gặp ác mộng, chị này không dùng để tắm nữa mà đặt viên đá ngay ngắn trên nóc tủ.
Vài hôm sau, doanh nghiệp vận tải gọi anh lái xe này lên và phân công chở 50 người phụ nữ ở phường nọ về lại Yên Tử. Lúc lên xe, anh mới kinh hoàng khi biết rằng, 50 phụ nữ từng lấy đá cuội ở Yên Tử về kỳ cọ cơ thể, đều gặp những chuyện khác thường.
Anh này lập tức gọi điện cho vợ thắp nhang rồi mang ngay những viên đá cuội ra công ty để anh ta mang trả lại Yên Tử. Suốt hành trình 4 tiếng đồng hồ từ Lạng Sơn về Yên Tử, anh tài xế được nghe 50 chuyện kinh hãi từ chị em phụ nữ. Tựu chung lại, chị em nào cũng gặp ác mộng. Sau nhiều ngày mất ngủ, ai cũng phờ phạc, lo lắng …
Đến Yên Tử, việc đầu tiên của chị em là tìm lên chùa Giải Oan cúng bái. Sau đó chị em vội mang đá cuội ra suối Giải Oan, vái lạy khẩn thiết, cầu xin các “cung nữ” tha mạng và xin được trả lại vật thiêng.
Doanh nghiệp liêu xiêu vì xẻ đá suối Giải Oan?
Sư Yến (trụ trì chùa Giải Oan) dẫn tôi ra nơi đặt tấm bia ghi danh những người công đức xây dựng chùa Giải Oan. Dưới tấm bia đó là hàng chục phiến đá được cắt xẻ, gọt giũa kỹ càng rồi nói: “Không ai có thể lấy bất cứ thứ gì ở suối Giải Oan nếu như Bạch Mẫu chưa cho phép. Nhiều doanh nghiệp, cá nhân sau khi cúng ở chùa Giải Oan, miếu Bạch Mẫu Giải Oan thì lấy một mảnh đá về, thường là để làm bát hương, mái đao trên nóc mộ, cột trụ công trình thờ tự với mong muốn được Bạch Mẫu Giải Oan, tức là các cung nữ phù hộ. Tuy nhiên tất cả những người lấy đá ở suối đều phải trả lại”.
Chỉ vào một phiến đá có khắc dòng chữ: Tòa nhà trung tâm triển lãm quốc tế H., sư Yến nói, chủ nhân của tòa nhà này là một đại gia ở Hải Phòng. Hồi năm ngoái, sau khi cúng bái ở chùa Giải Oan, vị đại gia này đã xin phép sư Yến cho lấy một tảng đá ở suối mang về. Sư Yến đã ra sức can ngăn song vị đại gia này không nghe. Sau khi làm lễ ở miếu Bạch Mẫu Giải Oan, anh này xuống suối tự tay lựa một tảng đá to cỡ cái thúng và chở về Hải Phòng.
Thời điểm đó, vị đại gia này vừa hoàn thành tòa nhà lớn cao hàng chục tầng giữa trung tâm thành phố Hải Phòng và xẻ phiến đá kia làm tấm bảng khắc tên tòa nhà, dự tính sẽ ốp ở ngay cổng. Hôm chuẩn bị xẻ khối đá, vị đại gia này còn thuê một ông thầy cúng bái, yểm tâm ghê lắm. Thế nhưng chừng 10 tháng sau, vị đại gia này cùng gia đình và một số cán bộ chủ chốt của doanh nghiệp tìm đến suối Giải Oan với khuôn mặt phờ phạc, méo xệch.
Theo anh ta, từ khi mang khối đá về, đêm nào anh ta cũng nằm mơ thấy các cung nữ, mặc quần áo trắng đòi lại khối đá. Tuy nhiên, sự việc không chỉ dừng lại ở giấc mơ đó. Từ ngày mang khối đá về, doanh nghiệp của đại gia này khủng hoảng trầm trọng. Một số cán bộ trực tiếp tham gia vào việc khênh tảng đá ở suối Giải Oan về toàn gặp việc xui xẻo, trục trặc trong cuộc sống, gặp tai nạn.
Đến lúc thấy việc làm ăn thất bại thảm hại, vị đại gia này mới kiếm một thầy bói nổi tiếng đất Cảng. Vị thầy bói này hỏi rằng: “Anh có lấy thứ gì của chùa chiền, miếu mạo không?”. Vị đại gia kia toát mồ hôi khi nghĩ đến hành động khênh khối đá từ suối Giải Oan về. Kế đó, ông thầy bói kia đề nghị đại gia trả lại khối đá ngay lập tức. Bữa đó, vị đại gia làm mấy mâm lễ rất lớn, với cả xe tải chở vàng mã nhờ sư Yến làm lễ trả lại đá …
Không có ma quở suối Giải Oan
Khu vực quanh suối Giải Oan chỉ có 4 người sinh sống gồm sư Yến, trụ trì chùa Giải Oan và gia đình gồm 3 thành viên của chị Nguyễn Thị X., thuê một gian nhà nhỏ của trung tâm quản lý di tích – danh thắng Yên Tử để bán hàng. Theo lời chị, du khách đến suối Giải Oan đều mang nhiều tâm sự. Nhiều cô gái có hoàn cảnh éo le như trót mang bầu bị ruồng bỏ, mắc trọng bệnh… ngồi bên suối Giải Oan khóc lóc, tâm sự như thể đang nói chuyện với các cung nữ hiện diện trước mặt.
Về lời đồn cung nữ báo oán những người lấy đá sỏi, chị bác bỏ hoàn toàn. Chị bảo: “Cuộc sống mỗi người không ai trọn vẹn cả. Gặp hạn thì lại đổ cho lấy đá, oan cho các cung nữ lắm. Cung nữ giờ được phong là Bạch Mẫu chứ có phải oan hồn vất vưởng đói ăn đâu mà hại người lành. Tôi ở đây thấy người lấy đá thì nhiều, nhưng thỉnh thoảng mới có người trả lại. Những người trả lại đá cuội chắc là gặp vận đen trong cuộc sống thôi”.
Về lời đồn người dân quanh vùng kể vẫn nghe thấy tiếng khóc, tiếng kêu của con gái phát ra ở suối Giải Oan giữa lúc canh khuya, chị cũng bác bỏ. Chị bảo, hồi mới về đây sinh sống, vợ chồng đang ngủ, bỗng nghe thấy tiếng khóc ai oán. Chồng chị là người bạo dạn nên đã mang đèn pin ra suối xem xét tình hình. Hóa ra, tiếng khóc đó chỉ là tiếng kêu của mấy con mèo động đực ở suối Giải Oan.
Chị tin rằng, linh hồn các cung nữ luôn bảo vệ người hiền, người bị oan trái, người yếu đuối. Vì thế, người dân quanh vùng hễ gặp chuyện buồn, chuyện oan đều tìm đến miếu Bạch Mẫu tâm sự, trút bỏ nỗi lòng.
Theo Gia đình & Cuộc sống

Mất mạng oan uổng vì muốn ra tay 'nghĩa hiệp'

10:15 04/03/2013

Đang chuyển giúp cho người anh họ vật liệu xây dựng, thấy một người cùng xóm đuổi đánh một nam thanh niên nên K. đã chạy lại để "can ngăn".

Tuy nhiên, thay vì giảng hòa được cuộc mâu thuẫn đó, bất ngờ K. thấy nhói ở dưới bụng rồi từ từ gục xuống...
Mâu thuẫn nhỏ, hậu quả lớn
Vụ án đã xảy ra gần một tuần nay nhưng đến thời điểm này, dư luận xã Đại Cương, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam vẫn bàn tán xôn xao bởi nạn nhân là  Dương Văn K. (SN 1990) và hung thủ Dương Văn Tuấn (SN 1994) đều là những người địa phương. Qua tìm hiểu được biết, vụ án mạng chiều 22/2 vừa qua bắt nguồn từ một mâu thuẫn khá nhỏ nhặt.
Theo đó, khoảng 14h45’, anh Dương Văn Q. (SN 1975) ở xóm 1, xã Đại Cương đang trên đường ra thị trấn Đồng Văn thì bắt gặp một tốp thanh niên đi xe máy, phóng với tốc độ rất nhanh. Mặc dù đã nép sát vào bên đường, anh Q. vẫn dính phải nước bẩn té lên từ một thanh niên khi phóng xe vượt lên. Thấy vậy, anh Q. cất tiếng chửi, nam thanh niên kia cũng chửi lại và còn lớn tiếng thách thức. Quá bực tức nên anh Q. quay xe lại đuổi theo tốp thanh niên, đồng thời tìm bằng được kẻ đã té nước và dám cả gan thách thức mình.
Pháp luật - Mất mạng oan uổng vì muốn ra tay 'nghĩa hiệp'
Chân dung hung thủ Dương Văn Tuấn.
Đuổi đến nhà ông Dương Văn Ch. ở xóm 2, lúc này anh Q. thấy có rất nhiều thanh niên đến chơi chuẩn bị tiễn con trai ông Ch. lên đường nhập ngũ. Quan sát một lúc, anh Q. đã nhận ra Dương Văn Tuấn và gọi ra ngã 3 của xóm 2 để nói chuyện cho "đến đầu, đến cuối". Nhưng thay vì nhận lỗi với người lớn tuổi hơn mình, ngược lại Tuấn lại tiếp tục đôi co thách thức.
Không nhịn được nữa, anh Q. đã lao vào đấm đá, do yếu thế hơn nên Tuấn đã phải bỏ chạy. Với ý nghĩ phải dạy cho "thằng oắt con" một bài học nên anh Q. vẫn tiếp tục đuổi đánh. Đúng lúc này, anh Dương Văn K. đang đẩy xe cát ở gần đó, thấy hai người đang xô xát nên chạy lại xem có chuyện gì. Tuy nhiên không hiểu vì lý do gì mà anh K. đã bị đối tượng Tuấn rút dao đâm một nhát vào vùng bẹn trái. Mặc dù đã được gia đình và người thân đưa đi cấp cứu nhưng do mất quá nhiều máu, anh K. đã tử vong.
Trao đổi với PV, ông Đỗ Văn Ký - trưởng công an xã Đại Cương cho biết: "Nhận được tin báo, chúng tôi đã xuống ngay hiện trường. Do quá hoảng sợ nên sau khi gây án, Tuấn đã chạy sang nhà anh Đ. cách nơi hắn gây án khoảng 50m, khóa trái cửa cố thủ trong nhà. Hàng trăm người dân của xóm 2 đang tìm mọi cách đưa đối tượng Dương Văn Tuấn ra ngoài để "xử lý".
Sự việc trở nên căng thẳng hơn khi những người này biết được tin anh K. đã tử vong nên họ càng quyết tâm với suy nghĩ "nợ máu phải trả bằng máu". Phải khó khăn lắm lực lượng công an xã mới len được vào bên trong. Đề phòng sự việc bất trắc xảy ra, tôi đã phải lấy chiếc còng số 8 khóa bên ngoài và đứng trước cửa không cho người dân phá khóa. Chỉ đến khi lực lượng Cảnh sát 113 công an tỉnh Hà Nam được điều động xuống hỗ trợ, việc vây bắt đối tượng Tuấn mới hoàn thành. Được biết vào năm 2011, đối tượng Dương Văn Tuấn đã từng bị ban công an xã Đại Cương xử phạt hành chính với hành vi gây rối trật tự công cộng tại địa phương.
Pháp luật - Mất mạng oan uổng vì muốn ra tay 'nghĩa hiệp' (Hình 2).
Ông Đỗ Văn Ký-  Trưởng công an xã Đại Cương trao đổi với PV về vụ án mạng đặc biệt nghiêm trọng vừa xảy ra trên địa bàn.
"Mơi, cứu con với!"
Tìm đến nhà của đối tượng Tuấn ở xóm 4, dù đã gần một tuần sau khi đứa con thứ hai của vợ chồng chị H. (SN 1971) gây ra cái chết cho anh K. nhưng trên khuôn mặt của họ vẫn còn lộ rõ căng thẳng. Chị H. kể, học hết lớp 9 do lực học yếu nên Tuấn đã không thi tiếp vào cấp 3 mà ở nhà giúp đỡ bố mẹ. Kinh tế khó khăn nên sau khi xong mùa vụ, vợ chồng anh chị cùng hai cậu con trai khăn gói lên Sơn La tìm việc làm thêm.
Thường ngày Tuấn là một người hiền lành, không ham chơi bời, làm được đồng nào đều đưa cho bố mẹ đồng nấy. "Hôm mùng 10 Tết (19/2), gia đình tôi lại khăn gói để lên Sơn La, thì cháu nó có nói: "Mấy đứa bạn con chuẩn bị lên đường nhập ngũ, bố mẹ cho con ở lại vài ngày chơi với chúng nó, xong con sẽ lên ngay". Nghe con nói vậy, vợ chồng tôi cũng an tâm bởi dù sao ở nhà vẫn còn bà nội. Ấy vậy mà khi nghe tin dữ, vợ chồng tôi rụng rời cả chân tay. Giá như tôi không cho cháu ở nhà thì đâu đến nông nỗi này" - chị H. cho biết.
Chị H. nhớ lại: "Khoảng 15h ngày 22/2, tôi nhận được điện thoại của cháu. Chưa kịp hỏi chuyện gì thì cháu nó đã mếu máo: "Mẹ ơi cứu con với! Con đâm thằng Nông Vụ rồi!" (Dương Văn K. ở xóm 2 làng Nông Vụ - PV). Cứ tưởng cháu bị va chạm xe máy nên tôi hỏi: "Người ta có bị xây xát gì không, xe cộ hỏng hóc thế nào?".
Cháu nó nói: "Tại người ta đánh con nên con đã rút dao đâm một nhát để họ khỏi đánh, mà hình như người đó chết rồi mẹ ạ. Giờ người dân ở đây đang vây đánh con, con sợ quá!". Sau đó, cháu nó tắt máy". Anh Kh. cũng cho biết, sau khi biết tin con mình gây ra án mạng, hai vợ chồng đãä quay trở về nhà ngay và đến nhà nạn nhân để tạ lỗi. Đến thời điểm này, anh Kh. cũng chưa thể biết được chính xác tại sao Tuấn lại đâm chết anh K..
Tìm đến nhà nạn nhân đúng vào lúc ông bà Ph.  đang cúng cơm trưa cho đứa con đầu xấu số của mình. Sự ra đi đột ngột của K. đã làm cho vợ chồng ông bà Ph. như qụy ngã. Bởi từ lúc nhận được tin K. tử vong, bà Ph. đã ngất lịm còn ông Ph. chỉ ngồi im một chỗ nuốt nước mắt vào trong chẳng nói thành lời. Chính vì thế việc lo hậu sự cho K. phải nhờ cậy vào họ hàng làng xóm.
Nhìn vào di ảnh  cậu con trai, bà Ph. thổ lộ: "Từ trước đến nay, chưa bao giờ em nó gây gổ, ngổ ngáo với ai ở địa phương. Tôi bị gai đôi cột sống, ông nhà tôi cũng ốm đau liên miên nên mọi công việc hàng ngày đều do K. gánh vác. Nhà có 6 sào ruộng, em nó cũng thay vợ chồng tôi thu vén. Vậy mà tai hoạ từ đâu lại trút xuống đầu nó, cứ nghĩ đến con mà đau xót quá các chú ạ!".      
Nói về nguyên nhân tại sao anh K. lại bị đối tượng Tuấn đâm chết, trong khi đó mục đích của anh K. chỉ vào can ngăn? Ông Đỗ Văn Ký _ Trưởng công an xã Đại Cương phỏng đoán: "Rất có thể trong lúc can ngăn, giữa K. và Tuấn đã xảy ra xô xát và trong lúc yếu thế, Tuấn đã rút dao đâm loạn xạ? Không may cho anh K., vết đâm này đã trúng động mạch chủ gây mất máu cấp dẫn đến tử vong. Hiện vụ án đang được công an tỉnh Hà Nam điều tra làm rõ". 
Đào Giang

Cha giết con - oan thấu trời xanh!

02/05/2013 08:37 GMT+7

TT - Vừa nhìn thấy cha đứng trên bậc thềm, thằng Tuyền đã vội quỳ xuống bò từ đầu cổng vào tới trong nhà lạy cha nó. Nó vừa được biết cha nó (ông Phạm Văn Thành, sinh năm 1946, ấp Ninh Hòa, xã Hòa Tịnh, huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang) đã vì nó mà phải chịu oan khuất đến suýt mất mạng. Trước sự chứng kiến của hàng xóm, hai cha con nhìn nhau khóc ồ ồ.

jBdOse3u.jpg
Ông Phạm Văn Thành nhớ lại những ngày chịu án oan trong tù - Ảnh: Nguyễn Ngọc
Mất con, mất hết
Ngày 17-9-1989, cái ngày định mệnh xe đò lục tỉnh đậu đầy lộ. Họ đổ về khu vườn nhà ông Thành để tận mắt nhìn thấy gương mặt “người cha nhẫn tâm” giết hại con mình.
Sáu bảy chục cái hố to nhỏ được đào lỗ chỗ khắp vườn để tìm thi thể thằng bé. Nhưng mọi sự tìm kiếm đều không mang đến kết quả bởi “con tôi chưa chết, nó là con tôi, dù có nhẫn tâm đến đâu tôi cũng không thể giết chết con mình”.
Ông Thành bắt đầu câu chuyện oan trái đầy nước mắt của mình bằng buổi công an đến nhà bắt mình vì tội giết con như thế.
Chuyện bắt đầu khi thằng Tuyền, đứa con khờ khạo của ông Thành, bỗng nhiên mất tích. Đang trong lúc bối rối, tìm con không được, chưa biết thằng nhỏ lành dữ ra sao thì công an tới nhà nói tin sét đánh. Họ tình nghi ông Thành đã tự tay giết chết đứa con ruột rồi chôn xác trong vườn.
Ông Thành bàng hoàng trước lời buộc tội vô căn cứ. Ông xin được đi tìm con với thời hạn một tuần. Thời gian cứ trôi qua mà thằng Tuyền con ông vẫn bặt vô âm tín. Thời hạn một tuần đã hết, ông Thành quay về nhà và bị bắt bởi tội vu khống, chống người thi hành công vụ và hủy hoại tài sản công dân. “Tuy nhiên, đối với tất cả những người trong xóm, tôi đã bị bắt vì tội giết người” - ông Thành chua chát nói.
“Lúc ấy tôi một mực kêu oan nhưng không ai chịu nghe tôi” - ông Thành xúc động.
“Người ta bắt tội phạm thì phải có giấy nọ giấy kia. Còn tôi bị bắt trong mơ hồ. Tôi chẳng biết mình đi tù vì chuyện gì cả... thật vô lý” - ông kể.
Sau khi bị bắt, ông Phạm Văn Thành được đưa về nhà giam huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang: “Bước vào ngục tối, tôi như bước vào một cơn ác mộng. Nhà giam nằm sâu trong một cánh đồng hoang. Giữa chốn này dù có oan khuất đến đâu thôi cũng đành chịu chết. Nhà giam được thiết kế đặc biệt cao chưa đầy 1m, nền nhà đóng đầy rong rêu”.
Đang ở sức làm, công việc thuận lợi, ông Ba Thành phải bỏ cả trang trại nuôi dê hàng trăm con lớn nhỏ để vào tù và trở thành tội phạm.
Khó khăn về vật chất thì cũng ráng cố gắng, nhưng 13 tháng trong phòng biệt giam ông không thể nhớ nổi mình đã sống cơ cực như thế nào. “Tôi có một linh cảm thật mãnh liệt là con tôi chưa chết. Nhiều lần trong trại chết đi sống lại, cơ cực không biết đường nào mà lần”.
Sức khỏe sa sút quá, ông Thành được chuyển ra bệnh viện. Sau hai tuần được điều trị trong bệnh viện ông chỉ còn 37kg và được bảo lãnh tại ngoại.
Trở về nhà với hai bàn tay trắng, hàng xóm ai cũng nói ông giết con mà phải đi tù. Ngày bị bắt Ba Thành còn khỏe mạnh gánh vác hầu hết việc nặng nhọc trong nhà, nhưng khi ra tù thì sức khỏe của ông gần như suy kiệt. Nhà cửa tan tác, tiêu điều, dê mẹ dê con đều không còn thấy bóng.
Lúc này tài sản trong nhà chỉ còn lại bốn bức tường, nhà cũ xây chưa hoàn thiện. Tuy nhiên, Ba Thành không vì thế mà tuyệt vọng. Ông quyết tâm làm lại từ đầu nhưng do ngồi tù quá lâu hai chân của ông đi lại khó khăn nên không thể làm việc nặng.
Lao động chính trong gia đình lúc này là vợ ông. Vài mớ lá khô nhặt nhạnh thu vén thật khéo vợ ông cũng chỉ có thể lo liệu rau cháo nuôi chồng và hai con nhỏ, cuộc sống cơ cực nhưng gia đình được sum họp gần nhau.
Đứa con trở về
Ông Phạm Văn Thành bị bắt ngày 17-9-1989 sau đúng một tháng UBND xã Hòa Tịnh (Chợ Gạo, Tiền Giang) vào lập biên bản kê biên tài sản của đương sự Phạm Văn Thành với lý do tình nghi đương sự giết con trai là Phạm Thanh Tuyền. Với cam kết khi nào ông Thành tìm thấy con thì sẽ trả lại số tài sản đã kê biên. Không tìm được con, ông Thành bị bắt bởi tội vu khống cán bộ, chống người thi hành công vụ và hủy hoại tài sản công dân.
Trong suốt quá trình bị tạm giam và điều tra, ông lại bị hỏi về việc con trai mình bỗng nhiên mất tích, cơ quan điều tra đã đào hàng trăm hố trong vườn nhà ông để tìm thi thể đứa con trai nhưng không thấy.
Ngày 25-8-1990 vụ án được đình chỉ nhưng đến năm 1995 ông Thành lại bị bắt tạm giam thêm 5 tháng, cải tạo lao động cho ba tội danh trên.
Ngày 7-6-2004 ông Thành được công nhận oan sai theo quyết định số 622/QD-GQKN (7-6-2004) của giám đốc Công an Tiền Giang.
Mang tiếng giết con nên Ba Thành bị nhiều người khinh rẻ xem thường, nhiều người nhìn ông với con mắt dè bỉu, kinh tởm.
Ngày ấy nghe tin thầy giáo qua đời dù hai chân rất yếu, phải dùng nạng khá vất vả mới tới được nhà thầy vì chỉ muốn thắp cho thầy một nén hương tỏ lòng thành kính, nhưng con của thầy không muốn ông vào: “Ngày xưa Thành là học trò ngoan nhưng bây giờ Thành là kẻ giết người”.
“Linh hồn thầy chứng giám, tôi không giết con tôi” - ba Thành lủi thủi ra về mà lòng nặng trĩu... Lại có lần vào một dịp đi đám cưới, giữa đám đông có người say rượu chỉ thẳng vào mặt ông nói: “Thằng này là tội phạm giết người, coi chừng nó gây án”.
Lòng ông quặn đau như có hàng trăm vết dao cứa. Ba Thành buồn nhưng không cách nào để minh chứng được.
Trong lúc mọi ý nghĩ xấu xa, những ánh nhìn khinh bỉ của mọi người đều ném về người cha tội nghiệp cùng mọi hi vọng dường như đã tắt thì ngay lúc ấy “đứa con bị giết” của ông Thành đột ngột trở về.
Vừa nhìn thấy cha đứng trên bậc thềm, thằng Tuyền đã vội quỳ xuống bò từ đầu cổng vào tới trong nhà lạy cha nó. Nó vừa được biết cha nó đã chịu oan khuất đến suýt mất mạng. Trước sự chứng kiến của hàng xóm, hai cha con nhìn nhau rưng rưng nước mắt.
Sau giây phút gặp nhau mừng mừng tủi tủi, thằng Tuyền kể: “Ngày ấy có người kêu con đi làm ở Mộc Hóa rồi cho ruộng, cho trâu đặng lấy vợ nhưng mãi không thấy. Ở trên ấy đói khát, nhớ nhà nhưng lại không có tiền đi xe, tuyệt vọng rồi con tìm cách tự tử nhưng may mà không chết, được người ta cho tiền nên con về đây”. Câu chuyện của hai cha con làm nhiều người bàng hoàng xúc động.
Chỉ đến khi thằng Tuyền trở về nhà, ông Thành mới xóa được cái tiếng giết con ở địa phương.
Trải qua những việc quái dị ấy, với vẻ mặt thật buồn ông than: “Không biết tôi sinh ra vào giờ nào mà sao lại khổ nhiều đến thế. Ở nhà được mấy năm thì ngày 18-4-1995 tôi bị bắt đi cưỡng bức lao động ở Mỹ Phước thêm năm tháng cho hành vi vu khống và chống người thi hành công vụ. Nhưng khi hỏi tôi vu khống ai và vu khống như thế nào thì không ai có thể trả lời cho tôi được rõ”.

Nỗi oan thấu trời xanh: Tại sao cô gái đẹp chết mà cả vùng gặp tai ương?


“Cảm thiên động địa Đậu Nga oan” (nỗi oan của Đậu Nga cảm động cả đất trời) lấy nguyên mẫu từ vụ án lịch sử “thiên cổ kỳ oan” của nàng Chu Thanh, sống ở vùng Đông Hải thời nhà Hán. Bởi ảnh hưởng chấn động vào thời bấy giờ, nên vụ án này được ghi chép trong “Liệt nữ truyện”, về sau trở thành nguồn cảm hứng cho Quan Hán Khanh viết nên kiệt tác này.
Chuyện kể về nàng Đậu Nga, người ở vùng Sở Châu sống vào thời nhà Nguyên. Nàng được người đời ca ngợi là người con có hiếu, từng phải bán mình để có tiền chữa bệnh cho cha; rồi sau về nhà chồng lại là con dâu thảo, hết lòng phụng dưỡng mẹ già.
Nhưng bi kịch của nàng cũng bắt đầu từ đây…
Theo tập tục “xung hỷ” của người Trung Hoa, người ta tin rằng cưới vợ cho con trai đang lâm bệnh nặng sẽ giúp bệnh tình được thuyên giảm. Bởi vậy mà Đậu Nga dẫu còn nhỏ tuổi nhưng vẫn được Thái Bà mua về làm con dâu. Thế nhưng chưa đầy 2 năm, cậu con trai của Thái Bà qua đời, trong nhà chỉ còn lại Đậu Nga và bà góa họ Thái sống nương tựa vào nhau.
Tấm lòng thơm thảo của nàng thì cả vùng Sở Châu không ai không hay biết. Nhưng cuộc đời lắm nỗi can qua, nàng bị cha con nhà họ Trương vu oan tội giết người. Tri phủ Sở Châu đã bức cung để bắt nàng nhận tội. Đậu Nga dẫu bị đánh chết đi sống lại vẫn một mực kêu oan. Vì biết nàng rất hiếu thuận với mẹ chồng, tên tham quan lại đem Thái Bà ra đánh đập trước mặt nàng. Đậu Nga thương Thái Bà tuổi cao sức yếu, không thể chịu đựng nổi cực hình, nên đành chịu nỗi oan mà nhận tội.

(Ảnh minh họa: Đại Kỷ Nguyên Đài Loan)

Thiện ác nếu không báo, càn khôn tất vị tư!

Nàng Đậu Nga hàm oan bị giải ra pháp trường. Trước lúc hành hình, nàng ngửa mặt lên trời than rằng:
“Xin hãy ban cho tôi một mảnh lụa trắng dài ba thước treo lên một cây sào cao trăm thước. Nếu tôi bị oan, thì một giọt máu nóng cũng không rơi xuống đất mà sẽ bắn lên trên dải lụa trắng kia; Nếu tôi bị oan, thì trời sẽ giáng tuyết dày ba thước đắp lên thi thể tôi; Và nếu như tôi bị oan, sau khi tôi chết đi, vùng Sở Châu này sẽ hạn hán trong suốt 3 năm liền”.
Tham quan phủ Sở Châu lắc đầu lia lịa, chế giễu: “Thật là ngu muội! Hoang đường!”, lòng nghĩ thầm: “Mùa hè tháng 6 oi bức như thế này sao lại có tuyết rơi được chứ? Xưa nay người ta chỉ thấy máu chảy xuống đất, ta lại muốn xem thử máu bay lên trời thế nào đây?”. Thế là ông lệnh cho treo một dải lụa trắng dài ba thước lên cây sào cao.

(Ảnh minh họa: Soundofhope)
Có câu nói rằng: “Thiện ác nếu không báo, càn khôn tất vị tư!” Khi tên đao phủ vừa vung đao xuống, dòng máu của Đậu Nga như một kỳ tích đã bắn lên dải lụa treo giữa không trung, ngay cả một giọt cũng không rơi xuống đất. Sau đó, quả nhiên lời thề thứ hai cũng ứng nghiệm: trời nổi gió lớn, rồi tuyết rơi giữa tháng 6 mùa hè. Trong suốt 3 năm sau đó, cả vùng Sở Châu cũng lâm vào hạn hán, hoa màu khô héo, người dân trong vùng đều biết rằng nỗi oan của Đậu Nga đã thấu tận trời xanh.
Nhiều năm sau, khi cha của Đậu Nga đã thi đỗ bảng vàng, vinh quang hiển hách, ông trở về Sở Châu phúc thẩm lại vụ án và trừng trị những ác nhân phạm tội. Bà con đầu làng cuối xóm lũ lượt kéo đến thăm hỏi cha nàng và nói: “Từ đầu chúng tôi đã biết Đậu Nga bị oan, chỉ vì sợ quyền thế của tên tham quan đó mà đành ôm hận chứ không dám nói ra. Nhưng mà chúng tôi không hề hãm hại Đậu Nga, cớ sao lại phải chịu nạn hạn hán trong suốt 3 năm này chứ?”.
Cha của Đậu Nga đáp:“Các ông đã biết rõ Đậu Nga bị oan, vậy mà không thể nói lời công đạo, đó gọi là bất nghĩa. Còn có những người hùa theo tham quan mà miệt thị người lương thiện, đó gọi là bất nhân. Trời cao có mắt, không có tai bay vạ gió, thiên tai nhân họa chính là để trừng trị những kẻ bất nhân bất nghĩa vậy!”

(Ảnh: internet)

Chọn lựa Thiện – Ác quyết định phúc họa đời người

Kỳ thực, câu chuyện “Đậu Nga oan” là lời cảnh tỉnh thế nhân rằng: Con người sống trên đời cần phải phân định rõ thị phi, giữ vững chính nghĩa, biết lên tiếng cho lẽ phải, công bằng. Bởi lựa chọn Thiện hay Ác, đứng về Chính hay Tà, đều sẽ quyết định vận mệnh và tương lai mỗi người.
Vậy vì sao ranh giới giữa Thiện và Ác lại quan trọng đến thế? Bởi tấm lòng thiện lương cũng giống như một ngọn đèn thắp sáng thế gian này. Nếu mỗi người không thể giữ vững ngọn đèn chính nghĩa trong tâm, thì chẳng phải thế giới sẽ chìm ngập trong bóng tối hay sao? Và nếu như quả thật thế giới này toàn một màu đen tối, thì cái ác sẽ có nơi để ngự trị, để dung túng, và càng thêm phát tác hay sao!
Ranh giới giữa Thiện và Ác rất mong manh, nhưng lại quyết định sự khác biệt của mỗi người. Giống như trong câu chuyện trên đây, người dân Sở Châu dẫu không hành ác, không hại người, họ có thể tưởng rằng mình không phạm tội và không phải là người xấu. Nhưng khi thấy người tốt bị vu oan giá hoại, họ lại chọn cách im lặng, vì để giữ an toàn cho bản thân mà không dám nói lời chính nghĩa. Chỉ một ý một niệm này thôi đã đủ để phân loại Thiện – Ác trong tâm mỗi người. Không thể đứng về phía Thiện thì chẳng phải là Ác hay sao?
Bởi vậy, không phải cứ ăn chay niệm Phật, cứ lên chùa cúng bái, cứ bố thí tiền tài, cứ giúp người giúp đời sẽ là thiện lương. Mà thiện lương chân chính là vào giờ phút then chốt họ có thể đứng về phía lẽ phải hay không; vào giờ phút then chốt họ có dám xả thân vì chính nghĩa hay không; đối mặt với những sự việc đại thiện đại ác, ví dụ như bức hại các Phật tử, đàn áp Phật giáo Tây Tạng, hay mổ cướp nội tạng học viên Pháp Luân Công khiến cả thế giới kinh hoàng phẫn nộ, họ có dám lên tiếng bảo vệ cho những người vô tội hay không.
Người tốt, ấy là giữa thế sự đảo điên, giữa nhân tâm suy đồi, đạo đức đang trượt dốc mỗi ngày, họ vẫn sẵn sàng đối mặt với cái ác để cất tiếng nói cho những người không thể nói
Người tốt, ấy là đối diện với lời gièm pha chế nhạo của người đời, đối diện với cuộc khủng bố đỏ chà đạp lên đức tin và tín ngưỡng, họ vẫn âm thầm đi khắp thôn cùng ngõ hẻm, nói lên sự thật để thức tỉnh lương tri, bảo vệ người vô tội…
Người tốt, ấy là khi bị đe dọa đến tính mạng hay bị chà đạp lên nhân phẩm, họ vẫn bảo vệ đức tin của mình, kiên định làm người tốt cho đến hơi thở cuối cùng…
Và tất cả những điều ấy cũng chính là những gì mà Martin Luther King từng nhắn nhủ với chúng ta:
“Kẻ hèn nhát hỏi: Có an toàn không?
Kẻ cơ hội hỏi: Có khôn khéo không?
Kẻ kiêu căng hỏi: Có được tiếng tăm gì không?
Nhưng kẻ có lương tâm hỏi: Có là lẽ phải không?
Và có khi ta phải chọn một vị trí không an toàn, không khôn khéo, cũng không được tiếng tăm nào cả, nhưng ta phải chọn nó, bởi vì đó là lẽ phải.”
_Martin Luther King, Jr., 1967_
“Thế giới không bị hủy diệt bởi những kẻ làm điều ác, mà bởi sự im lặng của những người tốt” – Albert Einstein.
Theo Tinh Hoa
Hồng Liên

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét