Thứ Năm, 8 tháng 2, 2018

MẶT TRÁI NHÂN TÍNH 1

(ĐC sưu tầm trên NET)
 
Cháu hiếp vợ cậu đang mang thai đến chết 
Đêm hôm đó, khi biết cậu ruột đi làm ăn xa chưa về, chỉ còn một mình mợ ở nhà, Thành mò vào nhà lấy tay bịt miệng, bế thốc chị Hà vào phòng ngủ. Giữa đêm khuya thanh vắng, cơn thú tính trong người gã trai mới lớn trỗi dậy, hắn đã thực hiện hành vi loạn luân ngay với người cô của mình... 

Sự thật rùng rợn về người phụ nữ độc ác nhất Trung Quốc

Trong lịch sử Trung Hoa, không hiếm những trường hợp các bà Hoàng hậu nổi danh vì những đòn ghen khiến bất kỳ ai cũng phải rợn người.
Lã Hậu là Hoàng thái hậu đầu tiên trong lịch sử trung Quốc, so với sự độc ác, tàn bạo của bà ta thì Võ Tắc Thiên cũng không thể sánh bằng. Sau khi Lưu Bang qua đời, Lưu Doanh tức Hán Huệ Đế được kế thừa hoàng vị, nhưng khi đó vì tuổi còn nhỏ nên quyền lực đều nằm trong tay mẹ của hoàng đế là Lã Hậu.
Theo Sử ký (Tư Mã Thiên):
Lã Hậu (241 TCN – 180 TCN) hay còn gọi là Lữ Hậu, Hán Cao Hậu, thời con gái bà có tên là Lã Trĩ – là vợ của Hán Cao Tổ Lưu Bang, mẹ của Hiếu Huệ đế và công chúa Lỗ Nguyên.
Lã Hậu đã thay chồng sát hại công thần
Lã Hậu là con người cứng rắn quyết đoán, giúp Cao Tổ bình định thiên hạ, các quan đại thần bị Cao Tổ giết phần lớn do sức của Lữ Hậu, như Hàn Tín, Bành Việt.
Sự thật rùng rợn về người phụ nữ độc ác nhất Trung Quốc - Ảnh 1
Hàn Tín chết vì bị Lã Hậu vu oan cho ông “âm mưu tập hợp người nhà làm phản ở kinh đô để làm nội ứng cho Trần Hy”. Khi Lưu Bang đem quân đi đánh dẹp Trần Hy, danh tướng bách chiến bách thắng Hàn Tín bị Lã Hậu lừa vào cung, bị võ sĩ trói lại rồi bị mang chém ở nhà treo chuông trong cung Trường Lạc, rồi bà ta lại sai giết cả ba họ nhà Hàn Tín.
Sau khi Lưu Bang đã dẹp xong quân của Trần Hy trở về kinh đô, thấy bộ tướng năm xưa đã chết mà vừa mừng vừa thương.
Bành Việt cũng là một đại công thần “công cao lấn át chủ” cần phải trừ khử. Lã Hậu khuyên Lưu Bang: “Bành Việt là dũng tướng, nếu thả vào đất Thục mà dấy quân làm phản thì để ẩn họa cho mình, chi bằng giết luôn để trừ hậu họa”.
Dã tâm của Lã Hậu ngày càng lớn, bà ta hi vọng có thể nắm được quyền lực tối cao của vương triều Tây Hán, vì thế bắt đầu tiêu diệt các phi tần khác. Trước tiên, bà ta bức hại các thân vương, sau đó dùng thủ đoạn tàn ác với Thích phi và con trai bà ta là Lưu Như Ý. Sau khi Lưu Bang mất, Lã Hậu liền lệnh cho thuộc hạ nhốt Thích phi vào nhà lao nữ, đồng thời bắt Thích phi làm những việc nặng nhọc, hàng ngày phải lao động từ sáng đến tối, nếu số lượng gạo xay mà không đủ thì không cho ăn cơm.
Vì muốn diệt trừ Lưu Như Ý, Lã Hậu đã triệu Lưu Như Ý hồi cung. Nhưng Lưu Doanh rất yêu quý người anh em này nên luôn bảo vệ Lưu Như Ý. Nhân cơ hội Lưu Doanh ra ngoài đi săn, Lã Hậu đã đầu độc chết Lưu Như Ý, việc này khiến Lưu Doanh vô cùng đau lòng.
Sau khi con trai của Thích phi bị hại chết, Lã Hậu bắt đầu bức hại Thích Phi, biến Thích phi thành “người lợn” (một hình phạt vô cùng tàn khốc). Bà ta còn cho gọi Lưu Doanh đến nhìn “người lợn”.
Sự thật rùng rợn về người phụ nữ độc ác nhất Trung Quốc - Ảnh 2
Lã Hậu có những hình phạt đối rất tàn khốc.
Huệ Đế sau khi nhìn thấy "người lợn" thì vô cùng kinh hãi, đã bật khóc rất lớn, khi trở về cung vì bị ám ảnh bởi “người lợn” mà mắc bệnh nặng. Cuối cùng vì không chịu được những hành động tàn độc, hiểm ác của mẹ mình, Huệ Đế đã cho người truyền đạt lại sự bất mãn của mình với mẹ, và tuyên bố bản thân không đủ năng lực để trị vì đất nước, sau đó qua đời ở tuổi 24.
Sau khi Huệ Đế qua đời, Lã Hậu muốn đưa Thiếu Đế lên ngôi, nhưng Thiếu Đế biết mẹ của mình bị Lã Hậu sát hại, nên đã nói với Lã Hậu rằng khi nào lớn lên sẽ trả thù cho mẹ, điều này khiến Lã hậu vô cùng tức giận nên đã ra tay sát hạt Thiếu Đế, sau đó lập Lưu Nghĩa làm vua, nhưng khi Lưu Nghĩa đăng cơ được bốn năm thì Lã hậu qua đời.
Theo Minh An (Khoevadep)

Lời thú tội rùng rợn của tên cai ngục tàn ác bậc nhất lịch sử Việt Nam

Viên cai ngục tàn ác bậc nhất trong lịch sử Việt Nam đó là Trần Văn Nhu (tức Bảy Nhu).
Hai lần kỳ công tìm gặp “thượng sĩ bẻ răng” Trần Văn Nhu
Có lẽ, chúng tôi sẽ không sợ mình đã hồ đồ, khi nói: Lao Động là tờ báo đầu tiên công bố một bức chân dung xác thực nhất, cụ thể nhất, sinh động nhất về viên cai ngục tàn ác bậc nhất trong lịch sử Việt Nam Trần Văn Nhu (tức Bảy Nhu). Từ những thông tin như huyền thoại, từ các tác phẩm đậm chất văn chương của các nhà văn, nhà báo nổi tiếng như Chu Lai, Xuân Ba…, từ lời kể của hàng vạn tù nhân cộng sản và yêu nước từng bị giam giữ ở địa ngục trần gian “Trại tù binh Phú Quốc” (tỉnh Kiên Giang), người ta đã biết trên đời có một “ác quỷ Bảy Nhu”.
Nhưng hình hài ông ta ra sao, ông ta còn sống hay đã chết, những “chiến tích” tra tấn tù nhân gồm 24 ngón đòn được “sử sách lưu danh” của “quỷ sa tăng” kia cụ thể ra sao? Khi chúng tôi cất bước lần tìm Bảy Nhu, hầu như ai cũng bảo đó là hành động mò kim đáy bể. Bấy giờ, lên mạng Internet tìm kiếm, gõ tên của Bảy Nhu (Trần Văn Nhu) thì tuyệt nhiên không thấy một tấm ảnh nào, ngoài vài dòng miêu tả hoặc ghi theo ký ức của những nạn nhân từng bị Bảy Nhu hành hạ.

Ông Nguyễn Văn Vạn (Bến Lức, Long An) từng bị Bảy Nhu tẩm xăng đốt miệng.Những ngày lang thang ở đảo Phú Quốc, chúng tôi tình cờ gặp được đại tá Nguyễn Minh Chánh – người phụ trách Đội K92 của Tỉnh đội Kiên Giang. Anh Chánh đang chỉ huy việc đào bới tìm kiếm di cốt của rất nhiều trong số khoảng 4.000 người tù cộng sản và yêu nước từng bị “tập đoàn quỷ sa tăng” do Trần Văn Nhu đầu têu giết hại.
Ông Chánh tiết lộ, ông có gặp Bảy Nhu một lần để “tham vấn” ý kiến của ông ta trong việc định hướng đào tìm hài cốt. Than ôi, có những mồ chôn tập thể khai quật rồi phát hiện tới 500 di cốt người tù đã “vị quốc vong thân”. Một ý nghĩ lóe lên trong tôi: Bảy Nhu giờ ân hận, đang lẩn lút, ăn chay trường niệm Phật để sám hối, hắn ta muốn chuộc lỗi với cách mạng bằng cách “chỉ điểm” cho cán bộ đào tìm ở những nơi hắn đã vùi thây tù nhân.
Vậy thì tôi sẽ đóng vai một người viết sử đi ghi lại sự kiện bi tráng này. Sau nhiều ngày dò dẫm, cuối cùng cán bộ quân đội ngoài công trường đào mộ khổng lồ ở Phú Quốc đã giới thiệu tôi đến gặp ông Hai M – một người từng tham gia làm tiếp quản cho Trại tù binh (đã bị cải tạo), giờ là chủ hãng nước mắm có tiếng của Kiên Giang. Ông Hai M dè dặt nhận lời giúp.
Đặc điểm của Bảy Nhu là luôn lẩn tránh người lạ, ông ta sẵn sàng tọt ra vườn sau khi đàn chó dữ sủa ầm ĩ báo tin có khách. Đã có lần ông ta mắc võng nằm mấy ngày ngoài đồi vắng, chỉ để đỡ phải gặp một ai đó. Hồi mới giải phóng, sau khi đi cải tạo về, nghĩ rằng mình đang bị chửi rủa, sẽ bị hắt hủi và trả thù, Bảy Nhu còn gài lựu đạn trên bờ rào dây thép gai quanh nhà mình để đề phòng. Ai ngờ trong đi mua rượu cho bố uống quên sầu, con trai ông ta đã vướng vào và cụt một chân.

Một tù nhân khác bị Bảy Nhu móc mắt đang được đồng đội cõng đi.Trần Văn Nhu đã ngoài 80 tuổi, quê gốc ở huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp. Sau này, lên Sài Gòn sống rồi đi lính quân cảnh, sợ vào bộ binh dễ mất mạng nên ông ta đồng ý ra Trại tù binh Phú Quốc làm cai ngục. Khi gặp chúng tôi, Bảy Nhu thừa nhận nhiều ngón đòn dã man đã được mình và cộng sự thực thi, như: Đập vỡ xương bánh chè, ép ván vỡ lồng ngực, đốt dương vật, đốt miệng cho chín lưỡi những người tù vì tội không chịu khai báo…
Thỉnh thoảng tức giận cái gì, đám cai ngục lại cho bắn vài quả đạn cối, giết mấy chục người “bướng bỉnh” khênh đi ném bỏ ngoài bìa rừng. Có khi chúng bắt người tù phải ăn cơm chấm với phân và máu của họ. Lũ đồ tể cũng sẵn sàng nướng người trên than hồng, luộc người trong chảo nước sôi, đập vỡ hết các mắt cá chân và xương bánh chè, cắt da “chỗ kín” của người tù, nhét đỉa sống vào rồi khâu lại, nướng thanh sắt đỏ rồi xuyên liên tục qua bắp chân, mổ bụng moi gan người mà chúng coi là “ương bướng”.
Đặc biệt là trò dùng “gậy biệt ly” và “vồ sầu đời” (coi tra tấn, giết người như một thú chơi, nên bọn chúng đều đặt tên cho từng dụng cụ) ghè từng chiếc răng trong miệng tù nhân, bắt họ uống máu họ rồi nhè từng chiếc răng ra nộp cho “thầy cai”. “Thầy” mua vui bằng cách đeo nó trong ống bơ sữa bò treo tung tăng trên cổ. Mỗi lúc Bảy Nhu sắp đến tra tấn ai, họ đều nghe tiếng lóc xóc của hàng trăm chiếc răng bỏ trong lon sữa bò. Những bức ảnh khoang miệng người tù lởm chởm, không còn chiếc răng nào nguyên vẹn sau khi gặp Bảy Nhu có thể khiến bất cứ ai toát mồ hôi hột.

Dựng lại cảnh tra tấn tù nhân dã man tại Côn Đảo.Ông Vũ Minh Tằng (hiện sống ở huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định) có lẽ là người duy nhất trên thế giới này có 9 cái răng đang trưng bày ở bảo tàng. Sau khi giúp gần 100 cán bộ ta vượt ngục Phú Quốc, Bí thư chi bộ Vũ Minh Tằng đã bị Bảy Nhu tóm gọn khi vừa nhô ra khỏi đường hầm bí mật.
Bảy Nhu đã đập vỡ bánh chè, bắt ông Tằng ăn cơm trộn phân và máu, thậm chí hắn còn trực tiếp bắt ông Tằng há miệng để hắn đủng đỉnh “lấy” lần lượt 9 cái răng rồi bắt ông nuốt cả máu lẫn chùm răng đó. “Một giọt máu chảy ra ngoài, tao sẽ giết mày, ném xác xuống biển” – Bảy Nhu nó cứ rít lên” – ông Tằng kể. Ông Tằng đã bới phân mình, giắt 9 cái răng đó trong cạp quần suốt gần chục năm tù đày và hơn 30 năm được phóng thích theo Hiệp định Paris rồi sống ở vùng chiêm trũng Vụ Bản.
Ông giữ vì muốn ghi dấu tội ác của giặc, muốn sau này mình về với các cụ có đủ bộ phận cơ thể vào… quan tài. Thế rồi, những người bạn từng ở địa ngục trần gian Phú Quốc sống sót trở về đã vận động ông Tằng hiến 9 cái răng kia cho “Bảo tàng Chiến sĩ cách mạng bị địch bắt và tù đày” của ông Lâm Văn Bảng ở Phú Xuyên (Hà Nội).
Khi bài viết “Chín cái răng lưu lạc” đăng trên báo Lao Động, nhân vật đau khổ Vũ Minh Tằng đã được hỗ trợ 30 triệu đồng làm bộ răng giả, 90 triệu đồng xây dựng lại mấy gian nhà để tiếp tục nuôi vợ yếu và cậu em trai tàn tật từ nhỏ. Cũng từ ý tưởng và kinh phí của độc giả, chúng tôi đã đưa ông Tằng trở lại đảo Phú Quốc sau gần 40 năm “xa cách” để gặp lại Bảy Nhu.
Tại đây, trước máy quay, máy ảnh và hàng chục nhân chứng, Bảy Nhu đã bất ngờ nhận ra người tù quật cường Vũ Minh Tằng. Ông Tằng chửi bới, rút hàm răng giả ra căm phẫn gí vào mặt Bảy Nhu. Nhưng rồi cả hai đều khóc. Bởi như Bảy Nhu nói: “Bấy giờ tôi hành động như thằng điên. Tôi bị chúng nó bắt phải làm như con chó săn thế.
Tôi xin lỗi ông Tằng và đồng đội của ông. Ngực tôi đây, mặt tôi đây, ông muốn đánh bao nhiêu cũng được, ông giết tôi, tôi cũng phải chịu. Lúc tra tấn các ông, tôi bị chúng nó ép phải làm thế, chứ thấy các ông can đảm, quật cường, một lòng vì nước vì dân, trong lòng tôi cũng kính trọng lắm chớ…”.
Gặp chúng tôi, Bảy Nhu thừa nhận nhiều ngón đòn dã man đã được mình và cộng sự thực thi, như: Đập vỡ xương bánh chè, ép ván vỡ lồng ngực, đốt dương vật, đốt miệng cho chín lưỡi những người tù vì tội không chịu khai báo… Thỉnh thoảng tức giận cái gì, đám cai ngục lại cho bắn vài quả đạn cối, giết mấy chục người “bướng bỉnh” khênh đi ném bỏ ngoài bìa rừng. Có khi chúng bắt người tù phải ăn cơm chấm với phân và máu của họ.
Lũ đồ tể cũng sẵn sàng nướng người trên than hồng, luộc người trong chảo nước sôi, đập vỡ hết các mắt cá chân và xương bánh chè, cắt da “chỗ kín” của người tù, nhét đỉa sống vào rồi khâu lại, nướng thanh sắt đỏ rồi xuyên liên tục qua bắp chân, mổ bụng moi gan người mà chúng coi là “ương bướng”…Sau khi Lao Động vào cuộc, tính đến nay đã có hàng trăm bài báo, hàng chục bộ phim “làm” về Bảy Nhu và ông Vũ Minh Tằng.
Cái gì của lịch sử, xin hãy trả nó cho lịch sử, dù đau đớn và thao thức dằn vặt bao nhiêu đi nữa. Và, mới đây khi cùng ông Tằng trở lại “Bảo tàng Chiến sĩ cách mạng bị địch bắt và tù đày”, chúng tôi đã được ông Lâm Văn Bảng cho xem một tài liệu thuyết phục cùng những bức ảnh rợn người liên quan đến “bức chân dung của quỷ”, đến “bóng ma đang sống Trần Văn  Nhu”. Với mong muốn, “cái gì của lịch sử hãy trả nó cho lịch sử”, chúng tôi xin tiếp tục cung cấp hầu như nguyên văn tài liệu quý này để độc giả tự suy ngẫm.Bấy giờ “tôi như một con thú độc”, cứ giết người tàn ác như vậy thôi
Tài liệu được ông Bảng đóng khung, treo lên bờ tường đó, viết như sau:“Sau hai mươi năm, đồng chí Đoàn Thanh Phương, một “tử tù” bị tra tấn tàn độc trong Trại tù binh cộng sản Phú Quốc (nay là Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân) đã gặp lại với tên cai ngục khủng khiếp Trần Văn Nhu.Lời giới thiệu của đồng chí Bí thư Huyện ủy Phú Quốc và Phó giám đốc Bảo tàng tỉnh Kiên Giang:Xin giới thiệu với ông Bảy đây là phái đoàn của các tỉnh và bảo tàng của Bộ Quốc phòng, đến gặp ông để nghe kể lại sự thật đã diễn ra trong nhà tù Phú Quốc.
Ngày trước đây ông làm Trưởng trại giam tù binh Phú Quốc. Ông kể đúng sự thật, thật sự khách quan, để chúng tôi ghi lại, để đời sau con cháu ta biết được tội ác của Mỹ – ngụy, đồng thời các cán bộ cũng có cơ sở để để xây dựng Di tích lịch sử Nhà tù Phú Quốc.

Lời thú tội của tên cai ngục Trần Văn Nhu.Thượng sĩ nhất – viên cai ngục khét tiếng Trần Văn Nhu đáp: “Tôi ra đây làm Giám thị trưởng năm 1970. Đúng là tôi có đánh đập anh em tù binh, có bỏ họ biệt giam vào chuồng cọp, có đánh nhiều anh em, rồi giam riêng cho họ đói khát. Tôi cũng hành hạ, đánh đập, (nhổ) lấy móng tay, lấy móng chân, đục lấy răng của họ. Tôi có đánh roi cá đuối, rọi bóng đèn làm nổ con ngươi của mắt, dùng chày “vồ sầu đời” đánh vào đầu gối, bàn tay, bàn chân, mắt cá, cùi chỏ của họ.
Vì khi đó thằng trung úy Hiển bảo tôi phải làm như vậy. Bấy giờ tôi như một con vật, loài thú độc ác cứ  “ăn thịt người” và giết người như vậy thôi. Nay, tôi xin nhận tội lỗi của tôi. Nhờ ơn Đảng và Nhà nước, tất cả anh em tù binh thương tôi thì để tôi sống. Nếu không thương tôi thì giết tôi cũng được. Vì tôi có lỗi với các anh tù binh, tội của tôi đáng chết”.Đồng chí Đoàn Thanh Phương hỏi: “Có phải ông Bảy Nhu ra đây làm giám thị khu B2 không? Tôi nói lại cho ông biết ông ra đây năm 1967. Tôi nói cho ông nhớ lại nhé: Phía buồng giam bên kia là thượng sĩ Ty quản lý, đó là khu A2; bên này là ông Giám thị trưởng khu B2; còn chính giữa là trung sĩ Thu làm Giám thị trưởng khu A4 và trung sĩ Danh (phụ trách nhà dù); còn thượng sĩ nhất tên là Trần Văn Nhu phụ trách cái gì chắc ông biết rõ hơn tôi?”.
Trần Văn Nhu đáp: “Đúng. Nhưng có điều ông nói không đúng. Không phải tôi ra Phú Quốc năm 1967. Mà tôi ra năm 1970”.Đồng chí Đoàn Thanh Phương hỏi: “Như vậy ông có biết trung tá Phước đang ngồi cạnh ông đây không? Tôi giới thiệu cho ông biết ngày trước ông gọi em Phước này là “con nít con mà đi làm cộng sản”.Thượng sĩ nhất Trần Văn Nhu đáp: “Vì ngày đó ông Phước còn nhỏ, tôi xin lỗi ông, tôi không nhớ vì tôi hiện nay đã già, đã lớn tuổi rồi”.Đồng chí Đoàn Thanh Phương: “Tôi sẽ kể cho ông nghe.
Tức là ông ra Phú Quốc năm 1967 làm giám thị cho khu B2 như hồi nãy nói mà ông không chịu công nhận. Giờ tôi sẽ nói cho ông biết là trung sĩ Thu, trung sĩ Sanh làm giám thị của khu A4. Ngày 28.5.1968, tôi tự giới thiệu cho ông biết là, tôi tên trong tù là Đoàn Văn Công, ông nhớ chứ, ông từng bỏ biệt giam chuồng cọp, tôi đã từng vượt ngục ông nhớ chứ?”.

Ông Vũ Minh Tằng và khoang miệng bị Bảy Nhu bẻ hết răng.Thượng sĩ nhất Trần Văn Nhu hoảng hốt, xỉu lật ngửa ra phía sau rồi gục đầu xuống khóc: “Xin lỗi, tha tội chết cho tôi vì hồi đó tôi ác quá. Tôi nhớ ra rồi. Ông Đoàn Thanh Phương cho phép tên Nhu này được quyền gọi ông bằng chú em, vì tuổi tác tôi đã cao. Thưa chú Phương, chú kể lại thì tôi nhớ ra. Đúng rồi, tôi ra đây năm 1967, lâu quá tôi quên. Giờ tôi già quá nên nó lẫn lộn.
Phải rồi, chính tôi đánh chú, tôi đánh, bỏ biệt giam chú 4 lần và chú vượt ngục 4 lần. Tôi bỏ biệt giam chuồng cọp chú, hành hạ đánh đập chết đi sống lại. Nhiều lần tôi bỏ chú đói khát, phơi nắng phơi mưa, lột hết lớp da này đến lớp da khác. Tôi còn nhổ bỏ móng tay, móng chân, đục răng, đánh gãy hai bẹ sườn, đánh gãy xương đòn, đánh dùi cui vào đầu, vào người chú.
Đánh chày vồ vào hai bàn chân, bàn tay, mắt cá, cùi chỏ, đầu gối, đánh roi cá đuối, đánh bể đầu, đánh không biết bao nhiêu mà kể cho hết. Tôi tính đánh đòn hiểm như thế là chú đã chết, tôi không ngờ bây giờ chú vẫn còn sống. Tôi nhớ hồi đó là thằng trung úy Hiển bảo tôi nên có tội ác như vậy. Xin lỗi tha tội cho tôi”.

Ông Tằng trong một lần trở lại Phú Quốc.Đồng chí Đoàn Thanh Phương lên xe, Bảy Nhu chạy theo xin lỗi tha thứ cho những tội ác trong quá khứ.Đồng chí Đoàn Thanh Phương nói: “Nếu tôi giết ông thì tôi đã giết từ lâu rồi. Ông nên nhớ rằng Đảng ta sẽ tha thứ kẻ có tội mà biết nhận lỗi, biết được như thế thì sẽ được khoan hồng.
Chỉ sợ có tội mà không nhận tội, đó mới là người xấu. Hiện nay tôi còn sống như ông thấy, và tôi đã được Nhà nước tuyên dương Anh hùng quân đội”.Đồng chí Đoàn Thanh Phương quay lại nói với những người xung quanh: “Yêu cầu tất cả anh em tù binh của chúng ta không được có hành động gì quá khích với tên Trần Văn Nhu, để sau khi bảo tồn di tích lịch sử nhà tù Phú Quốc, Trần Văn Nhu sẽ là nhân chứng sống (viên cai ngục tàn ác) trong chiến tranh vệ quốc của người Việt Nam.
Việc “ác quỷ” Trần Văn Nhu được sống đến hôm nay, nó cũng là bằng chứng về chủ trương nhân đạo của Đảng và Nhà nước ta”.Biên bản viết tháng 2.1993 tại nhà Trần Văn Nhu (những người có mặt ký tên)Lời tác giả: Trong văn bản có bị mờ, theo suy luận của chúng tôi thì có lẽ năm ấy là năm 1993. Vì như tiêu đề của tài liệu, “sau 20 năm tử tù gặp lại”, tức là ông Phương cùng đồng đội được phóng thích sau Hiệp định Paris năm 1973 (nhà tù Phú Quốc hết sứ mệnh giam giữ tù binh), hai mươi năm gặp lại là năm 1993.
Điều này cũng phù hợp với nội dung kể trên, nói về việc đoàn cán bộ bảo tàng, lãnh đạo Sở Văn hóa Kiên Giang đi tìm hiểu, làm hồ sơ cấp bằng di tích cho “nhà lao”, để rồi 2 năm sau, năm 1995, Di tích lịch sử cấp quốc gia Nhà tù Phú Quốc được Bộ Văn hóa-Thông tin công nhận như hôm nay chúng ta đã thấy.
ĐỖ DOÃN HOÀNG – Báo Lao Động

Những thí nghiệm ghê rợn nhất trong lịch sử loài người

Thỏ Con (tổng hợp) |
Những thí nghiệm ghê rợn nhất trong lịch sử loài người

Những thí nghiệm đáng hổ thẹn, không có tính người mà bất cứ ai cũng sẽ cảm thấy thật phẫn nộ.

Các thí nghiệm vốn được thực hiện vì lợi ích của khoa học, vì lợi ích của nhân loại, để cuộc sống con người càng tiến bộ. Tuy nhiên, điều đó lại không phải là mục tiêu của những thí nghiệm dưới đây.
Những thí nghiệm trên cơ thể người
1. “Thiến người” để đánh giá khả năng chịu đựng
Khoảng 400 thí nghiệm rùng rợn đó thực sự là nỗi ám ảnh kinh hoàng với hàng ngàn nạn nhân.
"Cha đẻ" các chương trình thí nghiệm là thống chế Himmler, chỉ huy trưởng lực lượng Schutzstaffel - tổ chức vũ trang tàn ác nhất của Đức Quốc xã. Và nạn nhân chính là các tù nhân ở mọi độ tuổi, không trừ một ai.
Trùm Himmler, người chỉ đạo các chương trình thí nghiệm tàn bạo
Trùm Himmler, người chỉ đạo các chương trình thí nghiệm tàn bạo
Già, trẻ, gái, trai dù đang khoẻ mạnh cũng bị đè ra chích mầm bệnh dịch hạch vào cơ thể với liều lượng tăng dần; rồi cơ thể phải phơi ngoài tuyết lạnh cho chết cóng; nhiều đàn ông bị "thiến" không thương tiếc hoặc bị bắn đạn chứa chất độc…
Mục đích những trò thí nghiệm quái đản này chỉ để đánh giá khả năng chịu đựng của cơ thể người!
2. Những cuộc giải phẫu sống
Ý tưởng của thí nghiệm điên rồ này xuất phát từ Đơn vị 731, là lực lượng mật phục vụ nghiên cứu về chiến tranh sinh học và hóa học, và cũng là đơn vị khét tiếng nhất về các tội ác chiến tranh từng thực hiện bởi phát xít Nhật.
Nạn nhân không ai khác vẫn chính là những tù nhân xấu số. Các "nhà khoa học" ở đây tiến hành giải phẫu sống trên các tù nhân đó mà không cần thuốc gây tê để nghiên cứu bệnh.
Họ khoét mổ phần thân giữa của các tù nhân, sau đó cấy mầm bệnh sốt Rickettsia và bệnh dịch tả. Những người sống sót sẽ bị treo cổ tới chết.
3. Thí nghiệm triệt sản
Thí nghiệm điên rồ trái với quy luật tự nhiên này được thông qua bởi Luật Phòng chống gen khiếm khuyết Progeny của Đức Quốc xã ngày 14-7-1933 với mục đích tránh các nguồn gen xấu bị di truyền lại qua các thế hệ sau.
Và 300.000 người trong các trại tập trung khi đó đã trở thành vật thí nghiệm bất đắc dĩ. Họ được đưa vào phòng và phải điền một mẫu đơn đăng ký với mục đích đánh lừa họ.
Các phương thức triệt sản bao gồm: phẫu thuật X-quang, sử dụng thuốc hoặc tiêm i-ốt và nitrat bạc vào cơ thể. Điều này để lại các tác dụng phụ nghiêm trọng như chảy máu âm đạo, đau bụng dữ dội hay ung thư cổ tử cung.
Về sau, các bác sĩ ở đây ưu tiên sử dụng phương thức triệt sản phóng xạ. Họ làm cho căn phòng bị nhiễm phóng xạ và khiến tù nhân bị triệt sản hoàn toàn. Một số thì bị bỏng phóng xạ rất nặng.
4. Thí nghiệm trên các cặp song sinh
Bác sĩ "tử thần" của trại tập trung Auschwitz (Đức Quốc xã) Joseph Mengele chính là “cha đẻ” của thí nghiệm này với mục đích tìm ra những điểm tương đồng và khác biệt trong gen của các cặp song sinh.
Đã có khoảng 1.500 cặp song sinh bị đưa đến để phục vụ cho thí nghiệm. Tất cả họ đều bị nhốt trong các doanh trại suốt quá trình.
Các bác sĩ ở đâythực hiện những phương thức vô cùng đáng sợ: tiêm thuốc nhuộm vào mắt các cặp song sinh để theo dõi sự đổi màu của mắt có diễn ra không, truyền máu giữa 2 anh em của một cặp song sinh để kiểm tra tương thích máu.
Và ghê rợn hơn là khâu người các cặp song sinh lại với nhau để tạo ra các cặp song sinh dính liền. Cuối cùng, chỉ có khoảng 200 cặp sống sót.
Những thí nghiệm trên động vật
1. Thí nghiệm thuốc gây nghiện trên loài khỉ
Những chú khỉ bị đem làm thí nghiệm với mục đích đơn thuần chỉ để chứng minh ảnh hưởng của chất gây nghiện tới con người. Những phương thức dùng trong thí nghiệm này đã vượt khỏi các chuẩn mực đạo đức với loài vật.
Những con khỉ được huấn luyện để có thể tự tiêm các chất gây nghiện như mooc-phin, cocaine, codein, rượu và amphetamine vào cơ thể. Khi đã thành thục, có thể tự tiêm được thì các chuyên gia đưa cho chúng một lượng lớn thuốc để sử dụng.
Dĩ nhiên, những con khỉ bị nghiện và có những phản ứng tiêu cực như: tự làm tay mình bị thương, co giật khi dùng cocaine, tự bứt hết lông ở cánh tay và bụng, tự bẻ ngón tay do ảo giác…
Trường hợp con khỉ sử dụng cả cocaine và mooc-phin trong 2 tuần liền sẽ bị chết.
2. Thí nghiệm “chế tạo” mèo điệp viên
Chính phủ Mỹ từng mong muốn đào tạo được mèo điệp viên nên đã tiến hành thí nghiệm huấn luyện một con mèo trong vòng 5 năm trời.
Không chỉ dừng lại ở việc việc huấn luyện, họ còn cấy ghép một thiết bị nghe lén và kiềm chế cảm giác đói vào trong con mèo - đó là một cái ăngten chạy bằng pin được cấy vào bên trong đuôi của con mèo tội nghiệp.
Thí nghiệm thất bại thảm hại, trong một đợt thực nghiệm trên đường phố, con mèo đã lao vào một chiếc taxi và chết tại chỗ.
3. Thí nghiệm trên loài thỏ
Mục đích của thí nghiệm là dùng để đo mức độ kích ứng trên da, tổn hại trên mô nhạy cảm và độc tố của những chất khác nhau được sử dụng làm mỹ phẩm.
Các chuyên gia sử dụng chất có khả năng ăn mòn trực tiếp để thử trên mắt của nhiều con thỏ, qua đó nhằm đánh giá tình hình mô mắt bị hủy hoại như thế nào.
Sau khi bị nhỏ những hóa chất như trên mà không có thuốc an thần hỗ trợ, những con thỏ gần như lập tức phát ra những tiếng kêu đau đớn, thậm chí chúng còn gãy cả cổ hay lưng vì cố gắng vùng vẫy thoát khỏi sự kìm kẹp của các dụng cụ nghiên cứu.
Sau thí nghiệm, những chú thỏ này phải đối mặt với những nỗi đau từ hiện tượng nổi ban đỏ, phù nề, chảy mủ, loét, xuất huyết và mù lòa, thậm chí có thể dẫn đến cái chết.
4. Thí nghiệm sử dụng phương pháp “kiềm chế”
Chú khỉ đáng thương bị đem ra làm vật thí nghiệm
Chú khỉ đáng thương bị đem ra làm vật thí nghiệm
Thí nghiệm này áp dụng cho loài khỉ. Chúng sẽ bị khóa tay và nhốt vào lồng hẹp, kín rồi ép lại. Ngoài ra, chúng còn bị tiêm thuốc ketamine, thuốc an thần để hạn chế phản ứng chống cự.
Bất chấp những nỗi đau đớn loài khỉ phải chịu đựng, các chuyên gia tiếp tục sử dụng chất độc thần kinh để gây tổn thương cơ thể loài khỉ y như một bệnh nhân thật. Sau đó tiến hành thử nhiều loại thuốc nhằm chữa trị căn bệnh đó.
Chú khỉ may mắn sống sót sau thí nghiệm
Một con khỉ được tiến hành thí nghiệm.
theo Trí Thức Trẻ

Thí nghiệm tâm lý ghê rợn nhất lịch sử

9 Thanh Niên
Không làm đổ một giọt máu, không có ai thiệt mạng hay bị thương tích gì nhưng Thí nghiệm Milgram vẫn mang tiếng là thí nghiệm “vô nhân tính” nhất lịch sử.
Sự bất an của những “giáo viên” trong Thí nghiệm Milgram - Ảnh: tư liệu của The Boston Globe
Trong lịch sử nghiên cứu khoa học của loài người, đặc biệt trong lĩnh vực tâm lý, không thiếu những cuộc thí nghiệm gây tranh cãi về tính đạo đức như Thí nghiệm nhà tù Stanford năm 1971 hay Thí nghiệm quái vật (1939). “Khét tiếng” nhất trong số này phải kể đến Thí nghiệm Milgram về sự tuân thủ mệnh lệnh một cách mù quáng và bản chất của cái ác.
Được thực hiện vào tháng 7.1961, cuộc thí nghiệm này một lần nữa trở thành đề tài tranh luận sôi nổi trên các diễn đàn khi bộ phim Experimenter (tạm dịch: Người thí nghiệm) về cuộc đời Giáo sư Stanley Milgram (1933 -1984) được công chiếu hồi cuối tuần và nhận vô số lời khen ngợi.
Giáo viên, học sinh và điện giật
Năm 1961, Giáo sư Milgram đang là một trong những nhà tâm lý học hàng đầu của Mỹ làm việc tại Đại học Yale. Ông cùng các cộng sự đăng quảng cáo tuyển người tham gia một cuộc thí nghiệm về “tác động của hình phạt đối với việc học” với giá 4 USD/giờ. Tổng cộng 40 người tham gia mà không hề biết rằng mình sắp bước vào một trải nghiệm kinh hoàng.
Theo mô tả trên chuyên san Journal of Abnormal and Social Psychology, người tham gia đóng vai “giáo viên” sẽ đặt câu hỏi cho “học sinh”. Cả hai ngồi ở 2 phòng khác nhau và chỉ liên lạc qua bộ đàm. “Giáo viên” lần lượt đặt câu hỏi và mỗi lần “học sinh” trả lời sai, “giáo viên” sẽ được người giám sát thí nghiệm yêu cầu nhấn nút gây giật điện để trừng phạt “học sinh” với cường độ lớn dần, tối đa là 450 volt. Dĩ nhiên, “giáo viên” không hề biết rằng chẳng có ai bị điện giật cả và “học sinh” là người trong nhóm của Milgram, giả vờ kêu la đau đớn hoặc đập vào tường van xin dừng thí nghiệm.
Trong suốt thí nghiệm, các “giáo viên” tỏ ra không thoải mái và vô cùng lo lắng. Có người liên tục quệt mồ hôi trán, người thì gắng cười to một cách gượng gạo hoặc khóc lóc hỏi thăm tình trạng của “học viên”. Tuy nhiên, không có ai tỏ ý muốn ngừng lại trước mức 135 volt. Khi đến gần mức 300 volt, một số người xin dừng thí nghiệm và trả lại tiền. Tuy nhiên khi được người giám sát đốc thúc và trấn an rằng sẽ không phải chịu trách nhiệm gì nếu có bất trắc thì họ lại tiếp tục nhấn nút bất chấp những tiếng gào thét từ phòng bên kia.
Kết quả cuối cùng là chỉ có 14 trong số 40 “giáo viên” kiên quyết dừng thí nghiệm trước mức tối đa 450 volt, tức có đến 65% số người tham gia đi đến tận cùng. Trong khi đó, theo Journal of Abnormal and Social Psychology, trước khi thực hiên thí nghiệm, Giáo sư Milgram đã thăm dò thử ý kiến của nhiều sinh viên năm cuối khoa tâm lý cũng như các đồng nghiệp và ai cũng cho rằng sẽ có rất ít người chịu nhấn nút từ sau mức 300 volt. Trong nhiều năm sau, Milgram cũng như một số chuyên gia khác tiến hành hàng trăm thí nghiệm tương tự và kết quả là chưa đến phân nửa số người tham gia quyết định bỏ cuộc. Từ đó, ông đưa đến kết luận dưới sức ép của mệnh lệnh của những người có quyền, khi tự cho rằng bản thân không phải chịu trách nhiệm thì con người có thể gây ra những hành động độc ác, gây tổn thương đến người khác dù biết rằng chúng trái với niềm tin và đạo đức.
Suốt mấy chục năm qua, Thí nghiệm Milgram hứng chịu vô số chỉ trích là “phi đạo đức, vô nhân tính” khi lừa người tham gia trải qua những chấn động tâm lý nặng nề. Nhiều tổ chức người Do Thái thì lên án dữ dội việc Giáo sư Milgram cho rằng thí nghiệm của ông có thể giải thích cho hành động của đại đa số binh lính và quan chức Đức quốc xã trong Thế chiến 2. Đáp lại, những người ủng hộ chỉ ra rằng không ai trong số những người tham gia thí nghiệm gặp phải hậu quả lâu dài nào về tâm lý và rằng dư luận không chịu chấp nhận sự thật về “mảng tối trong mỗi con người”. Đến nay, thí nghiệm này vẫn thường xuyên được giảng dạy tại nhiều trường đại học danh tiếng trên thế giới, còn Giáo sư Milgram đứng thứ 46 trong danh sách 100 nhà tâm lý học xuất sắc nhất thế kỷ 20 của chuyên san Review of General Psychology.
Cuộc tra tấn kinh hoàng
Từ năm 1992 đến năm 2004, tại Mỹ xảy ra một loạt vụ lừa đảo mà một số chuyên gia cho rằng là bằng chứng hùng hồn nhất cho kết luận của Giáo sư Milgram. Theo CNN, một kẻ nặc danh đã gọi điện tới hàng chục nhà hàng thức ăn nhanh trên khắp nước Mỹ tự xưng là cảnh sát và yêu cầu “hỗ trợ điều tra về một vụ ăn cắp”. Kẻ này mô tả một “nghi phạm”, thường là nữ, đang có mặt trong quán, chẳng hạn như nhân viên hoặc khách hàng, rồi yêu cầu quản lý nhà hàng lục soát bằng cách lột đồ, đánh đập nạn nhân. Có ít nhất hơn 10 trường hợp người nghe tuân thủ mọi chỉ dẫn của “cảnh sát”.
Trong đó, nghiêm trọng nhất là vụ xảy ra ngày 9.4.2004 tại một cửa hàng McDonald’s ở thị trấn Mount Washington, bang Kentucky. AP dẫn hồ sơ của tòa án cho hay cửa hàng trưởng Donna Summers nhận điện thoại của một kẻ tự xưng là “thanh tra Scott” nói trong nhà hàng có một nghi phạm ăn cắp. “Scott” mô tả nghi phạm là nữ, dáng thanh mảnh và tóc đen rồi nhờ Summers “xử lý giúp vì sở cảnh sát thiếu nhân lực để giải quyết một vụ nhỏ như vậy”. Thế là Summers gọi bạn trai là Walter Nix Jr. đến và khống chế giam cô Louise Ogborn, một nhân viên nhà hàng vừa tròn 18 tuổi, trong nhà kho.
Suốt nhiều giờ đồng hồ, Summers và Nix Jr. làm theo mọi yêu cầu qua điện thoại của “thanh tra Scott” và gây ra những hành động khó tưởng tượng để “tìm bằng chứng và buộc nghi phạm thú nhận” như đánh đập, lột truồng, dùng tay và dị vật xâm phạm cơ thể Ogborn, thậm chí ép nạn nhân quan hệ tình dục bằng miệng với Nix Jr.
Cũng trong suốt quãng thời gian đó, Ogborn tin rằng mình đang bị điều tra thật nên không dám mảy may phản kháng. Cuối cùng, Nix Jr. chịu hết nổi và bỏ đi. Theo tờ The Courier-Journal, ông này đã gọi điện cho bạn và nói: “Tôi đã làm một việc vô cùng xấu xa”. Sau đó, Summers yêu cầu một nhân viên khác thế chỗ Nix Jr. nhưng bị từ chối. Đến lúc này, Summers mới bắt đầu chất vấn “thanh tra Scott” và người này lập tức cúp máy. Một điều đáng nói khác là trong suốt vụ việc, nhiều nhân viên của nhà hàng tuy không tham gia tấn công Ogbron nhưng cũng không gọi cảnh sát hay kiểm tra lại thông tin.
Vụ án này thu hút sự chú ý lớn của dư luận vì sự nghiêm trọng và “khó tin” của nó. Nhiều người không thể hiểu được tại sao Summers và Nix Jr. có thể “ngu ngốc” đến mức như vậy và Thí nghiệm Milgram thường xuyên được giới truyền thông viện dẫn để bình luận về vụ việc. Sau một thời gian dài điều tra, xét xử, Nix Jr. lãnh 6 năm tù giam vào năm 2006, còn Summers bị McDonald’s sa thải vì phải chịu 1 năm quản chế. Nạn nhân Ogborn bị sang chấn tâm lý nặng nề, phải trải qua một thời gian dài trị liệu và từ bỏ kế hoạch vào đại học.
Đến năm 2007, cả Ogborn và Summers đều đâm đơn kiện đòi McDonald’s bồi thường vì thiếu trách nhiệm và không cảnh báo cho nhân viên về những vụ lừa đảo đã xảy ra trước đó. Sau một loạt phiên tòa rồi kháng cáo, McDonald’s đồng ý bồi thường cho Ogbron 1,1 triệu USD còn Summers không nhận được đồng nào, theo The Courier-Journal.
Trong khi đó, đến nay thủ phạm chính vẫn đang ngoài vòng pháp luật và giới điều tra thậm chí còn chưa xác định được hắn là ai. Sau vụ 2004, cảnh sát có bắt giữ một người tên David Richard Stewart nhưng ông này được tòa tha bổng vì thiếu bằng chứng.
Sự tầm phào của cái ác
Lâu nay, Thí nghiệm Milgram thường được gắn với khái niệm Sự tầm phào của cái ác (The banality of evil) của nữ triết gia Hannah Arendt (1906 - 1974, một trong những trí thức gốc Do Thái nổi tiếng nhất thế giới) đưa ra năm 1963. Từ quá trình theo dõi phiên tòa xét xử Adolf Eichmann, một trong những kiến trúc sư của cuộc diệt chủng người Do Thái trong Thế chiến 2, Arendt lập luận rằng Eichmann và nhiều thành viên quốc xã khác không phải là những tên sát nhân khát máu, bệnh hoạn như chúng ta vẫn cố tin. Thay vào đó, họ là những người bình thường, không có chút trục trặc tâm lý nào.
Bản thân Eichmann, kẻ mệnh danh là “Tên đồ tể của châu Âu”, không thù ghét người Do Thái. Hắn cho rằng những tội ác ghê rợn đã gây ra đơn giản là làm tốt công việc của mình theo sự đồng tình của cấp trên, nhà nước, xã hội và pháp luật Đức quốc xã.
Từ đó, Arendt kết luận trong sách Eichmann in Jerusalem: A Report on the Banality of Evil (tạm dịch: Eichmann ở Jerusalem - Báo cáo về sự tầm phào của cái ác) rằng cái ác không phải thứ gì đó ghê gớm, cao xa. Nó tồn tại trong mỗi con người và có thể trỗi dậy khi điều kiện cho phép mà bản thân chúng ta cũng không nhận ra.
Dù gây rất nhiều tranh cãi nhưng đến nay tác phẩm này vẫn được xem là một cột trụ trong lĩnh vực triết học chính trị và đạo đức học. Những người ủng hộ cho rằng khái niệm của Arendt có thể giải thích cho những thảm kịch lớn nhất trong lịch sử nhân loại và mang ý nghĩa cảnh báo sâu sắc. Như nhân vật Giáo sư Milgram nói trong phim Experimenter: “Chúng ta đều là những con rối và có lẽ nhìn ra được sợi dây là bước đầu tiên để đi đến tự do”.
 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét