Thứ Bảy, 24 tháng 2, 2018

NỖI NIỀM OAN KHUẤT 29

(ĐC sưu tầm trên NET)
 
Oan khuất cựu quân nhân 30 năm mang danh “phản quốc”
Có những người tưởng chừng may mắn khi sống sót qua cuộc chiến tranh vệ quốc lại phải đối mặt với một bản án từ trên trời. Chúng tôi đang muốn nói đến trường hợp của ông Trương Hữu Tưởng (thôn Đồng Lệ, xã Hợp Đồng, Chương Mỹ, Hà Nội), người được trao tặng Huân chương kháng chiến hạng 3 nhưng lại bị kết tội “gián điệp”, “phản quốc”.

Bị treo cổ 87 năm sau mới được tuyên vô tội (Kỳ 1): Những chứng cứ bất thường

10/12/2015 12:11 UTC+7
(Công lý) - Một người đàn ông đã bị tử hình về tội giết người, hiếp dâm trẻ em đã viết thư tuyệt mệnh nói "một ngày nào đó người ta sẽ chứng minh tôi vô tội". 87 năm sau, điều đó đã xảy ra nhưng tất cả đã là quá muộn.
Colin Ross, một ông chủ quán rượu người Australia bị kết án tử vì cáo buộc giết bé gái 12 tuổi, ông không hề biết rằng sau khi mình đã "mồ yên mả đẹp", lại vinh hạnh nhận được lệnh ân xá từ Nữ hoàng Anh.
Vụ án xảy ra vào sáng ngày 31/12/1921, khi lực lượng chức năng tại thành phố Melbourne (Australia) được người dân thông báo về việc phát hiện một thi thể bé gái không mặc quần áo ở ngõ Gun Alley nối với phố Collins. Danh tính nạn nhân được xác định là bé Alma Tirtschke, 12 tuổi sống với dì tại phố Swaston cách hiện trường không xa.
Trước đó, chiều ngày hôm trước bé gái này đi giao thịt cho một khách hàng trên phố Swanston cách nhà không xa. Đáng ra việc này chỉ mất độ 15 phút nhưng gia đình chờ quá lâu vẫn không thấy cô bé vốn rất ngoan ngoãn vâng lời quay trở về.
Sau khi nhận được tin Alma mất tích, cảnh sát cùng với gia đình Tirtschke tìm kiếm cô bé suốt đêm. Đến mờ sáng hôm sau, người ta phát hiện ra xác Alma, cô bé bị hãm hiếp và sau đó bị bóp cổ chết.
Cái chết của cô bé gây sốc cho cư dân thành phố Melbourn. Để truy tìm dấu vết và bắt hung thủ một cách nhanh nhất, lực lượng cảnh sát đã trao giải thưởng với một số tiền 1.250 bảng cho người bắt được hung thủ. Đây là một trong những khoản tiền thưởng truy nã tội phạm lớn nhất nước Úc thời đó.
Rất nhanh chóng nhiều đối tượng trong danh sách đang bị theo dõi trong khu vực được triệu tập đến đồn cảnh sát. Và Colin Ross cũng là một trong những đối tượng được liệt vào danh sách.
Bị treo cổ 87 năm sau mới được tuyên vô tội (Kỳ 1): Những chứng cứ bất thường
Colin Ross
Qua lời kể của một nhân chứng nói với cơ quan chức năng rằng, khi đó ông ta thấy 1 cô bé có vẻ bề ngoài rất giống bé Alma đã xuất hiện trước quán rượu của Ross.
Đồng thời, các nhà điều tra còn phát hiện ra rằng vào khoảng từ 2 giờ 30 phút tới 3 giờ chiều hôm Alma mất tích, người ta vẫn còn thấy cô bé ở giao lộ giữa các phố Alfred Place và Little Collins, gần nơi phát hiện xác về sau.
Rất nhanh sau đó, Colin Ross được triệu tập tới để tra hỏi. Cũng như các nhân chứng khác, anh này khai có nhìn thấy một cô bé giống Alma đi ngang qua trước tiệm của mình. Một số nhân chứng khác nói cô bé khi đi qua quán rượu của Ross có vẻ lo lắng. Một nhân chứng được cho là “khách quan” khai thêm rằng có người đã bám theo Alma.
Colin Ross vốn đã có tên trong “sổ đen” của cảnh sát vì tội sử dụng vũ khí trái phép để thực hiện một vụ cướp và uy hiếp khách tới quán của ông ta. Chính vì thế mà Colin bị cảnh sát “chăm sóc” kỹ hơn.
Mặc dù Ross đã nêu tên các nhân chứng xác nhận anh ta đang lo việc trong quán suốt chiều hôm đó và không hề bỏ đi đâu cả nhưng các điều tra viên vẫn một mực cho rằng, Ross đã giết Alma và anh ta bị bắt hôm 12/1/1921.
Phiên tòa xét xử Ross bắt đầu hôm 20/2/1922. Phía buộc tội đưa ra nhiều nhân chứng mới để kết tội Ross. Một tù nhân tên John Harding khai, Ross đã thú nhận với hắn trong nhà giam, chính anh ta giết bé Alma.
Thêm hai cô gái bán hoa Matthews, Olive Maddox và một bà mụ già bói bài Julia Gibson cũng đồng thanh rằng Ross đã tiết lộ bí mật giết người với họ. 
Về vật chứng, phía công tố đưa ra vài sợi tóc của Alma Tirtschke mà họ lấy ngay trước lễ an táng  của cô. Một thám tử nhớ lại hôm bắt Ross, ông ta thấy vài sợi tóc màu vàng trên tấm chăn ở nhà Ross.
Sau đó những sợi tóc này được thu lại và giao cho một chuyên gia hóa học là Charles Price. Ban đầu ông ta khai trước tòa rằng khi xem xét dưới kính hiển vi hai sợi tóc có màu khác nhau: Sợi ở nhà Ross có màu nâu vàng, trong khi tóc của Alma màu đỏ sẫm.
Ngoài ra, đường kính của 2 sợi tóc cũng khác nhau. Theo Price sợi tóc ở nhà Ross có thể là của bạn gái của anh ta. Thế nhưng sau một hồi bị vặn vẹo, Price lại tuyên bố rằng cả hai loại tóc rơi ra từ da đầu cùng một người.
Điều lạ là kết luận mâu thuẫn của Price đã được đoàn bồi thẩm chấp nhận. Luật sư của Ross là Thomas Breman phản đối, yêu cầu mời giám định viên khác có kinh nghiệm hơn nhưng bị từ chối.
Bị treo cổ 87 năm sau mới được tuyên vô tội (Kỳ 1): Những chứng cứ bất thường
Ông chủ quán và cô bé Alma Tirtschke
Kết thúc phiên tòa, Ross bị tuyên án treo cổ trong sự hân hoan của dư luận. Luật sư của Ross cố tìm cách chống án nhưng thất bại vì quan tòa cho rằng bản án đã quá rõ ràng. Đơn khiếu nại của Thomas Breman gửi tới Hội đồng Cơ mật ở Anh cũng bị bác bỏ.
Không lâu trước ngày Ross lên giá treo cổ, anh ta nhận được một bức thư nặc danh của một người tự nhận mình là hung thủ giết hại Lama nhưng không chịu công khai nhận tội, vì cho rằng điều đó sẽ gây đau khổ cho gia đình anh ta. Người ta cũng không điều tra thêm về bức thư này xem hung thủ thật sự là ai.
Hoàng Hà

Bị treo cổ 87 năm sau mới được tuyên vô tội (Kỳ Cuối): "Ngày tôi được chứng minh vô tội sẽ đến"

15/12/2015 16:14 UTC+7
(Công lý) - Khi Colin Ross bị bắt, dư luận thì hả hê nhưng ông ta đã nói với luật sư, người thân và bạn bè rằng, tôi chẳng việc gì phải sợ vì mình không có tội.
Colin Ross được sinh ra ở phía Bắc Fitzroy, Melbourne. Ông ta là con thứ ba trong một gia đình có 5 người con. Cha của ông là Thomas Ross đã chết vào năm 1900, để lại người vợ của mình bà Elizabeth Ross phải chăm sóc cho năm đứa con còn nhỏ.
Chính vì hoàn cảnh gia đình, nên không ai trong số các con của bà được giáo dục tốt. Dường như chúng cũng hiểu được điều đó và muốn rời khỏi trường học càng sớm càng tốt để tìm việc làm giúp đỡ gia đình.
Vào năm 11 tuổi, Colin Ross bắt đầu làm việc tại một mỏ đá địa phương và trong những năm sau đó, ông làm việc như một quân nhân tại bệnh viện quân đội Broadmeadows. Năm 1920, bà Elizabeth Ross may mắn trở thành người quản lý của khách sạn Donnybrook, cách 30 km về phía bắc Melbourne.
Trong thời gian này, Colin Ross bắt đầu một mối quan hệ với Lily Mae Brown, một nhân viên làm việc dưới quyền của bà  Elizabeth. Ngày 5/3/ 1920, Colin đã ngỏ lời cầu hôn Brown, nhưng lại bị cô ấy từ chối. Phẫn uất vì điều đó, ông đã tự chế một khẩu súng lục để đe dọa Mae Brown phải nhận lời.
Sau sự việc đó, Mae đã  liên lạc với cảnh sát và  Colin Ross đã bị buộc tội sử dụng vũ khí mà không được phép, nên bị kết án 14 ngày tù giam.
Tháng 4/1921, gia đình Colin Ross trở lại Melbourne. Tại đây, ông cùng các em của mình là Stanley và Ronald, đã mua một cửa hàng rượu vang trong trung tâm thương mại của Melbourne. Sau khi mua lại cửa hàng, họ đổi tên thành "The Australian Wine Saloon".
Bị treo cổ 87 năm sau mới được tuyên vô tội (Kỳ Cuối): "Ngày tôi được chứng minh vô tội sẽ đến"
Vì cái chết của cô bé Alma Tirtschke mà Colin phải chịu một cái án oan từ trên trời rơi xuống.
Anh em Ross rất nhiệt tình, sẵn sàng phục vụ bất cứ ai. Và khi công việc đang rất thuận lợi, thì ông lại phải chịu tai họa từ trên trời rơi xuống.
Mặc cho mọi bằng chứng, Colin Ross vẫn bị hành hình ngày 24/4/1922. Trong bức thư vĩnh biệt gia đình, người tử tù viết : “Cái ngày tôi được chứng minh là vô tội sẽ đến”. Thất bại trong việc cứu Colin Ross, luật sư Thomas Brennan đã viết một cuốn sách có tựa “Thảm kịch Gun Alley” để chứng minh thân chủ của mình bị chết oan.
Tuy nhiên, những người ủng hộ Brennan đã không thể thuyết phục được chính quyền bang Victoria xét lại vụ án và hồ sơ Colin Ross dần bị quên lãng.
Hơn 70 năm sau, một giáo viên về hưu tên Kevin Morgan, đã mày mò tìm hiểu về cái chết của Alma Tirtschke và bản án dành cho Colin Ross. Ông già Morgan đã động lòng khi đọc được những dòng chữ của Ross ghi trên những trang cuốn Kinh Thánh của người tử tội trong nhà lao về nỗi oan ức của mình. 
Ông giáo già thích làm luật sư nhận định các nhân chứng chống lại Ross đều không đáng tin: John Harding được giảm án sau khi khai về Ross, còn hai cô gái bán dâm và mụ thầy bói thì lãnh tiền thưởng của cảnh sát.
Sau này, Morgan còn tìm được trong hồ sơ lưu của viện công tố mẫu tóc từng được cho là đã bị thất lạc của vụ án thu năm 1998, kết quả xét nghiệm ADN của Viện Pháp Y bang Victoria và cơ quan khám nghiệm của Cảnh sát Liên bang Úc cho thấy hai loại tóc thu được trong vụ án Colin Ross là của hai người khác nhau.
Cuốn sách của Morgan đã khuấy động kỷ niệm xa xưa về một vụ án từng gây rung động. Ngày 4/10/2005, gia đình Colin Ross và Alma Tirtschke cùng nộp đơn xin xóa tội cho người đã chết.
Bị treo cổ 87 năm sau mới được tuyên vô tội (Kỳ Cuối): "Ngày tôi được chứng minh vô tội sẽ đến"
Hài cốt của Colin Ross được trao lại cho gia đình để an tang.
Ngày 22/5/2008 Thống đốc bang Victoria – là người thay mặt cho Nữ hoàng Anh – ký lệnh ân xá cho Colin Ross. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử Úc, một người đã bị hành hình theo quyết định của Tòa án được bãi tội.
Trong cuốn sách về án oan của Colin Ross – mà sau này dẫn tới việc xét lại bản án của anh ta – tác giả Kevin Morgan đã tiết lộ lần đầu tiên cho công chúng thấy những chứng cứ có lợi cho Ross nhưng đã bị cảnh sát bỏ qua.
Trong một lần trả lời phỏng vấn, gia đình Alma Tirtschke cho rằng một kẻ nào đó trong ngay gia đình họ đã giết cô bé. Tuy nhiên câu hỏi kẻ nào mới là hung thủ thật sự vẫn còn là bí ẩn.
Mãi tới năm 2010, hài cốt của Colin Ross mới được trao lại cho gia đình để an tang.
Hoàng Hà

Lạ kỳ về nơi có nhiều vụ án oan khuất trong lịch sử Việt Nam

Bên con đê sông Đuống tại địa phận huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh chỉ dài hơn 10km, nhưng không hiểu vì lý do gì, nơi đây gắn liền với rất nhiều vụ án oan khuất. Không quá để nói rằng, đây là triền đê oan khuất trong lịch sử Việt Nam.
Kỳ 1: Đến nơi thờ thần xà “miệng cắn thân, chân xé mình”
Dọc theo triền đê có nhiều huyền tích bí ẩn này, chúng tôi như lạc vào những câu chuyện lịch sử đầy oan khiên của dân tộc. Điểm dừng chân đầu tiên của chúng tôi là đền thờ Trạng nguyên khai khoa Lê Văn Thịnh tại thôn Bảo Tháp, xã Đông Cứu, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh.
Vén màn bí ẩn vụ án hồ Dâm Đàm
Trong khói nhang trầm uy nghi, chúng tôi như được trở lại với lịch sử gần 1.000 năm trước. Ông Nguyễn Văn Đam - thủ từ đền Lê Văn Thịnh kể cho chúng tôi nghe về cuộc đời bi tráng của vị trạng nguyên này. Lê Văn Thịnh là người thôn Bảo Tháp, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh.
Cổng vào đền và chùa thờ Lê Văn Thịnh.
Tháng 2 năm Ất Mão (1075), Vua Lý Nhân Tông cho mở khoa thi Minh kinh bác học và thi Nho học tam trường, Lê Văn Thịnh dự thi và đã đỗ đầu. Vì thế, ông được coi là Trạng nguyên khai khoa của Việt Nam. Ban đầu, ông được vào hầu vua học, sau thăng chức Nội cấp sự, rồi Thị lang Bộ Binh. Tháng 6 năm Giáp Tý (1084), ông được cử đi đến trại Vĩnh Bình (thuộc Cao Bằng ngày nay) để bàn nghị về việc cương giới với Chánh sứ nhà Tống là Thành Trạc.
Sau khi đã "phân giải mọi lẽ", nhà Tống chấp thuận trả lại cho Đại Việt 6 huyện, 3 động thuộc châu Quảng Nguyên (nay là phần đất ở phía tây bắc tỉnh Cao Bằng) mà họ đã chiếm trước đây và cho thông sứ như cũ. Sau này, ông được thăng tới chức Thái sư. Ông cống hiến cho nhà Lý thêm 10 năm thì xảy ra "vụ án hồ Dâm Đàm" vào năm Ất Hợi (1095).
Về vụ án này, đến nay vẫn còn rất nhiều điều chưa được làm sáng tỏ. Sách Đại Việt sử lược ra đời vào thời Trần kể lại vụ án như sau: "Mùa đông tháng 11 năm Ất Hợi (1095), nhà vua (Lý Nhân Tông) xem đánh cá ở Diêu Đàm (hay Dâm Đàm, nay là hồ Tây, Hà Nội). 
Lúc bấy giờ vua ngự trong một chiếc thuyền nhỏ, thị vệ theo hầu rất ít. Thái sư Lê Văn Thịnh vốn có mưu gian, nhân cơ hội ấy mới dùng phép thuật làm khói sương nổi thoắt lên bao phủ cả mặt hồ, ban ngày mà tối tăm mù mịt. Một lát, nhà vua nghe tiếng mái chèo sắp đến gần, vua có ý sợ xảy ra tai biến mới lấy cái mác phóng ra. Khói sương theo cái mác mà tan biến đi thì thấy thuyền của Lê Văn Thịnh đã đến gần, với đồ hung khí. 
Vua sai người bắt giữ Lê Văn Thịnh lại rồi hạ chiếu đem an trí ở miệt Thao Giang. Trước kia, trong nhà Lê Văn Thịnh có tên đầy tớ là người Đại Lý (tức Vân Nam, Trung Quốc ngày nay) giỏi làm ảo thuật, Lê Văn Thịnh học được phép của nó. Và, đến đây thì làm phản".
Tuy nhiên, cũng có rất nhiều tài liệu lịch sử đã chứng minh sự hàm oan của vị trạng nguyên tài hoa này và đời hậu thế vẫn đang tìm mọi cách chứng minh sự trong sạch cho ông. Ông Lê Viết Nga - Giám đốc Bảo tàng tỉnh Bắc Ninh - cho biết: "Hiện nay ở Bảo tàng Bắc Ninh còn lưu giữ lại rất nhiều sắc phong cho Thái sư Lê Văn Thịnh qua các triều đại vua. Sắc phong cổ xưa nhất còn lưu lại gần như nguyên vẹn cho thấy ngay từ triều Hậu Lê, Thái sư Lê Văn Thịnh đã được minh oan rồi”. 
Ông Nga khẳng định: "Nếu như thái sư không được minh oan, không được sắc phong trở lại thì trong dân gian sẽ không bao giờ dám dựng đền để thờ tự”.
Với sự cố gắng của rất nhiều người, nhiều cơ quan đoàn thể, năm 1993 một cuộc hội thảo với sự góp mặt của nhiều nhà sử học, nhà điêu khắc và các học giả nổi tiếng đã diễn ra. Hội thảo đã thành công tốt đẹp và bước đầu minh oan cho vị Trạng nguyên tài hoa Lê Văn Thịnh.
Bức thần xà bí ẩn
 Bức tượng xà thần vừa được công nhận là bảo vật quốc gia.
Về cuộc đời của cụ Lê Văn Thịnh, sau vụ án hồ Dâm Đàm còn nhiều uẩn khúc. Theo lưu truyền dân gian, khoảng ba năm sau, Lê Văn Thịnh được ân xá. Trên đường về quê đến chợ Điềng, xã Đình Tổ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, ông dừng chân nghỉ lại. Một nông dân thấy cụ già gầy yếu như hành khất liền biếu bát cháo hoa để cụ ăn. Bác nông dân hỏi “Cụ có thèm ăn thứ gì nữa không?”, cụ trả lời muốn ăn một khúc cá. Bác nông dân lựa được con cá mè hoa đem nướng một khúc biếu cụ. Lê Văn Thịnh ăn cá xong nằm nghỉ và mất tại đó. Dân làng Điềng khi biết đó là Trạng nguyên Lê Văn Thịnh liền đưa cụ ra một gò nổi bên bờ sông Dâu. Xác cụ được mối đùn kín, dân làng thấy lạ liền chôn cất và lập đình thờ, tôn cụ làm thành hoàng làng.
Lại nói, sau khi xảy ra vụ án hồ Dâm Đàm, ngôi nhà của cụ Lê Văn Thịnh tại thôn Bảo Tháp đã được thân phụ là cụ Lê Văn Thành cúng tiến thành chùa. Sau này khi Lê Văn Thịnh được minh oan, dân làng xây đền cho cụ và trở thành cụm di tích đền và chùa Lê Văn Thịnh như hiện nay.
Trong khuôn viên đền và chùa Lê Văn Thịnh hiện nay có một bức tượng đá hết sức bí ẩn. Đó là bức tượng rồng (nhưng người dân địa phương gọi là bức tượng xà thần) trong tư thế “miệng cắn thân, chân xé mình”. Bức tượng này vừa được công nhận là bảo vật quốc gia ngày 30.12.2013.
Theo người dân địa phương kể lại, năm 1991, trong một lần dọn dẹp trước cửa đền thờ Thái sư Lê Văn Thịnh, ông thủ từ khi đó là Phan Đình Phô tình cờ phát hiện được một bức tượng bằng đá nguyên khối, chôn sâu dưới đất. Bố cục và hình dáng bức tượng cực kỳ đặc biệt: Một loài động vật bò sát giống rắn, nhưng có chân, miệng đầy răng, trong động thái "miệng cắn thân, chân xé mình".
Khi đó sự việc khiến dư luận trở nên rất xôn xao. Mỗi ngày, có hàng ngàn người hiếu kỳ kéo đến vái lạy pho tượng. Các nhà khoa học, chính quyền và nhân dân thảo luận xong, thì quyết định nhấc bức tượng lên khỏi lòng đất. Lạ thay, mấy chục thanh niên trai tráng ghé vai, cùng với đòn bẩy, xà beng mà pho tượng rồng không hề nhúc nhích.
Thấy sự lạ, cụ Phô vào đền nhang khói, kính xin Thái sư Lê Văn Thịnh linh thiêng cho phép người dân được rước “ông rồng” lên thờ. Không ngờ, xin phép xong, các trai tráng ghé vai nâng pho tượng thấy nhẹ bẫng.
Trước quá trình tôn tạo, một cuộc khai quật nhỏ đã diễn ra. Các nhà khảo cổ phát hiện thêm 2 bộ phận nữa của tượng rồng đá. Một bộ phận là bàn chân rồng nguyên vẹn với móng vuốt sắc nhọn. Các nhà khoa học xác định hai bộ phận này có chất liệu và phong cách tạo tác phù hợp với pho tượng rồng cắn thân trong miếu xà thần từ thời Lý. Tuy nhiên, hai bộ phận này chưa khớp với phần thân đứt hai bên pho tượng.
Có một số luồng ý kiến phân tích ý tưởng nghệ thuật của pho tượng này. Có ý kiến cho rằng, pho tượng biểu thị sự hối hận của Vua Lý Nhân Tông. Tượng rồng có đôi tai, thì một bên lành, một bên bị bịt kín. Điều này biểu thị việc vua Lý nghe lời xiểm nịnh của gian thần. Việc rồng tự cắn thân, xé mình thể hiện cho việc đau lòng khi gây ra nỗi oan trái của Vua Lý Nhân Tông với người thầy của mình là Lê Văn Thịnh. Rồng tượng trưng cho vua, nên lý giải này không phải không có lý. Nhưng phần lớn ý kiến vẫn tin rằng, pho tượng đặc biệt, vừa giống rồng, lại vừa giống rắn này là biểu thị cho nỗi oan trái của Thái sư Lê Văn Thịnh, bị triều đình ghép tội “hóa hổ giết vua”.
Vụ án hồ Dâm Đàm đã diễn ra ngót một thiên niên kỷ và mặc dù đến nay có nhiều tình tiết chưa được làm rõ, nhưng việc Nhà nước công nhận bức tượng xà thần trong miếu thờ Lê Văn Thịnh là bảo vật quốc gia đã phần nào ghi nhận công lao to lớn của ông đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Hy vọng rồi đây, sẽ có thêm những cuộc hội thảo làm rõ và chứng minh sự nghiệp vĩ đại của ông.
Đông Xuyên

Tìm lại huy hoàng kỳ 7: Vụ án ly kỳ lịch sử – Mối oan tình của Đệ Tam Trúc Lâm Sư Tổ Huyền Quang

Đỉnh thiêng Yên Tử (Ảnh: tripzilla.vn)
“Tìm lại huy hoàng” là loạt bài nhiều kỳ do chuyên mục Văn Hóa thời báo Đại Kỷ Nguyên biên soạn, nhằm khôi phục dấu ấn nền văn hóa truyền thống đất Việt qua những câu chuyện lịch sử mang màu sắc“huyền sử”, hy vọng đem tới cho độc giả một cái nhìn mới về những nhân vật lịch sử và văn hóa truyền thống nước nhà.
Mời xem thêm:
Tại non thiêng Yên Tử, 5 năm sau khivua Trần Nhân Tông nhập niết bàn, còn chứng kiến một lần khảo nghiệm nữa với ý chí kiên định của người tu hành nơi đây, đó là khảo nghiệm với Huyền Quang Tôn Giả, Đệ Tam Sư Tổ của Thiền phái Trúc Lâm.
Huyền Quang Tôn Giả (1254-1334) tên là Lý Đạo Tái, đỗ Trạng Nguyên năm 21 tuổi, được bổ về Hàn Lâm Viện .
Theo Tam tổ thực lục (三祖實錄), mẹ của Huyền Quang là bà Lê Thị hay đến chùa Ngọc Hoàng cầu nguyện vì tuổi đã 30 mà chưa có con. Đầu năm Giáp Dần 1254, vị trụ trì chùa Ngọc Hoàng là Huệ Nghĩa mơ thấy “các toà trong chùa đèn chong sáng rực, chư Phật tôn nghiêm, Kim Cương Long Thần la liệt đông đúc. Đức Phật chỉ Tôn giả A-nan-đà bảo: ‘Ngươi hãy tái sinh làm pháp khí Đông Độ và phải nhớ lại duyên xưa.
Năm ấy bà Lê Thị sinh Huyền Quang. Lớn lên Sư dung mạo dị thường, làm quan đến chức Hàn Lâm.
Một hôm, Sư cùng vua Trần Anh Tông (kế vị vua Trần Nhân Tông) đến chùa Vĩnh Nghiêm huyện Phượng Nhãn, nghe Thiền sư Pháp Loa (tổ thứ 2 của Thiền phái Trúc Lâm) giảng kinh, liền nhớ lại “duyên xưa“, xin xuất gia thụ giáo. Sư được cử làm thị giả của Trúc Lâm Đầu Đà (Trần Nhân Tông) và được ban pháp hiệu là Huyền Quang.
Năm Quý Sửu (1313), khi ấy Trúc Lâm Đầu Đà Trần Nhân Tông đã tọa hóa (1308), sư Huyền Quang bị cung nữ Điểm Bích thời vua Trần Anh Tông gây ra câu chuyện oan tình.
Điểm Bích là ai?
Điểm Bích- Người con gái sắc nước hương trời của huyện Đường An. (Ảnh minh họa)
Điểm Bích- Người con gái sắc nước hương trời của huyện Đường An. (Ảnh minh họa)
Theo các sách cổ và bia ký ghi lại thì Điểm Bích họ Nguyễn, lấy theo họ mẹ, người làng Hoạch Trạch, huyện Đường An, nay thuộc xã Thái Học, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương, sinh vào cuối thế kỷ XIII.
Điểm Bích lớn lên ngày càng xinh đẹp, lại thông minh, 9 tuổi đã đ­ược tuyển làm cung nữ, vua khen là nữ thần đồng.
Vụ án oan tình chùa Hoa Yên: Yên Tử chứng kiến lòng kiên định trong sáng của Huyền Quang
Đất trời Yên Tử chứng kiến lòng kiên định trong sáng của sư Huyền Quang.
Đất trời Yên Tử chứng kiến lòng kiên định trong sáng của sư Huyền Quang.
Đương thời từ dân gian đến quan triều người ta cho rằng Huyền Quang là một người chân tu. Ông cũng đã từ chối hôn nhân với công chúa Liễu. Vì thế mà suốt 30 năm làm việc ở triều đình ông chưa hề cùng ai. Cuộc đời trong sáng đó không dễ ai cũng tin, nhất là tầng lớp Nho sĩ.
Bấy giờ trong triều Điểm Bích đang độ thanh xuân, tài sắc tuyệt vời. Vua Trần Anh Tông quyết định chọn Điểm Bích làm người kiểm nghiệm sự chân tu của Huyền Quang và dặn: “Phải lấy được vàng của Huyền Quang, nếu lão tăng còn dục vọng sắc tình”. Khi Huyền Quang ở Yên Tử tuổi đã ngoài 60, nhưng chỉ là đệ tử của Pháp Loa, vì khi ông xuất gia đã 52 tuổi. Nếu Điểm Bích “lấy được vàng của lão tăng”, sẽ mặc định là Huyền Quang phải động lòng trước giai nhân, tức chưa bỏ được dục vọng trần tục.
Từ kinh thành Thăng Long, Điểm Bích cùng một tiểu tì đến chùa Hoa Yên (Vân Yên), xin ở nhờ một bà vãi già. Lấy cớ xuất gia học đạo, ngày ngày nàng mang nước đến chỗ Huyền Quang. Qua nhiều lần tiếp xúc, Huyền Quang như không để ý đến người con gái xinh đẹp, dịu dàng hiếm thấy, nhưng thực tế thì sư quan sát rất kỹ nên hiểu thấu nội tâm nàng. Sư khuyên Điểm Bích hãy trở về, khi nào cao tuổi mới có thể tu được.
Chùa Hoa Yên (Vân Yên), Yên Tử. (Ảnh: Internet)
Chùa Hoa Yên (Vân Yên), Yên Tử. (Ảnh: Internet)
Một hôm, nàng tự xưng là con quan huyện thừa huyện Cẩm Hoá. Nàng kể cha nàng mang 15 cân vàng nộp công khố, không may bị kẻ gian lấy cắp, may nhờ người thân và xóm giềng giúp đỡ đã gần đủ, nay nhờ sư phát tâm làm phúc cho chút đỉnh để trọn đạo với cha, nếu không, cha nàng sẽ mang trọng tội.
Huyền Quang động lòng thương cảm, nói với tăng ni: “Ta vì người này để quảng đức hiếu sinh của Hoàng đế và làm một lương đồ cứu khổ cho chúng sinh”.
Một tiểu tăng nói: “Pháp luật là công cộng của thiên hạ, kẻ có của không biết giữ gìn cẩn thận, theo pháp luật mà trị là điều lệ công. Nay ta mang vàng công đức để lấy ơn riêng. Vậy có nên lấy ơn riêng mà bỏ phép công không?”. Huyền Quang thấy thế là phải, song vì lòng thương, người vẫn lấy một dật vàng (nén vàng) cho Điểm Bích.
Lấy được vàng, Điểm Bích trở về kinh đô, dựng nên một chuyện hoàn toàn khác sự thật, tâu vua: “Một hôm sư lên chùa tụng kinh, đến trống canh ba, sư cùng các tăng ni về buồng ngủ. Thần thiếp đến bên cạnh phòng của sư, xem sư làm gì. Một lúc sau, sư ngâm một bài kệ rằng:
Vằng vặc trăng soi đáy nước,
Hiu hiu gió trúc ngâm sênh.
Người hoà tươi tốt cảnh hoà lạ,
Mâu Thích Ca nào thú hữu tình.
Sư ngâm nga mấy lần. Thần thiếp thấy sư còn thức, vào phòng xin phép sư về thăm mẹ, sang năm lại đến học đạo. Sư giữ thần thiếp lại một đêm và cho thần thiếp một dật vàng”.
Nghe xong, vua uất ức, nói: “Nếu việc ấy có thực thì ta đã đạt được kế giăng lưới bắt chim. Nếu việc ấy không có, thì sư này cũng không tránh khỏi cái nghi ngờ qua ruộng dưa mà sửa giày.”
Tấm lòng trong sáng được trời đất chứng minh: mối oan tình được rửa sạch
Vua sai mở hội Vô già ở phía tây kinh thành, mời Huyền Quang về làm án pháp. Sư về đến Thăng Long, thấy sự thể, biết mình đã bị lừa. Sư ngửa mặt lên trời, than vãn, lạy ba lần; cúi xuống đất, lạy ba lần; rồi đứng lên đàn tràng vọng bái mười phương.
Kinh thành Thăng Long (Ảnh: Wikipedia)
Kinh thành Thăng Long (Ảnh: Wikipedia)
Chuyện kỳ lạ bỗng xảy ra: Đang trời quang mây tạnh, vậy mà khi sư Huyền Quang cầu đảo, phút chốc gió mây mịt mù cuốn trôi hết đồ vàng bạc tạp phẩm, chỉ còn lại hương đèn đại lễ.Vua Trần Anh Tông trước cảnh tượng trời đất minh chứng cho tấm lòng trong sạch của Huyền Quang, thấy nỗi oan khiên thông thấu lòng người cùng đất trời, liền vội vàng xuống đàn, xin lỗi sư và giáng Điểm Bích làm người quét chùa Cảnh Linh ở nội điện.
Từ đó mối oan tình của quốc sư được rửa sạch.
Ngày 5 tháng 2 năm Khai Hựu thứ hai (1330), Pháp Loa đang giảng kinh ở Viện An Lạc thì đột ngột mắc bệnh. Sư về Viện Quỳnh Lâm tĩnh dưỡng nhưng bệnh càng trở lên trầm trọng. Thấy khó qua khỏi, sư cho mời Huyền Quang đến, trao cho những bảo bối mà 22 năm trước Điều ngự Đầu đà Trần Nhân Tông đã trao cho sư trước khi nhà vua băng hà, như: áo cà sa, tâm kệ, và nói rằng: “Huyền Quang sẽ là người hộ trì, thừa kế sự nghiệp“. Đêm mồng 3 tháng 3 năm ấy, Pháp Loa viên tịch tại Viện Quỳnh Lâm. Kể từ đó, sự nghiệp của Thiền phái Trúc Lâm do Huyền Quang chủ trì và trở thành vị Tổ thứ ba của thiền phái này.
Tượng tam tổ Huyền Quang tại Thiền viện Trúc Lâm Đà Lạt. (Ảnh: wikipedia)
Tượng tam tổ Huyền Quang tại Thiền viện Trúc Lâm Đà Lạt. (Ảnh: wikipedia)
Huyền Quang từng ở chùa Thanh Mai 6 năm, rồi về trụ trì chùa Côn Sơn. Ngày 23 tháng Giêng năm Giáp Tuất (1334), sư viên tịch tại chùa Côn Sơn. Vua Trần Minh Tông cho 10 lạng vàng xây tháp ở bên tả phía sau chùa, lấy tên là Đăng Minh bảo tháp, đặc phong tự pháp Huyền Quang tôn giả, Tháp Huyền Quang hiện nay vẫn còn, ở sau chùa Côn Sơn, trên đường lên Bàn Cờ tiên và Thanh Hư động.
Oan Tình
Đệ tam Tổ Trúc Lâm – Huyền QuangOan tình Điểm Bích bởi giật vàngAnh Tông sao nỡ gây phiền lụyQuốc Sư khó tránh mối ngờ oanVua bèn cho mở hội Vô GiàĐồi mồi vàng bạc với cà saQuyến vàng căng lụa, nhang đèn lễThiền sư vọng bái, nổi phong baCát bụi bay tung cả đất trờiBạc vàng châu ngọc gió cuốn trôiChỉ còn sót lại đèn nhang lễOan tình cháy mãi, mãi không thôi.
(Tác giả: Hoàng Quang Thuận)
Đăng Minh Bảo Tháp, tức Tháp Huyền Quang- chùa Côn Sơn
Đăng Minh Bảo Tháp, tức Tháp Huyền Quang- chùa Côn Sơn
Tháp Huyền Quang, Yên Tử
Tháp Huyền Quang, Yên Tử
Lại ngẫm, nước chảy sông trôi, nếu thực sự đệ tam sư tổ của Trúc Lâm Thiền Phái Huyền Quang là An Nan Đà đầu thai, thì mục đích để làm gì? Liệu có phải chỉ đơn giản để lưu lại một câu chuyện oan tình trong lịch sử cho người đời sau? Có lẽ, là để lưu lại mãi mãi một câu chuyện về tấm lòng thanh sạch và kiên trung của một người, như gương sáng không bụi bẩn không tì vết, có thể cảm động thấu trời đất, có thể hóa giải mọi nỗi oan khiên. Cũng có lẽ là mong con người ngày nay, vào thời loạn thế này, dù vấp ngã hay oan ức, khổ đau, hãy giữ tín niệm kiên định với Thần Phật, sống đức hạnh thủy chung, như câu thành ngữ “Trời nào phụ kẻ có nhân?”
———————————————-
Tỉnh mộng
Luân hồi chuyển thế mấy nghìn nămĐến đến đi đi tại cớ gì?Công danh lợi lộc nào giữ mãi?Thế đạo hưng suy định bởi TrờiSinh mệnh vốn là Tiên thiên thượngThành bại trong đời mây khói bayThị phi vốn là ân oán trướcĐắc Pháp tỉnh mộng về cố hương.
(Tác giả: Minh Tịnh)
Hà Phương Linh

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét