Katana là biểu tượng của các samurai Nhật Bản, một trong những tầng
lớp chiến binh tinh nhuệ nhất thế giới. Trước thời của súng ống và đại
bác thì thanh kiếm chính là vũ khí thượng tôn. Mọi quốc gia trên thế
giới đều sử dụng kiếm trong suốt chiều dài lịch sử, nhưng có lẽ không
một ai là không biết đến Kiếm nhật (nihonto) – loại kiếm được nhận dạng
bởi hình dáng cong đặc trưng và được coi là loại kiếm hảo hạng, sắc bén
nhất thế giới.
*** Chữ hán để
chỉ Katana là 刀 nghĩa là Đao, một loại binh khí có 1 lưỡi sắc, thường có
dạng cong và dùng để chém; còn từ 剣 nghĩa là Kiếm, thì chỉ loại binh
khí có 2 lưỡi sắc, to bản và có dạng thẳng, thường dùng để đâm. Thế nên
đúng ra, theo như định nghĩa ở trên thì Kiếm Nhật phải được gọi là Đao.
Tuy nhiên, bài viết muốn để là Kiếm Nhật để quen gọi với cách gọi và
cách hiểu của người Việt khi đề cập đến katana, wakizashi… và một phần
để mọi người dễ mường tượng. Nhưng để cho chính xác, rất mong mọi người
hiểu cho sự khác biệt về mặt ngôn ngữ này. ***
1. Cấu tạo
Tựu chung lại thì một thanh kiếm gồm có mấy bộ phận như sau:
– Saya: Bao kiếm
– Tsuka : Chuôi kiếm, là chỗ cầm kiếm, có cuốn vải (tạo ra các hình thoi đặc trưng của katana)
– Tsuba : Kiếm cách, ngăn cách giữa cán kiếm và thân kiếm
– Ha: lưỡi kiếm (cạnh sắc của kiếm)
– Mune: cạnh cùn của kiếm
– Menuki : một vật trang trí, cầu may được ở chuôi kiếm (bên dưới lớp vải) và chỉ để lộ họa tiết qua các lỗ hình thoi
– Habaki: một tấm thép ngăn cách phần chuôi với phần thân
– Monouchi: Phần thân trên sắc nhọn của thanh kiếm
– Hamon: vân kiếm, nằm trên lưỡi sắc của kiếm, xuất hiện do công nghề rèn kiếm thời đó.
2. Phân loại
Katana thực chất là một trong số nhiều loại kiếm Nhật, tuy nhiên, do
tính thông dụng của nó trong các tầng lớp Samurai nói chung và với người
phương Tây khi lần đầu Nhật mở cửa nên người ta coi Katana để chỉ chung
cho kiếm Nhật. Tachi (太刀)
tachi
Đúng như tên gọi, “Thái đao” – đây là một loại kiếm có bề ngoài to
bản. Là loại kiếm sớm nhất được các samurai sử dụng, ra đời vào khoảng
cuối thế kỉ thứ 10. Thanh tachi được làm dài hơn bình thường, khoảng 70 –
80 cm. Khi giắt tachi bên hông thì lưỡi kiếm hướng xuống dưới, do cách
đeo kiếm này thích hợp với kị binh. Về sau cách đeo kiếm này được gọi là
“kiểu tachi” và cũng được nhiều phái kiếm sử dụng. Katana (刀)
katana
Katana (chữ Hán: 刀 “đao”) ra đời vào khoảng cuối thế kỉ 14, kế thừa
và được cải tiến từ tachi. Katana ngắn hơn tachi, có độ dài khoảng 60 –
73 cm. Chính vì thế, katana tỏ ra cơ động hơn trong cận chiến và cách
đeo kiếm lưỡi hướng lên trên ra đời. Katana dần thay thế tachi trong đời
sống của các samurai và thường được đi chung với một thanh kiếm nữa nhỏ
hơn, hợp lại thành một bộ daishou (大小 – đại tiểu) thể hiện danh dự và
đẳng cấp của một samurai. Katana dần được thế giới biết đến nhiều hơn
vào thời Minh Trị (thế kỉ 19), khi mà nước Nhật tiếp nhận văn hóa phương
Tây. Thời gian này cũng chứng kiến những cách thức hiện đại hơn trong
việc rèn kiếm thay vì cách truyền thống. Tantou ( 短刀)
tantou
Tantou hay “đoản đao” là một loại kiếm nhỏ, ngắn, dài từ 15 – 30 cm,
có cả loại 1 lưỡi và loại 2 lưỡi. Tantou giống như một loại kiếm phòng
thân, nhanh gọn và sắc, ở cự li gần nó có thể rạch nát tấm áo giáp hoặc
nhanh chóng được rút ra để đỡ trong những tình huống hiểm nghèo, hay đi
cùng với Tachi. Các Samurai thường để bên cạnh mình tantou khi ngủ để đề
phòng thích khách. Wakizashi ( 脇差 )
wakizashi
Wakizashi nghĩa đen là “kiếm đeo bên mình để hỗ trợ”. Wakizashi có độ
dài từ 30 – 60 cm, được chia làm 2 loại. Một loại khá lớn, có độ dài
xấp xỉ một thanh katana được gọi là Oowakizashi, và một loại nhỏ hơn,
xấp xỉ Tantou được gọi là Kowakizashi. Thanh Oowakizashi thường đi cùng
với Katana để hợp thành 1 daishou. Còn thanh Kowakizashi thường được sử
dụng trong đánh cận chiến, được dùng để chặt đầu đối thủ hoặc sử dụng
trong nghi lễ seppuku (mổ bụng tự sát). Wakizashi cũng thường được những
người không phải samurai mang bên mình nhằm mục đích phòng thân. Oodachi ( 大太刀 )
Oodachi
“Đại
thái đao”. Đây là loại kiếm rất dài, từ 165 – 178 cm, được sử dụng
trong các nghi lễ hiến tế, thờ thần và hầu như không được sử dụng để
chiến đấu. Để làm ra thanh Ootachi mất rất nhiều thời gian và công sức,
do độ dài ngoại cỡ của nó. Vì vậy, có rất ít thanh Oodachi được làm ra,
chủ yếu để phục vụ các ngôi đền, chùa tại Nhật Bản hoặc để minh chứng
cho sự giàu có của chủ sở hữu.
Nagamaki ( 長巻 )
Nagamaki
Nagamaki
nghĩa đen là “quấn dài”, dùng để chỉ những thành kiếm với chuôi kiếm
(tsuka) rất dài. Nagamaki có cách cầm giống với katana và tay phải luôn
luôn đặt sát với kiếm cách (miếng phân cách giữa thân kiếm và chuôi
kiếm). Nagamaki rất hiệu quả khi đánh với kị binh vì dễ dàng làm họ ngã
ngựa. Nagamaki cũng được coi là vũ khí ưa thích của Oda Nobunaga.
Naginata ( 薙刀 )
naginata
Naginata giống giáo hơn là giống kiếm, cũng được coi là biểu tượng
cho thời samurai bởi naginata được dùng rất nhiều trên chiến trường,
lính bộ binh sẽ giơ ngang naginata tiến về phía trước, mở đường tiến
quân. Naginata là một loại vũ khí dùng để phòng thủ rất tốt, nên ngoài
các samurai, giới tăng binh ( người tu hành nhưng luyện võ/ kiếm để bảo
vệ chùa) và phụ nữ cũng ưa dùng naginata để luyện tập và sử dụng.
Naginatajutsu là một môn võ luyện cách sử dụng naginata, và người tham
gia phần lớn là phụ nữ.
3. Rèn kiếm
Nếu như kiếm châu Âu chỉ có một lưỡi thép duy nhất thì kiếm Nhật được
làm nên từ một loại sắt đã được tinh chế gọi là tamahagane và công đoạn
rèn kiếm rất phức tạp. Chủ yếu là đập, tán nhỏ miếng sắt rồi gập lại,
nung nóng, rồi lại đập, gập, nung… đến 1 mức mà từ 1 cục sắt được tán
lại thành một thanh dài và dẹt, sau đó họ tiếp tục các công đoạn nung,
mài,… để ra một thanh kiếm thành phẩm.
Nét cong của thanh kiếm Nhật không phải
chỉ do kỹ thuật rèn hay đập mà còn là một biểu trưng văn hoá xuất hiện
trên nhiều công trình truyền thống khác, từ mái cong trên đền đài, chùa
chiền, cung điện, kể cả thư pháp. Người Nhật vẫn cho rằng nếu đúc một
thanh kiếm thẳng băng thì không những thô kệch mà còn quá thực dụng,
không nói lên tính nghệ thuật của người võ sĩ. Chính vì thế, họ luôn
luôn tạo những đường cong, uốn lên lượn xuống để biến một vũ khí chiến
đấu thành một tác phẩm.
Daisho
Nhắc đến nghề rèn kiếm, không thể không nhắc đến Masamune và Muramasa, 2 bậc thầy rèn kiếm trong lịch sử.
Những thanh kiếm của Masamune luôn đẹp và
cực kì sắc bén mặc dù khi đó thép rèn kiếm có chất lượng rất tồi. Ông
được xem là người đã đem lại sự hoàn hảo cho nghệ thuật rèn kiếm.
Mỗi thanh gươm của Masamune làm ra luôn được
đặt tên và là một tác phẩm nghệ thuật. Biểu tượng của lãnh chúa
Tokugawa, thanh gươm “Honjo Masamune”, là một trong những thanh gươm nổi
tiếng nhất của Masamune.
Những thanh gươm của Masamune thường rất
khác biệt với các tác phẩm của Muramasa một thợ rèn kiếm nổi tiếng khác
của Nhật Bản. Nhiều tài liệu đã cho rằng Muramasa là học trò của
Masamune nhưng thực chất hai ông không sống cùng thời. Muramasa bắt đầu
nổi tiếng trong những năm đầu thế kỉ 15. Trong các trò chơi, Muramasa
thường là những thanh ma kiếm khát máu, trong khi Masamune lại là thánh
kiếm tiêu diệt cái ác.
Có một câu chuyện kể về cuộc thi giữa
Muramasa và Masamune xem ai là người rèn kiếm giỏi nhất. Cả hai đều làm
việc không mệt mỏi để hoàn thiện tác phẩm của mình. Sau khi hoàn thành
cả hai thanh gươm được đem ra thử nghiệm. Thanh gươm của Muramasa có tên
là Juuchi Yosamu (10.000 đêm lạnh) và của Masamune là Yawaraka-Te (Bàn
tay nhân ái).
Người ta cắm chúng xuống một dòng suối.
Thanh gươm của Muramasa cắt tất cả những gì lướt qua nó từ lá cây, những
con cá thậm chí còn chia đôi cả dòng nước. Còn thanh kiếm của Masamune
thì không cắt bất cứ thứ gì. Sau khi thấy kết quả Muramasa đã lên tiếng
cười nhạo cho rằng tài nghệ của Masamune quá kém cỏi.
Nhưng một nhà sư sau khi chứng kiến cuộc thi
đã giải thích: thanh gươm đầu tiên cắt tất cả là một thanh gươm sắc
nhưng nó là thanh gươm khát máu, không phân biệt được người tốt kẻ xấu.
Thanh gươm thứ hai là mới thực sự là thanh gươm báu vì nó không làm tổn
thương đến những sinh linh vô tội.
4. Thử kiếm
Thử kiếm hay Tameshigiri (試し斬り) trở nên phổ biến vào thời Edo. Vào
thời đó, để thử độ sắc của kiếm, người ta chém các cành trúc, hoặc các
goza (hình nhân bện bằng rơm). Ngoài ra các samurai thời xưa còn thử
kiếm lên các tử thi hoặc tử tù chờ hành quyết. Khi thử trên người, người
ta hay chém nạn nhân theo một đường chéo từ vai xổ xuống hông bên kia
(O-kesa) hoặc chém xổ dọc từ trên xuống, cắt đôi người (Kesa-giri).
Có chuyện kể rằng một tử tù đang chuẩn bị nhận án Kesa-giri đã bình
thản mà đùa rằng, nếu biết trước sẽ bị hành hình kiểu này, ta đã nuốt
một hòn đá to vào bụng để làm hỏng thanh kiếm.
Ngày nay thì người ta chỉ chém thử lên các goza. Và tập trung hơn vào
thử trình độ kiếm thuật của người sử dụng thay vì thử kiếm, và vì thế
nó còn được gọi là Shizan để phân biệt với cách thử kiếm thời xưa.
chém lên goza để thử kiếm
5. Giai thoại
Tương truyền một thanh katana nhất phẩm có thể chém đứt đôi các thanh kiếm thông thường khác.
Một thanh kiếm samurai hảo hạng có thể dễ dàng cắt đứt một miếng vải
nếu nó chẳng may chạm vào mà không cần động tay chém nó làm gì. (cái
này chắc là chém gió )
Bạn có thể đỡ được một cú chém từ thanh katana bằng cách dùng tay bắt chặt lưỡi kiếm.
Dấu vân tay cũng có thể làm hỏng kiếm. Nếu như để dấu vân tay hay
dấu dơ lâu ngày trên kiếm sẽ khiến nó hay bị gỉ, thế nên các samurai
thường hay cho kiếm vô bao và mài kiếm, lau kiếm thường xuyên.
Trường phái song kiếm được gọi là NitenIchiRyu (二天一流 – Nhị thiên
nhất lưu) với sư tổ là Miyamoto Musashi, sử dụng một cặp daisho, thanh
katana dài để tấn công và thanh wakizashi ngắn dùng để phòng thủ. Phái
kiếm này đến nay vẫn được duy trì.
một cảnh trong phim 13 Assasins
Vào thời Đệ nhị thế chiến, rất nhiều thanh kiếm đã bị phá hủy và vứt
xuống biển. Nhiều lính Nhật còn đem wakizashi hoặc katana khi ra chiến
trận.
Trong lịch sử chiến tranh Trung-Nhật, có sĩ quan Nhật đã từng dùng thanh kiếm chém hàng rào thép gai dễ dàng như chém chuối.
Ngày nay, các công dân Nhật Bản có quyền sở hữu các thanh kiếm Nhật
đã được đăng kí với Hiệp hội Kiếm Nhật (NihonToKenkai) và sở hữu các
giấy tờ cần thiết, nếu không sẽ bị tịch thu và xử phạt. Ngày nay, các
gia tộc lâu đời, các đại gia đình thường có giữ một thanh kiếm, được
truyền lại từ thời xưa.
4. Giá trị ngày nay
Ngày nay mặc dù kiếm chủ yếu là một vật trang trí hơn là một vũ khí
nhưng danh tiếng về độ sắc bén và nét nghệ thuật của nó thì sẽ mãi
trường tồn và luôn là niềm tự hào của dân tộc Nhật Bản.
…một người đàn ông ngồi trong tư thế thư thái, buổi chiều
tĩnh lặng. Ông lấy kiếm ra khỏi bao bằng lụa, giữ bao kiếm trên tay
trái im lặng và thận trọng, dùng tay phải rút thanh kiếm ra một cách
kiên quyết nhưng từ từ và đầy cung kính. Ông nâng thanh kiếm lên, giơ ra
chỗ sáng, ngắm nhìn ánh thép từ đốc kiếm lên mũi một cách chậm rãi. Sau
đó ông dùng một bao nhỏ mày đỏ, trong đựng bột đá, lau hết dầu cũ phủ
lên lưỡi kiếm và dùng loại giấy dày của Nhật Bản để lau lại lần nữa. Lúc
này, thanh kiếm đạt đến độ sáng nhất của nó và đủ để chứng minh cho các
nhà phê bình thấy rằng, xét về tài nghệ, chất lượng và vẻ đẹp khi tuốt
trần, những thanh kiếm Nhật bản hơn hẳn bất cứ thanh kiếm nào khác…
Các công đoạn chế tạo một thanh kiếm Nhật
Sự khác nhau của kiếm Việt Nam với kiếm Nhật Bản và Trung Quốc
Kiếm hay gươm là
một loại vũ khí lạnh cấu tạo từ một thanh kim loại dài được mài bén
dùng để đâm, chém trong tác chiến. Dài hơn dao, hẹp, nhẹ và mỏng
hơn đao, kiếm được sử dụng trong nhiều cuộc chiến trên khắp thế giới từ
thời thượng cổ cho tới thế chiến II.
Sau phát minh
ra súng, kiếm dần dần mất hiệu lực trong chiến trường nhưng vẫn được
dùng làm biểu tượng của gia tộc, quốc gia, quân đội (thí dụ điển hình là
sĩ quan kỵ binh trong Nội chiến Mỹ thường dùng kiếm đi trước để chỉ huy
binh lính có súng theo sau).
Một số kiếm hiện diện trong các
huyền thoại, truyền thuyết như thanh kiếm Thuận thiên của Lê Lợi,
thanh Kusanagi của Jimmu Tenno (thần thoại Nhật Bản),
và Excalibur của vua Arthur (Anh Quốc).
Kiếm cũng được dùng để thi đấu như một môn thể thao.
Cấu
tạo của kiếm khá đơn giản – một thanh kim loại dài, có một hoặc hai
cạnh sắc, chuôi bằng kim loại hoặc gỗ, phần lớn có quai bảo vệ cho bàn
tay của kiếm sĩ.
Có nhiều loại kiếm, như kiếm 3 cạnh, liễu diệp
kiếm (loại kiếm rất mỏng, nhẹ và dẻo dai, có thể cuốn tròn quanh
người), kiếm lưỡi tròn, kiếm 2 lưỡi còn gọi là kiếm lá, kiếm 1
lưỡi(thường gọi là đao) v.v.
Mỗi dân tộc lại có một hoặc vài kiểu
kiếm khác nhau: kiếm Claymore của Scotland, kiếm Katana, Tachi của Nhật
Bản v.v., theo đó cách sử dụng kiếm cũng khác nhau. Trung Quốc
Trung
Quốc có một nền võ thuật lâu đời và vững mạnh, kiếm pháp cũng không nằm
ngoài quy luật này. Kiếm Trung Quốc có từ thời cổ đại khi con người tìm
ra đồng và sắt. Trải qua suốt 6000 năm lịch sử, kiếm Trung Quốc dần
hoàn thiện và đa dạng hơn, đặc điểm chung là cấu tạo bởi một thanh kim
loại (thường là thép) dài, sắc hai lưỡi, nhọn ở đầu. Thời Cổ Trung đại,
Kiếm là loại vũ khí được trang bị khi chiến đấu và phòng thân. Qua mỗi
thời kì, kiếm Trung Quốc có những nét đặc trưng riêng. Kiếm thờinhà
Minh lưu truyền đến nay, sử dụng trong luyện tập võ thuật và làm lễ
trong Đạo Giáo. Từ thời Tống, Trung Quốc xuất hiện nhiều môn phái sử
dụng kiếm như: Toàn Chân Giáo, Võ Đang, Nga My, Ngũ Nhạc Kiếm Phái, môn
sinh Thiếu Lâm cũng được luyện tập kiếm pháp.
Kiếm Trung Quốc
Kiếm Trung Quốc là một vũ khí thanh mảnh, sử dụng một tay một
kiếm (đơn kiếm), hai tay hai kiếm (song kiếm). Loại to, nặng nhưng gọi
là trọng kiếm không sắc bằng kiếm thường, sát thương chủ yếu bằng sức
nặng để cắt.
Nhật Bản
Đặc
trưng là Katana hay còn gọi là Kiếm Nhật, là vũ khí đặc trưng của người
Nhật Bản. Kiếm Nhật là một loài trường kiếm, có lưỡi dài và cán dài,
cán kiếm thường được cầm bằng hai tay khi chiến đấu. Kiếm chỉ có một
lưỡi, sắc bén, có sức sát thương cao. Kiếm thường được đeo ở thắt lưng
và mũi kiếm xoay lên trên.
Kiếm Nhật
Theo một số nhà khoa học, sở dĩ kiếm katana đạt được độ cứng và
bền là vì khi luyện kiếm, các nghệ nhân thường cho thêm oxít titan vào
trong hợp kim. Điều này làm cho kiếm có độ sắc bén nhất, ngoài ra còn
giúp chống oxy hóa, khiến cho thanh kiếm luôn sáng bóng. Việt Nam
Thời
cổ đại, lưỡi kiếm Việt Nam thẳng và rộng bản, có 2 cạnh sắc, dùng để
chém lẫn đâm. Về hình dạng, kiếm Đông Sơn tương tự như kiếm tìm thấy ở
Trung Quốc, Nhật Bản. Hoa văn trang trí trên chuôi và đốc kiếm rất đa
dạng, có thể là hình chiến binh, hình người đàn bà hay các con vật như
gà, voi… Những kiếm mang tính chất nghi lễ của người tầng lớp trên có
thể gắn cả nhạc, chuông.
Bộ sưu tập đao Việt Nam thế kỷ 18-19 xuất xứ Bắc bộ-bảo tàng lịch sử quân sự
Thời Trung, Cận đại, người Việt sử dụng
cả kiếm thẳng 2 cạnh sắc, chuôi cầm 1 tay như của Trung Quốc lẫn loại
trường kiếm lưỡi cong, 1 cạnh sắc, chuôi dài và phải cầm cả 2 tay (vẫn
thường được biết đến là đao).
Ngày nay, loại trường đao cong này vẫn có thể nhìn thấy trên những bức
tượng võ sĩ ở các lăng tẩm của giới quý tộc thời Lê, Mạc, Trịnh ở Thanh
Hóa, Bắc Giang, trong bảo tàng Lịch sử quân sự Hà Nội (kiếm Tây Sơn) hay
trong các lễ hội dân gian như hội đền Đô, Bắc Ninh. Một số lượng lớn
đao kiếm cổ hiện nay đang nằm trong các bộ sưu tập tư nhân.
Về danh kiếm thì Việt Nam nổi lên có thanh Thuận Thiên kiếm của Lê Lợi, gắn với sự tích trả gươm và rùa thần Kim Quy.
Ảnh Đoạt giải Japan Photo Contest 2013~ 2014. Trong ảnh là làng rèn Kiếm nổi tiếng Osafune Tỉnh Okayama
Thanh
kiếm Nhật là biểu trưng cho lòng dũng cảm, sự trung trành và một tinh
thần thượng võ của các võ sĩ Nhật Bản. Chúng ta hãy thử tìm hiểu sơ qua
về cách làm một thanh kiếm Nhật, những bí mật của thanh kiếm này cũng
như nguồn gốc xuất hiện của nó....
Chúng là những gì cao quý nhất mà nghệ
thuật rèn của con người mang lại: Kiếm Nhật Katana, thanh kiếm dài của
những hiệp sĩ samurai. Cho đến ngày nay, những nghệ nhân vẫn còn rèn vũ
khí này theo đúng truyền thống cổ.
Nằm trên bàn là nhiều cục màu xám, xốp
như đá núi lửa. Nặng, không mùi, xấu xí. Đó là thép thô mà ông Matsuba
dùng để rèn. Kunimasa Matsuba là một trong những nghệ nhân rèn kiếm Nhật
giỏi nhất. Ông đã đoạt được nhiều giải thưởng cho kiếm Katana. Một lưỡi
kiếm cong, dài hơn 60 cm làm từ hằng nghìn lớp thép được gấp lại.
Biểu tượng của đẳng cấp
Đoản kiếm
Thanh
kiếm Katana đã là biểu tượng đẳng cấp của hiệp sĩ Nhật. Chỉ những
samurai mới được phép mang chúng - gần 1000 năm liền chỉ với một thời
gian gián đoạn ngắn, cho đến khi Nhật hoàng thu lại đặc quyền này năm
1867 và qua đó tước quyền lực của họ.
Ông Matsuba chỉ tự rèn lưỡi kiếm. Làm
cán kiếm, vành chắn và vỏ kiếm lại là các nghệ thuật riêng biệt. Và ngay
lưỡi kiếm sau khi rèn vẫn còn chưa hoàn thành, vẫn còn phải được mài
bóng bằng tay 2 tuần liền với đá mài có độ mịn khác nhau.
Đặt một thanh kiếm cũ cạnh thanh kiếm
vừa được ông Matsuba rèn, một người không chuyên không thể nhận ra được
khoảng thời gian nhiều thế kỷ trên lưỡi kiếm. Dường như thời gian không
hề đóng một vai trò nào ở những thanh kiếm này. Chúng đã được rèn để trở
thành những vật hoàn hảo.
Một thanh kiếm Katana mới do ông Matsuba
rèn có giá tròn 18.000 euro. Giá kiếm tuân theo những quy luật khác với
các vật thể nghệ thuật khác. Một thanh kiếm cổ có thể rẻ hơn một thanh
kiếm mới. Ở đây thời gian cũng không còn quan trọng. Quyết định giá cả
của một thanh kiếm là nghệ thuật rèn tốt hay kém chứ không phải độ tuổi.
Nếu người thợ rèn một thanh kiếm không
tốt cách đây 500 năm thì thời đó nó không có giá trị gì cả - và ngày nay
cũng không. Một đường rạn nứt duy nhất có thể làm cho thanh kiếm trở
thành vô giá trị. Katana hiện giờ là những vật sưu tập được ưa chuộng.
Thêm vào đó là đắt tiền. "Tôi còn nhớ có một thanh kiếm katana năm 1845,
có giá khoảng 500.000 euro", ông Karl-Heinz Peuker nói, một người sưu
tầm và mua bán kiếm samurai, cũ cũng như mới.
Lúc rèn phải hoàn toàn tối
Có ba điều quyết định cho chất lượng của
một lưỡi kiếm: hình dáng, cấu trúc bề mặt của lưỡi kiếm và hamon, đường
chia cắt giữa lưỡi kiếm và sống kiếm. Cấu trúc biểu hiện người thợ rèn
đã làm việc ra sao, đã gấp thép lại như thế nào. Bậc thầy Matsuba chỉ
cần nhìn thoáng qua là có thể cho biết một lưỡi kiếm thuộc về nghệ nhân
rèn nào và thời kỳ nào.
Đường hamon hình thành trong quá trình
rèn. Người thợ rèn bọc lưỡi kiếm bằng một hỗn hợp đất sét được pha trộn
theo công thức bí mật. Ông ép hình dáng của hamon ở phần lưỡi kiếm vào
lớp đất sét còn ướt. Khi lớp đất sét khô, lưỡi kiếm được đốt nóng trong
phòng rèn không có ánh sáng.
Chỉ có màu sắc của lửa tiết lộ cho nghệ
nhân rèn biết được nhiệt độ cần thiết – một trong những khoảnh khắc khó
khăn nhất và quyết định then chốt trong toàn bộ quá trình rèn. Khi đạt
đến nhiệt độ cần thiết, nghệ nhân nhúng lưỡi kiếm vào bể nước, phần vỏ
đất sét mỏng ở lưỡi kiếm nguội đi nhanh hơn, tôi lưỡi kiếm tối ưu. Đất
sét ở phần còn lại dầy hơn, vì thế mà thép ở đó nguội đi chậm hơn, vẫn
còn mềm dẻo hơn.
Một phần của văn hóa Nhật
Một thời gian dài, nghệ thuật rèn
kiếm katana đã suýt bị lãng quên. Khi các samurai bị tước đoạt quyền lực
và đặc quyền mang kiếm của họ bị phá vỡ, việc này cũng ảnh hưởng trầm
trọng đến các lò rèn. "Thời đó chúng tôi đã đánh mất một phần của văn
hóa", ông Matsuba nói. "Vì văn hóa samurai là văn hóa Nhật."
Và chính ngay các thanh kiếm suýt tí nữa
cũng bị đánh mất: Sau Thế chiến 2, quân đội Mỹ ra lệnh hủy tất cả vũ
khí – trong đó có cả các thanh kiếm katana cổ xưa quý giá. May mắn là
người ta đã có thể làm cho tổng chỉ huy Tướng MacArthur thay đổi ý kiến.
Các thanh kiếm samurai được giữ lại nhưng phải khai báo. Từ đó, mỗi một
thanh kiếm vừa rèn xong phải được đăng ký.
Nguồn : Tổng Hợp
Những thanh kiếm samurai vĩnh cửu
Chúng là những gì cao quý nhất mà nghệ thuật
rèn của con người mang lại: Kiếm Nhật katana, thanh kiếm dài của những
hiệp sĩ samurai. Cho đến ngày nay, những nghệ nhân vẫn còn rèn vũ khí
này theo đúng truyền thống cổ.
Nằm trên bàn là nhiều cục màu xám, xốp như đá núi lửa. Nặng, không mùi, xấu xí. Đó là thép thô mà ông Matsuba dùng để rèn.
Thanh kiếm katana này nguyên là của hiệp sỹ samurai
cuối cùng Saigo Takamori, đã tự sát năm 1877 sau cuộc nổi dậy thất bại.
Ảnh: K. H. Peuker.
Kunimasa
Matsuba là một trong những nghệ nhân rèn kiếm Nhật giỏi nhất. Ông đã
đoạt được nhiều giải thưởng cho kiếm katana. Một lưỡi kiếm cong, dài hơn
60 cm làm từ hằng nghìn lớp thép được gấp lại.
Biểu tượng của đẳng cấp
Thanh kiếm katana đã là biểu tượng đẳng cấp của hiệp
sĩ Nhật. Chỉ những samurai mới được phép mang chúng - gần 1000 năm liền
chỉ với một thời gian gián đoạn ngắn, cho đến khi Nhật hoàng thu lại đặc
quyền này năm 1867 và qua đó tước quyền lực của họ.
Ông Matsuba chỉ tự rèn lưỡi kiếm. Làm cán kiếm, vành
chắn và vỏ kiếm lại là các nghệ thuật riêng biệt. Và ngay lưỡi kiếm sau
khi rèn vẫn còn chưa hoàn thành, vẫn còn phải được mài bóng bằng tay 2
tuần liền với đá mài có độ mịn khác nhau.
Đặt một thanh kiếm cũ cạnh thanh kiếm vừa được ông
Matsuba rèn, một người không chuyên không thể nhận ra được khoảng thời
gian nhiều thế kỷ trên lưỡi kiếm. Dường như thời gian không hề đóng một
vai trò nào ở những thanh kiếm này. Chúng đã được rèn để trở thành những
vật hoàn hảo.
Một thanh kiếm katana mới do ông Matsuba rèn có giá
tròn 18.000 euro. Giá kiếm tuân theo những quy luật khác với các vật thể
nghệ thuật khác. Một thanh kiếm cổ có thể rẻ hơn một thanh kiếm mới. Ở
đây thời gian cũng không còn quan trọng. Quyết định giá cả của một thanh
kiếm là nghệ thuật rèn tốt hay kém chứ không phải độ tuổi. Nếu người
thợ rèn một thanh kiếm không tốt cách đây 500 năm thì thời đó nó không
có giá trị gì cả - và ngày nay cũng không. Một đường rạn nứt duy nhất có
thể làm cho thanh kiếm trở thành vô giá trị. Katana hiện giờ là những
vật sưu tập được ưa chuộng. Thêm vào đó là đắt tiền. "Tôi còn nhớ có một
thanh kiếm katana năm 1845, có giá khoảng 500.000 euro", ông Karl-Heinz
Peuker nói, một người sưu tầm và mua bán kiếm samurai, cũ cũng như mới.
Lúc rèn phải hoàn toàn tối
Có ba điều quyết định cho chất lượng của một lưỡi
kiếm: hình dáng, cấu trúc bề mặt của lưỡi kiếm và hamon, đường chia cắt
giữa lưỡi kiếm và sống kiếm. Cấu trúc biểu hiện người thợ rèn đã làm
việc ra sao, đã gấp thép lại như thế nào. Bậc thầy Matsuba chỉ cần nhìn
thoáng qua là có thể cho biết một lưỡi kiếm thuộc về nghệ nhân rèn nào
và thời kỳ nào.
Katana và lưỡi kiếm. Có thể nhìn thấy rõ đường vân hamon ở lưỡi kiếm. Ảnh: K. H. Peuker.
Đường
hamon hình thành trong quá trình rèn. Người thợ rèn bọc lưỡi kiếm bằng
một hỗn hợp đất sét được pha trộn theo công thức bí mật. Ông ép hình
dáng của hamon ở phần lưỡi kiếm vào lớp đất sét còn ướt. Khi lớp đất sét
khô, lưỡi kiếm được đốt nóng trong phòng rèn không có ánh sáng. Chỉ có
màu sắc của lửa tiết lộ cho nghệ nhân rèn biết được nhiệt độ cần thiết –
một trong những khoảnh khắc khó khăn nhất và quyết định then chốt trong
toàn bộ quá trình rèn. Khi đạt đến nhiệt độ cần thiết, nghệ nhân nhúng
lưỡi kiếm vào bể nước, phần vỏ đất sét mỏng ở lưỡi kiếm nguội đi nhanh
hơn, tôi lưỡi kiếm tối ưu. Đất sét ở phần còn lại dầy hơn, vì thế mà
thép ở đó nguội đi chậm hơn, vẫn còn mềm dẻo hơn.
Một phần của văn hóa Nhật
Một thời gian dài, nghệ thuật rèn kiếm katana đã suýt
bị lãng quên. Khi các samurai bị tước đoạt quyền lực và đặc quyền mang
kiếm của họ bị phá vỡ, việc này cũng ảnh hưởng trầm trọng đến các lò
rèn. "Thời đó chúng tôi đã đánh mất một phần của văn hóa", ông Matsuba
nói. "Vì văn hóa samurai là văn hóa Nhật."
Và chính ngay các thanh kiếm suýt tí nữa cũng bị đánh
mất: Sau Thế chiến 2, quân đội Mỹ ra lệnh hủy tất cả vũ khí – trong đó
có cả các thanh kiếm katana cổ xưa quý giá. May mắn là người ta đã có
thể làm cho tổng chỉ huy Tướng MacArthur thay đổi ý kiến. Các thanh kiếm
samurai được giữ lại nhưng phải khai báo. Từ đó, mỗi một thanh kiếm vừa
rèn xong phải được đăng ký.
Phan Ba (theo Spiegel Online)
Sự thật thú vị về Katana - thanh kiếm đáng sợ nhất thế giới
Thiên Hà |
32
Nói tới những loại binh khí lợi hại nhất trong võ thuật, không
thể bỏ qua Katana, thanh kiếm được người Nhật Bản nâng lên thành một tác
phẩm nghệ thuật.
Kiếm "xịn" cho chiến đấu, kiếm gỗ cho thể thao
Những kỹ thuật chiến đấu về kiếm dài Nhật Bản (katana) được tổng hợp trong môn Iaido, môn võ cổ truyền được người Nhật Bản đặc biệt coi trọng, xuất hiện thời kỳ đầu khi katana mới được sáng tạo ra. Môn võ này được bắt nguồn từ thời chiến tranh Trung Cổ Nhật Bản (Sengoku-jidai, thế kỷ 14 đến thế kỷ 17).
Thời kỳ đó, an ninh rất là bấp bênh nên các võ sĩ (samurai hay bushi) thường luôn đeo một thanh katana trên người.
Trải qua hàng thế kỷ, khởi nguồn từ nguyên tắc bí truyền nhưng đến
nay, môn Iaido được phát triển và bành trướng mạnh mẽ tại Nhật Bản và
toàn thế giới và phát triển với nhiều hệ phái khác nhau.
Ban đầu ở môn võ Iaido, các võ sĩ thường sử dụng một cây katana thật để thi đấu.
Võ sĩ sử dụng kiếm gỗ thay cho Katana truyền thống.
Tuy nhiên do tính chất nguy hiểm nên môn phái
này phát triển nhiều hệ phái trong đó các võ sĩ sử dụng kiếm giả hoặc
kiếm gỗ để thay thế cho thanh kiếm katana nguyên bản truyền thống.
Có thể kể tới môn Kendo (kiếm đạo), được phát triển thành môn võ
thuật đánh kiếm hiện đại, nhưng võ sĩ sử dụng kiếm tre (gọi là shinai).
Khi Kendo mới được thành lập, rất nhiều võ sĩ đã tranh cãi quanh việc dùng kiếm thật hay kiếm tre.
Trong khi những người “bảo thủ”, muốn giữ nguyên những giá trị truyền
thống thì nghiêng về giải pháp thứ nhất (dùng kiếm thật), trong khi
những người cách tân, muốn Kendo phát triển thành môn thể thao hiện đại
lại nghiêng về giải pháp thứ 2 (dùng kiếm tre).
Về sau, kiếm tre được sử dụng là chủ yếu còn kiếm katana truyền thống
chỉ thường xuất hiện trong các nghi lễ hoặc một số bài quyền biểu diễn.
Hoặc ở trong môn Aikido cũng có kỹ thuật đấu kiếm nhưng võ sĩ sử dụng
kiếm được làm từ gỗ (được gọi là Bokken, thay thế cho katana).
Việc sử dụng kiếm gỗ hoặc tre thay thế cho katana được rèn bằng rất nhiều loại thép bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân.
Trong đó một phần vì giá thành để có được một chiếc katana chất lượng
là rất đắt đỏ (lên tới hàng chục ngàn thậm chí hàng trăm ngàn đô la),
cộng với việc tập luyện loại binh khí này là quá nguy hiểm, rất dễ gây
rủi ro cho các kiếm sĩ.
Về sau trong các hoạt động thể thao, mặc dù sử dụng kiếm gỗ nhưng các
VĐV vẫn bắt buộc trang bị các dụng cụ hỗ trợ tập luyện như: giáp che
ngực, mũ che đầu, găng tay bảo vệ... để tránh tai nạn xảy ra.
Để phát triển hệ thống kiếm thuật, Liên Đoàn Kiếm Đạo Nhật Bản (Zen
Nippon Kendo Renmei – ZNKR) đã khai triển ra một trường phái mới tên là
Seitei-Iai gồm có 12 bài quyền (Kata).
Những bài quyền này được mô tả rất chi tiết trong những tài liệu
chính thức của ZNKR, và được một hội đồng võ sư cập nhật nếu xét thấy
cần thiết.
Như là số bài kiếm, khởi thủy là 10 bài, được tăng lên 12 bài kể từ năm 2001.
Người Nhật đặc biệt thích Kiếm đạo cũng như Nhu đạo (judo), vì thế môn này có khoảng hai triệu môn sinh.
Cũng như Nhu Đạo, kiếm đạo là một trong chương trình giáo dục học đường và thường được luyện tập như một hoạt động ngoại khóa.
Liên đoàn Kiếm đạo quốc tế được thành lập năm 1970 và hiện có khoảng 8 triệu người luyện tập kiếm đạo ngoài Nhật Bản. Katana – loại kiếm nguy hiểm nhất thế giới
Tại sao một thanh Katana lại đắt đỏ và có sức sát thương cao như vậy?
Bởi chúng được sinh ra trong chiến đấu và là vũ khí của những chiến
binh hàng đầu.
Khi xưa với những samurai thượng hạng, katana được coi là có sức mạnh có thể chém gục đối thủ chỉ với một nhát.
Đặc điểm của thanh katana là khá dài nhưng có bản khá nhỏ, hơi cong,
một lưỡi, giúp võ sĩ có thể rút kiếm ra khỏi vỏ và chém chỉ trong một
động tác.
Đây là lợi thế lớn của katana so với các loại kiếm khác trong các trận chiến thời cổ.
So với trường kiếm của phương Tây, katana nhẹ hơn, ngắn hơn nhưng lại có lợi thế nhờ độ bền, sắc bén và ưu thế tốc độ.
Katana được coi là một trong những vũ khí hoàn hảo nhất.
Những thanh katana được rèn đủ tiêu chuẩn còn có khả năng chém đứt
thân cây cỡ trung bình, những thanh sắt, một thanh kiếm thông thường hay
có thể chém thủng áo giáp.
Khi xưa, katana thường đi đôi với một thanh kiếm ngắn hơn, hoặc cực ngắn, gọi là đoản đao.
Bộ đôi đó gọi là Đại-Tiểu. Trong khi katana thường dùng để chém trong tác chiến thì kiếm ngắn để đâm khi đến gần đối phương.
Đôi khi thanh ngắn được dùng để mổ bụng tự sát (một kỹ thuật tự sát của samurai, mang tên seppuku).
Katana có chuôi dài đủ để người sử dụng dùng hai bàn tay nắm chặt.
Kiểu dáng thon mảnh khiến võ sĩ sử dụng katana lâu bị mỏi và ít bị rơi
binh khí so với các loại kiếm phương Tây.
Thường khi tập katana, các võ sĩ tập sẽ được huấn luyện nhiều kỹ
thuật phức tạp như rút kiếm và xuất chiêu cùng trong một chuỗi động tác.
Đòn tấn công đầu tiên thường nhắm vào những vị trí cực hiểm trên cơ
thể đối phương như thái dương hoặc mắt...sau đó mới đến các bộ phận
khác.
Các kỹ thuật gồm có những đòn sát thủ công, thủ, phản, biến. Sau đó, là kỹ thuật “rẩy” máu (chiburi) và tra kiếm vào bao (noto)… So sánh uy lực của katana so với kiếm phương Tây:
Theo một số thư tịch cổ để lại từ thế kỷ 15 - 17 trên toàn nước Nhật
có khoảng 600 trường phái kiếm thuật, chưa kể đến các môn võ thuật khác.
Hiện tại, vẫn có nhiều người tập luyện với thanh katana thật nhưng không phải để thi đấu đối kháng mà chỉ thiên về biểu diễn.
Một ví dụ khá điển hình là vị samurai thời hiện đại Isao Machii– người lập nhiều kỷ lục Guinness với thanh katana, trong đó ấn tượng nhất là màn chém đôi viên đạn đang bay.
Biểu tượng của đẳng cấp
Với một samurai thì thanh kiếm là một thứ không thể thiếu, nó không
những chỉ là một công cụ chiến đấu lợi hại mà còn đại diện cho tinh thần
chiến đấu, phẩm giá và danh dự của họ.
Nó như tâm hồn của mỗi võ sĩ samurai vậy, kiếm và người như hòa làm một.
Chính vì vậy mỗi samurai coi thanh kiếm như mạng sống của mình, những
thanh kiếm quý sẽ được lưu truyền trong dòng tộc, thế hệ trước để lại
cho thế hệ sau.
theo Trí Thức Trẻ
Uy lực khủng khiếp của thanh gươm Samurai so với kiếm Tây
Quang Thạch (tổng hợp) |
27
Thanh gươm Samurai là biểu tượng của tinh thần thượng võ của
người Nhật. Nhưng đằng sau nó vẫn còn muôn vàn những điều bí ẩn!
Samurai là chiến binh như thế nào?
Samurai được nhiều người biết đến như những kiếm sĩ huyền thoại của
Nhật Bản trong các bộ phim võ thuật. Samurai đóng một vai trò hết sức
quan trọng trong lịch sử Nhật Bản 1.500 năm qua.
Thật ra Samurai đảm trách nhiều nhiệm vụ khác nhau, nhưng họ được biết đến nhiều nhất trong vai trò là những chiến binh.
Vật dung tranh bị cho một Samurai.
Có 4 yếu tố để làm nên một Samurai:
- Samurai là một chiến binh được đào tạo và có kĩ năng chiến đấu tốt.
- Samurai phục vụ daimyo (lãnh chúa) hay chủ tướng, với lòng trung
thành tuyệt đối, thậm chí cho đến chết. Trong tiếng nhật Samurai từ có
nghĩa là, “những người phục vụ.”
- Samurai là tầng lớp ưu tú, được coi là ở đẳng cấp cao hơn công dân thường và binh lính thông thường.
- Samurai có cuộc sống tuân theo tinh thần Bushido (võ sĩ đạo), một hệ thống luân lý đề cao sự danh dự.
Hình ảnh Samurai cổ xưa.
Trải qua chiến trận, các chiến sĩ Samurai ngày càng trở nên tinh
thông bộ binh và kỵ binh, quyền thuật và thương thuật. Họ chỉ dùng gươm
khi đánh giáp lá cà và để lấy thủ cấp của đối phương chiến bại.
Nhưng vào cuối thế kỉ XIII, những trận đánh với quân Mông Cổ đã khiến các Samurai phải thay đổi chiến pháp.
Họ bắt đầu sử dụng gươm nhiều nhiều hơn, cũng như tận dụng các mũi nhọn và lưỡi gươm một cách hiệu quả nhất.
Các Samurai cũng chuyển từ chiến đấu trên mình ngựa sang tác chiến
dưới mặt đất. Một Samurai thường sử dụng 2 thanh gươm (daito – katana).
Một chiếc dài, một chiếc ngắn. Chiếc dài (daito) khoảng 0,85m, chiếc
ngắn (shoto-katana) khoảng từ 0,42m đến 0,85m. Họ tìm mọi cách dùng gươm
chặt gãy chân ngựa của kỵ binh Mông Cổ.
Các võ sỹ thường đặt tên cho thanh gươm của mình. Họ coi đó là biểu tượng của tinh thần võ sỹ đạo của chính bản thân và dòng họ.
Vì ý nghĩa thiêng liêng như vậy mà trước khi sử dụng kiếm, các
Samurai thường làm nghi lễ thờ cúng trình thanh gươm lên trước các thần
Shinto (theo quan niệm của Thần đạo Nhật Bản), đặt tên cho gươm và cầu
mong điều may mắn. Giải mã sự hình thành thanh gươm Samurai qua các thời kỳ
Theo cấu trúc và hình dáng có thể chia gươm Nhật thành hai loại: Gươm
thẳng lưỡi kép và gươm cong lưỡi đơn. Theo thời gian, thanh gươm võ sỹ
đạo có 4 loại: Gươm Nhật thời cổ đại (Chokuto hay Ken – trước thế kỷ IX)
Các thanh gươm ban đầu do thợ rèn từ Trung Quốc và Triều Tiên chế tác, làm bằng thép luyện, có dáng thẳng, hai lưỡi.
Sau đó người Nhật cũng học theo các mẫu này. Quan chức và chỉ huy
thường đeo các loại gươm quý tượng trưng cho quyền lực và sự uy nghiêm
của tầng lớp thống trị phong kiến. Gươm Nhật cổ (Koto – từ thế kỉ X đến thế kỉ XVI)
Đây là thời kỳ võ thuật lên ngôi tại Nhật bản, đặc biệt là kiếm
thuật. Đàn ông khỏe mạnh biết võ nghệ trở thành đối tượng cả xã hội tôn
sùng.
Gươm Nhật lúc này rất dài, khoảng 1,22m (chỉ tính phần lưỡi), có dáng cong và lưỡi đơn thay cho kiểu Trung Quốc cũ. Gươm Nhật thời cận đại (Shinto)
Thời kỳ này chiến tranh nội chiến đã kết thúc khiến gươm mất đi giá
trị sử dụng. Chiều dài kiếm giảm đi, phần lưỡi chỉ còn 60cm. Tính nghệ
thuật được đặt lên hàng đầu.
Thanh gươm trở thành vật trang trí, trưng bày, tôn lên vẻ đẹp oai phong và sức mạnh quyền lực của đẳng cấp Samurai. Gươm hiện đại (Shin – shinto)
Sức mạnh phong kiến và quyền uy đẳng cấp Samurai đã đến hồi kết. Quá
khứ huy hoàng của gươm võ sỹ đạo cũng chỉ còn là “vang bóng một thời”.
Theo truyền thuyết, Amakumi – người thợ
rèn nổi tiếng vùng Yamato, đã chế tạo ra thanh gươm võ sỹ đạo đầu tiên
trong lịch sử Nhật Bản vào thế kỷ VII.
Amakumi và con trai chuyên rèn gươm (theo kiểu mẫu Trung Quốc) cho
các chiến binh trong vùng. Nhận thấy gần một nửa số gươm mang về từ
chiến trận đã bị gãy, họ làm lễ cầu nguyện các thần Shinto 7 ngày đêm.
Sau đó Amakumi họ chọn ra loại quặng tốt nhất để đưa vào tôi luyện.
Cuối cùng họ cho ra sản phẩm là một thanh gươm cong lưỡi đơn.
Hiệu quả chiến đấu của thanh gươm này đã mạnh lên rất nhiều. Các
chiến binh trong vùng đã trở về trong chiến thắng với những thanh gươm
nguyên vẹn. Sự khác biệt về uy lực của kiếm Nhật và kiếm Tây
Kiếm nhật có chuôi dài đủ để người sử dụng dùng hai bàn tay nắm chặt.
Theo truyền thống, kiếm được đeo với lưỡi quay lên phía trên (chiều
cong hướng lên trên, ngược với cách đeo kiếm Tây Âu).
Ngày nay tuy không còn được sử dụng trong chiến tranh, kiếm Nhật vẫn được giới sưu tầm yêu chuộng.
Loại kiếm cổ rất mắc tiền và nghệ thuật tác chiến bằng kiếm Nhật vẫn
còn được lưu truyền trong một số môn thể thao võ thuật Nhật Bản, như môn
Kendo (Kiếm đạo), Kenjutsu (Kiếm thuật), Battojutsu (Bạt đao thuật).
MIỀN TÂY HOANG DẠI Ước gì một lần về thuở ấy miến Tây Sống lầy lội những tháng ngày hoang dại Súng cặp kè hông, nhong nhong lưng ngựa Phóng khoáng thảo nguyên, đạn nổ ì đùng Ta sẽ về, rủ em gái theo cùng Đem tình yêu vào vòng đấu súng Và ngã xuống trong một lần anh dũng Để mai này định nghĩa lại...thằng khùng! Đã khùng rồi thì xá chi anh hùng Của một thời tìm vàng sôi động Người người xô bồ tìm giàu sang cuộc sống Để lại điêu tàn, bắn giết mênh mông! Ta ước thế nghe có rùng rợn không? Trần Hạnh Thu NHẠC HUYỀN THOẠI CAO BỒI VIỄN TÂY
(ĐC sưu tầm trên NET) Bản tin 113 online cập nhật ngày 2/5: Truy tố 254 bị can bị trong đại án sai phạm lĩnh vực đăng kiểm 🔴 TRỰC TIẾP: Thời sự quốc tế 3/5 | Nga tuyên bố khai hỏa Iskander, hủy diệt hai pháo HIMARS Ukraine Tin tức thời sự mới nhất hôm nay | Bản tin sáng ngày 5-3-2024 MỘT CÕI ĐI VỀ (Sáng Tác: Trịnh Công Sơn) - KHÁNH LY OFFICIAL Miễn nhiệm chức vụ Chủ tịch Quốc hội đối với ông Vương Đình Huệ 9 giờ trước Khoảnh khắc tên lửa Nga công kích pháo HIMARS Ukraine 12 giờ trước Mong muốn Campuchia chia sẻ thông tin về Dự án kênh đào Funan Techo 10 giờ trước Gần 50 người chết trong vụ sập đường cao tốc ở Trung Quốc 10 giờ trước Lý do xuất khẩu của Trung Quốc sang Nga bất ngờ sụt giảm 8 giờ trước Ukraine nói Nga sản xuất tên lửa Zircon 'nhanh bất thường' 6 giờ trước Hàng chục nghìn người Gruzia tiến hành biểu tình lớn nhất từ trước tới nay 16 giờ trước Video 'rừng người' xem phương tiện chiến đấu bị Nga tịch thu ở chiến trường Ukraine 16 giờ trước U23 In...
I Only Want to Be with You - Dusty Springfield (Cover by Emily Linge) VẪN THẾ MÀ! Anh vẫn thế, trước sau vẫn thế mà Nhìn anh này, đừng nhìn phía trời xa Vẫn ngày ngày ra ngóng chờ trước của Đợi Nàng Thơ về tác hợp thi ca Tâm hồn anh có cửa đâu mà khóa Mà phải cùng em mở cánh cửa tâm hồn Anh tìm mãi nào thấy đâu ô cửa Toang hoác tứ bề, thông thống càn khôn* Còn trái tim anh vẫn êm đềm, yên ả Vẫn yêu quê hương, tổ quốc, con người Miền nhiệt đới khi thấy tim băng giá Chắc chắn là anh đã ngoẻo tự lâu rồi! Trần Hạnh Thu CT: * Trời đất
Nhận xét
Đăng nhận xét