“Thần xà” báo oán khiến 6 người trong gia đình chết thảm ở Thái Bình (Kỳ 1)

Nhà báo Phạm Ngọc Dương (Báo điện tử VTC News – vtc.vn) đã ghi chép lại câu chuyện kinh thiên động địa, không thể lý giải này làm tư liệu. Anh đã không đăng báo, mà coi đây là tư liệu bí mật, giờ anh mới công bố.
Phần 1: Phá ngôi miếu cổ, “thần xà” báo oán

Mặc dù sự việc đại gia đình ông Trần Văn Rạng có tới 6 người bỏ mạng không rõ nguyên nhân diễn ra đã mấy năm, song mỗi khi nhắc lại, người dân quanh xã Vũ Tây (Kiến Xương, Thái Bình), đặc biệt là những người dân ở xóm 9 vẫn không hết sợ hãi. Mảnh đất rìa làng, cạnh sông Trà Lý lộng gió, một thời nên thơ, giờ cỏ bò hoang dại, tre mọc um tùm, cây cối rậm rạp đổ ngả nghiêng, chẳng có bóng người qua lại. Những ngôi nhà đổ nát, âm u, rêu mốc, từ lâu không có hơi người. Những người đã chết thì mang theo lời đồn bị “thần xà” bắt đi, những người còn sống thì trốn tịt vào Nam, bỏ xứ đi nơi khác, không dám về mảnh đất ấy nữa. Câu chuyện khủng khiếp về những cái chết được đồn đại là do “thần xà” gọi đi vẫn chìm ngập trong bức màn bí ẩn rùng rợn. Chính quyền bó tay, mấy chục nhà khoa học nổi danh thiên hạ không tìm được lời giải, các bác sĩ đầu ngành thần kinh, chống độc cũng không tìm ra thứ gì có thể giết người nhanh chóng, khủng khiếp như thế, thầy cúng, thầy bói thì đổ riệt cho nguyên nhân phá miếu, động long mạch, cướp nơi ở của “thần xà”, nên đại gia đình phải trả giá. Người chết thì đã chết, người sống vẫn chưa dám về, vì lời giải cho những cái chết bí ẩn chưa được sáng tỏ. Chúng tôi trở lại ngôi làng từng diễn ra những cái chết khiến cả tỉnh náo loạn, để đi tìm lời giải thực sự cho câu chuyện có lẽ là bí ẩn nhất Việt Nam này.
Cả làng kinh khiếp
Từ thành phố Thái Bình, tôi cứ đi dọc bờ hữu con đê sông Trà Lý, thì đến xã Vũ Tây. Sông nước mênh mang, tre pheo rậm rạp, đu đưa trong gió. Điều tôi nhận thấy, là đình đền miếu mạo trải dọc cả trong và ngoài đê con sông. Vùng đất này quả là tâm linh nặng nề. Những người hiểu biết, mang đầu óc duy vật thì biết rằng đây là vùng đất cổ, với bề dày văn hóa sâu, nhưng những người yếu bóng vía, thì nhìn đâu cũng ra quỷ thần, ma mãnh.
Gặp mấy bà, mấy chị gánh gồng thõng thẹo trên đê, tôi dừng xe hỏi đường về xóm 9. Mấy chị chỉ nhiệt tình, rằng đi qua con điếm, có con dốc bên trái thì đi xuyên qua cánh đồng, là đến xóm 9. Mấy chị còn kéo tôi qua rặng tre, chỉ cái xóm nhỏ rậm rì cây cối nằm thoi loi giữa cánh đồng thẳng cánh cò bay. Một chị hỏi: “Nhìn chú biết người ở xa rồi. Thế chú hỏi đường về nhà ai? Xóm ấy nhỏ tẹo, nhà ai chẳng biết”. Tôi bảo: “Em tìm đường về nhà ông Trần Văn Rạng. Nhưng hỏi về nhà ông ấy thôi, chứ thực ra cả nhà ông ấy chết rồi”. Nghe đến tên ông Trần Văn Rạng, cả mấy người phụ nữ đổi sắc mặt. Vẻ sợ hãi lộ rõ trong đôi mắt họ. Một chị bảo: “Chúng tôi không biết ông ấy là ông nào đâu. Anh vào xóm đấy rồi hỏi nhé!”. Nhìn ánh mắt họ, tôi biêt họ đang sợ hãi, chứ không phải họ không biết ông Trần Văn Rạng. Câu chuyện của đại gia đình này đã từng khiến nhân dân trong vùng náo loạn, chính quyền cả tỉnh, rồi trung ương phải quan tâm sát sao, nên không thể có chuyện cư dân ở gần đó mà không biết. Quả thực, nỗi sợ hãi ấy ám ảnh cả những người dân xa lạ, thì tôi đã phần nào hiểu rằng, vì sao những người ở đại gia đình ấy liên tiếp lăn ra chết, rồi vô số những người hàng xóm, người thân liên tiếp rơi vào trạng thái thập tử nhất sinh, không kiểm soát được mình nữa.
Tìm vào đầu xóm 9, tôi tiếp tục hỏi thăm một vài người về gia cảnh nhà ông Trần Văn Rạng, tuy nhiên, tôi chỉ nhận được những cái lắc đầu từ chối. Tôi mới chỉ nhắc đến tên ông Rạng, người ta đã thay đổi sắc diện. Dường như người ta muốn quên đi cái quá khứ hãi hùng ấy, hoặc cũng có thể họ sợ câu chuyện khơi gợi lại, ám vào gia đình họ. Thế nên, tốt nhất là chẳng nói gì, chẳng nghĩ gì đến chuyện ấy nữa. Không biết làm cách nào, tôi đành hỏi đường vào nhà ông trưởng xóm 9.
Nhà ông Thành, trưởng xóm ở sát cánh đồng. Tôi đến, nhưng trong nhà chỉ có vợ ông đang chăm sóc đàn gà. Tôi giới thiệu là nhà báo, muốn tìm hiểu về chuyện chết chóc kỳ lạ xảy đến với gia đình ông Rạng. Điều lạ lùng nữa, là bà vợ ông trưởng xóm cũng tỏ ra khá sợ hãi. Bà bấm điện thoại thông báo với chồng sự việc. Rốt cục, ông trưởng xóm từ chối gặp nhà báo, vì ông không nắm được thông tin gì về sự kiện đó. Tuy nhiên, bà vợ ông trưởng xóm cung cấp cho tôi một thông tin quan trọng: “Người nắm được rõ nhất chuyện về gia đình ông Rạng chính là ông Nguyễn Văn Thung. Chồng tôi không nắm được chuyện gì đâu, nên nhà báo có hỏi cũng không có tác dụng. Nhà ông Rạng người thì chết, người bỏ đi chưa dám về. Tôi nghe nói họ phải bỏ nhà trốn miết để tránh thánh thần phạt. Tôi sẽ dẫn nhà báo đến nhà ông Thung để nhà báo hỏi chuyện nhé!”. Nói rồi, bà vợ ông trưởng xóm dẫn tôi đi vòng vèo mấy ngõ ngách. Đến cuối con ngõ, dừng lại trước cái cổng sắt khép hờ, bà bảo: “Đây là nhà ông Thung. Nhà báo vào hỏi chuyện nhé. Tôi về luôn đây”.
Vác dao ra nói chuyện
Tôi gọi cổng một lát, thì thấy một cụ ông đi ra. Cụ ông dáng người đạo mạo, mái tóc trắng phau, cặp lông mày cũng trắng như cước. Biết tôi là nhà báo, ông mời tôi vào nhà uống nước. Tôi trình bày chuyện khó hiểu ở ngôi làng này, vì sao mọi người sợ nhắc đến gia đình ông Rạng như vậy? Ngay cả ông trưởng xóm cũng hãi. Ông Thung bảo: “Không chỉ dân làng sợ, mà ngay cả tôi đây, sắp xuống lỗ rồi cũng vẫn còn sợ. Người ta sợ nhắc đến gia đình ông Rạng, nhỡ có mạo phạm gì, thánh thần nổi giận, lại tìm họ để xử, thì lại xảy ra thảm họa như chơi”. Cũng theo ông Thung, không chỉ đại gia đình ông Rạng chết bí ẩn, em gái ông chết, mà người ta còn đồn rằng, anh trưởng thôn cũng chết, vì dám uống rượu say rồi xông đến nhà ông Rạng chửi bới, chọc gậy vào mấy ông thầy cúng đang hành lễ. Dù anh trưởng thôn này chết sau khi xảy ra sự việc quái đản ấy đã mấy năm, nhưng cái chết của anh ta khá lạ lùng, nên dân làng lại đồn rằng do anh ta đã xúc phạm thần linh ở nhà ông Rạng. Chính vì lẽ đó, ông trưởng xóm mới lên thay không muốn dính dáng đến chuyện đó, cũng là điều dễ hiểu. Không hiểu suy luận của ông Rạng có đúng không, nhưng quả thực, nỗi sợ thánh thần vô hình vẫn còn bao phủ tâm trí người dân ngôi làng này như một đám mây.

Uống mấy ngụm trà nóng, hít mấy hơi dài, ông Thung mới chợt nhớ ra gì đó. Ông lật đật chạy đến giường, lật đệm lên, lôi ra con dao dài ngoằng. Đó là con dao sắc, đẹp, giống dao của đồng bào miền núi hay dùng. Ông Thung bảo: “Nói thật với anh, từ ngày đó đến giờ, tôi đi đâu, làm gì, cũng kè kè con dao này bên cạnh. Chỉ có mang theo nó, tôi mới cảm thấy vững tâm. Anh nhắc lại chuyện này, tự dưng tôi lạnh cả sống lưng nên mới nhớ ra con dao. Tôi cứ thủ con dao ở cạnh, cho an tâm”.
Người Việt ở nhiều nơi khi đi đâu xa, đều mang theo con dao và củ tỏi, với niềm tin sẽ xua đuổi ma quỷ, tà khí. Nhiều người còn đánh dấu bằng than, vết son lên trán trẻ con để ma quỷ không bắt đi. Tôi chợt nhớ đến câu chuyện bắt ma kỳ quái và đơn giản của thầy cúng Nguyễn Trung Tuấn ở Hà Nam. Cách bắt ma của anh ta đơn giản đến mức tưởng như ai cũng làm được. Nhiều người đến trung tâm áp vong của anh này, hoặc nơi khác, sau khi về, vẫn thấy vong theo, vong nhập. Khi đến gặp anh ta, anh ta chỉ nói mỗi câu là vong đi rồi, thế là chả thấy vong ma đâu nữa. Có bà, đến nhà anh Tuấn kêu rằng, cứ nửa đêm liền “thấy” cả trăm vong, ma đứng lâu nhâu trong nhà, ngoài sân. Gặp được anh Tuấn, bà ta quỳ xuống vái lạy như thánh. Chẳng cần hương khói, vàng mã, cúng bái cầu kỳ, anh bẻ cành rào đưa cho bà ta bảo: “Tôi đã yểm bùa vào que nhang này. Chị cứ cầm về đặt trên ban thờ, sẽ không có con ma nào dám bén mảng đến nữa”. Chỉ có cành rào, mà chị này chẳng thấy vong, ma nào tìm đến hành mình nữa thật. Anh Tuấn đã thử nhiều cách và đều thành công, nhưng anh lại không hiểu vì sao mình làm được như vậy. Đơn giản, vong, ma đó chỉ là ảo giác, là nỗi sợ hãi mà biến thành. Khi các bệnh nhân này gặp được thầy bắt ma cao tay, tin rằng thầy đã trừ giúp ma quỷ, họ tự tin hơn, đầu óc thanh thản, và như vậy, sẽ không thấy con ma nào nữa. Chuyện của ông cụ Thung này, với con dao kè kè bên cạnh, có lẽ cũng giống với chiếc que rào mà anh Tuấn đưa cho người đàn bà yếu bóng vía kia.
Sau khi đặt con dao trên mặt bàn, thắp mấy nén nhang trên bàn thờ, khấn vái lầm rầm vài tiếng, lấy lại bình tĩnh, ông Nguyễn Văn Thung mới bắt đầu sắp xếp lại câu chuyện kinh dị, mà ông chứng kiến từ đầu đến đuôi.
Ngôi miếu nhỏ linh thiêng
Ông Thung mang họ Nguyễn, còn đại gia đình ông Rạng, lại là họ Trần. Ông Thung không liên quan máu mủ gì với gia đình ông Rạng, nhưng lại là người nắm rõ nhất mọi chuyện, là bởi người em gái của ông, tức bà Nguyễn Thị Đào, là vợ ông Rạng, là con dâu của họ Trần. Sự việc chết chóc kinh hãi, phức tạp quá, khiến người trong họ cũng phải “bỏ tình bỏ nghĩa, cốt chạy thoát thân”, người em gái cáng đáng không xuể, nên ông thương em mà phải vào cuộc.

Anh em ông Thung, bà Đào sinh ra trong gia đình nghèo khó, lớn lên với hạt lúa, củ khoai. Bà Đào không được học hành gì nhiều, vừa tròn đôi mươi thì về làm dâu họ Trần, làm vợ ông Trần Văn Rạng, người cùng xóm, cách nhà có vài trăm bước chân. Vợ chồng ông Rạng đẻ tới 8 người con, gồm 4 trai, 4 gái. Vợ chồng chỉ làm nông nghiệp, nên con cái cũng chỉ có được miếng ăn mà lớn, chứ chẳng được học hành gì. Tuy vậy, vợ chồng ông Rạng cũng chịu khó cày cuốc, nuôi con gà, tăng gia đàn lợn, rồi lần lượt dựng vợ, gả chồng cho 8 người con. Một người con trai bỏ xứ vào Nam lập nghiệp, một người xin làm công nhân ở thành phố Thái Bình. Hai cậu con trai, gồm cả và thứ 3 ở với bố mẹ. Mấy người con gái cũng đi lấy chồng cả. Cô lấy chồng trong mãi Tây Nguyên, cô lấy chồng ở xã khác, xóm khác.
Dù con cái chỉ làm nông nghiệp, gắn bó với cây lúa, củ khoai, song do chắt chiu tích cóp, nên những người con của ông bà cũng dần ổn định cuộc sống, xây dựng, sửa sang được nhà cửa. Người con cả Trần Văn Viết được ông bà Rạng chia cho mảnh đất trước ngôi nhà ngói ông bà ở. Vợ chồng anh Viết đã dựng một ngôi nhà dù là cấp 4, song rộng rãi khang trang, tường bao quây kín. Cậu con trai thứ 3, tên là Trần Văn Út, sau khi lấy vợ vài năm, sinh con đẻ cái, tích cóp được ít tiền, đã xin bố mẹ cho ra ở riêng. Đất đai rộng rãi, nên ông bà Rạng đã cắt một mảnh rộng chừng 200 mét vuông, phía sau về bên trái ngôi nhà của ông bà cho cậu con tưởng là út ít, ai dè chỉ là thứ 3.
Có đất rồi, anh Trần Văn Út dựng tạm một ngôi nhà cấp 4 nho nhỏ, chỉ cỡ 30 mét vuông ở tạm. Ngôi nhà ngay bên bờ ao, phía trước nhà là cái miếu nho nhỏ, giống như cây hương trước nhà. Lịch sử ngôi miếu nhỏ này cũng rất sáng rõ, đó chỉ là ngôi miếu của gia đình, do thế hệ trước dựng nên.
Để hiểu rõ về ngôi miếu này, phải nắm được ngôi miếu ở phía bên kia cái ao nhà ông Rạng. Đó là ngôi miếu do các cụ nhà ông Rạng, cùng một số người dân trong làng dựng nên, gọi là miếu Thần Linh. Ngôi miếu này vốn thờ 3 mẹ con người ăn mày. Hồi năm 1945, tình trạng chết đói diễn ra khắp vùng quê lúa. Năm đó, có 3 mẹ con ăn mày lang thang đến ngôi làng này xin ăn. Dân làng cũng đói nên họ chẳng xin được gì. Bụng đói cồn cào, nên cậu con của bà ăn mày trèo lên cây sung lớn ngả ra bờ ao để hái sung ăn. Tuy nhiên, chưa hái được quả sung nào, thì cậu bé trượt chân, ngã xuống ao. Người anh thấy vậy liền nhảy xuống ao cứu em. Tuy nhiên, ao sâu nước cả, hai anh em dần dần chìm nghỉm xuống nước. Người mẹ dù đói lả, không nhấc nổi chân, nhưng thấy 2 con chìm dưới dòng nước, liền gắng sức nhảy xuống. Rốt cục, cả 3 mẹ con đã chết đuối dưới ao. Người dân trong xóm thương xót, đã vớt 3 mẹ con lên, bó chiếu chôn cất cẩn thận ngay bờ ao. Năm đói trôi qua, người dân trong làng may mắn ít người phải chết đói. Nghĩ rằng, do 3 mẹ con ăn mày phù hộ, dân làng mới không chết đói, nên đã dựng một ngôi miếu nhỏ để thờ. Gia đình ông Rạng vừa giữ vai trò chủ trì, vừa đóng góp chính xây dựng ngôi miếu. Sau này, ngôi miếu trở thành nơi tụ họp tâm linh của các hộ dân trong xóm. Ngày rằm, ngày lễ, người dân đều hương khói chu đáo tại ngôi miếu nhỏ này. Từ ngôi miếu thờ 3 mẹ con ăn mày, có lúc gọi là thờ ma đói, đã biến thành miếu thờ thần.
Gần 3 năm sau khi xây dựng ngôi miếu này, vào năm 1948, một bà trong họ Trần đau ốm liên miên mà không rõ nguyên nhân. Bà này là thầy cúng, chuyên cúng bái, xem long mạch cho người dân trong vùng. Bà bảo, do long mạch ở đất nhà mình có vấn đề, nên phải lập một ngôi miếu, rước Thần ở miếu thờ 3 mẹ con chết đói về thờ. Ngôi miếu được xây dựng khá nhỏ, đơn sơ ở rìa bờ ao, đối diện với ngôi miếu thờ 3 mẹ con chết đói. Bà còn kêu thần linh, thổ địa lên ngự ở miếu để bà hương khói ngày đêm. Hàng ngày, bà này cúng bái, hương khói cẩn trọng. Tuy nhiên, hương khói mãi mà chẳng ăn thua gì, bệnh tình bà mỗi ngày nặng thêm. Cuối cùng, bà chết một cách bí ẩn, khi đang khấn vái ở miếu. Cái chết của bà khiến gia đình và người thân càng tin vào sự linh thiêng của ngôi miếu nhỏ này. Từ đó đến nay, các thế hệ họ Trần coi ngôi miếu là chỗ dựa tâm linh, hương khói ấm cúng trong những ngày trọng đại. Người dân trong xóm cũng đến khấn vái, dâng lễ xin lộc. Điều kỳ lạ, là thi thoảng có một con rắn, không rõ là rắn gì, dài khoảng 3m, to bằng chiếc điếu cày, thường xuyên ngự trong miếu. Có lúc gặp nó nằm khoanh tròn chỗ bát hương, có lúc thấy nó nằm vắt trên miếu, có lúc lại thấy nó ở trên ngọn cây. Ai cũng nghĩ rằng thần linh đã hóa thân thành con rắn, nên không ai dám xua đuổi, hoặc bắt nó làm thịt.
Sẽ chẳng ầm ĩ, nếu ngôi miếu ấy nằm rìa mảnh đất rộng rãi của ông bà Rạng, nhưng lại nằm giữa mảnh đất mà anh Trần Văn Út được bố mẹ chia cho. Ngôi miếu nằm giữa mảnh đất thì không thể xây dựng kiểu gì cho phù hợp, hài hòa. Tuy nhiên, ngôi miếu là nơi thờ cúng, chỗ dựa tâm linh của gia đình, xóm giềng, nên anh Út không đụng đến. Anh dựng ngôi nhà nhỏ ngay trước ngôi miếu, quay mặt thẳng ra ngôi miếu. Vị trí ngôi miếu tuy không phù hợp, nhưng nó không ảnh hưởng đến cuộc sống, lối đi lại, nên anh Út cứ để nguyên. Chỉ đến một ngày, khi sinh 2 đứa con, khi ngôi nhà 30 mét vuông đã chật trội, khi vợ chồng đã tiết kiệm đủ tiền để xây dựng ngôi nhà mái bằng khang trang hơn, thì ngôi miếu mới trở nên đáng quan tâm. Mảnh đất nhỏ, nên không thể có sự lựa chọn nào khác, anh Út buộc phải đào móng dựng ngôi nhà ngay cạnh ngôi miếu và biến ngôi nhà nhỏ đang ở thành nhà bếp. Được sự đồng ý của gia đình, xóm làng, anh Út quyết định di dời ngôi miếu ra vị trí khác, ở chái ngôi nhà đang ở, sát bụi tre, cạnh bờ ao. Nói là di dời, nhưng thực ra là phá ngôi miếu cũ, xây dựng ngôi miếu mới và dời sự thờ cúng ra đó. Hôm phá miếu, gia đình cũng thuê thầy cúng làm lễ cẩn thận, nhưng không ai ngờ, sự việc xảy ra sau đó lại nghiêm trọng khủng khiếp như vậy. Súc vật liên tiếp lăn ra chết, tiếp đó là những cái chết kinh dị không ngăn nổi xảy đến với 6 thành viên trong gia đình hiền lành chân chất này.
(Còn nữa)