Thứ Năm, 15 tháng 2, 2018

NGHĨ VỀ "PHẢN ĐỘNG"

-Theo wikipedia: 
"Từ "phản động" trong tiếng Việt bắt nguồn từ tiếng Trung. Tiếng Trung Quốc vay mượn từ "phản động" từ tiếng Nhật. "Phản động" trong tiếng Nhật được gọi là "handō" (âm đọc được ghi bằng Rōmaji), khi viết được ghi lại bằng hai chữ Hán là "反動" (âm Hán Việt: phản động, xem bài Kanji để biết thêm thông tin về việc dùng chữ Hán trong tiếng Nhật). "反動" là từ người Nhật dùng để dịch từ tiếng Anh "reactionary". Người Trung Quốc mượn từ "反動" của tiếng Nhật nhưng không đọc hai chữ đó theo âm đọc của chúng trong tiếng Nhật mà đọc theo âm đọc của chúng trong tiếng Trung.
Từ phản động trong tiếng Anh "reactionary" bắt nguồn từ từ tiếng Pháp "réactionnaire" (trong tiếng Pháp có nghĩa là phản động). Từ "phản động" được dùng lần đầu tiên sau Cách mạng Pháp. Nhiều người ủng hộ chế độ quân chủ bị xem là phản động tức đi ngược "trào lưu tiến hóa" (tiếng Pháp: réactionnaire mô tả sự chống đối về chính trị nhằm phục hồi một xã hội đã lỗi thời). Sau này nhiều người theo chủ nghĩa xã hội xem những người ủng hộ chủ nghĩa tư bản là "phản động" vì lý thuyết của họ cho rằng nhân loại tiến lên chủ nghĩa xã hội là tất yếu của lịch sử. Trong khi đó những người ủng hộ chủ nghĩa tư bản xem mình là "bảo thủ" chứ không gọi là "phản động". Nhiều người coi những người ủng hộ trào lưu khôi phục các giá trị xưa cũ (như tập tục phong kiến,...) là "phản động".
"Quan điểm trên thế giới: Theo từ điển Oxford English Dictionary, phản động (Reactionary) dùng để chỉ một quan điểm chính trị chuyên chống đối, săn lùng và đàn áp cải cách trong quản lý nhà nước.
Trong thế kỷ 20, phản động là một ngôn từ được chủ yếu sử dụng bởi những người theo Chủ nghĩa Xã hội, đã dùng để gắn với những người chống đối Chủ nghĩa Xã hội và Chủ nghĩa Cộng sản, như Bạch Vệ trong Nội chiến Nga chống lại quân Bolsheviks sau cách mạng Tháng 10 đã bị chính quyền Nga (Soviet) khi đó gọi là phản động, hay cuộc nổi dậy của sinh viên, trí thức Trung Quốc trong Sự Kiện Thiên An Môn cũng đã bị chính quyền của Đảng Cộng sản Trung Quốc trấn áp vì coi là hành vi phản động. Trong thuật ngữ của Chủ nghĩa Marx, phản động là một tính từ chỉ những người mà bề ngoài tư tưởng dường như là theo chủ nghĩa xã hội nhưng bản chất lại chứa các thành tố của chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa dân tộc hay phát xít, hoặc các đặc điểm của tầng lớp thống trị. Cho đến nay, các chính quyền theo Chủ nghĩa Cộng sản còn tồn tại ở một số nước đã coi phản động như là một vấn đề nghiêm trọng ảnh hưởng đến lợi ích và sự tồn tại của đảng cầm quyền, họ cho rằng những hành vi và hoạt động cản trở, đi ngược với tư tưởng hay chính sách, các hoạt động lật đổ chính quyền Đảng Cộng sản là các hành vi phản động chống lại Chủ nghĩa Cộng sản cần phải trấn áp và dẹp bỏ".
"Quan niệm tại Việt Nam: Theo Từ điển bách khoa Việt Nam, phản động biểu hiện ở những việc làm chống lại các phong trào cách mạng, dân chủ và giải phóng dân tộc; hăm doạ, săn lùng và đàn áp các tổ chức và cá nhân hoạt động chính trị, đàn áp nhân dân lao động; tệ phân biệt chủng tộc, nhen nhóm và khích lệ chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, chủ nghĩa chống cộng. Tuy nhiên Đảng Cộng sản Việt Nam cũng dùng "phản động" để lên án bất cứ ai chống lại Đảng Cộng sản Việt Nam kể cả những tập hợp cộng sản khác. Việt Nam từng gọi Đảng Cộng sản Trung Hoa, Khmer Đỏ, là "phản động" tuy cùng chung mẫu số cộng sản.
Theo giáo sư Carlyle Thayer, người chuyên nghiên cứu về Việt Nam, các nhà bất đồng chính kiến ​​ở Việt Nam là đối tượng bị trấn áp nếu họ vượt qua lằn ranh đỏ như tiếp xúc với các nhóm người Việt chống cộng ở hải ngoại, đặc biệt là các nhóm hoạt động chính trị như Việt Tân mà chế độ coi là phản động. Bộ Công an kết luận rằng những nhân vật bất đồng chính kiến ​​là một bộ phận của "âm mưu diễn biến hòa bình", theo đó các lực lượng thù địch bên ngoài liên kết với các nhóm phản động trong nước để lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam."
-Như thế, theo những người cộng sản, "phản động" cũng có nghĩa là "phản cách mạng" hay "tự phản cách mạng", nghĩa là những hành động vô tình hay hữu ý đi ngược lại mục tiêu của cách mạng vô sản, đi ngược lại trào lưu (được cho là) chính thống của tiến bộ xã hội. Ở Việt Nam hiện nay, "phản động" được hiểu rất gần với hoặc thậm chí chính là "phản quốc".
-Nhưng trong xã hội đa luồng ý kiến hiện nay, làm thế nào để nhận thức đúng đắn đâu là "phản động", đâu là "tiến bộ"? Không phải cứ vỗ ngực xưng theo cộng sản là không phản động hoặc không theo cộng sản là phản động!
-Có một cách duy nhất có khả năng nhận thức đúng đắn nhất khái niệm "phản động", đó là: có tinh thần vì dân thực sự, dựa trên cơ sở vì quyền lợi, ý nguyện nhân dân, những người chủ xã hội, mà đánh giá.
-Hiện nay trên mạng xã hội, có một số người trong "nhóm cờ đỏ" tự xưng là yêu nước, chỉ vì danh lợi ích kỷ, vì uy tín cá nhân hẹp hòi, nhận thức mù quáng, cay cú, đã phát ngôn quá lố, hằn học thóa mạ những người có chút ít ý kiến khác lạ với mình, vô tình đi ngược lại với chủ trương hòa hợp hòa giải dân tộc, đại đoàn kết toàn dân của đảng và nhà nước.
-Có thể cho rằng những người nói trên là "phản động" được không?





----------------------------------------------------------------------------
(ĐC sưu tầm trên NET)
 
Phản động là gì? Ai mới thực sự là Phản động?

    "Phản động" là gì?

  • Bởi Admin
    04/12/2015
    1 phản hồi
    Mạnh Kim
    Là chống đảng, chống nhà nước, chống lại nhân dân…? Hiểu theo ý này là hoàn toàn sai. Nghĩa gốc của thuật từ “phản động” không phải vậy. “Phản động” (réactionnaire) bắt nguồn từ Pháp bởi nó là khái niệm chính trị được sinh sau cuộc Cách mạng Pháp, ám chỉ những người chống lại trào lưu cách mạng thay đổi chế độ phong kiến và muốn quay lại tình trạng chính trị trước đó (status quo ante). Nói cách khác, phản động là sự ủng hộ cái cũ, chống lại sự phát triển và có thái độ lạc điệu với trào lưu canh tân.
    Tại châu Âu thế kỷ 19, sau Cách mạng Pháp, tầng lớp phản động được hiểu là những người thuộc Giáo hội Công giáo La Mã, thành phần bảo hoàng và tầng lớp quý tộc. Những người ủng hộ sự trở lại của thể chế chính trị phong kiến và giai đoạn tiền hiện đại (pre-modern), tức trước cuộc Cách mạng Công nghiệp và trước cuộc Cách mạng Pháp, cũng được xem là phản động. Những người phản động luôn phản đối thể chế chính trị dân chủ và chính trị nghị viện. Đến thế kỷ 20, bắt đầu từ Liên Xô, phản động được tái định nghĩa bằng cái nhìn lệch lạc theo ý chí cộng sản. Phản động lúc này có nghĩa chống lại chủ nghĩa xã hội và chống lại cộng sản. Sau đó, nhãn “phản động” bắt đầu được dán cho bất cứ ai bị đánh giá là kẻ thù mình.
    Phản động cũng được dùng để chỉ những người ủng hộ các chế độ độc tài chống cộng như Vichy (Pháp), Francisco Franco (Tây Ban Nha), António Salazar (Bồ Đào Nha). Qua thời gian, từ “phản động”, dưới mắt cộng sản, ngày càng méo mó dữ dội, khi giới nghệ sĩ cũng bị chụp mũ phản động chỉ bởi tác phẩm họ nói lên thực tế xã hội nhưng đi ngược đường lối tuyên truyền cộng sản. Một trong những người “phản động” nổi tiếng thế giới trong trường hợp này là nhà văn Boris Pasternak. Ngày 26-10-1958, một ngày sau khi Ủy ban Nobel công bố giải Văn chương cho Pasternak, tờ Literary Gazette của Moscow đã tung ra bài “xã luận” ký tên David Zaslavski, với tựa: “Tiếng rú của văn học tuyên truyền phản động lướt qua một ngọn cỏ văn chương”.
    Trong ngôn ngữ lý thuyết Marxism, phản động thật ra ám chỉ những người mà lý tưởng có vẻ là xã hội chủ nghĩa nhưng lại chứa tư tưởng phong kiến, tư bản, phát xít hay “những đặc tính của tầng lớp lãnh đạo”, có nghĩa áp bức người dân và cai trị tàn độc (như thời quân chủ phong kiến). Ngay với cách “định nghĩa” này, cách hiểu phản động bây giờ cũng không chính xác, bởi hiện nay có chế độ cộng sản nào mà không thoảng mùi nước hoa tư bản và không chứa “những đặc tính của tầng lớp lãnh đạo”? Và với cách hiểu phản động là chống đối “nhà nước nhân dân”, chống lại “sự tiến bộ của nhân loại”, chống lại “xu thế của thời đại”, và đặc biệt chống đảng, dĩ nhiên, là hoàn toàn sai lệch với ý niệm phản động ban đầu, bởi phản động không bao giờ ủng hộ cái mới cả. Ôm ấp những thứ học thuyết cũ mốc như Marx-Lenin mới là phản động.
     

PHÂN LOẠI PHẢN ĐỘNG!

Phản động loại 1: Loại thâm thù cách mạng
Loại này thường là những tên trước kia có âm mưu và thủ đoạn chống lại cách mạng, bị cách mạng trừng trị, đánh đuổi, giáo dục, cải tạo, vì đòn đau nên chúng sinh ra hận thù sâu sắc, dai dẳng (có thể đến hết đời này sang đời khác). Chống phá điên cuồng, bất chấp thủ đoạn là đặc điểm chính của loại thâm thù cách mạng, với loại này rất khó có thể cảm hóa, giác ngộ, bởi những quyền lợi bất chính trước đây của chúng bị thu hồi là rất lớn.
Trong cái gọi là "đấu tranh dân chủ, xóa bỏ độc tài", mục đích của loại này là lật đổ chế độ hiện nay, khôi phục lại "thiên đường", "hòn ngọc" của chúng trong chế độ cũ.
Thành phần chủ yếu trong loại thâm thù cách mạng chủ yếu là bọn tàn ngụy quân lưu vong, có thể là địa chủ, người nhiều ruộng đất trước kia bị mất quá nhiều tài sản do chính sách cách mạng ruộng đất.
Phản động loại 2: Loại bất mãn chế độ
Loại này thường là những người trí thức, có tài năng, song có thể do tự cao tự đại, tự cho rằng mình hơn người thì phải ở ngôi này vế kia; có thể do bị kẻ khác chèn ép, không thăng tiến được; cũng có thể do nhu cầu danh vị nào khác ko được thỏa mãn mà sinh lòng bất mãn chế độ, cho rằng do chế độ này mà họ không ngóc lên được, nhưng suy cho cùng cũng là bởi nhận thức lệch lạc, không vững lập trường, và tự diễn biến từ những con người đó.
Đây là loại nhạy cảm, khó nói hết... trong tổ chức rân chủ, những con người thuộc loại "bất mãn" thường được vào vai chủ xị... bởi họ có trình độ vs đc tổ chức coi là những người cấp tiến, giác ngộ...Những cá nhân tiêu biểu của loại 2 có thể nhắc đến Bùi Tín, Cù Huy Hà Vũ, Nguyễn Văn Hải(Điếu cày), JB. Nguyễn Hữu Vinh, Trần Khải Thanh Thủy, Vũ Đông Hà, Nguyễn Đình Thắng...
Phản động loại 3: Loại tham danh hám lợi
Loại này chủ yếu là những kẻ tham lam, vì vụ lợi bản thân mà chống phá cách mạng, thậm chí bán nước cầu vinh, đây là loại chiếm tỉ lệ lớn trong phởn hội...
Loại này chống phá vì tiền vì lợi, chứ không phải vì lý tưởng hay tư tưởng gì đó xa vời... khi tổ chức còn cho tiền, tạo tiếng thì thề thốt nọ kia, chống cộng đến cùng, nhưng khi lợi ích ko còn được đáp ứng nữa thì sẵn sàng phản trắc. Loại này thường bị bọn cáo già lợi dụng làm tay sai bởi đòn đánh vào lòng tham
Vì danh lợi là động cơ thúc đẩy, nên những tên trong phởn loại 3 thường có trình độ thấp, vốn liếng lý luận chủ yếu đc những loại kia bồi cho, rồi hễ mở mồm là lu loa ra vẻ ta đây, nhưng thực ra chưa chắc đã hiểu nó là dư lào, không khác gì loài vẹt nói tiếng người vậy. Những cá nhân tiêu biểu có thể kể như: Nguyễn Thị Phương Uyên, Đinh Nguyên Kha, Vũ Hồng Tố, Nguyễn Thị Bùi Hằng, Lê Thị Công Nhân, Đỗ Thị Minh Hạnh...
Phản động loại 4: Loại cơ hội.
Loại này là những kẻ tuy có trình độ, chuyên môn, song lý tưởng vs lập trường giả tạo, gió chiều nào theo chiều ấy, như con dơi quạ, khi tung cánh giả chim, khi co cánh làm chuột... Loại cơ hội về chính trị, như V.I.Lênin chỉ ra, sự thể hiện của nó là “không rõ ràng, lờ mờ và không thể nào hiểu nổi được. 
Do bản chất của mình, phái cơ hội chủ nghĩa bao giờ cũng tránh đặt vấn đề một cách rõ ràng và dứt khoát; bao giờ nó cũng tìm con đường trung dung, nó quanh co uốn khúc như con rắn nước giữa hai quan điểm đối chọi nhau, nó tìm cách “thỏa thuận” với cả quan điểm này lẫn quan điểm kia, vì nó quy những sự bất đồng ý kiến của mình lại thành những điều sửa đổi nhỏ nhặt, những sự hoài nghi, những nguyện vọng thành tâm và vô hại”. Những kẻ cơ hội chính trị không có quan điểm chính trị rõ ràng, luôn ngả nghiêng, dao động. Khi cách mạng thuận lợi thì tỏ ra “cấp tiến”, khi cách mạng gặp khó khăn thì thoái lui, thỏa hiệp... Tựu chung cũng chỉ vì vụ lợi cho cá nhân.
Đây là loại nham hiểm, xảo xuyệt, ẩn nấp trá hình rất khó phát hiện nếu như không tỉnh táo, bản lĩnh. Loại phần tử này rất khó xử lý bằng pháp luật bởi thủ đoạn của nó là vô cùng tinh vi, nhạy cảm, không nằm trong điều khoản nào của Luật hình sự. Loại này, với những thành viên tiêu biểu như: Lê Hiếu Đằng, Nguyễn Trọng Vĩnh, Vi Đức Hồi, Nguyễn Chí Dũng, Chu Hảo, Nguyễn Quang A, Nguyễn Tường Thụy, Nguyễn Xuân Diện, Hồng Lê Thọ, Nguyễn Quang Lập...
Còn loại nào bỏ sót không nhỉ???

Victor Charlie - CT03

Phản động là gì và ai là phản động?

Trần Bút - Bauxite Việt Nam
1
- Quảng Cáo -
Giải thích từ ngữ “Phản động”, Bách khoa toàn thư mở Wikipedia (phiên bản ngày 16:51, ngày 22 tháng 11 năm 2015)‎ cho biết từ này trong tiếng Việt mượn từ tiếng Trung, có nghĩa là xu hướng đi ngược lại hoặc chống lại trạng thái đang chuyển động, đang thay đổi, đang tiến hóa.
– Cũng theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia thì xã hội muốn phát triển và tiến bộ, phải không ngừng vận động và phát triển. Những lực lượng kìm hãm vận động và phát triển, gây ra sự trì trệ là những lực lượng phản động.
– Tiếng Anh “reactionary” và theo tiếng Pháp “réactionnaire”, dịch sang tiếng Việt là “phản động”, chỉ những người hoặc nhóm người đi ngược lại trào lưu tiến hóa xã hội, nhằm duy trì hoặc phục hồi một xã hội đã lỗi thời.
– Còn theo Từ điển Oxford English Dictionary, từ “reactionary” (phản động) chỉ quan điểm chính trị chống đối, đàn áp những cải cách trong quản lý nhà nước.
– Trong tất cả những cách giải thích, “phản động” là một từ không có nghĩa bóng. Nghĩa đen của nó mang tính hoàn toàn tiêu cực.
– Nhưng theo các Đảng cộng sản, nhất là các đảng cộng sản đang cầm quyền, toàn trị thì từ “phản động” lại được giải thích hết sức tùy tiện, cả trong đối ngoại và đối nội. Theo họ, bất kỳ ai, bất kỳ hành vi nào dù là ôn hòa nhưng đe dọa đến quyền lực tuyệt đối và sự tồn tại của đảng đó đều là phản động. Dưới đây là vài dẫn chứng:
Từ thời lập quốc Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa năm 1949, Đảng Cộng sản Trung Quốc đứng đầu là Mao Trạch Đông luôn luôn coi Đảng Cộng sản Liên Xô là “đồng chí” và coi Mỹ là kẻ thù số 1, là “phản động”. Đến cuối thập kỷ 60 của thế kỷ 20, Đảng Cộng sản Trung Quốc lại coi Đảng Cộng sản Liên Xô là “phản động” và sang thập kỷ 70 thì bắt tay hữu hảo với Mỹ.
Ở Việt Nam, cho đến trước ngày “đổi mới”, Đảng Cộng sản Việt Nam (trước đó là Đảng Lao động Việt Nam) luôn luôn coi Mỹ là kẻ thù, là phản động. Đến nay thì Đảng Cộng sản Việt Nam lại coi Mỹ là đối tác toàn diện. Trong thập kỷ 60, tư tưởng Mao Trạch Đông từng được coi là kim chỉ nam, ghi trong Cương lĩnh của Đảng. Sau năm 1979, Hiến pháp Việt Nam ghi Trung Quốc là kẻ thù truyền kiếp, là phản động. Lòng vòng đến nay, Trung Quốc lại được coi là ông bạn láng giềng “4 tốt”.
Còn đối nội thì sao?
Vào thập kỷ 60 (thế kỷ 20) ông Kim Ngọc, Bí thư tỉnh ủy Vĩnh Phú là người khởi xướng “khoán hộ trong nông nghiệp” để cứu dân khỏi đói. Ông đã bị Tổng bí thư Trường Chinh chỉ thị phải kiểm điểm, bị ngưng chức bí thư tỉnh ủy, sau đó ít năm thì lặng lẽ về hưu, chỉ vì bị quy tội đi ngược chủ nghĩa Marx-Lenin và tư tưởng của Đảng, phá hoại chủ nghĩa xã hội. Nhưng sau khi ông mất, Đảng Cộng sản Việt Nam lại ca ngợi ông là người có công trong sự nghiệp đổi mới và được truy tặng Huân chương Hồ Chí Minh.
Trước Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ 10, những ai mong muốn làm giàu đều bị quy là có tư tưởng phản động thối tha, muốn phục hồi chủ nghĩa tư bản, đi ngược với chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng của đảng. Sau Đại hội 10 lại có Quy định số 15/QĐ TW cho phép đảng viên cộng sản làm kinh tế tư nhân, tức là được phép trở thành các nhà tư bản. Cách đây chỉ vài ngày, trong lần đến thăm trường Đại học Tôn Đức Thắng, ông Đinh La Thăng, tân Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh còn mạnh miệng hơn nữa, yêu cầu nhà trường phải giáo dục khuyến khích sinh viên có khát vọng làm giàu.
Như vậy, ghép ai là phản động là tùy theo ý thích từng cơn, từng lúc, của các nhà lãnh đạo đảng cộng sản, chứ không có tiêu chuẩn chân lý nào. Hôm nay bạn có thể bị họ quy tội phản động, thậm chí bỏ tù, thủ tiêu nhưng ngày mai bạn lại có thể được họ mang hoa đến viếng. Họ coi người dân chúng ta như con rối để giật dây lúc nào tùy thích.
Vậy đối với chúng ta, tiêu chuẩn chân lý nào để phân biệt “phản động” hay “tiến bộ”?
Thực tiễn chính là thước đo chân lý, phân biệt cái gì và ai là phản động hay tiến bộ.
Học thuyết Marx ra đời từ thế kỷ 19. Nay là thế kỷ 21. Thế giới đang bước vào cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư[1]. Tuy rằng học thuyết Marx không bị chối bỏ hoàn toàn nhưng cả về lý luận và thực tiễn đã chứng minh học thuyết đó là không chính xác: Dự báo kinh tế của Marx, giải pháp của Marx, lời tiên tri của Marx đều không trở thành hiện thực[2]. Chủ nghĩa tư bản có những khuyết tật nhưng nó luôn luôn thay đổi và đến nay còn năng động hơn so với khi Marx cho ra đời cuốn Tư bản. Vậy tại sao có thể quy những người không theo học thuyết Marx – Lenin là phản động?
Ngay cả ông Trương Tân Sang là Chủ tịch nước cũng đã nói tham nhũng đang là quốc nạn (xem link) và công nhận nền kinh tế và xã hội nước ta đang ở tình trạng trì trệ và chính ông đã tự nhận mình có phần trách nhiệm. Chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan thì nói “Việt Nam là một quốc gia kỳ lạ, không chịu phát triển” (xem link) mà ai cũng biết đó là kết quả của sự lãnh đạo và cầm quyền toàn trị của Đảng Cộng sản Việt Nam. Căn cứ theo định nghĩa về từ “phản động”, đối với những ứng viên tự ứng cử đại biểu quốc hội như ông Phan Văn Phong, đã công bố công khai chương trình tranh cử cho toàn dân biết, là những người thật sự đại diện ý nguyện của dân, mong muốn góp phần chống tham nhũng thành công, bảo vệ chủ quyền của đất nước, góp phần chống lại mọi sự lạm dụng và tha hóa quyền lực của bộ máy nhà nước, đang làm hại đến lợi ích chính đáng của người dân, góp phần chấn hưng nền giáo dục quốc gia, góp phần thúc đẩy đất nước chúng ta phát triển để không hổ thẹn với các quốc gia khác trong khu vực và thế giới thì sao có thể qui kết những người ấy là những kẻ phản động? Phải chăng những người quy kết như thế là những kẻ mất trí và chính họ là những kẻ phản động. Các vị đã tự ứng cử đại biểu quốc hội nên vững trí, tự tin ở chân lý, tin ở sự sáng suốt của người dân, đừng để bị lung lạc bởi lời đe dọa của một vài kẻ mất trí trong Tiểu ban An ninh của Hội đồng bầu cử.
T.B.
Tác giả gửi BVN

Chú thích:
[1]- “Làm chủ cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư”, Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế, 14/02/2016, http://nghiencuuquocte.org/2016/02/14/lam-chu-cuoc-cach-mang-cong-nghiep-lan-thu-tu/
[2] – “Marx dẫn đầu cuộc nổi dậy chống chủ nghĩa tư bản”, Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế, 22/5/2014, http://nghiencuuquocte.org/2014/05/22/marx-chong-lai-chu-nghia-tu-ban-p2/

Phản động nhân danh lòng yêu nước

Thứ Ba, 16/10/2012, 01:51:00
 Font Size:     |        Print
Thời gian gần đây, các thế lực thù địch sử dụng nhiều luận điệu khác nhau để kích động chống Ðảng, chống Nhà nước ta, kêu gọi lật đổ chính quyền. Dù nấp dưới danh nghĩa nào, vẫn có thể nhận ra các luận điệu nhằm mục đích chống phá của chúng. Mới đây, một số website và blog truyền bá bài viết của Phạm Lê Vương Các - người tự giới thiệu là "sinh viên đại học năm thứ ba"(!?), cũng nằm trong  các thủ đoạn mà các thế lực thù địch đang triển khai.
Sau khi viện dẫn "triết gia Socrate bị kết án tử hình vì tội đầu độc tư tưởng cho giới trẻ và chống lại nhà nước dân chủ chủ nô", Bruno "phải lên máy chém vì ủng hộ thuyết "nhật tâm", Phạm Lê Vương Các nhắc tới một số nhân vật lịch sử như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Nguyễn Thái Học... và gọi họ là "những người tiên phong trong việc chống nhà nước phong kiến nửa thuộc địa đương thời để xóa bỏ sự nô dịch, lạc hậu, và bất công". Từ những cứ liệu đó, tác giả này kết luận "không thể xem chống nhà nước là hành vi hoàn toàn tiêu cực được". Khi làm công việc này, Phạm Lê Vương Các đã bỏ qua một nội dung có tính chất nền tảng là bối cảnh lịch sử của mỗi thời kỳ, mỗi giai đoạn lịch sử, và tính tất yếu của quá trình nhận thức cùng hành vi của con người trong bối cảnh lịch sử ấy. Phải chăng, tác giả do thiếu hiểu biết hay cố tình bỏ qua nội dung nền tảng này, đánh đồng nhà nước chủ nô, nhà nước phong kiến nửa thuộc địa với nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân hiện nay? Trên thực tế, bản chất các loại hình nhà nước mà những nhân vật lịch sử do Phạm Lê Vương Các viện dẫn đã từng sống lại hoàn toàn khác nhau, mục đích đấu tranh của mỗi người cũng rất khác nhau. Từ sự mập mờ này, Phạm Lê Vương Các nhận định "tuy cùng một  hành vi chống nhà nước, nhưng đã làm cho Việt Nam sản sinh ra những con người "phản động" theo tinh thần lý luận đấu tranh giai cấp nhưng lại mang bản chất "yêu nước" theo tinh thần ý thức trách nhiệm của một công dân đấu tranh cho dân chủ tiến bộ, tùy theo cách hiểu khác nhau của mỗi người". Sao lại đánh đồng "phản động" với "yêu nước"? Nếu là người hiểu biết, không thể nhầm lẫn giữa hai phạm trù đối nghịch nhau như thế. Phản động hay yêu nước đều phải dựa trên các tiêu chí xét đoán rõ ràng, được cả cộng đồng thừa nhận, không phải muốn là có thể nói vống lên. Trong cuộc sống, suy nghĩ và hành vi của con người có ý thức đều hướng tới mục tiêu cụ thể, mà tựu trung trước hết là vì nhu cầu của bản thân mình và vì nhu cầu của cộng đồng mà mình là thành viên. Thử hỏi ba blogger mà Phạm Lê Vương Các đứng ra bao biện cho họ đã đóng góp gì cho đất nước, cho cộng đồng nơi họ sống, mà có thể gán cho tên gọi "người yêu nước"? Việc họ viết năm, bảy cái entry chứa đựng thông tin mơ hồ, thật - giả và tốt - xấu lẫn lộn... để vu cáo chính quyền lẽ nào lại là biểu hiện của lòng "yêu nước"? Và không biết vì ấu trĩ không hiểu mối quan hệ giữa hiến pháp và pháp luật với nhà nước hay tôn thờ chủ nghĩa vô chính phủ mà Phạm Lê Vương Các còn viết một cách rất tùy tiện rằng: "Không thể lấy hiến pháp và pháp luật để bảo vệ Nhà nước"! Thử hỏi, nếu Nhà nước không có hiến pháp và pháp luật sẽ ra sao, ai sẽ bảo vệ quyền lợi của người dân?! Xã hội sẽ ra sao nếu mỗi công dân lại tự đề ra một luật riêng cho bản thân để muốn làm gì thì làm?
Nguy hiểm hơn, theo Phạm Lê Vương Các: "Một khi nhà nước không còn là của dân, do dân, và vì dân trên thực tế thì chống lại nhà nước đó là hành vi tất yếu". Cần vạch rõ sự dối trá này vì nó chỉ đúng khi "dân" ở đây là đại đa số nhân dân, chứ không phải là một vài cá nhân chưa làm được bất cứ điều gì cho dân nhưng vẫn xưng xưng tự nhận là "đại diện của nhân dân". Trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, nhà nước thuộc địa nửa phong kiến  ở Việt Nam chỉ phục vụ bộ máy cai trị thực dân, thẳng tay đàn áp bóc lột nhân dân. Còn Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam được Hiến pháp khẳng định là Nhà nước "của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân". Chúng ta xây dựng Nhà nước pháp quyền chính là xây dựng một nhà nước dân chủ ngày càng hoàn thiện, nơi nhân dân đứng ra tự tổ chức, tự quản lý, tự điều hành xã hội của mình. Tính thống nhất bao trùm lên mọi hoạt động tổ chức và thực hiện quyền lực của nhân dân, chứ không phải mâu thuẫn hay đối kháng. Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam do nhân dân lập ra thông qua bầu cử, ý chí của đại đa số nhân dân thể hiện qua hoạt động của Nhà nước một cách công khai, minh bạch, và hành động của Nhà nước thể hiện ý chí, tư tưởng, nguyện vọng của nhân dân. Nhân dân lập ra Nhà nước để bảo vệ cho các quyền và lợi ích của chính mình, nếu Nhà nước không có Hiến pháp và pháp luật bảo vệ thì sẽ không bảo vệ được nhân dân. Ðiều 6 Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (năm 1992) quy định "Nhân dân sử dụng quyền lực Nhà nước thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân là những cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân"; Ðiều 53 khẳng định công dân "có quyền tham gia quản lý Nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận các vấn đề chung của cả nước và địa phương". Trong trường hợp công dân không đồng tình với Nhà nước, hoặc muốn đưa ra ý kiến riêng thì có thể "kiến nghị với cơ quan Nhà nước", Ðiều 74 nêu cụ thể "Công dân có quyền khiếu nại, quyền tố cáo với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân hoặc bất cứ cá nhân nào". Quy định của pháp luật nước ta cũng nêu rõ, công dân có quyền phản đối cơ quan Nhà nước, công dân có thể kiện cơ quan Nhà nước ra tòa án. Ðó là quyền của công dân, bởi không phải lúc nào các cơ quan nhà nước cũng đúng, và ở nước ta đã có một số trường hợp công dân thắng kiện cơ quan nhà nước.
Bên cạnh đó, Phạm Lê Vương Các còn cho rằng, có sự khác nhau trong quan niệm "chống nhà nước" giữa "các nước dân chủ" với các nước XHCN. Xét từ chính trị học, tất cả các mô hình nhà nước đều có những mặt tốt và mặt hạn chế, con người luôn cố gắng tiệm cận với một mô hình nhà nước hoàn hảo như tiệm cận với chân lý. Nhà nước còn có tính lịch sử, văn hóa sâu sắc, không thể đem mô hình nhà nước của quốc gia này áp dụng cho quốc gia khác mà hy vọng sẽ có kết quả. Tuy nhiên, Phạm Lê Vương Các lại đưa ra quan niệm lệch lạc: "chống lại nhà nước XHCN ở đây luôn được nhà cầm quyền xem là mối đe dọa lực lượng thống trị, an ninh quốc gia, phá vỡ khối đại đoàn kết thống nhất, và lý tưởng của toàn dân".  Xét từ nguồn gốc và bản chất của nhà nước, điều này thật ngây thơ, người viết hoàn toàn không hiểu biết. Ðể bảo vệ nhà nước, mọi quốc gia đều phải áp dụng các biện pháp bảo đảm an ninh, một số quốc gia phương Tây còn theo dõi tường tận đến từng cá nhân, thậm chí phát động tấn công các quốc gia khác với lý do... để bảo đảm an ninh! Ở nước ta, quyền lực nhà nước là thống nhất, dù là hành pháp, lập pháp hay tư pháp đều phải làm đúng, làm hết trách nhiệm của mình. Nhà nước khuyến khích hoạt động phản biện xã hội thông qua Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể. Khi công dân có vấn đề cần giải quyết, họ đều có quyền yêu cầu các tổ chức đoàn thể, hệ thống thông tin đại chúng... giúp đỡ. Song không vì thế, công dân lại làm dư luận hoang mang, gây mất ổn định xã hội bằng đưa tin bịa đặt trên internet, nói xấu lãnh đạo, nói xấu người khác mà không đưa ra bằng chứng, rồi kích động bạo loạn, kêu gọi lật đổ chính quyền... Các Ðiều 87, Ðiều 88, Ðiều 92 của Bộ luật Hình sự quy định rõ các tội danh liên quan đến hành vi chống chính quyền nhân dân, chỉ có ai cố tình không hiểu mới phát ngôn tùy tiện như vậy. Xét trên mọi phương diện, hành vi "làm ra, tàng trữ, lưu hành các tài liệu có nội dung chống nhà nước" đều rất nguy hiểm đối với xã hội và không thể gọi đó là hành vi yêu nước. Vì thế, các nước phương Tây đã đối xử rất cứng rắn với Julian Assange khi trang mạng Wikileaks tải lên những thông tin "nhạy cảm".
Nhà nước của chúng ta đang có bước chuyển quan trọng để tự hoàn thiện, từ đó tiếp tục tổ chức, lãnh đạo sự nghiệp phát triển đất nước, củng cố niềm tin của mọi tầng lớp nhân dân. Và khi trong bộ máy Nhà nước còn những "con sâu làm rầu nồi canh", chúng ta cần đấu tranh làm trong sạch theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 (khóa XI). Hệ thống pháp luật của nước ta được xây dựng nhằm bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của người dân, nhưng một số cán bộ, công chức chưa thực hiện đúng nhiệm vụ, chức trách được giao, vẫn còn tình trạng cơ hội, trục lợi cá nhân, gây bất bình trong nhân dân. Những cán bộ trong bộ máy nhà nước, doanh nghiệp vi phạm pháp luật bị khởi tố trong thời gian qua là minh chứng cho quyết tâm lập lại kỷ cương xã hội của Nhà nước. Do đó, mỗi công dân cần có cái nhìn toàn diện hơn về vai trò của Nhà nước, cũng như cần đóng góp thiết thực để xây dựng Nhà nước. Từ lâu, những ý kiến đóng góp tâm huyết của người yêu nước chân chính luôn luôn được ghi nhận, nghiên cứu, xem xét một cách nghiêm túc.
ANH KHÔI
Theo:

 
Sự ra đời và sự hình thành của cờ đỏ cực đoan.Yêu nước hay là phá nước?

Từ nhóm Cờ đỏ tới Hồng vệ binh

Từ Thức - VNTB
107
Vệ binh đỏ của đảng CSVN?
Vệ binh đỏ của đảng CSVN?
Người ta ví Đảng Cờ Đỏ với Vệ Binh Đỏ của Tàu. Theo đúng phong tục cái gì có ở Tàu, sẽ có ở VN.
Nhắc cho các đảng viên Cờ Đỏ một sự kiện lịch sử: Mao thành lập Vệ Binh Đỏ để củng cố quyền lực, nhưng khi đã tàn sát hết các đối thủ và lực lương thù nghịch, Mao sợ nạn kiêu binh, đã quay lại tàn sát bọn vệ binh Đỏ cũng tàn bạo không kém.
Mao sáng chế ra Vệ Binh Đỏ sau khi thất bại thê thảm trong kế hoạch Bước Nhẩy Vọt, trên lý thuyết là một cuộc cách mạng canh nông sẽ đưa nước Tàu đến no ấm, phú cường, trên thực tế đã khiến canh nông Trung Hoa phá sản, hàng triệu người chết đói.
Lòng thờ kính lãnh tụ lung lay, có người đã bóng gió chỉ trích. Mao phát động phong trào Vệ Binh Đỏ, trước hết để tiêu diệt những kẻ bị nghi ngờ theo chủ nghĩa xét lại, mặc dù đã theo Mao từ thời Vạn lý trường Chinh, sau đó để xoá bỏ văn hóa cổ truyền, đẩy mạnh ‘’cách mạng vô sản ‘’.
Vệ Binh Đỏ phát động ‘’Cách mạng Văn Hóa ‘’ muà hè 1966. Chỉ trong một tháng, 77 ngàn người bị đuổi khỏi nhà, gia sản bị cướp, gần nửa triệu bị đưa đi nông trường, còn ghê rợn hơn vùng kinh tế mới ở Việt Nam, cũng nhập cảng từ Trung Hoa.
Các trí thức, giáo sư, nghệ sĩ, tóm lại, những người biết đọc, biết viết, có khả năng suy nghĩ bị đấu tố, bị toà án nhân dân kết tội, làm nhục, hành hạ cho đến chết. Hay tự thắt cổ chết.
Những tên sát nhân được đào tạo trong căm thù nhiều khi chỉ mới 12, 13 tuổi. Nhiều người bị chính con cháu của mình đấu tố, khai tử. Những lãnh tụ cao cấp bị nghi ngờ như Lưu Thiếu Kỳ (cựu chủ tịch nước), Bành Đức Hoài (nguyên soái quân đội nhân dân) bị bức tử, Đặng Tiểu Bình bị hành hạ thân tàn ma dại, con trai bị đánh gẫy chân. Vợ Kỳ, cùng với 300 ‘’tên phản động xét lại‘’ bị đấu tố, nhục mạ, gục mặt, quỳ gối trước 300.000 khán giả gào thét man rợ.
Cộng Sản Việt Nam, trước phong trào chống đối, đem kịch bản kiêu binh ra soạn lại, xúi côn đồ đánh phá những người chống đối, chứng tỏ cái sợ đã đổi bên. Một cách thú nhận lực lượng an ninh, cảnh sát, tình báo hùng hậu không còn hiệu quả nữa.
Chưa đủ, Mao phát động chiến dịch tiêu diệt Bốn Cái Cũ: phong tục, văn hóa, tập quán, tư tưởng.
Trường học đóng cửa trong hai năm để học sinh đi cứu cách mạng. Hàng trăm ngàn Vệ Binh Đỏ kéo nhau đi đốt sách, đốt thư viện, san bằng những di tích của hàng ngàn năm lịch sử, những kiến trúc cổ xưa, những nơi thờ tự, tất cả những gì liên hệ đến văn hoá cũ.
Khi đã tiêu diệt hoàn toàn đối lập, để vãn hồi trật tự, vì các phe phái vệ binh bắt đầu giết nhau, Mao ra lệnh cho ‘’quân đội nhân dân‘’ thanh toán Vệ Binh Đỏ.
Mười bẩy triệu thanh thiếu niên, trong đó gần 5 triệu vệ binh đỏ bị đày đi nông trường, hàng trăm ngàn bị tra tấn, hành hạ hay bị xử tử.
Vệ Binh Đỏ chấm dứt đầu năm 1968, sau hai năm tàn sát, đốt phá , gây kinh hoàng, nhưng vết thương của xã hội Tàu cho tới nay vẫn chưa lành. Phong hóa Tàu ngày nay bại hoại một phần lớn là hậu quả của ‘’cách mạng văn hóa‘’.
Cộng Sản Việt Nam, trước phong trào chống đối, đem kịch bản kiêu binh ra soạn lại, xúi côn đồ đánh phá những người chống đối, chứng tỏ cái sợ đã đổi bên. Một cách thú nhận lực lượng an ninh, cảnh sát, tình báo hùng hậu không còn hiệu quả nữa.
Các đảng viên Đảng Đỏ hãy biết phương pháp hành động của ‘’cách mạng’’: dùng cung để bắn thỏ, khi hết thỏ sẽ bẻ cung. Và hãy nhớ điều này: những người mà các anh đang hung hăng phá phách, hành hạ là những đồng bào còn có lòng với đất nước, tranh đấu cho quyền làm người, muốn đưa dân tộc, trong đó có các anh, ra khỏi thân phận nô lệ. Nhiều vệ binh đỏ đã ân hận cho đến hơi thở cuối cùng.

“Cờ đỏ yêu nước” hay nhóm khủng bố người dân?

Anh Văn (VNTB) – Sự việc lần này càng nghiêm trọng hơn, khi mà nhóm người tự xưng yêu nước lại tàng trữ – sử dụng vũ khí quân dụng trái phép (dám thách thức “chính phủ kiến tạo” của ông Phúc?). 
Bịt mặt, đeo kiếng đen, không xưng tên, không đưa giấy-tờ, có mang theo cờ, băng rôn, và cả vũ khí “lụm được” luôn miệng là “ôn hòa” để tìm Lm Nguyễn Duy Tân xử lý.
Nguyễn Trọng Nghĩa “giáo dân yêu nước” và nhóm “người yêu Đảng” đã tràn vào giáo xứ Thọ Hòa để “thực thi pháp luật”.
Đây là lần thứ hai nhóm “người yêu Đảng” tràn vào giáo xứ để tìm cách xử Lm Nguyễn Duy Tân.
Vấn đề đặt ra là: ai cho phép mười hai người (12) có được tư cách thực thi pháp luật. Lòng yêu nước chỉ là một phạm trù về mặt tình cảm (cảm xúc), bản thân nó chưa bao giờ trở thành một nguyên tắc hành xử pháp luật trong một xã hội hiện đại. Cũng có nghĩa là, nó chỉ tồn tại khi mà xã hội chỉ thuận theo nguyên tắc “nợ máu – trả máu”, và tất nhiên không hề có khế ước xã hội.
Sự việc lần này càng nghiêm trọng hơn, khi mà nhóm người tự xưng yêu nước lại tàng trữ – sử dụng vũ khí quân dụng trái phép.
Trước đó, Nguyễn Phúc Hưởng (thường trú tại Thị trấn Rạch Gòi, Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang)- người cũng có mặt trong danh sách 12 người từng đe dọa nhà hoạt động Lê Mỹ Hạnh rằng: 1 giọt máu cờ đỏ rơi xuống thì tất cả những thằng 3 que, phản động phải trả giá.
Cũng trước đó, Lê Thị Mỹ Hạnh (sinh năm 1987 – thường trú tại phường 17 – Gò Vấp – Sài Gòn) đòi thả bom xăng đốt giáo xứ, đòi giết sạch và đốt sạch những ai va chạm với chị ta.
Tính chất hung hãn, coi thường pháp luật, nhân danh luật pháp xử người lần này được cho là hệ quả của việc Chính quyền cho chìm xuồng vụ Phan Hùng cùng đồng bọn tấn công chị Lê Mỹ Hạnh tại Sài Gòn vào ngày 2/5.
Facebooker Uyên Thùy Nguyễn đã đúng khi khẳng định, nếu chính quyền Việt Nam không làm rõ hay xử lý nhóm người này thì “việc hành hung, đe dọa, xâm hại tính mạng, sức khỏe công dân” sẽ tiếp diễn như… đi chợ.
Nó cho thấy, những người này hành xử như một “công cụ” và hoàn toàn không có một khái niệm “ôn hòa” nào bên trong. Đúng hơn, tính chất nhân quyền không tồn tại trong họ như một khái niệm cần thiết trong xây dựng chế độ văn minh, mà luôn tìm cách hành xử theo luật rừng và nợ máu. Và đó là lý do vì sao dù nhóm người này lên tiếng ôn hòa, nhưng lại đòi xóa bỏ những bất đồng chính kiến bằng bạo lực – đồng nghĩa vứt bỏ những giá trị pháp luật hiện hành.
Đó cũng là lý do vì sao bản thân người viết nhận thấy bóng dáng Khrme đỏ trong nhóm “cờ đỏ yêu nước” này, bóng dáng bị phủ bởi các yếu tố khủng bố, thanh trừng chính trị, thanh trừ giai cấp, cho đến thảm sát và diệt chủng trong tương lai.
Manh động và có phần “khát máu”, rõ ràng, như nhiều cảnh báo trước đó, nếu chính quyền xử lý không khôn khéo thì đây sẽ là nhóm người cực đoan và có nguy cơ bùng phát thành một tổ chức gây bạo loạn và phá hỏng trật tự trị an trong tương lai. Đúng hơn, nhóm người này hiện như một con dao hai lưỡi mà bản thân chính quyền (cho đến lúc này) hoàn toàn chưa nhận thức rõ được điều đó, và thậm chí có phần sử dụng sai mục đích, chỉ vì muốn “dập tắt” tiếng nói bất đồng chính kiến trong xã hội.
Chính quyền giờ đây thay vì nuôi dưỡng, thì cần phải cảnh giác hơn nữa trước sự manh động của nhóm “cờ đỏ” này, sự cảnh giác đó phải tương tự như cách mà đảng viên ĐCS Tiệp Khắc Jiliut Phuxich lên tiếng khi đứng trước giá treo cổ của Tòa án Phát xít: “Hỡi nhân loại, ta yêu người, nhưng hãy cảnh giác”.
Bởi nếu không cảnh giác, biến động thời cuộc sẽ biến nhóm “cờ đỏ” thành những “đầu trọc Nga” tại đất Việt, hay xây dựng một tổ chức khủng bố trong lòng xã hội ngay khi có chính biến về kinh tế hay chính trị. Lúc đó, khẩu súng quân dụng năm xưa từng không bị xử lý sẽ quay ngược đầu súng và tấn công vào tính ổn định của xã hội – chính trị, điều mà ĐCSVN luôn tự hào là mình đã và sẽ làm được.

 

VIẾT VỀ CHỐNG CỘNG TẠI HẢI NGOẠI

 
 
 
 
 
 
Rate This

BÀI VIẾT CỦA  TRẦN TRUNG NGỌC VỀ CHỐNG CỘNG TẠI HẢI NGOẠI. (Trần Trung Ngọc là một trong những người đã rời khỏi Sài Gòn năm 1975 và hiện đang sinh sống tại Mỹ).
——————————————–
Theo Trần Trung Ngọc thì ông nhận mình là ”Người quốc gia chân chính” và vẫn tôn thờ quốc gia. Có thể nói, đối với những người Cộng Sản thì Trần Trung Ngọc là ”phía bên kia” và đối với Trần Trung Ngọc thì Cộng Sản cũng là ”phía bên kia”.Tuy nhiên, quan điểm về mọi vấn đề của Trần Trung Ngọc không phải là ”Chống Cộng” mà ông đã nhìn nhận một cách toàn diện hơn về thể chế VNCH, về Cộng Sản, về những người đang điên cuồng chống cộng tại Hải Ngoại…Sau đây là một số ý kiến được trích trong bài viết của Trần Trung Ngọc trên Xichloviet:

”31 năm qua rồi, ngày nay, hơn 60% người dân Việt Nam sinh sau 1975, tại sao chúng ta cứ còn đầu độc lớp trẻ bằng những hận thù của lớp trước. Ra công xuyên tạc, mạ lỵ những người lãnh đạo đảng Cộng Sản bằng những ngôn từ hạ cấp không làm thay đổi được một sự kiện lịch sử là chính người Cộng Sản đã thành công huy động được dân chúng đánh đuổi thực dân Pháp và rồi thực hiện được thống nhất đất nước, phù hợp với sự mong ước của tuyệt đại đa số người dân Việt. Ai không muốn cho đất nước thống nhất, Trung Nam Bắc là một, xin hãy lên tiếng. Hay là chỉ có thể thống nhất dưới bóng đen của cây thánh giá? Có chăng chỉ là bọn người vẫn cho rằng “Việt Cộng cưỡng chiếm miền Nam” hay sống trong tâm cảnh “Cha đã tiên phong góp phần giải phóng quê hương Cha, và tiếp đến sẽ là quê hương chúng con”. Thật là tội nghiệp cho những loại đầu óc như vậy của họ.”

—————————————
Trần Chung Ngọc
Kể từ ngày tôi “tự cưỡng bách di tản” khỏi Saigon vào mấy ngày cuối tháng 4, 1975, nay đã hơn 30 năm sống trên đất Mỹ. Cuộc chiến Việt Nam đã đưa đẩy nhiều người đến những số phận không ai muốn. Nhưng dù muốn hay không, với bản năng sinh tồn, con người vẫn phải tiếp tục sống, và tự chọn cho mình một lối sống.

Hơn 30 năm sống trên đất Mỹ nhưng lối sống của tôi chẳng phải là lối sống Mỹ, mà cũng chẳng phải là lối sống Việt.. Không xem football, không xem “soap” trên TV, không ăn gà tây nhân dịp lễ người Da Đỏ “không tạ ơn”, không la cà quán rượu, không ly dị [không Mỹ]; không hút thuốc lá, không uống rượu, chưa từng đặt chân đến những buổi nhạc hội ca vũ, chưa từng dự một cuộc biểu tình nào, chưa từng bỏ tiền ra mua Thúy Nga Paris, và không chống Cộng [không Việt], và từ năm 1985, sau khi đọc vài cuốn sách về cách nuôi súc vật và gia cầm ở Mỹ, đến nay đã 21 năm, chưa từng có một miếng thịt nào, bất kể là thịt gì, còn đi vào trong người.

Hơn 30 năm sống xa quê hương nhưng bù lại cả một khung trời thế giới đã mở rộng trước mắt. Thật vậy, nhờ “hồng ân thiên chúa” nên tôi đã có dịp đi tham quan, ngoài gần khắp nước Mỹ, khá nhiều nơi trên thế giới: Trung Quốc, Đài Loan, Singapore, Tây Âu, Đông Âu, Bắc Âu. Nhưng riêng đối với tôi, điều bù đắp hơn hết là tôi có cơ hội đọc rất nhiều sách về chiến tranh Việt Nam, về Ki Tô Giáo cũng như về Phật Giáo. Điều này đã khiến tư duy của tôi thay đổi trên nhiều phương diện.

Về Ki Tô Giáo, sau khi đọc một số sách nghiên cứu về Ki Tô Giáo trong vòng 200 năm gần đây của một số vị lãnh đạo cũng như một số học giả trong Ki Tô Giáo, cùng những khám phá trong vũ trụ học, sinh học, sinh hóa học, di truyền học v..v.., cuối cùng tôi khám phá ra rằng, chẳng làm gì có Thiên Chúa để mà có “hồng ân thiên chúa”, đúng như Richard Dawkins đã nhận định trong cuốn sách mới xuất bản của ông, “The God Delusion”: Thiên Chúa chỉ là một ảo tưởng, ảo tưởng của những người tin là Thiên Chúa thực sự hiện hữu..

Về Phật Giáo, tôi nghĩ có lẽ tôi đã tu từ nhiều kiếp trước nên nay tôi mới có thể có một cuộc sống như vậy, và tôi tin rằng thuyết “duyên sinh” cộng với thuyết “nghiệp báo” của nhà Phật là cách giải thích hợp lý nhất về những thiên sai vạn biệt trên thế giới.

Còn về chiến tranh Việt Nam, tôi đã viết một bài nhan đề “Chiến Tranh Nhìn Từ Một Phía: Phía Của Không Phía”.

Có người cho rằng đã mang danh là một người “di cư tị nạn CS” thì tất nhiên phải tham gia việc chống Cộng ở hải ngoại. Không hẳn vậy, tuyệt đại đa số thầm lặng không muốn dính dáng đến những hoạt động chống Cộng trong những vùng “gió tanh mưa máu” [mượn từ của Tú Gàn] rải rác ở ngoại quốc, các vùng Bolsa, San Jose ở California và vùng Sydney ở Úc là những vùng nổi tiếng nhất. Tôi không thuộc đa số thầm lặng trên mà lại thuộc thiểu số không thầm lặng. Không thầm lặng trước những hành động chống Cộng làm nhục lây đến những người Việt Quốc Gia chân chính. Tôi không có nói chỉ để mà nói, mà vì những lý do sau đây.

1) Hiện Tượng Chụp Mũ Cộng Sản Bừa Bãi.

Có một sự kiện khá ngộ nghĩnh trên một số trang nhà hải ngoại là bất cứ ý kiến nào, của bất cứ ai, mà không thuộc loại Chống Cộng Cực Đoan hay Chống Cộng Cuồng Điên [CCCĐ], hay Chống Cộng Chết Bỏ [CCCB], hay Chống Cộng Cho Chúa [CCCC], hoặc là đụng đến Ki Tô Giáo dù rằng chỉ là những sự thật, được dẫn chứng đàng hoàng từ những tài liệu do chính những học giả Tây phương trong Ki Tô Giáo viết, thì y như rằng ý kiến đó bị một số người có vẻ như thiếu moron ở trong óc chụp mũ đó là của Cộng Sản, nằm trong chính sách chống Thiên Chúa Giáo [Thiên Chúa ở đây nên hiểu là Thiên Chúa của Ki Tô Giáo, một trong số hàng trăm Thiên Chúa khác nhau trên thế giới], nếu sự thực ở trên cõi đời này có một Thiên Chúa như người Ki Tô thường tin, và những người viết ra những sự thực về Ki Tô Giáo đương nhiên phải là tay sai của Cộng Sản Việt Nam. Hiện nay, Cộng Sản có chống Thiên Chúa Giáo hay không, đó là một câu hỏi lớn (a big question).

Ôn cố tri tân. Nếu ngày xưa [xin đọc Peter de Rosa, Vicars of Christ, trang 48], Giáo hoàng Stephen VII khai quật xác chết của Giáo hoàng tiền nhiệm, Formosous, đã chết trước đó 9 tháng, cho mặc áo mũ cân đai của giáo hoàng, đặt ngồi trên ngai ở điện Lateran, rồi đích thân tố khổ một xác chết, thì ngày nay, những người thuộc giới CCCĐ, CCCB, CCCC, vẫn khai quật cái xác chết của CS, để mà tố khổ, tuy rằng những người Công Giáo Việt Nam vẫn ca tụng công ơn của Đức Thánh Cha của họ [John Paul II] đã cùng với TT Mỹ Ronald Reagan khai tử CS từ năm 1989, và hi vọng là tiếp theo, Đức Thánh Cha của họ sẽ “giải phóng quê hương chúng con”.. Nhưng quê hương chúng con đã được giải phóng từ năm 1954 và sau đó, 1975, và Giáo hoàng John Paul II chưa kịp “giải phóng” cái “quê hương đã được giải phóng”, giải phóng khỏi ách thực dân, giải phóng khỏi mưu đồ Công Giáo hóa Việt Nam của các con chiên của Ngài, thì Ngài đã đi chuyến tàu suốt về chầu Chúa nơi Thiên Đường (mù), nơi mà chính Ngài đã phủ nhận sự hiện hữu. Vì vậy, một bạn trẻ đã viết trên Đàn Chim Việt: “CS chết rồi nhưng chưa chôn”. Thật vậy, chúng ta thử về Việt Nam xem có còn cái gì là CS không? Tất nhiên chỉ còn trên hình thức và sách vở. Bởi vì nếu thực sự còn là Cộng sản Mao hay Cộng sản Xít-Ta-Lin thì chẳng làm gì còn các “nhà dân chủ” ngày ngày liên lạc với những tổ chức chống Việt Nam ở Hải Ngoại, ra tuyên ngôn nọ kia, lập hội lập hè v..v..

Điều này không lấy gì làm lạ. Khai thác tâm cảnh thù hận Quốc-Cộng của một thiểu số ở hải ngoại, thế lực đen, alias Công Giáo, một tôn giáo có mối thù truyền kiếp với CS, đã nắm hầu hết những phương tiện truyền thông ở hải ngoại, và vô cùng tích cực trong việc xử dụng hai thứ vũ khí mà Công Giáo thường dùng: vu khống và gây thù hận, khi Công Giáo không còn khả năng xử dụng thanh gươm và bó củi như trong thời Trung Cổ, đúng như John Remsburg đã nhận định trong cuốn “False Claims”. Bất cứ người nào nói đụng đến Công Giáo, dù tất cả chỉ là sự thật, cũng đều bị họ vu khống chụp cho cái mũ “chống Công Giáo” cộng với “làm tay sai cho Cộng Sản” để gây thù hận đối với những tín đồ Công Giáo và đối với những người chống Cộng. Họ làm như chống Công Giáo là một điều cấm kỵ, không được phép làm, hay là một việc vô đạo đức vì đã vạch ra những điều vô đạo đức trong Công Giáo, tuy rằng những nghiên cứu lịch sử về Ki Tô Giáo nói chung, Công Giáo nói riêng, đã là những điều rất thông thường và tràn ngập trong thế giới Âu, Mỹ..

Bất cứ người nào không đồng ý với những hành động chống Cộng một cách thiếu trình độ văn hóa, giáo dục, và cuồng tín như họ cũng đều bị họ vu khống cho là Cộng Sản qua những cụm từ đã trở thành lố bịch: “ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản”, “ăn cháo đá bát”, “đón gió trở cờ”, “mong được ăn cơm thừa canh cặn của CS”, “làm tay sai cho CS”, “nịnh bợ CS”. Nhưng có một điều mà ai cũng thấy rõ, đó là, những người đi chụp mũ vu khống người khác là Cộng Sản không bao giờ đưa ra bất cứ một chứng cớ nào, cũng như không bao giờ nói rõ những lý do nào đã khiến cho cá nhân bị chụp mũ đó đi “làm tay sai cho CS”, hay đi “nịnh bợ CS” trong thời buổi này. Vì danh? Danh gì? Vì lợi? Lợi gì? Vì chức tước? Chức tước gì? Có thực tế không? Có thích hợp với tuổi tác, địa vị, tình trạng kinh tế gia đình của người bị vu khống không? Lẽ dĩ nhiên những người đi buôn nón cối và đi buôn thù hận này không bao giờ cần để ý đến những chi tiết quan trọng này. Đối với họ, sự lương thiện trí thức không phải là vấn đề đáng để ý, vì bản tính của họ đã thuộc loại bất lương rồi, chủ đích của họ chỉ cần gây thù hận là đủ.

Một sự kiện khá ngộ nghĩnh khác là dân chống Cộng hải ngoại thường có thái độ “độc tôn”, cho nên bất cứ ai không chống Cộng theo ý ta cũng là Cộng Sản cả. Bởi vậy mới có cảnh tượng bát nháo, hội đoàn này chụp mũ hội đoàn kia là Cộng Sản, cá nhân này chụp mũ cá nhân kia là Cộng Sản, Công giáo chụp mũ Phật Giáo là Cộng Sản để chạy tội bán nước, và người ngoại đạo cũng lên án Công Giáo là Cộng Sản, hay ít ra cũng là thân Cộng, vì những thủ đoạn chính trị nhơ bẩn “stoop to conquer” của Vatican v..v…

Tại sao vậy? Vì sống ở trên những đất nước tự do nhất thế giới mà những kẻ trên chưa bao giờ đọc đến câu: “Tôi không chấp nhận những điều anh nói, nhưng tôi sẽ bảo vệ đến chết quyền của anh nói như vậy.” (I disapprove of what you say, but I will defend to the death your right to say it), mà theo một tác giả trên Internet, thực ra là của Beatrice Hall, bí danh là S.G. Tallentyre, nói năm 1907, câu mà người ta thường lầm lẫn cho là của Voltaire. [???] Cái mũ “Cộng Sản” đã được xử dụng như là một vũ khí để giữ độc quyền ăn nói và bịt miệng những người không đồng quan điểm với mình, nhưng càng ngày càng trở nên lố bịch vì ngày nay mọi người đều coi nó như một trò hề chính trị của những kẻ hạ căn, cho nên không gây nên một tác dụng nào.

Cộng Sản bất chiến tự nhiên thành, vì bỗng nhiên càng ngày càng có nhiều đồng minh: cá nhân, hội đoàn, Phật giáo, Công giáo, và đặc biệt, theo một vài bạn trẻ trên trang nhà Đàn Chim Việt, những nhân vật nổi danh như Giám Mục Peter de Rosa, tác giả cuốn Những Đại Diện Của Chúa Ki-Tô: Cái Mặt Đen Tối Của Những Triều Chính Giáo Hoàng (Vicars of Christ: The Dark Side of The Papacy); Giám Mục John Shelby Spong, tác giả cuốn Tại Sai Ki Tô Giáo Phải Thay Đổi Không Thì Chết (Why Christianity Must Change or Die); Helen Ellerbe, tác giả cuốn Cái Mặt Đen Tối Của Ki Tô Giáo (The Dark Side of Christianity); Douglas Lockhart, tác giả cuốn Cái Mặt Đen Tối Của Thượng Đế [Của Ki Tô Giáo] (The Dark Side of God); và hàng trăm tác giả khác gồm các bậc lãnh đạo trong Ki Tô Giáo, các giáo sư đại học, chuyên gia về tôn giáo trong thế giới Tây Phương, chỉ vì những nhân vật này cũng “chống Ki Tô Giáo” vì đã viết ra những sự thật về Ki Tô Giáo, do đó là… “thành viên của Giao Điểm”. Nếu chúng ta có dịp ghé qua trang nhà Đàn Chim Việt, chúng ta sẽ thấy “Giao Điểm” đã trở thành cái mũ để đội lên đầu bất cứ người nào không cùng ý kiến chống Cộng, hay nói ra vài sự thực về Công Giáo, hay trích dẫn tài liệu từ Giao Điểm, dù rằng Giao Điểm không hề biết những người này là ai. Tôi đã đích thân hỏi Giao Điểm và các thân hữu Giao Điểm có ai viết trên Đàn Chim Việt không. Ai cũng cười và trả lời Đàn Chim Việt không phải là chỗ để họ viết bài hay góp ý kiến trên đó.

Có một chuyện ngộ nghĩnh khác là, sau khi chụp mũ CS, có người đặt câu hỏi, một câu rất ngớ ngẩn, là tại sao những người mà họ chụp mũ là thân Cộng không về Việt Nam sống với Cộng Sản. Chỉ có kẻ đần độn mới đặt một câu hỏi xâm phạm vào đời tư của người khác như vậy, nhất là khi đặt trên một giả định vu vơ là họ thân Cộng Sản mà không đưa ra bất cớ một bằng chứng nào. Hỏi như vậy thì tốt hơn là nên hỏi 7 triệu người Công Giáo Việt Nam, những người mê mẩn làm nô lệ cho Vatican, nhất nhất đều tuân theo lệnh của Vatican, sao không sang Vatican mà ở, ở đó có “Đức Thánh Cha” là đại diện của Chúa trên trần, có rất nhiều “Cha cũng như Chúa thứ hai”, cho nên chắc chắn là đường lên thiên đường gần hơn và mau hơn là ở Việt Nam. Riêng tôi, nếu có ai hỏi vậy thì tôi sẽ trả lời: Tôi muốn sống ở đâu là quyền của tôi, đâu có phải việc của các người mà xía vào chuyện này. Hơn nữa, ở Mỹ tôi mới có đủ tự do, đủ tài liệu để “chống Công Giáo”, “chống Mỹ”, như các người thường vu khống, và nhất là, “chống những người như các người.”

2)  Những Cảnh Chống Cộng Vô Trí Ở Hải Ngoại.
Tôi có thể nói rằng chính những cảnh chống Cộng bát nháo, thấp kém, vô trí tuệ ở hải ngoại đã làm tôi không thể đứng chung hàng ngũ với những người thuộc loại [CCCĐ] hay [CCCB] hay [CCCC] mà phần lớn thuộc thế lực đen, chống Cộng với tâm cảnh cuồng tín tôn giáo.  Điều khôi hài nhất là mấy ông linh mục ở bên nhà, sống trong một định chế tôn giáo thần trị (theocracy) phi dân chủ, phi nhân quyền v..v.., chỉ có quyền “Tòa Thánh có đánh r…. cũng khen thơm”, hay quyền “hôn nhẫn hôn chân đức thánh cha” v..v.., thế mà lại họp bè họp đảng tranh đấu cho dân chủ và nhân quyền. Đang cam tâm tự nguyện sống trong cảnh nô lệ, dù là nô lệ tâm linh, mà lại đi tranh đấu cho nhân quyền thì thật là điều không tưởng.  Trong thời Ngô Đình Diệm chẳng thấy ông Linh Mục nào đòi đa nguyên, đa đảng hay dân chủ, nhân quyền.  Tại sao?  Vì các Ngài còn đang hưởng ơn mưa móc của một đầy tớ Chúa, ở địa vị các lãnh chúa, hối mại quyền thế, độc quyền buôn lậu và bóc lột, cướp đất của dân, và kiếm linh hồn cho Chúa.
Sau đây là một số hành động thiếu trình độ văn hóa, giáo dục những người nhân danh chống Cộng.  Một nghệ sĩ cải lương Bạch Tuyết cũng làm cho các người ùn ùn kéo đến Chùa biểu tình phản đối.  Một đoàn trình diễn văn nghệ, hay một cuộc triển lãm tranh ảnh cũng làm cho các người ra công biểu tình la ó chửi rủa ngăn chận hành hung những người đi coi.  Một vị sư sang chữa bệnh cũng làm cho các người xông xáo vào Chùa thốt ra những lời hỗn hào vô lễ.  Một vài chương trình TV tiếp vận từ bên nhà cũng làm cho các người biểu tình phản đối, đòi xóa bỏ.  Các người cho rằng một nghệ sĩ, một vài màn trình diễn văn nghệ cổ truyền, một vài vị sư sang chữa bệnh, một vài bức tranh, một vài chương trình TV ở bên nhà v..v.. có thể làm cho lý tưởng quốc gia của các người, những người đã chạy bán sống bán chết khỏi Cộng Sản, bị chao đảo.  Và còn nhiều nữa, làm sao kể ra cho hết.  Như vậy, các người đã coi người Việt tỵ nạn toàn như các người, sợ bóng sợ gió ảnh hưởng của một nghệ sĩ, của một ông sư, của một chương trình TV v..v. từ trong nước ra.  Các người đã làm nhục những người quốc gia chân chính như đa số thầm lặng vì không muốn dây với hạng người như các người.
Phản ứng của đa số thầm lặng ra sao?  Họ vẫn kéo đến Chùa nghe ca sĩ Bạch Tuyết.  Họ vẫn kéo đến nghe các tu sĩ Phật Giáo thuyết Pháp.  Họ vẫn đi coi các chương trình văn nghệ do các nghệ sĩ bên nhà sang trình diễn. Họ vẫn xem trực tiếp những chương trình TV từ Việt Nam. Họ vẫn đi xem triển lãm.  Họ làm tất cả những điều này bất kể những sự phản đối hung hăng của các người.   Vậy những sự phản đối, những hành động chống Cộng ấu trĩ của các người có tác dụng gì trong cộng đồng?  Các người hãy vắt tay lên trán suy nghĩ xem người quốc gia như các người có làm cái gì để vinh danh người Việt Quốc Gia hay chỉ làm nhục thêm họ vì những hành động chống Cộng vô lối của các người mà đã nhiều lần làm cho báo chí Mỹ phải lên tiếng dè bỉu.   Các người áp dụng y chang sách lược của Công Giáo: cấm tín đồ không được đọc thánh kinh, không được đọc sách báo nào giáo hội không chấp thuận, không được đọc sách…Giao Điểm, sợ tín đồ mất lòng tin.  Nhưng sự bất lương của các người là chống Cộng theo chính sách lưỡng chuẩn:  Sư Phật Giáo từ Việt Nam sang thì chống phá, ngược lại mấy ông đầy tớ Chúa rầm rập từ Việt Nam sang quyên tiền, cấm treo cờ vàng ba sọc đỏ trong nhà thờ, thì các người im thin thít.  Đó là quan niệm về tự do, nhân quyền, đa nguyên đa đảng của các người đấy.  Thật là xấu hổ.  Thử hỏi, nếu các người lên cầm quyền, thì quan niệm về tự do, nhân quyền, đa nguyên đa đảng của các người sẽ đi xuống đâu, và đất nước sẽ trở nên thế nào?  Nhưng lịch sử khó có thể tái diễn với một Ngô Đình Diệm thứ hai và một lũ quạ đen nhân danh tôn giáo để mà tự tung tự tác, hà hiếp, bóc lột người dân.


3. Hiện Tượng Chống Cộng Bằng Chiến Thuật “Mách Bu” Của Trần Ích Tắc:

Trên trang nhà Chuyển Luân, tháng 11, 2006, có bài “Chuyện Xưa, Chuyện Nay” của Quảng Thiện, trong đó có câu: “Yêu nước vốn là bổn phận thiêng liêng của bất cứ người dân của một dân tộc nào. Vì yêu nước nên giả sử có một cách nhìn, một chính kiến, một chính sách khác đối lập với Nhà Nước cũng là chuyện bình thường. Tuy nhiên yêu nước kiểu Trần Ích Tắc yêu cầu ngoại bang can thiệp vào nước mình là một hành động không yêu nước chút nào, nếu không nói đó là hành động phản quốc.” Ngoài ra cũng còn bài ‘Vọng ngoại tắc ngu’ của Trần Đình Hoàng cũng nói lên cùng một ý tưởng. Thảm thay, ở hải ngoại không thiếu gì những Trần Ích Tắc thời đại như vậy. Sau đây xin đơn cử vài sự kiện đậm mùi Trần Ích Tắc.

Những điều hoang tưởng vọng ngoại như “Cha đã tiên phong góp phần giải phóng quê hương Cha, và tiếp đến sẽ là quê hương chúng con” (Bước Qua Ngưỡng Cửa Hi Vọng, trang 11), hoặc “Ủy ban Nhân Quyền Quốc Tế cho rằng…” hay “Tổ Chức Ân Xá Hoa Kỳ tố cáo rằng..”, “Dư luận cả thế giới và nhất là Quốc Hội Mỹ đều tập trung xoáy vào điểm…” , hay ca tụng “Nghị Quyết của Hạ Viện Mỹ”, “Luật về tự do tôn giáo thế giới của Mỹ” v..v.. để ép Việt Nam, đều nói lên “lòng yêu nước” của Trần Ích Tắc, đồng thời tỏ rõ sự yếu kém của những tổ chức tranh đấu hải ngoại, tự mình không thể làm nên trò trống gì, cứ phải dựa hơi những tổ chức, cơ quan ngoại quốc mà thực chất chẳng có ảnh hưởng gì trên quốc tế, nhất là đối với các nước Á Đông.

Người ta đã tin tưởng vào vài lời nói đãi bôi của vài nghị sĩ, dân biểu Mỹ cần kiếm phiếu, hay vài cái nghị quyết chỉ có giá trị trên mặt giấy tờ của Hạ Viện Mỹ, hay đạo luật về tự do tôn giáo thế giới (The International Religious Freedom Act) của Quốc hội Mỹ, làm như Mỹ có toàn quyền thay đổi bộ mặt chính trị ở Việt Nam bằng nghị quyết và đạo luật của Mỹ. Kết quả ra sao, chúng ta đã thấy rõ. Chẳng có ai buồn quan tâm đến thực chất của những nghị quyết hay đạo luật về tự do tôn giáo của Mỹ là như thế nào. Riêng về đạo luật về tự do tôn giáo thì Giáo sư luật tại đại học Emory, Abdullahi Ahmed An-Na’im, đã phê bình như sau: “Nhiều người nhớ lại những lời hoa mỹ thiên Ki Tô trước đây và tin rằng Hoa Kỳ chỉ quan tâm đến sự hỗ trợ các thừa sai Mỹ ở ngoại quốc.” (Emory University law professor Abdullahi Ahmed An-Na’im says many remember the early pro-Christian rhetoric and believe the United States is only interested in aiding American missionaries abroad.), và J. Paul Martin, Giám đốc trung tâm nghiên cứu nhân quyền tại đại học Columbia còn đi xa hơn nữa. Ông nói: “Ở các nước như Nga sô, Pháp, Bỉ, và Đức, nhiều người coi đạo luật về tự do tôn giáo của quốc hội Hoa Kỳ là một phần của chủ nghĩa đế quốc rộng lớn hơn của Mỹ” (J. Paul Martin, executive director of Columbia University’s Center for the study of Human Rights, goes further. In such countries as Russia, France, Belgium, and Germany, he says, many see Congress’ action as “part of a larger American imperialism”.) Nhưng người Việt chống Cộng lại coi đạo luật này như là một khuôn vàng thước ngọc có ảnh hưởng đến tình trạng tôn giáo ở Việt Nam, hay nói đúng hơn, có ảnh hưởng đến vài vị lãnh đạo tôn giáo chống chính quyền ở Việt Nam.

Người ta cũng còn tin tưởng ở hiệu quả của cái nghị quyết số 1481 mà nội dung là “Về sự cần thiết lên án của quốc tế đối với tội ác của các chế độ cộng sản độc tài” của một số nghị viên trong Quốc hội Âu Châu đưa ra, số nghị viên này quên cả sự cần thiết lên án cái lịch sử đầy những tội ác vô tiền khoáng hậu của Âu Châu đối với nhân loại. Theo Christopher Caldwell thì cái gọi là Quốc Hội Âu Châu, có tổng hành dinh ở Strasbourg, thường bị chế nhạo là “một tiệm phát ngôn vô hiệu quả và là nhà hưu trí cho những chính trị gia không bao giờ có thể được bầu vào trong quốc hội ở những quốc gia của họ.” [The European Union’s 25-country parliament, which sits in Strasbourg, is often ridiculed as a feckless talking shop and a retirement home for politicians who could never get elected to their national parliaments.]

Vô thượng thiên tài “mách bu” là Võ Văn Ái: Chuyên viên ngụy tạo văn kiện, thông tin giả từ trong nước theo đơn đặt hàng của NED để trình chủ và thế giới, từ đó kiếm được gần trăm ngàn đô-la mỗi năm từ ông chủ NED. Những Trần Ích Tắc thời đại cũng còn thành lập phái đoàn nọ kia đến xin với Thủ Tướng Úc John Howard và Tổng Thống Bush của Mỹ để làm áp lực với Nhà Nước khi đến Việt Nam tham dự Hội Nghị APEC. Nhưng kết quả ra sao thì ai cũng biết. Bush và Howard không coi các Trần Ích Tắc vào đâu, và đặc biệt, Mỹ đã bỏ Việt Nam ra khỏi danh sách những nước cần quan tâm về vấn đề tự do tôn giáo. Bây giờ họ bèn quay ra lên án Bush là đã phản bội, không ủng hộ họ, không làm theo ý họ, mà không hiểu rằng kẻ phản bội [quốc gia của họ] chính là họ, chứ không phải là Bush. Họ tự coi mình là những nhân vật quan trọng mà không hiểu rằng Bush không hề coi họ là cái gì. Thật vậy, họ có cái gì? trí tuệ, uy tín, hậu thuẫn của quần chúng? v..v.. đáng để cho Bush phải quan tâm đến. Thật ra thì Mỹ có bỏ hay không bỏ cũng chẳng nhằm nhò gì, vì đáng quan tâm hay không đáng quan tâm thì Mỹ cũng chỉ lập danh sách đó với tính cách giai đoạn chính trị và kinh tế mà thôi. Những người chống Cộng cực đoan hầu như đều có đầu óc của những con bò mộng Tây Ban Nha, cứ thấy màu đỏ là húc, chẳng còn biết trời đất nào nữa. Khi ngoại trưởng Condoleezza Rice tuyên bố một câu có ý khen tặng sự tiến bộ của Việt Nam là “Bắc Hàn và Myanmar nên thay đổi, lấy Việt Nam làm một bài học mà bắt chước” thì những người Việt Nam có tinh thần dân tộc đều thấy đó làm niềm hãnh diện. Nhưng đối với những người chống Cộng đến chiều thì lại khác, họ lên án bà Rice là thiển cận. Họ không biết rằng Bắc Hàn còn đóng kín không mở cửa đi vào cộng đồng thế giới như Việt Nam (Hội Nghị APEC đã chứng tỏ như vậy), và Myanmar là một chế độ quân phiệt, xã hội hỗn loạn, không ổn định như Việt Nam. Họ thất vọng vì bà Rice không lên án Cộng Sản Việt Nam như họ mong muốn. Họ chống Cộng với quan điểm rất thiển cận: sự tự do của một số người chống đối chính quyền là sự tự do của cả dân tộc, và vài chức sắc tôn giáo chính là tôn giáo. Còn nữa, những nhà dân chủ đến Tòa Đại Sứ Mỹ uống sâm banh không có một khái niệm nào về chính trị của Mỹ, cứ tưởng Mỹ gọi mình đến cho uống sâm banh là hết lòng ủng hộ sát cánh với mình trong cuộc đấu tranh cho dân chủ của mình, không biết rằng Mỹ chỉ dùng mình như cái bàn đạp trong những cuộc thương thuyết về kinh tế với Việt Nam. Kinh nghiệm Mỹ dùng Diệm Thiệu khi xưa không làm mở mắt những người vẫn còn thích đi làm đầy tớ.

Vì không hiểu rõ tinh thần dân tộc của người dân Việt Nam, không nghiên cứu về thực chất của vấn đề nhân quyền và tự do tôn giáo, không biết rằng Mỹ cũng là nước vi phạm nhân quyền vào bậc nhất trong cộng đồng quốc tế, không thuộc lịch sử Việt Nam, yếu kém về chính trị, và không rõ chính sách đối ngoại của Mỹ v..v.. cho nên tới bây giờ mà vẫn còn những tổ chức chính trị, lực lượng tôn giáo đi “mách bu” mong rằng “bu” sẽ can thiệp vào nội bộ Việt Nam. Thật là đáng buồn. Thử nghĩ xem Việt Nam có người nào tôn sùng những thứ người như Trần Ích Tắc hay Lê Chiêu Thống? Những Trần Ích Tắc thời đại không những thiếu hiểu biết về chính trường quốc tế, lại cũng không biết rằng đã từ lâu Á Đông không chấp nhận quan niệm về nhân quyền của Tây phương, vì ngoài những bất đồng về văn hóa, xã hội, nhân sinh v..v.. giữa những nền văn minh khác nhau, Á Đông còn coi sách lược lưỡng chuẩn (double standard) về nhân quyền của Tây phương như là một sự áp đặt để đạt những mục đích kinh tế, tôn giáo. Tây phương, với bản chất đế quốc, chưa bao giờ tôn trọng nhân quyền ở các nơi khác trên thế giới. Noam Chomsky, một học giả lừng danh của Mỹ, đã viết rõ:

“Thật ra chính sách ngoại giao của Mỹ là đặt căn bản trên nguyên tắc không liên quan gì đến nhân quyền, mà là liên quan nhiều đến sự tạo ra một bầu không khí thuận lợi cho ngoại thương” (James Speck, Editor, The Chomsky Reader, p. 331: U.S. foreign policy is in fact based on the principle that human rights are irrelevant, but that improving the climate for foreign business operations is highly relevant.)

Mơ tưởng ở sự hữu hiệu của chiến thuật “mách bu”, giới chống Cộng bây giờ mới ngã ngửa người ra thất vọng, và các nhà bình luận nổi tiếng là bình luận láo trên các diễn đàn truyền thông hải ngoại, đã quay ra bình luận tiêu cực về chuyến đi Việt Nam của ông Bush. Trước kinh nghiệm này, không hiểu họ đã chịu mở mắt ra chưa hay vẫn còn hi vọng vào Hạ Viện Mỹ, Dân Biểu Mỹ, Quốc Hội Mỹ, Quốc Hội Âu Châu hay vào vài cái nghị quyết, đạo luật ấm ớ mà thực chất chẳng có tác dụng là bao nhiêu.

Bây giờ tôi xin sang đến vấn đề cá nhân: chống hay không chống Cộng? Tôi không ngần ngại mà khẳng định một điều: “Tôi không chống Cộng”. Tại sao? Tôi có bổn phận phải giải thích cho bất cứ ai là tại sao không? Tuyệt đối là không. Nhưng đã viết về chống hay không chống thì có lẽ tôi cũng nên có vài nhận xét về chủ đề này. Trước hết, chúng ta cần phải nhận rõ một điều: “không chống Cộng” và “là Cộng” là hai điều hoàn toàn khác nhau. Hai chữ “Cộng Sản” thực ra chỉ là cái mũ của những người không đủ khả năng thảo luận trên các chủ đề, hoặc không thể chấp nhận những quan điểm khác với quan điểm chống Cộng của mình.

Như trên đã nói, ở Mỹ trong mấy chục năm, tôi đã có cơ hội đọc rất nhiều sách về cuộc chiến tranh Việt Nam, về Phật Giáo, và về Ki Tô Giáo, và điều này đã làm tôi thay đổi tư duy rất nhiều về thực chất của cuộc chiến cũng như thực chất của hai tôn giáo lớn ở Việt Nam: Phật Giáo và Công Giáo.

Thứ nhất, về cuộc chiến chống Pháp trở lại Đông Dương thì không có gì đáng nói, vì cuộc chiến đó hầu như là của toàn dân, trừ số người đã phục vụ cho Pháp, trong đó có tôi, vì hoàn cảnh đã đưa đẩy tôi phải nhập trường Sĩ Quan Trừ Bị Nam Định, và sau đó phục vụ trong quân đội Quốc Gia, dưới cái dù của quân đội Pháp, và sau này, trong QLVNCH.. Có đáng nói hay không là kết quả đã đưa đến Hiệp Định Genève.

Một luận điệu bóp méo lịch sử thường thấy ở hải ngoại là: “Cộng sản cưỡng chiếm miền Nam”, hay “Cộng sản xâm lược miền Nam”. Những lời nói vô trí này đặt trên giả định là hai miền Nam Bắc là hai quốc gia riêng biệt, độc lập. Muốn biết những luận điệu này có khớp hay không, chúng ta cần trở lại vài điều khoản chính yếu trong Hiệp Định Genève. Hiệp định Genève có hai phần: phần “Thỏa Hiệp” và phần “Tuyên Ngôn cuối cùng” [Final Declaration]

Phần “Thỏa Hiệp…”, gồm 47 điều khoản, được ký kết giữa Tướng Pháp Henri Delteil, Quyền Tổng Tư Lệnh Lực Lượng Liên Hiệp Pháp ở Đông Dương, và ông Tạ Quang Bửu, Thứ Trưởng Quốc Phòng của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Có vài điều khoản chính như sau:

Điều khoản 1 (Article 1) nói về sự thiết lập “một đường ranh giới quân sự tạm thời” (A provisional military demarcation line) [Vĩ tuyến 17] để quân đội hai bên rút quân về: Lực lượng quân đội nhân dân Việt Nam ở phía Bắc, và lực lượng Liên Hiệp Pháp (French Union) ở phía Nam làn ranh giới.

Điều khoản 8 ấn định quyền kiểm soát hành chánh ở phía Bắc Vĩ Tuyến 17 thuộc Việt Minh và ở phía Nam thuộc Pháp (Civil administration in the regroupment zone to the North of the 17th parallel was to be in the hands of the Vietminh, and the area to the South of the parallel was to be in the hands of the French)

Điều khoản 14, đoạn (a) [Article 14, Paragraph (a)] viết rõ: “Trong khi chờ đợi cuộc Tổng Tuyển Cử để Thống Nhất Việt Nam, quyền hành chánh dân sự trong mỗi vùng rút quân nằm trong tay các phe có quân đội rút quân (nghĩa là Pháp và Việt Minh) theo tinh thần của bản Thỏa Hiệp.” (Pending the general elections which will bring about the Unification of Vietnam, the conduct of civil administration in each regrouping zone shall be in the hands of the party whose forces are to be regrouped there in virtue of the present Agreement). Bản “Tuyên Ngôn…” gồm 13 đoạn, liên quan đến cả Cambod và Lào, có một đoạn đáng để ý: Đoạn (6) [Paragraph (6)] nguyên văn như sau:

“Hội Nghị nhận thức rằng mục đích chính yếu của Thỏa Hiệp về Việt Nam là dàn xếp những vấn đề quân sự trên quan điểm chấm dứt những đối nghịch quân sự và rằng ĐƯỜNG RANH GIỚI QUÂN SỰ LÀ TẠM THỜI VÀ KHÔNG THỂ DIỄN GIẢI BẤT CỨ BẰNG CÁCH NÀO ĐÓ LÀ MỘT BIÊN GIỚI PHÂN ĐỊNH VỀ CHÍNH TRỊ HAY ĐẤT ĐAI . Hội Nghị bày tỏ sự tin tưởng là thi hành những điều khoản trong bản Tuyên Ngôn này và trong Thỏa Hiệp ngưng chiến sẽ tạo nên căn bản cần thiết để trong tương lai gần đạt tới một sự dàn xếp chính trị ở Việt Nam”

(The Conference recognizes that the essential purpose of the Agreement relating to Vietnam is to settle military questions with a view to ending hostilities and that THE MILITARY DEMARCATION LINE IS PROVISIONAL AND SHOULD NOT IN ANY WAY BE INTERPRETED AS CONSTITUING A POLITICAL OR TERITORIAL BOUNDARY. The Conference expresses its conviction that the execution of the provisions set out in the present Declaration and in the Agrrement on the cessation of hostilities creates the necessary basis for the achievement in the near future of a political settlement in Vietnam.)

Qua những văn kiện lịch sử này, chúng ta thấy rõ là “Việt Nam Quốc Gia” vốn nằm dưới cái dù của Pháp, và phải thi hành Hiệp định Genève dưới cái dù của Pháp. Nhưng khi Mỹ, dùng cường quyền thắng công lý, nhảy vào thay thế Pháp, đưa con cờ “Công Giáo chống Cộng” Ngô Đình Diệm về [Xin đọc bài “Vài Nét Về “Cụ Diệm” trên giaodiemonline.com], dựng lên miền Nam, sống vì viện trợ Mỹ, chịu sự sai khiến của Mỹ, chạy làng không chịu thi hành cuộc Tổng Tuyển Cử vào năm 1956, và cưỡng ép người dân phải chấp nhận một sự phân chia hai miền độc lập, phản bội điều khoản: “ĐƯỜNG RANH GIỚI QUÂN SỰ LÀ TẠM THỜI VÀ KHÔNG THỂ DIỄN GIẢI BẤT CỨ BẰNG CÁCH NÀO ĐÓ LÀ MỘT BIÊN GIỚI PHÂN ĐỊNH VỀ CHÍNH TRỊ HAY ĐẤT ĐAI” trong Hiệp định Genève. Đây là những sự kiện lịch sử. Ai có thể phủ bác được xin lên tiếng.

Nói tóm lại, không làm gì có chuyện chia nước Việt Nam thành hai miền độc lập về chính trị và quân sự. Huyền thoại về một miền Nam độc lập như một quốc gia riêng biệt chỉ là sản phẩm do Mỹ dùng cường quyền thắng công lý tạo ra về sau, tuy trong bản Tuyên Ngôn Đơn Phương (Unilateral Declaration) của Mỹ về Hội Nghị Genève, Mỹ không bao giờ nói đến “Nam” hay “Bắc” mà chỉ nói đến một nước Việt Nam (Kahin & Lewis: Nowhere in its unilateral declaration did the US speak of a “South” or “North” Vietnam. Every reference of the American representative was to a SINGLE VIETNAM.). Ngoài ra Mỹ cũng đã hứa sẽ không đe dọa hoặc can thiệp bằng võ lực vào việc thống nhất đất nước qua cuộc Tổng Tuyển Cử năm 1956. Thật vậy, Thứ Trưởng Ngoại Giao Mỹ, Walter Bedell Smith xác định trong bản Tuyên Ngôn tại Washington D.C. như sau:

“Trong trường hợp những quốc gia nay bị chia đôi ngoài ý muốn, chúng ta sẽ tiếp tục tìm kiếm giải pháp thống nhất qua bầu cử tự do, giám sát bởi Liên Hiệp Quốc để bảo đảm là bầu cử được thi hành nghiêm chỉnh” và“Hoa Kỳ sẽ tự kiềm chế, không đe dọa hay dùng võ lực để phá những sự Thỏa Hiệp”

(In the case of nations divided against their will, we shall continue to seek to achieve unity through free elections, supervised by the United Nations to ensure that they are conducted fairly… The US will refrain from the threat or the use of force to disturb them)

Trong cuốn The United States In Vietnam: An Analysis In Depth Of The History Of America’s Involvement In Vietnam, hai Giáo sư đại học Cornell, George McTurnan Kahin và John W. Lewis, viết, trang 59:

“Tuy Hoa Kỳ nói rằng “sẽ tự kiềm chế, không đe dọa hay dùng võ lực để phá những sự Thỏa Hiệp” nhưng điều hiển nhiên chúng ta thấy ngay sau đó là Hoa Kỳ đã sửa soạn dùng mọi phương cách khác để ủng hộ chế độ Saigon [do Mỹ dựng lên] trong việc không tôn trọng những điều khoản trong Thỏa Hiệp”

(Though the US said it would “refrain from the threat or the use of force to disturb” the agreements, it soon become evident that it was prepared to use every other means to back up the Saigon regime in its departure from their central provisions).

[Tưởng chúng ta không nên quên là ngay từ sau Hiệp Định đình chiến 1954, Mỹ đã gửi Lansdale ra ngoài Bắc để phá hoại, tuyên truyền, và cổ võ giáo dân Công giáo di cư vào Nam làm hậu thuẫn cho Ngô Đình Diệm với những khẩu hiệu như “Chúa đã vào Nam” và “Đức Mẹ đã bỏ miền Bắc vào Nam” v..v.. để dụ đám giáo dân thấp kém. Vì vậy hơn 800 ngàn Giáo dân Công Giáo đã ào ào kéo vào Nam, không buồn để ý đến chuyện những khẩu hiệu lố bịch trên đã chứng tỏ là nếu tin như vậy thì thành ra Ông Mác đã đuổi Chúa và Đức Mẹ chạy từ Bắc vào Nam, tuy rằng Chúa và Đức Mẹ đều là những bậc toàn năng, toàn trí, quyền phép vô cùng, làm gì cũng được, cùng lúc chứng minh trình độ và ý thức tôn giáo của giáo dân Công giáo Việt Nam. Thật là tội nghiệp cho đầu óc của họ.]

Hãy để tâm suy nghĩ một chút. Việt Minh động viên người dân, tốn bao xương máu trong cuộc kháng chiến chống Pháp, cuối cùng đi đến chiến thắng Điện Biên Phủ, chấm dứt nền đô hộ của thực dân Pháp, thu hồi độc lập cho đất nước, phải chăng chỉ để chia nước Việt Nam thành hai miền riêng biệt, để cho miền Nam trù phú thóc gạo, lâm, ngư sản thuộc quyền những kẻ không hề có một công trạng gì với đất nước như Ngô Đình Diệm, một người thuộc dòng họ Tam Đại Việt Gian như Giáo sư sử Nguyễn Mạnh Quang đã chứng minh, và nằm yên trong vài Trường Dòng Công Giáo ở ngoại quốc trong khi đa số người dân đang kháng chiến chống Pháp và một số nhỏ hơn đang chiến đấu cho cái mà họ tin là lý tưởng quốc gia? Nếu không tin ở giải pháp chính trị để tiết kiệm xương máu người dân thay vì theo đuổi giải pháp quân sự, là đất nước sẽ thống nhất qua cuộc Tổng Tuyển Cử vào năm 1956 theo quy định của Hiệp định Genève thì Việt Minh có chịu ký Hiệp định Genève không khi đang thắng thế. Thống nhất đất nước là mục tiêu tối hậu không thể thay đổi của Việt Minh và rất hợp với lòng dân, với truyền thống dân tộc, và xóa bỏ chính sách chia Việt Nam làm ba Kỳ để trị của Pháp.. Nhưng Mỹ đã vì những quan niệm chính trị sai lầm về chính trị nên đã dùng miền Nam làm tiền đồn chống Cộng cho Mỹ, vi phạm Hiệp định Genève, và đưa Việt Nam vào một cuộc chiến tàn khốc vô ích vì kết cục không thay đổi: Việt Nam vẫn đi đến thống nhất dù bắt buộc phải dùng đến giải pháp quân sự. Người Đại Hàn rất ngưỡng mộ Việt Nam vì họ không biết đường nào để đi đến thống nhất đất nước của họ, tuy muốn.

Tôi vẫn thường thắc mắc: “Miền Nam có hơn một triệu quân, một thời cộng với hơn nửa triệu quân Mỹ, với đầy đủ vũ khí, đạn dược, và có ưu thế tuyệt đối về máy bay, xe tăng, tàu chiến, B52, và cả thuốc khai quang Agent Orange để cho Việt Cộng không còn chỗ ẩn núp v..v.. nhưng tại sao vẫn không thắng nổi đối phương để rồi Mỹ phải tìm cách Việt Nam hóa cuộc chiến, “rút lui trong danh dự”, và cuối cùng Việt Cộng vẫn “cưỡng chiếm” được miền Nam? Vậy ngoài yếu tố quân sự, những yếu tố nào đã quyết định cuộc chiến? Phải chăng là lòng yêu nước? Chính Nghĩa? Hợp với lòng dân và được dân ủng hộ? Ý chí chiến đấu của binh sĩ? Khả năng chỉ huy của các cấp lãnh đạo? Và còn gì nữa? Vậy luận cứ “Việt Cộng cưỡng chiếm miền Nam” ở hải ngoại có một giá trị trí thức nào không hay chỉ là nói để mà nói mà không biết mình nói cái gì.

Chuyện Mỹ “rút lui trong danh dự” ra khỏi miền Nam, kéo theo sự sụp đổ của miền Nam, nhìn qua lăng kính lịch sử thì không lấy gì làm lạ. Tại sao? Vì bản chất cuộc chiến hậu Genève ở Việt Nam là cuộc chiến chống xâm lăng và thống nhất đất nước, và Việt Nam có truyền thống chống xâm lăng rất kiên trì và chịu đựng mọi hi sinh. Nhưng mà ai xâm lăng? Chúng ta hãy đọc vài tài liệu của Mỹ trong số hàng trăm tài liệu khác:

Daniel Ellsberg trong cuốn Secrets: A Memoir of Vietnam and the Pentagon Papers, Viking, 2002, p.255, viết: Theo tinh thần Hiến Chương Liên Hiệp Quốc và theo những lý tưởng mà chúng ta công khai thừa nhận, đó là một cuộc ngoại xâm, sự xâm lăng của Mỹ. (In terms of the UN Charter and our own avowed ideals, it was a war of foreign agression, American aggression.); và John Carlos Rowe and Rick Berg viết trong cuốn Chiến Tranh Việt Nam Và Văn Hóa Mỹ (The Vietnam War and American Culture, Columbia University Press, New York, 1991), cũng viết, trang 28-29: Cho tới năm 1982 – sau nhiều năm tuyên truyền liên tục mà hầu như không có tiếng nói chống đối nào được phép đến với đại chúng – trên 70% dân chúng vẫn coi cuộc chiến (ở Việt Nam) “căn bản là sai lầm và phi đạo đức”, chứ không chỉ là “một lỗi lầm.”…Nói ngắn gọn, Mỹ xâm lăng Nam Việt Nam, ở đó Mỹ đã tiến tới việc làm ngơ tội ác xâm lăng với nhiều tội ác khủng khiếp chống nhân lọại trên khắp Đông Dương. (As late as 1982 – after years of unremitting propaganda with virtually no dissenting voice permitted expression to a large audience – over 70% of the general population (but far fewer “opinion leaders”) still regarded the war as “fundamentally wrong and immoral,’ not merely “a mistake”.. In short, the US invaded South Vietnam, where it proceeded to compound the crime of aggression with numerous and quite appalling crimes against humanity throughout Indochina.)

Bây giờ chúng ta hãy nhìn vào những con số tổn thất trong cuộc chiến do Mỹ gây nên vì chính trị sai lầm như nhiều chính khách và học giả Mỹ đã thú nhận và nhận định.

– Mỹ: Chết 57,702; bị thương 313,616, cộng với hơn 1,000 chết không phải do chiến trận.

– Nam Việt Nam: Chết 185,528; bị thương 499,026.

– Bắc Việt: Chết 924,048; số bị thương ước tính ít nhất gấp đôi.

– Cả hai miền: 415,000 thường dân chết; 936,000 bị thương.

– Trên 10 triệu tấn bom đã thả xuống Việt Nam, Cam bốt, và Lào (vào khoảng gấp hơn 2 lần tấn bom mọi phe dùng trong đệ nhị Thế Chiến.)

– Mỹ cũng đã trải trên đất nước Việt Nam 76,954,806 lít hóa chất trong đó có 49,268,937 lít

chất độc màu da cam (Nguyễn Văn Tuấn, Chất Độc Màu Da Cam Và Cuộc Chiến Việt Nam,

Giao Điểm 2005, trang 52).

Chúng ta hãy tự đặt cho mình một câu hỏi, với những con số tổn thất như vậy, bên nào bị nặng hơn, và nếu cần phải thù hận thì bên nào sẽ thù hận hơn. Nhưng trên thực tế, chúng ta chỉ thấy những thái độ thù hận một chiều, đúng ra là ngược chiều, từ phía những người quốc gia ở hải ngoại. Có vẻ như những người đi buôn thù hận này nghĩ rằng, những người bên phía CS không phải là người, không có cha mẹ, vợ chồng con cái, bạn bè thân thuộc v..v.. nên những mất mát tổn thất của họ không đáng kể, chỉ có những tổn thất của phía chúng ta mới đáng để thù hận. Có vẻ như những người chống Cộng một chiều này nghĩ rằng trong cuộc chiến chỉ có CS là ác, còn QG hay Mỹ thì không. Họ lầm to, họ không biết gì về những hành động đối với dân, với kẻ thù của người lính Quốc Gia cũng như của người lính Mỹ.

Cộng Sản có Đặng Thùy Trâm. Chúng ta có ai? Chúng ta đã thua CS về quân sự, nay chúng ta lại thua về tình người, vì ở trong nước, dư luận có luận điệu thù hận phe quốc gia thật là hiếm hoi. Nhưng cũng may, những tổ chức CCCĐ, CCCB, CCCC ở ngoại quốc chung quy chỉ là những tổ chức của đám người hoặc mất gốc, hoặc đã phi dân tộc thì thể nào cũng phản bội dân tộc, đang nắm những phương tiện truyền thông ở hải ngoại nhưng thiếu khả năng, thiếu trí tuệ và giáo dục, nên chỉ có thể đưa ra những hành động chống Cộng phi lý làm nhục lây đến cả cộng đồng người Việt di cư như rủ nhau đi biểu tình chống phá Expo, triển lãm tranh ảnh, văn nghệ của Việt Nam, chống phá phái đoàn các em học sinh về Việt Nam nghiên cứu trao đổi văn hóa v..v… Tuyệt đại đa số người Việt di cư đã bỏ lại đàng sau quá khứ, hướng về tương lai của dân tộc, bằng chứng là mỗi năm có hàng trăm ngàn “Việt kiều” về thăm quê hương, trong số đó không thiếu gì những người khi xưa đã giữ những chức vị cao cấp ở miền Nam.

Chúng tôi biết, tổ chức những Đại Trai Đàn như vậy không phải là một chuyện dễ. Sẽ có những người đồng bào không đồng ý với công việc này. Có thể vì đã từng bị mất mát khổ đau và thiệt thòi quá nhiều trong quá khứ hoặc vì còn sợ hãi không dám nhìn nhận nỗi đau thương vẫn còn chôn kín ở đáy lòng mình và ở đáy lòng những người đồng bào mình, cho nên các vị ấy chưa mở trái tim của mình ra được. Tuy nhiên, trái tim của đại đa số đồng bào ta hiện tại đã mở ra trên chiều hướng tha thứ, chấp nhận; hầu hết đều ước ao có cơ hội chữa lành những thương tích rướm máu còn lại trong tâm hồn. Vì nhận thấy được điều đó nên chúng tôi đã dám đứng ra làm công việc Phật sự này.”

Vậy đến bao giờ số người nhỏ nhoi, sống với dĩ vãng, nuôi dưỡng thù hận, đi ngược thời gian mới có thể mở được trái tim ra, mở để mà thấy kéo dài sự thù hận là một điều phi lý, vì tất cả chúng ta đều là nạn nhân của một cuộc chiến không ai muốn, là nạn nhân của một hoàn cảnh lịch sử về chính trị và xã hội của một nước nhỏ, một hoàn cảnh đã vượt ra khỏi vòng kiểm soát của quốc gia chúng ta, vì các cường quốc đã dùng cường quyền thắng công lý để can thiệp vào chuyện nội bộ của nước ta, và bỏ đi tâm cảnh “mách bu”, trông ngóng ở sự can thiệp của nước ngoài vào chủ quyền Việt Nam.. Những bài tường trình về các chuyến về quê của nhiều tác giả, đặc biệt là của Lý Thái Xuân, Nguyễn Mạnh Quang gần đây, cho thấy đất nước đã khác xưa và mở mang tiến bộ rất nhiều về mọi mặt, kể cả về mặt tình người, trái hẳn với những hình ảnh đen tối mà nhiều báo chí hay diễn đàn truyền thông ở hải ngoại thường mô tả. Những người về thăm quê, mấy trăm ngàn người một năm, tất nhiên phải thấy rõ tình trạng đất nước ngày nay ra sao. Ai có thể lừa dối họ bằng những luận điệu xuyên tạc bịa đặt vô căn cứ.

”31 năm qua rồi, ngày nay, hơn 60% người dân Việt Nam sinh sau 1975, tại sao chúng ta cứ còn đầu độc lớp trẻ bằng những hận thù của lớp trước. Ra công xuyên tạc, mạ lỵ những người lãnh đạo đảng Cộng Sản bằng những ngôn từ hạ cấp không làm thay đổi được một sự kiện lịch sử là chính người Cộng Sản đã thành công huy động được dân chúng đánh đuổi thực dân Pháp và rồi thực hiện được thống nhất đất nước, phù hợp với sự mong ước của tuyệt đại đa số người dân Việt. Ai không muốn cho đất nước thống nhất, Trung Nam Bắc là một, xin hãy lên tiếng. Hay là chỉ có thể thống nhất dưới bóng đen của cây thánh giá? Có chăng chỉ là bọn người vẫn cho rằng “Việt Cộng cưỡng chiếm miền Nam” hay sống trong tâm cảnh “Cha đã tiên phong góp phần giải phóng quê hương Cha, và tiếp đến sẽ là quê hương chúng con”. Thật là tội nghiệp cho những loại đầu óc như vậy của họ.”
———————————————
Admin đã cắt bỏ một số phần viết về tôn giáo do tương đối nhạy cảm. Chúng tôi không phân biệt bất kỳ tôn giáo nào.
  Đầy đủ bài viết các bạn có thể đọc tại đây (http://xichloviet.wordpress.com/2011/10/28/t%E1%BA%A3n-m%E1%BA%A1n-v%E1%BB%81-ch%E1%BB%91ng-c%E1%BB%99ng/)

    Không có nhận xét nào:

    Đăng nhận xét