Kinh Hoàng "Thần Xà Báo Oán" Khiến 6 Người Ra Đi Ở Thái Bình
“Thần xà” báo oán khiến 6 người trong gia đình chết thảm ở Thái Bình (Kỳ 1)
Nhà báo Phạm Ngọc Dương (Báo điện tử VTC News – vtc.vn)
đã ghi chép lại câu chuyện kinh thiên động địa, không thể lý giải này
làm tư liệu. Anh đã không đăng báo, mà coi đây là tư liệu bí mật, giờ
anh mới công bố. Phần 1: Phá ngôi miếu cổ, “thần xà” báo oán
Mặc dù sự việc đại gia đình ông Trần Văn Rạng có tới 6 người
bỏ mạng không rõ nguyên nhân diễn ra đã mấy năm, song mỗi khi nhắc lại,
người dân quanh xã Vũ Tây (Kiến Xương, Thái Bình), đặc biệt là những
người dân ở xóm 9 vẫn không hết sợ hãi. Mảnh đất rìa làng, cạnh sông Trà
Lý lộng gió, một thời nên thơ, giờ cỏ bò hoang dại, tre mọc um tùm, cây
cối rậm rạp đổ ngả nghiêng, chẳng có bóng người qua lại. Những ngôi nhà
đổ nát, âm u, rêu mốc, từ lâu không có hơi người. Những người đã chết
thì mang theo lời đồn bị “thần xà” bắt đi, những người còn sống thì trốn
tịt vào Nam, bỏ xứ đi nơi khác, không dám về mảnh đất ấy nữa. Câu
chuyện khủng khiếp về những cái chết được đồn đại là do “thần xà” gọi đi
vẫn chìm ngập trong bức màn bí ẩn rùng rợn. Chính quyền bó tay, mấy
chục nhà khoa học nổi danh thiên hạ không tìm được lời giải, các bác sĩ
đầu ngành thần kinh, chống độc cũng không tìm ra thứ gì có thể giết
người nhanh chóng, khủng khiếp như thế, thầy cúng, thầy bói thì đổ riệt
cho nguyên nhân phá miếu, động long mạch, cướp nơi ở của “thần xà”, nên
đại gia đình phải trả giá. Người chết thì đã chết, người sống vẫn chưa
dám về, vì lời giải cho những cái chết bí ẩn chưa được sáng tỏ. Chúng
tôi trở lại ngôi làng từng diễn ra những cái chết khiến cả tỉnh náo
loạn, để đi tìm lời giải thực sự cho câu chuyện có lẽ là bí ẩn nhất Việt
Nam này. Cả làng kinh khiếp
Từ thành phố Thái Bình, tôi cứ đi dọc bờ hữu con đê sông Trà Lý, thì
đến xã Vũ Tây. Sông nước mênh mang, tre pheo rậm rạp, đu đưa trong gió.
Điều tôi nhận thấy, là đình đền miếu mạo trải dọc cả trong và ngoài đê
con sông. Vùng đất này quả là tâm linh nặng nề. Những người hiểu biết,
mang đầu óc duy vật thì biết rằng đây là vùng đất cổ, với bề dày văn hóa
sâu, nhưng những người yếu bóng vía, thì nhìn đâu cũng ra quỷ thần, ma
mãnh.
Gặp mấy bà, mấy chị gánh gồng thõng thẹo trên đê, tôi dừng xe hỏi
đường về xóm 9. Mấy chị chỉ nhiệt tình, rằng đi qua con điếm, có con dốc
bên trái thì đi xuyên qua cánh đồng, là đến xóm 9. Mấy chị còn kéo tôi
qua rặng tre, chỉ cái xóm nhỏ rậm rì cây cối nằm thoi loi giữa cánh đồng
thẳng cánh cò bay. Một chị hỏi: “Nhìn chú biết người ở xa rồi. Thế chú
hỏi đường về nhà ai? Xóm ấy nhỏ tẹo, nhà ai chẳng biết”. Tôi bảo: “Em
tìm đường về nhà ông Trần Văn Rạng. Nhưng hỏi về nhà ông ấy thôi, chứ
thực ra cả nhà ông ấy chết rồi”. Nghe đến tên ông Trần Văn Rạng, cả mấy
người phụ nữ đổi sắc mặt. Vẻ sợ hãi lộ rõ trong đôi mắt họ. Một chị bảo:
“Chúng tôi không biết ông ấy là ông nào đâu. Anh vào xóm đấy rồi hỏi
nhé!”. Nhìn ánh mắt họ, tôi biêt họ đang sợ hãi, chứ không phải họ không
biết ông Trần Văn Rạng. Câu chuyện của đại gia đình này đã từng khiến
nhân dân trong vùng náo loạn, chính quyền cả tỉnh, rồi trung ương phải
quan tâm sát sao, nên không thể có chuyện cư dân ở gần đó mà không biết.
Quả thực, nỗi sợ hãi ấy ám ảnh cả những người dân xa lạ, thì tôi đã
phần nào hiểu rằng, vì sao những người ở đại gia đình ấy liên tiếp lăn
ra chết, rồi vô số những người hàng xóm, người thân liên tiếp rơi vào
trạng thái thập tử nhất sinh, không kiểm soát được mình nữa.
Tìm vào đầu xóm 9, tôi tiếp tục hỏi thăm một vài người về gia cảnh
nhà ông Trần Văn Rạng, tuy nhiên, tôi chỉ nhận được những cái lắc đầu từ
chối. Tôi mới chỉ nhắc đến tên ông Rạng, người ta đã thay đổi sắc diện.
Dường như người ta muốn quên đi cái quá khứ hãi hùng ấy, hoặc cũng có
thể họ sợ câu chuyện khơi gợi lại, ám vào gia đình họ. Thế nên, tốt nhất
là chẳng nói gì, chẳng nghĩ gì đến chuyện ấy nữa. Không biết làm cách
nào, tôi đành hỏi đường vào nhà ông trưởng xóm 9.
Nhà ông Thành, trưởng xóm ở sát cánh đồng. Tôi đến, nhưng trong nhà
chỉ có vợ ông đang chăm sóc đàn gà. Tôi giới thiệu là nhà báo, muốn tìm
hiểu về chuyện chết chóc kỳ lạ xảy đến với gia đình ông Rạng. Điều lạ
lùng nữa, là bà vợ ông trưởng xóm cũng tỏ ra khá sợ hãi. Bà bấm điện
thoại thông báo với chồng sự việc. Rốt cục, ông trưởng xóm từ chối gặp
nhà báo, vì ông không nắm được thông tin gì về sự kiện đó. Tuy nhiên, bà
vợ ông trưởng xóm cung cấp cho tôi một thông tin quan trọng: “Người nắm
được rõ nhất chuyện về gia đình ông Rạng chính là ông Nguyễn Văn Thung.
Chồng tôi không nắm được chuyện gì đâu, nên nhà báo có hỏi cũng không
có tác dụng. Nhà ông Rạng người thì chết, người bỏ đi chưa dám về. Tôi
nghe nói họ phải bỏ nhà trốn miết để tránh thánh thần phạt. Tôi sẽ dẫn
nhà báo đến nhà ông Thung để nhà báo hỏi chuyện nhé!”. Nói rồi, bà vợ
ông trưởng xóm dẫn tôi đi vòng vèo mấy ngõ ngách. Đến cuối con ngõ, dừng
lại trước cái cổng sắt khép hờ, bà bảo: “Đây là nhà ông Thung. Nhà báo
vào hỏi chuyện nhé. Tôi về luôn đây”. Vác dao ra nói chuyện
Tôi gọi cổng một lát, thì thấy một cụ ông đi ra. Cụ ông dáng người
đạo mạo, mái tóc trắng phau, cặp lông mày cũng trắng như cước. Biết tôi
là nhà báo, ông mời tôi vào nhà uống nước. Tôi trình bày chuyện khó hiểu
ở ngôi làng này, vì sao mọi người sợ nhắc đến gia đình ông Rạng như
vậy? Ngay cả ông trưởng xóm cũng hãi. Ông Thung bảo: “Không chỉ dân làng
sợ, mà ngay cả tôi đây, sắp xuống lỗ rồi cũng vẫn còn sợ. Người ta sợ
nhắc đến gia đình ông Rạng, nhỡ có mạo phạm gì, thánh thần nổi giận, lại
tìm họ để xử, thì lại xảy ra thảm họa như chơi”. Cũng theo ông Thung,
không chỉ đại gia đình ông Rạng chết bí ẩn, em gái ông chết, mà người ta
còn đồn rằng, anh trưởng thôn cũng chết, vì dám uống rượu say rồi xông
đến nhà ông Rạng chửi bới, chọc gậy vào mấy ông thầy cúng đang hành lễ.
Dù anh trưởng thôn này chết sau khi xảy ra sự việc quái đản ấy đã mấy
năm, nhưng cái chết của anh ta khá lạ lùng, nên dân làng lại đồn rằng do
anh ta đã xúc phạm thần linh ở nhà ông Rạng. Chính vì lẽ đó, ông trưởng
xóm mới lên thay không muốn dính dáng đến chuyện đó, cũng là điều dễ
hiểu. Không hiểu suy luận của ông Rạng có đúng không, nhưng quả thực,
nỗi sợ thánh thần vô hình vẫn còn bao phủ tâm trí người dân ngôi làng
này như một đám mây.
Uống mấy ngụm trà nóng, hít mấy hơi dài, ông Thung mới chợt nhớ ra gì
đó. Ông lật đật chạy đến giường, lật đệm lên, lôi ra con dao dài
ngoằng. Đó là con dao sắc, đẹp, giống dao của đồng bào miền núi hay
dùng. Ông Thung bảo: “Nói thật với anh, từ ngày đó đến giờ, tôi đi đâu,
làm gì, cũng kè kè con dao này bên cạnh. Chỉ có mang theo nó, tôi mới
cảm thấy vững tâm. Anh nhắc lại chuyện này, tự dưng tôi lạnh cả sống
lưng nên mới nhớ ra con dao. Tôi cứ thủ con dao ở cạnh, cho an tâm”.
Người Việt ở nhiều nơi khi đi đâu xa, đều mang theo con dao và củ
tỏi, với niềm tin sẽ xua đuổi ma quỷ, tà khí. Nhiều người còn đánh dấu
bằng than, vết son lên trán trẻ con để ma quỷ không bắt đi. Tôi chợt nhớ
đến câu chuyện bắt ma kỳ quái và đơn giản của thầy cúng Nguyễn Trung
Tuấn ở Hà Nam. Cách bắt ma của anh ta đơn giản đến mức tưởng như ai cũng
làm được. Nhiều người đến trung tâm áp vong của anh này, hoặc nơi khác,
sau khi về, vẫn thấy vong theo, vong nhập. Khi đến gặp anh ta, anh ta
chỉ nói mỗi câu là vong đi rồi, thế là chả thấy vong ma đâu nữa. Có bà,
đến nhà anh Tuấn kêu rằng, cứ nửa đêm liền “thấy” cả trăm vong, ma đứng
lâu nhâu trong nhà, ngoài sân. Gặp được anh Tuấn, bà ta quỳ xuống vái
lạy như thánh. Chẳng cần hương khói, vàng mã, cúng bái cầu kỳ, anh bẻ
cành rào đưa cho bà ta bảo: “Tôi đã yểm bùa vào que nhang này. Chị cứ
cầm về đặt trên ban thờ, sẽ không có con ma nào dám bén mảng đến nữa”.
Chỉ có cành rào, mà chị này chẳng thấy vong, ma nào tìm đến hành mình
nữa thật. Anh Tuấn đã thử nhiều cách và đều thành công, nhưng anh lại
không hiểu vì sao mình làm được như vậy. Đơn giản, vong, ma đó chỉ là ảo
giác, là nỗi sợ hãi mà biến thành. Khi các bệnh nhân này gặp được thầy
bắt ma cao tay, tin rằng thầy đã trừ giúp ma quỷ, họ tự tin hơn, đầu óc
thanh thản, và như vậy, sẽ không thấy con ma nào nữa. Chuyện của ông cụ
Thung này, với con dao kè kè bên cạnh, có lẽ cũng giống với chiếc que
rào mà anh Tuấn đưa cho người đàn bà yếu bóng vía kia.
Sau khi đặt con dao trên mặt bàn, thắp mấy nén nhang trên bàn thờ,
khấn vái lầm rầm vài tiếng, lấy lại bình tĩnh, ông Nguyễn Văn Thung mới
bắt đầu sắp xếp lại câu chuyện kinh dị, mà ông chứng kiến từ đầu đến
đuôi. Ngôi miếu nhỏ linh thiêng
Ông Thung mang họ Nguyễn, còn đại gia đình ông Rạng, lại là họ Trần.
Ông Thung không liên quan máu mủ gì với gia đình ông Rạng, nhưng lại là
người nắm rõ nhất mọi chuyện, là bởi người em gái của ông, tức bà Nguyễn
Thị Đào, là vợ ông Rạng, là con dâu của họ Trần. Sự việc chết chóc kinh
hãi, phức tạp quá, khiến người trong họ cũng phải “bỏ tình bỏ nghĩa,
cốt chạy thoát thân”, người em gái cáng đáng không xuể, nên ông thương
em mà phải vào cuộc.
Anh em ông Thung, bà Đào sinh ra trong gia đình nghèo khó, lớn lên
với hạt lúa, củ khoai. Bà Đào không được học hành gì nhiều, vừa tròn đôi
mươi thì về làm dâu họ Trần, làm vợ ông Trần Văn Rạng, người cùng xóm,
cách nhà có vài trăm bước chân. Vợ chồng ông Rạng đẻ tới 8 người con,
gồm 4 trai, 4 gái. Vợ chồng chỉ làm nông nghiệp, nên con cái cũng chỉ có
được miếng ăn mà lớn, chứ chẳng được học hành gì. Tuy vậy, vợ chồng ông
Rạng cũng chịu khó cày cuốc, nuôi con gà, tăng gia đàn lợn, rồi lần
lượt dựng vợ, gả chồng cho 8 người con. Một người con trai bỏ xứ vào Nam
lập nghiệp, một người xin làm công nhân ở thành phố Thái Bình. Hai cậu
con trai, gồm cả và thứ 3 ở với bố mẹ. Mấy người con gái cũng đi lấy
chồng cả. Cô lấy chồng trong mãi Tây Nguyên, cô lấy chồng ở xã khác, xóm
khác.
Dù con cái chỉ làm nông nghiệp, gắn bó với cây lúa, củ khoai, song do
chắt chiu tích cóp, nên những người con của ông bà cũng dần ổn định
cuộc sống, xây dựng, sửa sang được nhà cửa. Người con cả Trần Văn Viết
được ông bà Rạng chia cho mảnh đất trước ngôi nhà ngói ông bà ở. Vợ
chồng anh Viết đã dựng một ngôi nhà dù là cấp 4, song rộng rãi khang
trang, tường bao quây kín. Cậu con trai thứ 3, tên là Trần Văn Út, sau
khi lấy vợ vài năm, sinh con đẻ cái, tích cóp được ít tiền, đã xin bố mẹ
cho ra ở riêng. Đất đai rộng rãi, nên ông bà Rạng đã cắt một mảnh rộng
chừng 200 mét vuông, phía sau về bên trái ngôi nhà của ông bà cho cậu
con tưởng là út ít, ai dè chỉ là thứ 3.
Có đất rồi, anh Trần Văn Út dựng tạm một ngôi nhà cấp 4 nho nhỏ, chỉ
cỡ 30 mét vuông ở tạm. Ngôi nhà ngay bên bờ ao, phía trước nhà là cái
miếu nho nhỏ, giống như cây hương trước nhà. Lịch sử ngôi miếu nhỏ này
cũng rất sáng rõ, đó chỉ là ngôi miếu của gia đình, do thế hệ trước dựng
nên.
Để hiểu rõ về ngôi miếu này, phải nắm được ngôi miếu ở phía bên kia
cái ao nhà ông Rạng. Đó là ngôi miếu do các cụ nhà ông Rạng, cùng một số
người dân trong làng dựng nên, gọi là miếu Thần Linh. Ngôi miếu này vốn
thờ 3 mẹ con người ăn mày. Hồi năm 1945, tình trạng chết đói diễn ra
khắp vùng quê lúa. Năm đó, có 3 mẹ con ăn mày lang thang đến ngôi làng
này xin ăn. Dân làng cũng đói nên họ chẳng xin được gì. Bụng đói cồn
cào, nên cậu con của bà ăn mày trèo lên cây sung lớn ngả ra bờ ao để hái
sung ăn. Tuy nhiên, chưa hái được quả sung nào, thì cậu bé trượt chân,
ngã xuống ao. Người anh thấy vậy liền nhảy xuống ao cứu em. Tuy nhiên,
ao sâu nước cả, hai anh em dần dần chìm nghỉm xuống nước. Người mẹ dù
đói lả, không nhấc nổi chân, nhưng thấy 2 con chìm dưới dòng nước, liền
gắng sức nhảy xuống. Rốt cục, cả 3 mẹ con đã chết đuối dưới ao. Người
dân trong xóm thương xót, đã vớt 3 mẹ con lên, bó chiếu chôn cất cẩn
thận ngay bờ ao. Năm đói trôi qua, người dân trong làng may mắn ít người
phải chết đói. Nghĩ rằng, do 3 mẹ con ăn mày phù hộ, dân làng mới không
chết đói, nên đã dựng một ngôi miếu nhỏ để thờ. Gia đình ông Rạng vừa
giữ vai trò chủ trì, vừa đóng góp chính xây dựng ngôi miếu. Sau này,
ngôi miếu trở thành nơi tụ họp tâm linh của các hộ dân trong xóm. Ngày
rằm, ngày lễ, người dân đều hương khói chu đáo tại ngôi miếu nhỏ này. Từ
ngôi miếu thờ 3 mẹ con ăn mày, có lúc gọi là thờ ma đói, đã biến thành
miếu thờ thần.
Gần 3 năm sau khi xây dựng ngôi miếu này, vào năm 1948, một bà trong
họ Trần đau ốm liên miên mà không rõ nguyên nhân. Bà này là thầy cúng,
chuyên cúng bái, xem long mạch cho người dân trong vùng. Bà bảo, do long
mạch ở đất nhà mình có vấn đề, nên phải lập một ngôi miếu, rước Thần ở
miếu thờ 3 mẹ con chết đói về thờ. Ngôi miếu được xây dựng khá nhỏ, đơn
sơ ở rìa bờ ao, đối diện với ngôi miếu thờ 3 mẹ con chết đói. Bà còn kêu
thần linh, thổ địa lên ngự ở miếu để bà hương khói ngày đêm. Hàng ngày,
bà này cúng bái, hương khói cẩn trọng. Tuy nhiên, hương khói mãi mà
chẳng ăn thua gì, bệnh tình bà mỗi ngày nặng thêm. Cuối cùng, bà chết
một cách bí ẩn, khi đang khấn vái ở miếu. Cái chết của bà khiến gia đình
và người thân càng tin vào sự linh thiêng của ngôi miếu nhỏ này. Từ đó
đến nay, các thế hệ họ Trần coi ngôi miếu là chỗ dựa tâm linh, hương
khói ấm cúng trong những ngày trọng đại. Người dân trong xóm cũng đến
khấn vái, dâng lễ xin lộc. Điều kỳ lạ, là thi thoảng có một con rắn,
không rõ là rắn gì, dài khoảng 3m, to bằng chiếc điếu cày, thường xuyên
ngự trong miếu. Có lúc gặp nó nằm khoanh tròn chỗ bát hương, có lúc thấy
nó nằm vắt trên miếu, có lúc lại thấy nó ở trên ngọn cây. Ai cũng nghĩ
rằng thần linh đã hóa thân thành con rắn, nên không ai dám xua đuổi,
hoặc bắt nó làm thịt.
Sẽ chẳng ầm ĩ, nếu ngôi miếu ấy nằm rìa mảnh đất rộng rãi của ông bà
Rạng, nhưng lại nằm giữa mảnh đất mà anh Trần Văn Út được bố mẹ chia
cho. Ngôi miếu nằm giữa mảnh đất thì không thể xây dựng kiểu gì cho phù
hợp, hài hòa. Tuy nhiên, ngôi miếu là nơi thờ cúng, chỗ dựa tâm linh của
gia đình, xóm giềng, nên anh Út không đụng đến. Anh dựng ngôi nhà nhỏ
ngay trước ngôi miếu, quay mặt thẳng ra ngôi miếu. Vị trí ngôi miếu tuy
không phù hợp, nhưng nó không ảnh hưởng đến cuộc sống, lối đi lại, nên
anh Út cứ để nguyên. Chỉ đến một ngày, khi sinh 2 đứa con, khi ngôi nhà
30 mét vuông đã chật trội, khi vợ chồng đã tiết kiệm đủ tiền để xây dựng
ngôi nhà mái bằng khang trang hơn, thì ngôi miếu mới trở nên đáng quan
tâm. Mảnh đất nhỏ, nên không thể có sự lựa chọn nào khác, anh Út buộc
phải đào móng dựng ngôi nhà ngay cạnh ngôi miếu và biến ngôi nhà nhỏ
đang ở thành nhà bếp. Được sự đồng ý của gia đình, xóm làng, anh Út
quyết định di dời ngôi miếu ra vị trí khác, ở chái ngôi nhà đang ở, sát
bụi tre, cạnh bờ ao. Nói là di dời, nhưng thực ra là phá ngôi miếu cũ,
xây dựng ngôi miếu mới và dời sự thờ cúng ra đó. Hôm phá miếu, gia đình
cũng thuê thầy cúng làm lễ cẩn thận, nhưng không ai ngờ, sự việc xảy ra
sau đó lại nghiêm trọng khủng khiếp như vậy. Súc vật liên tiếp lăn ra
chết, tiếp đó là những cái chết kinh dị không ngăn nổi xảy đến với 6
thành viên trong gia đình hiền lành chân chất này. (Còn nữa)
“Thần xà” báo oán khiến 6 người trong gia đình chết thảm ở Thái Bình (Kỳ 2)
Nhà báo Phạm Ngọc Dương (Báo điện tử VTC News – vtc.vn) đã
ghi chép lại câu chuyện kinh thiên động địa, không thể lý giải này làm
tư liệu. Anh đã không đăng báo, mà coi đây là tư liệu bí mật, giờ anh
mới công bố.
Bài 2: “Quan hoàng xà” hóa rắn khổng lồ khiến mọi người kinh khiếp
Đám ma ông Rạng Những vụ chết chóc hãi hùng ập đến đại gia đình nhà ông Trần
Văn Rạng (Xóm 9, Vũ Tây, Kiến Xương, Thái Bình) sau khi anh con trai thứ
3 Trần Văn Út phá ngôi miếu nhỏ nằm trong phần đất nhà mình để xây nhà.
Ban đầu là vật nuôi lăn ra chết, rồi tiếp tục đến người chết. Những cái
chết cứ tuần tự diễn ra kinh hãi với đại gia đình ông Rạng, mà không gì
có thể ngăn nổi. Bắt đầu từ lúc phá miếu, cho đến tận gần đây, sự xuất
hiện của con rắn khổng lồ quanh quẩn ở nhà ông Rạng, vẫn khiến mọi người
sợ hãi. Sự hiện diện của con rắn này khiến câu chuyện càng thêm phần kỳ
bí, kinh dị. Vung xà beng phá miếu
Như đã nói ở kỳ trước, hồi dựng ngôi nhà nhỏ, dù ngôi miếu nằm ở
trước nhà, nhưng ở khuôn viên của vườn, không ảnh hưởng đến lối đi, sinh
hoạt, nên anh Trần Văn Út không đụng chạm gì đến ngôi miếu. Đại gia
đình ông Rạng đều là những người chu toàn vấn đề tâm linh, nên ngày lễ,
Tết, rằm, mùng một, đều hương khói cúng bái thần linh, thổ địa. Người
dân trong xóm thấy ngôi miếu linh thiêng, nên cũng đến nhang khói, cầu
khấn khá đông. Vì thế, đại gia đình ông Rạng lại càng có nhiều lộc. Tuy
nhiên, khi ngôi nhà cấp 4 chật chội, khi gia cảnh khấm khá, vợ chồng anh
Út bàn tính xây dựng ngôi nhà mái bằng khang trang, biến ngôi nhà cấp 4
thành bếp, thì không thể để ngôi miếu ở đó nữa. Ngôi miếu này vốn thờ 3
mẹ con người ăn mày, thờ cả thần linh thổ địa, để trấn long mạch, nhưng
lại có con rắn lớn thi thoảng bò về ngự ở miếu. Nghĩ là thánh thần hóa
thân, nên không ai dám bắt, không dám đuổi rắn đi. Con rắn cũng hiền
lành, chẳng tấn công người bao giờ. Hôm quyết định phá miếu để di dời ra
chỗ khác, thầy cúng cũng đến làm lễ long trọng. Ông thầy cúng này khẳng
định rằng, thần linh đã hiện thân thành con rắn và phù hộ cho gia đình,
xóm làng, do đó, mọi người không được bắt rắn, xua đuổi rắn đi. Sở dĩ,
lúc nhìn thấy rắn, lúc không thấy rắn đâu, là vì thần linh biến hóa
thành. Khi thần hiển linh, thì hóa thành rắn, còn khi thần về trời, thì
con rắn biến mất. Đó là lý do vì sao thi thoảng mọi người mới bắt gặp
rắn, mà lại thường xuyên gặp vào những ngày trọng đại.
Ngôi nhà xây dở bị bỏ hoang và không bao giờ được hoàn thiện
Thầy cúng làm lễ xong, mọi người vào nhà uống nước. Đúng vào buổi
trưa, tiết xuân mát mẻ, nắng nhẹ, anh Trần Văn Út dùng xà beng đâm nhát
đầu tiên. Mặc dù là người cứng cáp, chứ không yếu bóng vía như đàn bà,
thế nhưng, anh Út cũng phải toát mồ hôi. Theo lời thầy cúng, thì anh là
người xây nhà trên đất miếu, nên anh phải là người đầu tiên hạ miếu và
cũng là người đầu tiên động thổ xây dựng ngôi miếu ra địa điểm mới. Thầy
cúng sau khi làm lễ, đã xin âm dương và chỉ một lần tung đồng xu, đã
chứng nghiệm. Việc phá miếu di chuyển ra chỗ khác, theo thầy cúng, là
việc hợp lòng người và cũng hài lòng thần thánh. Bởi vì, nếu dựng nhà,
ngôi miếu sẽ nằm ở ngay hiên, ở góc sân chỗ giáp nhà và bếp, như vậy
người ở chẳng vui, mà thánh thần ngự ở đó cũng không đẹp đẽ gì. Mặc dù
mọi điều đều đã thuận, nhưng mọi người phải động viên mãi, anh Út mới
dám đâm xà beng. Khi anh Út dũng cảm phóng xà beng vào nóc miếu, ngói vỡ
tung tóe, thì anh Viết, anh trai của anh Út cũng mang xẻng giúp một
tay. Chưa đầy một tiếng đồng hồ, ngôi miếu nhỏ đã biến mất, thay vào đó
là một đống gạch vỡ vụn. “Quan hoàng xà” xuất hiện
Thế nhưng, ngay chiều hôm đó, sự việc kinh hoàng, như lời báo ứng
khủng khiếp đã diễn ra, ngay tại địa điểm ngôi miếu này, đó là sự hiện
diện của con rắn khổng lồ. Con rắn này vốn thi thoảng vẫn xuất hiện ở
ngôi miếu vào những ngày trọng đại, nhưng nó chỉ ở một lát, rồi lại biến
mất. Thế nhưng, hôm đó, sau khi phá miếu vài tiếng, khoảng 5 giờ chiều,
con rắn to bằng ống điếu cày, cỡ cổ chân người lớn, dài khoảng 3m, treo
thân lủng lẳng trên ngọn cây trứng gà. Con rắn có thân khoang đen
khoang trắng nhìn rất kỳ dị, hãi hùng. Với thợ rắn bình thường, thì đây
là loài hổ mang, có nọc độc khủng khiếp, cắn chết trâu bò hoặc vài mạng
người. Cây trứng gà này vốn mọc cách ngôi miếu chừng 5 mét. Điều kỳ lạ
là những quả trứng gà này rất to, quả nhỏ cũng bằng nắm tay, quả to bằng
chiếc bát ăn cơm, thậm chí to như quả bưởi. Bình thường, đại gia đình
ông Rạng, mỗi khi hái trứng gà ăn, đều đặt trên miếu hương khói, mời
thần linh thưởng trước, rồi mới lấy về ăn hoặc phân phát cho mọi người,
chứ không ai dám tự tiện hái trứng gà.
Cây bạch đàn, nơi xuất hiện con rắn khổng lồ
Hôm “thần xà” xuất hiện, chính mắt ông Nguyễn Văn Thung (anh vợ ông
Rạng) cũng nhìn thấy, nhưng nghĩ đó là con rắn bình thường, rồi thấy mọi
người thần thánh hóa nó lên, nên ông bực mình bỏ về. Con rắn quấn đuôi
trên ngọn cây, rồi thả mình thòng lõng xuống đất. Tuy nhiên, cái đầu nó
bạnh ra, nhìn mọi người bằng con mắt vằn đó. Lưỡi mãng xà màu đen, thè
ra lòng thòng. Nó treo trên cây như vậy, khiến không ai dám làm gì nữa.
Điều lạ là mọi người nhìn con rắn đều kinh hãi. Bản thân hai anh em Út
và Viết đều là nông dân, cày sâu cuốc bẫm, rắn rết bắt hàng ngày ở cánh
đồng về làm thịt, thế nhưng, với con rắn ngự ở ngôi miếu này thì lại
kính cẩn, không bao giờ dám động vào. Sự việc con rắn treo mình trên
cành cây, rồi nhất quyết treo lủng lẳng trong tư thế đó, khiến hai anh
em và tất cả mọi người chứng kiến đều tin rằng, một điềm báo khủng khiếp
sẽ xảy đến với họ.
Sau khi bàn bạc, mọi người thống nhất tạm dừng công việc, không tiếp
tục nữa. Một người được phân công đi gọi ông thầy cúng lúc trưa ở xã
Quốc Tuấn bên cạnh. Chừng nửa tiếng sau, ông thầy này được chở đến. Vừa
nhìn thấy con rắn, ông thầy cúng trợn mắt, bủn rủn tay chân, cứng hàm
không nói được gì cả. Ai nhìn cảnh đó cũng không hiểu vì sao, tưởng ông
thầy cúng này bị trúng gió. Mọi người phải đỡ ông vào chỗ mát, sức dầu
gió Trường Sơn cho ông. Người bóp tay, bóp chân, người day thái dương.
Vài phút sau, ông thầy cúng mới tỉnh lại. Tuy nhiên, vừa sực tỉnh, thì
ông chạy đến gần chỗ con rắn đang treo mình, dập đầu vái lạy. Không ai
hiểu ông nói gì, nhưng đại để là cầu xin thần rắn tha mạng cho ông và
tha mạng cho cả nhà mình. Vái xong, ông thắp mấy nén nhang, cắm ngay gốc
cây trứng gà, rồi từ biệt gia đình. Trước khi đi, ông còn bảo: “Từ nay
gia đình đừng gọi tôi nữa. Tôi chịu rồi, không đủ sức giải quyết chuyện
này nữa đâu. Nếu có chuyện gì xảy ra, thì gia đình đi tìm thầy khác
nhé”. Sau hôm đó, kéo dài cả năm trời, cả đại gia đình ông Rạng náo loạn
vì những cái chết khủng khiếp, kỳ quặc. Gia đình đã mời hàng chục thầy
cúng, thầy bói, và có nhiều lần qua nhà ông thầy cúng này, song ông nhất
mực từ chối. Nghe nói, hàng ngày ông ăn chay, tụng kinh gõ mõ, sám hối
những việc đã làm. Ông còn lập cả ngôi miếu và đắp hình một con rắn to
tướng, có mào, miệng há to, lưỡi thòng lòng nhìn gớm ghiếc để cúng tế
ngày đêm. Đồn rằng, ông nghĩ chính mình đã tiếp tay cho gia đình ông
Rạng phá ngôi miếu, nơi trú ngụ của “thần xà”, nên ông rất sợ hãi. Ông
dựng ngôi miếu, thờ “thần xà” là để mong “thần xà” tha tội, không bắt
ông đi.
Quay lại chuyện con rắn treo mình trên cây trứng gà. Con rắn treo
mình từ chiều đến khoảng 7 giờ tối, thì nó quấn mình vào thân cây, bò
xuống. Con rắn bò ra phía bụi tre sát bờ ao, rồi cứ thế bò dọc bờ ao và
biến mất vào một bụi cỏ lớn rậm rạp phía nhà anh Viết. Hôm sau, mọi
người dậy sớm, thì không thấy con rắn xuất hiện nữa. Tuy nhiên, chưa ai
dám làm gì. Nhờ ông thầy cúng kia không được, nhiều người mách ông Rạng
tìm gặp ông thầy Mơ ở huyện Tiền Hải. Ông Mơ là thầy bói, thầy cúng,
thầy địa lý khá nổi tiếng ở tỉnh Thái Bình. Ông này chuyên xem thế đất,
thế nhà, trấn yểm long mạch, thậm chí cắm đất để xây dựng đình chùa. Với
khả năng siêu phàm đó, gia đình ông Rạng tin rằng, ông Mơ sẽ có cách
giúp được gia đình ông.
Khi mấy người trong gia đình ông Rạng tìm đến, ông Mơ yêu cầu vào phủ
nhà ông, thắp nhang, để ông xin âm dương. Xin âm dương xong, thì ông
này bảo: “Đó không phải là con rắn bình thường đâu. Đó là “quan hoàng
xà” hóa thành rắn để ngự ở miếu đấy. Tôi xin âm dương thì thấy thuận
rồi, gia đình cứ động thổ làm nhà đi, nhưng cần phải nhớ, là nhất định
không được động vào “quan hoàng xà”. Chỉ cần đánh “quan hoàng xà” một
cái, hoặc đuổi “quan hoàng xà” một lần, thì chắc chắn sẽ phải thế một
mạng người. Hay ghi nhớ lời nói của tôi. Sau này, nếu có sự việc gì phức
tạp, thì tôi sẽ đến tận nơi xem xét. Hiện tại, mọi người cứ thế mà
làm”.
Lời ông thầy Mơ khiến mọi người an tâm, nên ông Rạng chỉ đạo mọi
người động thổ xây dựng ngôi nhà cho con trai. Hôm động thổ, gia đình
cũng cẩn trọng mời thầy cúng đến làm lễ rất lớn, với đủ cả lễ mặn, lễ
nhạt, vàng mã hóa rừng rực cả góc sân. Thợ thuyền làm việc hăng say, và
ngôi nhà mái bằng rộng rãi nhanh chóng mọc lên. Ngày lành đã chọn, việc
đổ mái đã định. Thế nhưng, mấy hôm trước ngày đổ mái, thì anh Trần Văn
Viết lên cơn co giật, lăn đùng ra chết. Cái chết không rõ nguyên nhân,
vô cùng kinh dị, khiến mọi người liên tưởng đến chuyện “thần xà” trả
thù. Tất nhiên, người anh trai qua đời, thì việc đổ mái ngôi nhà buộc
phải dừng lại. Nhưng ít ai đoán trước được rằng, ngôi nhà chỉ xây được
đến đó thôi, rồi dừng lại mãi mãi, để mặc cỏ mọc um tùm, vì sau cái chết
của anh Trần Văn Viết, thì những cái chết tiếp theo lần lượt xảy đến
với đại gia đình này, mà không một thế lực nào có thể ngăn lại được. Thanh niên chạy tán loạn
Quay trở lại chuyện con rắn kỳ dị gắn với ngôi miếu nhỏ. Từ lần xuất
hiện hôm phá miếu, đến hôm chuẩn bị đổ mái ngôi nhà, con rắn như biến
đâu mất, không thấy xuất hiện nữa. Chỉ đến khi anh Viết qua đời, “quan
hoàng xà” bắt đầu xuất hiện nhiều hơn. Ông Nguyễn Văn Thung nhớ lại: “Sự
việc cậu Viết qua đời lẽ ra không có gì ghê gớm, vì mới chỉ có một
người chết. Tuy nhiên, trước đó, gia đình đi xem bói nhiều quá, mà thầy
nào cũng phán có “quan hoàng xà”, do thần linh hóa thành rắn, ngự ở ngôi
miếu, nên mới hoảng loạn như vậy, gây nên ầm ĩ khủng khiếp. Sau khi cậu
Viết qua đời, rồi liên tiếp nhiều người chết, hôm nào tôi cũng qua nhà
ông Rạng giúp em gái trông nom, quán xuyến mọi việc. Những người trong
gia đình đó đều hồn bay phách lạc, có ai dám qua nhà đó đâu. Chỉ có tôi
và ông Lưu, đều cứng bóng vía lắm mới dám sang đó. Việc con rắn hiện
diện nhiều người nhìn thấy, nhưng tôi và ông Lưu thấy thường xuyên nhất.
Con rắn đó trú ngụ ở chỗ nhà Viết, nhưng lại hay bò sang đất nhà thằng
Út, rồi quanh quẩn ở chỗ ngôi miếu đã phá”.
Vừa để phòng “ma”, lại phòng rắn, nên mỗi lần sang nhà ông Rạng, ông
Thung lại kè kè con dao ở nách. Con dao dài này ông Thung thửa riêng,
rất sắc lẹm, dùng để vót nan. Bình thường ông ít dùng, nhưng dạo đó,
ngày nào ông cũng lôi ra mài sáng loáng. Ông mài sắc đến nỗi, đặt lưỡi
dao vào chân, lướt một cái, lông rụng sạch như cạo bằng dao lam. Ông
Thung không tin con rắn là “quan hoàng xà”, nhưng nghe mọi người nói vậy
và thấy nó bò đi bò về mà không hãi người, khiến ông cũng hoang mang.
Tuy nhiên, nếu nó tấn công ông, thì ông buộc phải vung dao chém. Đấy là
phòng thủ vậy thôi. Chứ cả chục lần ông Thung sang nhà ông Rạng, thấy
con rắn trườn qua ngõ, hoặc nằm phơi nắng giữa ngõ, ông Thung đều dừng
lại. Ông chắp tay xin “quan hoàng xà” trườn đi, để ông qua đường. Chỉ
khi nào con rắn bò đi khá xa, ông mới rón rén bước tiếp. Để tránh gặp
phải rắn, ông Thung thường ăn tối từ 5 giờ chiều, để sang nhà ông Rạng
khi còn nhìn rõ đường, kẻo dẫm phải rắn. Đêm ngủ ở nhà ông Rạng, thì lúc
nào cũng kè kè con dao.
Sau ngày ông Rạng qua đời mấy hôm, con rắn cũng xuất hiện trong hoàn
cảnh khá đặc biệt, khiến nhiều người khiếp vía. Chiều hôm đó, đám thanh
niên tụ tập ngồi dưới sân, sát hiên để chơi bài. Đột nhiên “quan hoàng
xà” bò từ vườn vào sân, rồi bò sát đến manh chiếu, nơi đám thanh niên
ngồi chơi bài. Thấy con rắn, đám thanh niên sợ hãi bỏ chạy tán loạn. Một
số thanh niên sợ xanh mắt, một số lại bàn tính tìm cách đập chết rắn.
Tuy nhiên, ông Thung đã ngăn lại, không cho giết rắn. Ông yêu cầu mọi
người vào trong nhà, đóng cửa lại, chờ “quan hoàng xà” đi, rồi mới được
ra. Ông Thung và một số người trong gia đình đã thắp hương trên bàn thờ,
khấn thần rắn tha cho mọi người tội mạo phạm. Con rắn to tướng đó nằm
khoanh tròn bên chiếu phải đến 1 tiếng đồng hồ, mới ngỏng đầu bò đi. Chờ
một lúc, không thấy rắn quay lại, đám thanh niên mới ra sân chơi bài
tiếp. Thợ rắn khiếp vía
Theo lời ông Nguyễn Văn Thung, hai năm trước, khi đại gia đình ông
Rạng đã người qua đời mấy năm, người bỏ đi mất dạng, không dám về nữa,
thì “quan hoàng xà” vẫn tiếp tục xuất hiện. Hôm đó, là ngày giỗ em gái,
sau khi sắp cơm ở nhà, ông sang ngôi nhà bỏ hoang vốn là nhà em gái ông,
để thắp cho em nén nhang, thì lại gặp con rắn khi nó treo mình trên cây
xoài to tướng, mọc ngay sau bếp nhà ông Rạng. Thắp hương trong nhà
xong, ông Thung châm tiếp mấy nén hương, ra giữa sân, rồi ông quỳ xuống
vái “quan hoàng xà”. Đúng lúc đó, một anh buôn rượu ở làng cạnh đi qua,
thấy ông Thung khấn vái giữa sân có vẻ lạ lùng thì rẽ vào xem xét. Khi
thấy con rắn khổng lồ vắt mình trên ngọn cây, anh này bảo: “Vớ được con
rắn này thì trúng quả rồi, bằng mấy nồi rượu ngon rồi”. Ông Thung bảo đó
là rắn thần, nhưng anh này cười châm biếm, bảo đó là rắn hổ mang, rất
có giá. Mặc ông Thung ngăn cản, anh ta cứ trèo lên cây xoài tìm cách tóm
rắn. Khi anh này trèo lại gần, con rắn không hề sợ hãi bò đi, mà nó
ngỏng đầu nhìn thẳng vào anh ta, lưỡi thè ra rất gớm ghiếc. Anh này sợ
quá, liền tụt xuống, mặt tái mét, toát mồ hôi, run cầm cập. Anh ta chẳng
nói chẳng rằng, đạp xe bỏ chạy. Thế nhưng, lúc sau, ông Thung lại thấy
anh ta xuất hiện ở sân nhà ông Rạng. Anh ta bảo, nhìn con rắn to quá,
không dám bắt, tuy nhiên, đi được nửa cây số, nghĩ tiếc của, nên quay
lại nhất định bắt con rắn đem bán. Lần này, lấy quyết tâm, anh ta quyết
định bắt bằng được con rắn. Thế nhưng, anh ta vừa đi đến gốc cây, bỗng
khụy xuống, không đứng nổi lên nữa, người run bần bật. Ông Thung phải
dìu anh này vào trong nhà, để anh ta tỉnh táo, bình tĩnh lại. Anh này kể
rằng, ngoài nghề nấu rượu, đêm nào anh ta cũng đi soi rắn, bắt ếch. Rắn
to, rắn nhỏ, độc xà, anh cũng đều đã bắt được. Thậm chí, anh còn bắt
rắn độc theo đơn đặt hàng. Hễ ai đặt anh bắt rắn gì, nặng bao nhiêu để
ngâm rượu, hay làm thịt, anh đều tìm được cho. Tuy nhiên, không hiểu vì
sao, nhìn thấy con rắn này, anh bỗng bủn rủn tay chân, không làm chủ
được mình nữa. Lúc hoàn hồn, ra sân, thì con rắn đã biến mất khỏi cây
xoài. Anh này đạp xe hộc tốc bỏ đi, không bao giờ dám quay lại nữa.
Khu nhà bỏ hoang của đại gia đình ông Rạng
Một điều khá lạ lùng, là sự xuất hiện của con rắn với tần suất rất
cao, nhưng có một dạo, thợ rắn tìm đến, lại không tìm thấy nơi trú ngụ
của nó. Không chỉ ông Thung, ông Lưu (anh ông Rạng), mà anh Đức, anh Hà,
là hàng xóm với gia đình ông Rạng cũng thường xuyên nhìn thấy con rắn.
Đường đi của nó ông Thung cũng nắm rõ. Nó bò từ phía bờ bụi nhà anh
Viết, sang sân vườn nhà ông Rạng và anh Út. Tuy nhiên, nó trú ngụ ở đâu,
đào hang chỗ nào thì ông Thung chịu. Có một dạo, cách đây độ 3 năm, mấy
thợ rắn ở nơi khác nghe tin, đã tìm đến săn lùng. Đám thợ này vạch từng
bụi cỏ, đống gạch, bờ ao, nhưng tuyệt nhiên không tìm thấy hang rắn,
hoặc nơi rắn ở, cũng không thấy rắn lột xác ở chỗ nào. Có ông thợ đào
bới liên tục 3 ngày mà không thấy con rắn đâu. Thế nhưng, vài hôm sau,
ông Thung lại gặp nó xuất hiện ở vườn nhà ông Rạng. Box: Cái chết khủng khiếp diễn ra liên tục và bí ẩn với đại
gia đình ông Trần Văn Rạng, ở xóm 9, xã Vũ Tây, Kiến Xương, Thái Bình.
Đầu tiên là cái chết của anh Trần Văn Viết (con trai ông Rạng). Tiếp
theo là cái chết của ông Trần Văn Rạng, rồi bà Nguyễn Thị Đào (vợ ông
Rạng), anh Trần Văn Út (con trai ông Rạng), cháu Trần Quốc Khánh (cháu
nội ông Rạng, con anh Út), bà Phạm Thị Tâm (mẹ ông Rạng). Tất cả những
cái chết này đều bí ẩn, không tìm ra nguyên nhân, khiến bức màn tâm linh
vẫn bao trùm xóm nhỏ và con cháu ông Rạng, cũng như dòng họ Trần. (Còn nữa) (Chuyện do nhà báo Phạm Ngọc Dương viết)
“Thần xà” báo oán khiến 6 người trong gia đình chết thảm ở Thái Bình (Kỳ 3)
Bài 3: Vật nuôi liên tiếp chết đột ngột và cái chết đầu tiên trong đại gia đình chết chóc bí hiểm Nhà báo Phạm Ngọc Dương (Báo điện tử VTC News – vtc.vn)
đã ghi chép lại câu chuyện kinh thiên động địa, không thể lý giải này
làm tư liệu. Anh đã không đăng báo, mà coi đây là tư liệu bí mật, giờ
anh
Vật nuôi lăn đùng chết sạch sẽ
Trước khi xảy ra cái chết của anh Trần Văn Viết, thì từ khi phá ngôi
miếu, rồi đào móng khởi công xây nhà, vật nuôi nhà đại gia đình ông Rạng
bắt đầu lăn ra chết một cách bí ẩn.
Ông Nguyễn Văn Thung nhớ lại: “Hôm đó, tôi đang làm ở ngoài đồng, thì
bà Đào, em gái tôi hớt hải chạy ra bảo tôi sang nhà bà xem có chuyện
gì, vì lợn cứ tự dưng lăn ra chết. Tôi bảo cứ về đi, lát xong việc thì
qua. Lát sau, lại thấy cậu Út chạy ra bảo bác sang xem hộ cháu, có ai
đụng lợn thì giết, không thì hết vốn bác ạ. Lúc đó, tôi nghĩ chuyện lợn,
gà lăn ra chết cũng là bình thường, chẳng qua là bị dịch, hay nhiều khi
ăn no quá, nó lăn ra chết, rồi ngộ độc, chứ ai nghĩ lại liên quan đến
chuyện tâm linh gì đâu. Tôi đến nhà ông Rạng, thì đã có 2 con lợn của Út
chết thẳng cẳng rồi, sùi cả bọt mép. Lúc đấy là 5 giờ chiều. Trong
chuồng lợn nhà Út có gần chục con lợn gì đó, mới nuôi được hơn tháng,
mỗi con nặng cỡ 20-30kg thôi. Tôi chỉ đạo mọi người vào việc. Người mài
dao, người nấu nước, để chọc tiết làm lông. Lợn vừa chết xong làm thịt
ngay thì còn tươi, chứ để vài tiếng sau, máu đông, thịt lẫn máu thâm sì,
bán chả ai mua nữa. Nhưng điều khủng khiếp nhất, là tôi cạo lông chưa
xong một con lợn, thì cả mấy con còn lại trong chuồng đều tự dưng kêu éc
éc, rồi lăn đùng ra co giật, sùi bọt mép, chết thẳng cẳng. Nhà tôi từ
đời tổ đời tông đến nay đều là nông dân chính cống, chỉ biết trồng cấy,
nuôi gà nuôi lợn, rồi cả làng tôi nhà nào chả nuôi vài con lợn lấy phân
bón lúa, bón rau, nhưng tôi chưa từng bao giờ thấy lợn chết nhanh như
vậy. Tôi chạy vào cửa chuồng nhà Út xem, thấy con lợn rõ ràng đang khỏe,
tự dưng kêu eng éc, chạy nhảy húc đầu lung lung, rồi lăn đùng ngã ngửa
chết thẳng cẳng, chết sùi bọt mép”.
Dù rất hãi hùng nhìn đàn lợn chết, nhưng khi đó, việc chết người chưa
xảy ra, nên không ai nghĩ ngợi gì, chỉ nghĩ là bọn lợn này bị bệnh đột
tử gì đó, có thể do loài virus nào đó tấn công lên não, làm nó chết
nhanh. Ngày đó, chỗ nọ, chỗ kia cũng có dịch tai xanh, nhưng với người
nông dân, họ không đem đi tiêu hủy, mà làm thịt để chén. Lợn vừa chết,
họ mổ bụng, moi lòng vứt đi, còn thịt để ăn. Ăn chín, uống sôi, thì chả
sợ vì trùng, virus gì cả.
Đến khoảng 6 giờ chiều, khi công việc mổ bụng, moi lòng đàn lợn chết
đột tử còn đang ngổn ngang, thì đàn gà mấy chục con nhốt trong chuồng
bỗng kêu quang quác, loạn xị ngậu. Ông Thung và mọi người vứt dao, thớt
chạy đến xem sao. Ai cũng nghĩ chắc có con chuột cống, hoặc con rắn tấn
công, đàn gà mới kêu la kinh hãi như vậy. Nhưng trong chuồng không có
con vật gì cả. Chỉ có đàn gà vừa chạy vừa bay, đâm đầu vào tường, vào
lưới. Chúng náo loạn tìm cách thoát thân khỏi chuồng, như có ai đuổi
bắt, song không tìm được lối thoát. Ngay trước mắt mọi người, đàn gà mấy
chục con quang quác một lúc, rồi cắm đầu, cào chân bành bạch, chết cứng
đờ.
Căn bếp đổ nát nhà anh Trần Văn Út Con vịt đẻ trứng kỳ quái
Cái chết của đàn gà bắt đầu khiến mọi người hoảng. Mấy ông hàng xóm
sang đụng lợn bỏ chạy khỏi nhà ông Rạng. Mấy đứa cháu nhỏ cũng được di
tản đi nơi khác, kẻo lây bệnh từ đàn gà, lợn. Đang lúc bàn cãi, không
biết xử trí đàn gà, và đàn lợn chết bất đắc kỳ tử thế nào, thì 6 con vịt
đẻ đi kiếm ăn ở ngoài đồng bơi qua ao, rồi đủng đỉnh đi vào vườn tìm
chỗ ngủ. Đàn vịt vừa lạch bạch đi vào vườn, thì kêu lên quạc quạc. Cả 6
con vịt đẻ kêu la chỉ mấy chục giây, rồi lăn ra đất giãy đành đạch như
bị cắt tiết. Chúng giãy một lúc, thì chết hẳn. Vậy là, chỉ trong vòng
hơn tiếng đồng hồ, toàn bộ lợn, gà, vịt nhà anh Út lăn ra chết tiệt. Sau
khi bàn tính, ông Thung bảo: “Vứt mấy con vịt đi, không làm được đâu.
Cố gắng làm thịt hết đàn lợn, còn gà làm được bao nhiêu thì làm. Có làm
thịt hết thì cũng không bán được đâu”. Nghe lời ông Thung, anh Út bịt
mồm bịt mũi nhặt 6 con vịt vừa chết ném xuống ao. Thế nhưng, điều kỳ lạ
là một lát sau, mọi người thấy một con vịt lạch bạch từ ao đi vào vườn.
Thấy sự lạ, mọi người chạy ra ao tìm kiếm. Tuy nhiên, 5 con vịt vẫn chết
nổi lềnh bềnh, chỉ có một con sống dậy. Kiểm tra đàn gà, thì con nào
cũng cứng đơ, không có khả năng sống lại nữa.
Nhắc lại chuyện con vịt đã chết tự dưng sống lại này, ông Nguyễn Văn
Thung sởn da gà. Theo lời ông Thung, sau khi sống lại, con vịt không cần
sự chăm sóc của mọi người nữa, nó tự ra đồng kiếm ăn, rồi tự làm ổ trú
ngụ, chứ không ở trong chuồng. Nó cần mẫn đi tha lá chuối khô, làm cái ổ
to tướng ở bụi chuối sát bờ ao. Điều kỳ lạ nữa là nó đẻ nhiều trứng
khủng khiếp. Con vịt này làm ổ, đẻ trứng và cứ sống như vậy. Nó chứng
kiến lần lượt từng cái chết của đại gia đình ông Rạng, rồi mới biến mất
một cách bí ẩn. Việc con vịt sống lại, rồi tự làm ổ, đẻ trứng quá nhiều,
khiến mọi người trong gia đình ông Rạng sợ hãi. Không ai dám lấy trứng
về ăn. Mọi người đều tin rằng, con vịt này là do thần thánh ở ngôi miếu
nhập vào, nên nó mới sống lại được và mới biết tha rác làm ổ, đẻ trứng
nhiều như thế. Đàn vịt đẻ này vốn được chăm bẵm cẩn thận, được cho ăn,
cho uống, có chuồng ấm áp để ở, nhưng tự dưng con vịt này lại biến thành
vịt hoang dã, tự lo được cho mình. Đặc tính của nó hoàn toàn khác so
với vịt nuôi, nên mọi người mới có sự liên tưởng như vậy.
Ông Nguyễn Văn Thung là người chứng kiến từ đầu đến cuối những cái chết đầy ẩn ức diễn ra với gia đình ông Rạng
Chuyện về con vịt kỳ lạ khiến cả xã Vũ Tây quan tâm. Một đồn mười,
mười đồn trăm, rồi người ta tin con vịt đó là thần linh. Tuy nhiên, cũng
có người trong xóm không tin chuyện đó. Người ấy là ông H. Ông này bảo:
“Thần linh cái đếch gì. Vịt nào mà chẳng biết đẻ. Mà nó đẻ thì phải có
ổ. Cứ thần thánh hóa lên, đúng là nhố nhăng, mê tín”. Ông H. quát tháo
như vậy, rồi xông đến ổ con vịt để nhặt trứng về ăn. Tuy nhiên, vừa đến
gần, thấy con vịt ngồi trên đống trứng mấy trăm quả, phải nhiều cỡ một
thúng đầy, ông này bỗng bủn rủn tay chân, mặt mũi ngơ ngáo, không nói
được gì. Ông bỏ về ngay, không dám lấy quả trứng nào cả. Trước khi về,
ông còn bảo: “Đúng là vịt thần, chứ vịt thường làm sao đẻ lắm trứng
thế!”.
Hồi gia đình ông Rạng đang điêu đứng vì liên tiếp có người qua đời,
thì anh hàng xóm bắt con vịt này về. Anh ta có đàn vịt đẻ ngót ngàn con.
Đàn vịt này ăn khỏe, chăm tốt, nhưng không hiểu sao đẻ ít trứng. Mỗi
ngày, đàn vịt ngàn con chỉ được vài trăm quả. Nghĩ rằng con vịt này đẻ
khỏe, bắt nó về chắc sẽ được lộc, nên anh đã thực hiện ngay ý định. Anh
ta bắt bắt con vịt này về, thả vào đàn vịt của mình, rồi thắp hương trên
bàn thờ, cầu thần linh phù hộ, cho đàn vịt đẻ sòn sòn. Thế nhưng, điều
kinh hãi xảy ra, ấy là ngay đêm hôm đó, đàn vịt ngàn con nhà anh kêu
quàng quạc, làm náo loạn cả xóm nhỏ. Anh này bật điện, rồi cầm đèn ra
soi, nhưng tuyệt nhiên không thấy rắn, chuột đâu cả. Đàn vịt hoảng loạn
như thể có cầy cáo đến săn mồi. Điều kinh dị hơn nữa, là sớm hôm sau,
đàn vịt ngàn con, mỗi đêm cho vài trăm trứng, nhưng lại không đẻ được
quả nào. Nghĩ rằng đã mạo phạm thần linh, nên anh này bắt con vịt đó thả
về vườn nhà ông Rạng. Sau này, khi đại gia đình ông Rạng, người chết,
người bỏ đi, không ai dám đến khu vực này nữa, thì cũng không ai để ý
đến con vịt nữa. Giờ nó ở đâu, còn sống hay đã chết, thì không ai biết.
Nhưng con vịt kỳ lạ, thì được người dân trong xóm thêu dệt rất khủng
khiếp.
Sau một ngày chết chóc như ngả rạ của lợn, gà, vịt của nhà anh Trần
Văn Út, thì sau đó, lợn, gà, vịt nhà ông Rạng cũng đều lăn ra chết cả.
Đại gia đình này không nuôi được con gì nữa. Lợn nuôi 10 con, chết cả
10, nuôi 2 con chết cả 2, nuôi một con cũng chết luôn. Điều lạ hơn nữa,
là bọn lợn cứ nuôi được chừng 1 tháng, nặng cỡ 20-30kg thì mới đột nhiên
lăn ra chết. Gà, vịt thì cứ đến khi chuẩn bị làm thịt được thì mới
chết. Sau đại gia đình gặp tang gia nhiều quá, thì chẳng ai còn tâm trí
đâu nuôi con gì nữa. Chỉ có mỗi con vịt vẫn đẻ trứng đều đều, nhưng
không ai dám lấy trứng để ăn.
Ngôi nhà của gia đình anh Trần Văn Viết bỏ hoang nhiều năm nay, cỏ mọc che lấp mất lối đi Cái chết đầu tiên
Sau cái chết của đàn vật nuôi xảy ra ở nhà anh Út, thì đại gia đình
ông Trần Văn Rạng đón nhận nỗi đau buồn đầu tiên, đó là cái chết của anh
Trần Văn Viết, anh trai của anh Út.
Anh Viết sinh ra đã là chàng trai khỏe mạnh, vâm váp. Đến tuổi trưởng
thành, thì lấy thôn nữ ở xã bên, cách Vũ Tây chưa đầy 10 cây số làm vợ.
Vợ chồng được ông bà Rạng chia cho mấy sào ruộng, tích cực cày cuốc,
trồng cấy mới đủ ăn. Để có thêm đồng ra đồng vào, anh Viết chịu khó đi
làm thuê làm mướn. Do cuộc sống không dư giả, nên anh chị chỉ mới đẻ
được 1 cháu trai, dự tính xây nhà xong, tích cóp được một chút, mới tiếp
tục đẻ đứa nữa. Có chút vốn liếng, vợ chồng anh Viết xin ông bà Rạng
cho ra ở riêng. Ông bà Rạng cắt cho một mảnh đất chừng 200m, ngay trước
mặt, chếch về phía tay phải nhà bố mẹ, cạnh bờ ao. Vợ chồng anh Viết đã
xây một ngôi nhà. Dù là nhà cấp 4, lợp ngói, song khá rộng rãi, khang
trang, có sân vườn đầy đủ. Ngôi nhà quay cùng hướng Đông với nhà ông bà
Rạng, và quay lưng về phía nhà bố mẹ, nhưng vẫn đi chung một ngõ. Anh
Viết xây nhà xong một thời gian, thì cậu em Trần Văn Út đã phá ngôi miếu
để xây nhà riêng cho vợ chồng mình. Vậy là, trên mảnh đất rìa xóm 9, có
3 ngôi nhà của 3 bố con ông Rạng quây quần bên nhau. Hồi xảy ra sự
việc, cậu con duy nhất của vợ chồng anh Viết mới tròn 5 tuổi.
Ngay khi anh Trần Văn Út khởi công xây nhà, thì anh Viết, anh trai
của Út tự dưng hay ốm đau, khật khừ, tính tình trở nên khó hiểu. Lúc anh
kêu đau chỗ này, lúc kêu đau chỗ kia, nhưng đi khám thì chẳng ra bệnh
gì. Anh này cũng không ăn uống gì lạ, chỉ ăn con cua, con cá bắt được ở
cánh đồng, dưới ao. Do hay kêu đau, đi khám lại không ra bệnh, nên có
người đặt câu hỏi rằng, hay là anh này bị thần kinh?
Một đám tang trong gia đình ông Rạng
Trước hôm chuẩn bị đổ mái nhà em trai, anh Viết tự dưng rú lên sợ
hãi, rồi lăn đùng ra đất co giật, mắt cứ trợn lòng trắng, như thể sắp
lòi ra ngoài. Thấy tính mạng anh Viết có thể gặp nguy hiểm, nên cậu Út
nổ xe máy, mọi người lấy vỏ chăn quấn chặt anh Viết, rồi một thanh niên
ngồi sau xe máy ôm, phóng nhanh lên thị xã, cấp cứu ở Bệnh viện đa khoa
tỉnh Thái Bình. Các bác sĩ đã nhanh chóng cho anh nhập phòng cấp cứu,
cho thở ô xi. Được tiêm thuốc trợ sức, thở bình ô xi, nên anh Viết dần
tỉnh táo lại. Suốt mấy ngày ở bệnh viện, các bác sĩ đã cho chiếu chụp
tim, phổi, não, xét nghiệm máu, nhưng tuyệt nhiên không tìm ra bệnh gì.
Trong máu anh Viết cũng không có dư lượng chất độc nào cả. Nằm viện vài
hôm, khỏe lại như thường, anh được xuất viện.
Khi đó, các loài vật ở nhà anh Út, anh Viết và của bố mẹ đã lăn ra
chết rải rác sạch sẽ, chỉ còn mỗi con vịt đẻ kỳ quái là sống khỏe, nên
gia đình đã sợ hãi, nghĩ đến chuyện thần linh trách phạt. Mọi người cũng
liên hệ chuyện thần linh quở phạt với sự đau yếu, đặt biệt là cảnh
tượng lăn đùng ra đất co giật, đến mức suýt chết mà không tìm ra bệnh
của anh Viết, khiến không khí trong gia đình càng trở nên ngột ngạt. Từ
bệnh viện về nhà buổi chiều, thì đến đêm anh Viết có vẻ đuối sức, cứ đi
lại khật khừ. Sáng hôm sau, ông Nguyễn Văn Thung chạy sang, thì thấy mọi
người ngồi trong nhà đông đúc, còn anh Viết ngồi trên giường, mặt mũi
cứ tái nhợt. Anh Viết chẳng nói chẳng rằng, cứ nhìn mọi người với ánh
mắt buồn bã. Bà Đào, em gái ông Thung, mẹ đẻ anh Viết thì cứ liên tục
đốt nhang, khấn vái ở bàn thờ. Bà khóc lóc cầu xin thánh thần tha mạng
cho cậu con trai của mình. Tầm 8 giờ sáng, anh Viết đòi nằm xuống
giường. Anh nằm ngửa, cứ lịm đi, rồi chết. Một cú giật cứng người, và
anh ra đi mãi mãi.
Chị vợ anh Viết là người phụ nữ dũng cảm, mạnh mẽ. Trong khi mọi
người đổ chuyện chồng mình chết do thánh, thần quở phạt, do phá miếu nơi
con rắn thần cư ngụ, thì chị không tin. Chị còn đứng giữa sân xa xả
tuyên bố không sợ thần thánh, ma quỷ gì cả. Sau này, lần lượt từng thành
viên trong gia đình nhà chồng lăn ra chết, chị vẫn là người cáng đáng
chính mọi việc, lo ma chay chu toàn cho cả nhà chồng. Ông Thung là người
gan dạ, song cũng phải nể người phụ nữ này. Ông thường trêu đùa chị là
“con dái trong”, tức là phụ nữ, nhưng mạnh mẽ như đàn ông.
Tuy nhiên, sự việc xảy ra với gia đình mình quá kinh hãi, liên tiếp
những cái chết không tìm được nguyên nhân, khiến chị cũng phải chờn
lòng. Dân làng, những người trong gia đình đồn rằng, thánh thần sẽ bắt
hết những người trong dòng họ Trần, nên chị đâm ra lo lắng cho sinh mệnh
cậu con trai duy nhất của mình. Và, sự việc xảy ra đúng như lời đồn
đại. Cậu con trai duy nhất của vợ chồng anh Viết liên tiếp lăn ra ngất,
sau khi xảy ra cái chết của bố, cùng chú, ông nội. Đã mấy lần gia đình
phải cấp tốc đưa cháu đi cấp cứu ở bệnh viện. Cũng như bố, bệnh viện
không tìm ra nguyên nhân khiến cháu bé này liên tục bị choáng, ngất, co
giật sùi bọt ở miệng.
Sợ hãi quá, chị đã phải gửi con về quê ngoại, cách quê nội chừng 10
cây số. Điều đặc biệt là cháu ở nhà ngoại thì không sao, nhưng cứ có
việc về quê nội, thì lại lăn ra bất tỉnh nhân sự. Hôm tổ chức trăm ngày
cho ông nội, cháu bé đã lăn ra ngất cùng với nhiều người trong gia đình.
Đó là hoàn cảnh thập tử nhất sinh. Cũng may, gia đình đưa đi bệnh viện
kịp thời, nên mạng cháu còn giữ được. Dù là người gan dạ, nhưng sợ hãi
lời đồn thánh thần bắt những người trong họ Trần, nên nghe lời mọi
người, chị đã cho cháu làm con nuôi một gia đình khác, để cháu mang họ
khác, là người của gia đình khác, không có cớ nào để thần thánh bắt đi
nữa. Tuy nhiên, dù cháu đã là con của dòng họ khác, nhưng khi về nhà,
làm tang lễ cho người thân, cháu bé vẫn lăn ra ngất. Đến hôm bà Nguyễn
Thị Đào, mẹ chồng chị mất mạng, mọi người mới giật mình nhận ra rằng,
thần thánh đã “bắt” cả người ngoài dòng họ, vì bà Đào chỉ là dâu, mang
họ khác. Đúng hôm bà Đào mất, ngay trong đêm, mọi người đã đưa 2 mẹ con
trốn khỏi ngôi làng nhỏ ở xã Vũ Tây. Đích thân mấy người trong họ Trần,
cùng những người bên ngoại đã góp tiền, rồi đưa hai mẹ con lên tận bến
xe thành phố, để vào tuột trong Nam, tránh xa vùng đất với đại gia đình
đang chìm trong chết chóc khủng khiếp với lời đồn “thánh vật” vô cùng sợ
hãi, nghiêm trọng. Hai mẹ con sống trong Nam từ đó đến nay, không dám
về lại quê chồng ở xã Vũ Tây nữa.
(Còn nữa) (Chuyện do Nhà báo Phạm Ngọc Dương viết)
“Thần xà” báo oán khiến 6 người trong gia đình chết thảm ở Thái Bình (Kỳ 4)
Nhà báo Phạm Ngọc Dương (Báo điện tử VTC News – vtc.vn)
đã ghi chép lại câu chuyện kinh thiên động địa, không thể lý giải này
làm tư liệu. Anh đã không đăng báo, mà coi đây là tư liệu bí mật, giờ
anh mới công bố.
Bài 4: Tấn thảm kịch khủng khiếp trong buổi trăm ngày ông Trần Văn Rạng Trong lễ cúng trăm ngày ông Trần Văn Rạng, một tấn thảm kịch
khủng khiếp đã diễn ra. Khi mọi người đang làm lễ cúng, thì cháu Khánh
ngã bật ngửa chết tại chỗ. Bà Đào, vợ ông Rạng chết trên đường đến bệnh
viện. Người con của ông Rạng là anh Trần Văn Út bất tỉnh tại chỗ, phải
đi cấp cứu, nhưng chết sau đó nửa tháng. Rất nhiều con cháu, anh em
trong lễ cúng trăm ngày của ông Rạng cùng ngất xỉu.
Đám tang ông Trần Văn Rạng Dựng lại miếu thiêng
Sự việc anh Trần Văn Viết chết kỳ lạ, rồi vật nuôi chết chóc sạch sẽ,
khiến đại gia đình ông Trần Văn Rạng (Vũ Tây, Kiến Xương, Thái Bình)
hoang mang tột độ. Lời đồn do phá miếu thiêng, nơi con rắn trú ngụ khiến
không chỉ đại gia đình này, mà cả khu dân cư sợ hãi. Tuy nhiên, chỉ đến
khi xảy ra cái chết của ông Trần Văn Rạng, thì nỗi sợ hãi mới dâng cao
khủng khiếp.
Ngay khi anh Viết qua đời, mọi việc xây dựng nhà cửa đình lại. Ông bà
Rạng cùng con cháu chạy ngược xuôi tìm thầy, cúng bái ghê gớm, với mong
muốn được tai qua nạn khỏi. Nhiều thầy cúng đã đến tận nơi làm lễ, trấn
yểm, và đại gia đình đã lấy lại niềm tin, đỡ sợ hãi hơn. Giải quyết
xong chuyện tang ma cho anh Viết, thì gia đình bàn tính chuyện tiếp tục
cất nóc nhà anh Út. Tuy nhiên, việc này chưa kịp thực hiện, thì ông Rạng
có biểu hiện lạ. Ông Rạng từng đi bộ đội, ra sống vào chết, tuy nhiên,
ông may mắn là không bị thương tích gì, cũng không bị nhiễm chất độc hóa
học. Về quê, ông làm nông dân, dù tuổi cao, nhưng sức vóc vẫn như thanh
niên. Ông Rạng vốn không tin chuyện thánh thần, ma quỷ, tuy nhiên,
những sự kiện kỳ lạ diễn ra liên tiếp với gia đình, khiến ông không khỏi
hoang mang, nên cũng tin vào chuyện cầu cúng, lễ bái. Thật khó có thể
tin nổi, rơi vào hoàn cảnh đó, ông Rạng lại có biểu hiện lạ, tâm tính
thay đổi, thi thoảng lại rơi vào trạng thái vật vờ, ngờ nghệch. Sức khỏe
ông cứ yếu dần. Gia đình hết sức lo lắng, liên tục đưa ông đi bệnh viện
mỗi khi ông kêu mệt, hay tay chân run lẩy bẩy. Các bác sĩ làm đủ các
loại xét nghiệm, chiếu chụp, đều chẳng tìm ra căn nguyên bệnh tật từ cơ
thể ông Rạng. Ông Rạng vốn thi thoảng cũng uống rượu, nhưng mỗi bữa chỉ
1-2 chén. Tuy nhiên, thời điểm đó, ông uống rượu nhiều hơn. Dường như
ông uống để muốn quên đi nỗi sợ hãi, lo lắng, hoặc để khỏi phải suy nghĩ
về những hiện tượng kỳ cục đang diễn ra với gia đình mình. Cái gì đến
cũng đã đến, đúng 1 tháng sau ngày con trai Trần Văn Viết mất, ông Trần
Văn Rạng đã đột ngột qua đời, sau một cơn co giật cứng người giống hệt
anh Trần Văn Viết.
Cái chết của ông Rạng khiến đại gia đình hoang mang cực độ. Con cháu ở
khắp trong Nam, ngoài Bắc đã tụ họp về nhà. Lễ tang ông Rạng diễn ra
long trọng, tiếng khóc lóc thảm thương của con cái khiến xóm làng rơi
lệ.
Ngôi miếu gia đình ông Rạng dựng lại
Tang gia bối rối xong, đại gia đình họ Trần họp lại và tiến cử ông
Trần Văn Lưu, là chú ruột ông Rạng, trưởng chi họ Trần trong gia đình,
đứng ra lo liệu mặt tâm linh. Sau khi gặp gỡ nhiều thầy bà, ông Lưu đã
mời được thầy Dược ở xã Vũ Đông (TP. Thái Bình). Ông Dược không chỉ là
thầy cúng nổi tiếng trong tỉnh, mà còn nổi tiếng với tài xem phong thủy,
địa lý, trấn yểm long mạch. Sau khi làm lễ lớn tại điện ở nhà mình, ông
Dược xuống tận nhà ông Rạng. Ông thầy này bỏ mấy ngày liền đi khắp khu
vực, tìm hiểu từng gốc cây, bụi cỏ, đền, miếu, ao, mương. Ông kết luận
rằng, ngôi miếu mà các cụ nhà ông Rạng dựng nên trong phần đất nhà mình,
thực ra là để trấn yểm long mạch. Việc phá ngôi miếu đã vô tình làm
hỏng long mạch, nên theo ông ta, chuyện chết chóc tất yếu xảy ra. Ông
thầy này cũng lớn tiếng khẳng định rằng, may mắn gia đình gặp được thầy
cao tay, nếu không thì sẽ chết hàng loạt. Sau lễ cúng linh đình, xin
thần linh thổ địa bỏ qua sự mạo phạm của người trần mắt thịt, có mắt như
mù, ông đã xem xét kỹ lưỡng và cắm phần đất sát bờ ao, cạnh bụi tre,
ngay chái căn nhà ngang của vợ chồng anh Trần Văn Út từng ở, và yêu cầu
gia đình lập tức dựng ngôi miếu nhỏ tại điểm ông chọn. Ông thầy này bảo
rằng: “Gia đình đã mời các thần đến ngự, để trấn yểm long mạch, nên phá
miếu đuổi thần đi, khác nào mở cửa rước quỷ vào nhà”. Ông thầy này yêu
cầu dừng việc xây nhà, lập tức khởi công xây miếu. Khi nào xây xong
miếu, mời các vị thần đến ngự, rồi muốn làm gì thì làm.
Khi đó, lời của ông thầy Dược kia là sấm truyền, đại gia đình họ Trần
này đâu dám trái lời. Chỉ vài ngày xây dựng, ngôi miếu nhỏ, chỉ cỡ 2
mét vuông đã được hoàn thành. Tại ngôi miếu ấy, ngày đêm vợ con ông Rạng
hương khói nghi ngút. Chẳng biết việc khói hương có giúp những người
trong gia đình này giữ được tâm hồn thanh tịnh hay không, nhưng những
câu chuyện thần bí, và khói hương mờ ảo dường như càng làm cho lời đồn
thánh thần nổi giận vật người ở ngôi làng thoi loi giữa cánh đồng này
càng thêm khủng khiếp, rợn gáy.
Ngõ vào nhà anh Út không ai dám đi qua nữa Cúng trăm ngày – ngày oan nghiệt
100 ngày mất của ông Trần Văn Rạng rồi cũng đến. Thời gian thấm thoắt
thoi đưa. Mới thế mà ngôi mộ ông Rạng cỏ đã xanh rì. Trước hôm trăm
ngày, bà Nguyễn Thị Đào, vợ ông Rạng, thường gọi theo tên chồng là bà
Rạng, cùng con cháu ra đồng dẫy cỏ mọc lút gối. Nhìn cảnh cỏ mọc trùm
kín, lấp mất tấm bia nhỏ, chỉ có nhõn tên tuổi và ngày tạ thế của chồng,
bà Đào rưng rưng nước mắt. Ông Rạng là trụ cột gia đình, là chỗ dựa của
bà và con cháu mấy chục năm nay, ấy vậy mà… Bà thắp nén nhang, cầu mong
ông ở nơi chín suối được ngậm cười, ông sống khôn chết thiêng phù hộ
cho con cháu, chứ đừng gọi con cháu đi. Bà mời ngày mai ông về nhà, dự
bữa cơm với con cháu, rồi linh hồn thanh thản về với cõi khác.
Lễ cúng cơm trăm ngày ông Rạng diễn ra ấm cúng. Con cháu khắp nơi kéo
về đông đủ. Bàn thờ ông Rạng bài trí đơn sơ, với bát nhang, di ảnh, lọ
hoa, chén nước, đĩa muối, bát cơm, quả trứng, ngọn nến leo lét cháy. Mâm
cơm được bày trước bàn thờ. Con cái thắp nén nhang thơm. Ông Lưu thay
mặt gia đình cúng bái, mời linh hồn ông Rạng cùng tổ tiên về thụ hưởng.
Phong tục cúng trăm ngày ở khắp đất Thái Bình đều như vậy. Người ta tin
rằng 100 ngày sau khi chết linh hồn người chết vẫn còn quyến luyến người
thân, hồn vía còn nặng, chưa thể siêu thoát được. Sau khi cúng trăm
ngày, người chết sẽ đoàn tụ với tiên tổ, người sống cũng không nên quyến
luyến nhiều nữa.
Sáng hôm làm trăm ngày cho ông Rạng, ông Nguyễn Văn Thung, anh vợ ông
Rạng cũng có mặt. Từ ngày xảy ra sự việc, gần như ngày nào ông Thung
cũng đáo qua nhà em gái. Ông cũng tích cực cùng ông Lưu chạy đôn chạy
đáo mời thầy cúng, thầy bói làm lễ, giải hạn. Lúc đó, khoảng 10 giờ
sáng, khi ông Lưu bắt đầu làm lễ cúng bái, thì con cháu đã tụ họp ngồi
trên mấy chiếc chiếu quây quần trước bàn thờ. Lúc đó, bỗng dưng ông
Thung thấy mệt và bảo bà Đào: “Tự dưng tôi thấy mệt. Chả thiết ăn uống
gì đâu. Tôi về nhà nghỉ ngơi một lúc, ăn cơm ở nhà, rồi tôi sang sau. Cô
cúng bái ông ấy rồi ăn uống đi nhé, lát nữa hàng xóm kéo sang đông, mải
nước non rồi lại không ăn được gì đâu”.
Ngôi nhà ông Rạng bỏ hoang nhiều năm nay
Ông Thung nói xong, chuẩn bị ra về, thì cậu bé Trần Quốc Khánh, khi
đó mới 6 tuổi, con trai của anh Trần Văn Út và chị Vũ Thị Nhung từ nhà
tắm đi ra, khăn tang quấn đầu, tíu tít theo mẹ đòi được cúng ông nội.
Thằng bé Khánh sống với ông từ nhỏ, được ông nội bồng bế, chăm bẵm từ
khi lọt lòng, nên quấn ông hơn cả bố mẹ. Mới 6 tuổi, nhưng Khánh khôn
lớn, phổng phao, da trắng như bột, đôi mắt to, đen láy toát lên vẻ thông
minh láu lỉnh. Từ ngày ông mất, bé Khánh rất buồn, thi thoảng nhìn di
ảnh ông nội, Khánh lại khóc đòi ông. Hôm trước, khi bà Đào và mấy người
ra mộ ông Rạng dọn cỏ, Khánh cũng đi theo. Sớm hôm nay, mọi người thắp
hương ở mộ, Khánh cũng thắp hương cho ông, đòi ông về bế Khánh. Do nghĩa
địa xâm xấp nước, lầy lội bùn đất dính lên quần áo, nên được mẹ tắm táp
cho sạch sẽ. Vừa tắm xong, Khánh đã đòi ngồi cúng ông nội cùng với mọi
người. Bé Trần Quốc Khánh vừa ngồi xuống, chắp tay lại ông, chưa nói câu
gì, bé bỗng lăn ục ra chiếu.
Ông Nguyễn Văn Thung sợ hãi nhớ lại: “Lúc đó, tôi vừa dặn dò bà Đào,
chuẩn bị ra về, thì cháu Khánh bỗng ngã lăn ra chiếu, lên cơn co giật,
sùi bọt ở mép, mắt cứ trợn lên. Tôi có cảm giác như cháu bị ngạt thở,
hoặc lên cơn đau tim đột ngột. Cháu không nói được gì. Chỉ vài phút sau,
khi mọi người còn đang hoảng loạn, chưa biết tính toán thế nào, thì
cháu đã tắt thở. Nhìn thấy cháu Khánh như vậy, tự dưng tôi thấy choáng
váng đầu óc, mất thăng bằng hoàn toàn, rồi đổ kềnh ra đất, không biết gì
nữa. Sau mọi người mới kể lại, là tôi lăn ra bất tỉnh, gọi mãi không
dậy. Khi đó gia đình náo loạn lắm, không biết xử trí tôi thế nào, thấy
tôi vẫn còn thở, nên gọi người nhà tôi sang khênh tôi về. Con cháu chườm
nước mát, xức dầu gió một lúc thì tôi tỉnh dậy. Lúc tỉnh lại, đầu óc
nhận biết rõ mọi thứ, hình dung lại được mọi việc, nhưng người thì mệt
lử, cảm giác như bị rút mất hết sức lực. Tôi nằm đến 3 giờ chiều, thì
bên nhà ông Rạng chạy sang báo là bà Đào, em gái tôi vừa qua đời. Lúc
đó, dù mệt lắm, nhưng tôi vẫn cố gắng gượng gọi con chở tôi lên bệnh
viện đa khoa tỉnh ở thị xã”.
Chiều hôm đó, ông Nguyễn Văn Thung mới biết sự thể diễn ra tại lễ
cúng trăm ngày ông Rạng cực kỳ khủng khiếp. Ngay khi cháu Khánh qua đời,
ông Thung ngất xỉu, thì hàng loạt người có mặt đều bất tỉnh nhân sự.
Tuy nhiên, một lúc sau thì hầu hết đều tỉnh lại, riêng bà Đào, anh Út và
vợ là chị Nhung là bị nặng nhất. Cả 3 mẹ con bà Đào đều bị những cơn co
giật rúm người, mặt mũi méo xệch, mắt mũi trợn ngược, nhìn rất hãi
hùng. Anh Út đang ngồi trên ghế mà cơn co giật mạnh đến nỗi đổ ghế bật
ngửa ra sau bất tỉnh. Đại gia đình đã xúm vào đưa bà Đào, anh Út, chị
Nhung đi cấp cứu tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Thái Bình. Lúc ông Thung lên
đến nơi, thấy phòng cấp cứu đóng kín cửa, mọi người đứng ở bên ngoài
nói chuyện rầm rì. Bên trong phòng cấp cứu, bà Đào nằm bất động trên
giường, đeo mặt nạ thở ôxi.
Bàn thờ những người trong gia đình ông Rạng, qua đời một cách bí ẩn
Ông Nguyễn Văn Thung buồn bã nhớ lại cái chết đột ngột của em gái:
“Lúc tôi lên bệnh viện, thấy khuôn mặt mọi người đều buồn bã, nên tôi
biết có chuyện chẳng lành. Lát sau thì tiếng còi hú xe cấp cứu vang lên,
rồi bác sĩ đưa cô ấy lên xe. Họ không cho người nhà lại gần. Tôi nhìn
thấy cô ấy vẫn đeo mặt nạ bình thở ôxi. Mấy người bảo cô ấy đã chết,
nhưng tôi không tin. Tôi tưởng họ đưa lên tuyến trên ở Hà Nội, nào ngờ
xe chạy ngược về Vũ Tây. Con trai chở tôi bằng xe máy chạy sau xe cấp
cứu. Người thì bảo cô Đào chết rồi, người bảo vẫn còn sống. Nếu không
còn sống, thì cho thở bình ôxi làm gì? Nhưng xe chạy về đến đầu ngõ, thì
cô y tá này gỡ bình ôxi khỏi mặt cô ấy và yêu cầu mọi người đưa cô ấy
vào trong nhà. Lúc đó, tôi mới biết cô ấy đã qua đời trên đường đến bệnh
viện. Bác sĩ vẫn cho đeo bình thở để đánh lạc hướng mấy chục người
trong gia đình ông Rạng. Có lẽ họ không công bố cái rộng rãi cái chết
của bà ấy ở bệnh viện, để tránh làm náo loạn lên, gây hoang mang cho mọi
người. Trong gia đình, tôi thương cái Đào nhất. Cô ấy hiền lành như cục
đất, chỉ biết cắm cúi chăm chỉ làm lụng, chăm lo cho chồng con, chưa
bao giờ có điều tiếng gì với gia đình, hàng xóm cả”.
Nghe tin em gái mình chết, ông Thung lại quỵ xuống. Vừa đau buồn vì
mất em gái, vừa mệt mỏi sau lần ngất hồi trưa, còn chưa khỏe lại, nên
ông không còn chút sức lực nào. Em gái chết nằm đấy, mà con cháu lại
phải khênh ông Thung về nhà nằm, vì ông không làm được gì nữa. Nhà ông
Rạng thì còn loạn cả lên với cái chết của cháu Khánh. Rồi vợ chồng anh
Út, chị Nhung vẫn đang thập tử nhất sinh ở Bệnh viện Đa khoa tỉnh Thái
Bình, chưa biết sống chết thế nào. Buổi trưa làm cúng 100 ngày cho ông
Rạng hôm ấy, rất nhiều người lăn ra ngất, hai người chết, mấy người phải
cấp cứu, khiến dân tình náo loạn, không ai dám bén mảng đến nhà ông
Rạng nữa. Lúc ông Thung tỉnh táo lại, gượng ngồi dậy được, liền sai con
cháu chạy sang nhà ông Rạng xem tình hình thế nào, nhưng chỉ có một
người con dám sang. Nhìn cảnh hai chiếc quan tài, một của bà, một của
cháu kê trong nhà, chỉ có lèo tèo vài người lớn tuổi, ngồi trông áo quan
mà nơm nớp lo sợ, người con này chạy về báo với ông Thung. Ông Thung
đau xót quá, mới bắt con cái dìu sang hương khói cho em gái. Ông cũng
yêu cầu con cháu, anh em nhà mình sang giúp đỡ gia đình ông Rạng, bởi
đại gia đình ông Rạng đang trong cơn bấn loạn khủng khiếp.
Tang lễ bà Nguyễn Thị Đào và cháu nội Trần Quốc Khánh diễn ra trong
không khí sầu thảm. Người dân trong xóm xót thương, rơi lệ, nhưng chẳng
ai dám đến tiễn đưa. Người ta chỉ dám đứng từ xa nhìn đám con cháu họ
Trần đẩy xe tang, khóc thương ai oán. Nhớ lại cảnh đau buồn đó, ông
Thung thắc mắc: “Thầy cúng, thầy bói, rồi người dân đều đồn rằng, vì gia
đình ông Rạng phá miếu, nên thánh thần bắt người trong gia đình họ
Trần. Em gái tôi là họ Nguyễn, chỉ làm dâu, có làm gì nên tội, sao thánh
thần lại bắt đi chứ? Tôi cũng không hiểu như thế là sao nữa!”.
Khi mộ bà Đào đã đắp xong, mọi người làm lễ cúng cơm 3 ngày, thì chị
Vũ Thị Nhung được xuất viện. Mọi người đưa chị về nhà, để chị thắp nén
nhang, quỳ gối trước di ảnh mẹ chồng, và khóc ngất trước di ảnh cậu con
trai duy nhất. Không để chị Nhung ở lại lâu, gia đình đã đưa ngay về nhà
cha mẹ đẻ ở xã Vũ Đông, để tránh thảm họa được đồn đại là “thánh vật”
đang diễn ra thảm khốc tại nhà chồng. Những ngày ở nhà bố mẹ đẻ, dù vô
cùng đau buồn vì cái chết của mẹ chồng, của cậu con trai duy nhất, rồi
người chồng đang đấu tranh giành sự sống với tử thần ở bệnh viện, nhưng
chị Nhung không ngất lần nào. Thế nhưng, hễ cứ về nhà chồng, lập tức chị
run lẩy bẩy, có dấu hiệu xảy ra hiện tượng bị co giật. Hãi quá, không
ai cho chị về nhà nữa.
Di ảnh bố con anh Trần Văn Út
Sau hơn nửa tháng điều trị tích cực ở Bệnh viện Đa khoa tỉnh Thái
Bình, rồi một số bệnh viện ở Hà Nội, anh Trần Văn Út đã được ra viện.
Mọi người khuyên can nên về nhà vợ ở xã Vũ Đông ở tạm, chờ thời gian nữa
hãy về nhà mình, nhưng anh Út không nghe. Anh bảo rằng, nếu thánh thần
nhất quyết bắt anh, thì dù ở nhà vợ, hay ra nước ngoài, thánh thần cũng
sẽ bắt được. Anh muốn về nhà, hương khói cho bố mẹ, anh trai và cậu con
trai duy nhất. Chị Nhung thấy chồng nhất quyết về, nên cũng can đảm theo
chồng về nhà. Và mất mát tiếp tục diễn ra đối với gia đình ông Rạng, đó
là sự ra đi đột ngột sau cơn co giật cứng người của anh Trần Văn Út.
Bữa đó, vợ chồng anh Út đang ngồi ăn cơm trên ghế, thì anh Út làm rơi
bát, co rúm người, ngã vật xuống đất và tắt thở, không kịp trăng trối
câu gì. Chị Nhung nhìn chồng ngã vật ra đất, bỗng cứng đờ người, không
há nổi miệng kêu cứu. Cấm khẩu độ mấy phút, thì chị cũng bất tỉnh luôn,
đái hết cả ra quần. Mấy người thân trong gia đình đưa chị Nhung đi bệnh
viện kịp thời, nên cứu sống được chị. Anh Út chết quá nhanh, không thể
cứu nổi nữa.
(Còn nữa)
Box: Ông Bùi Văn Nghĩa, Phó Chủ tịch xã Vũ Tây: “Sự việc chết chóc
xảy ra tại gia đình ông Trần Văn Rạng đến nay vẫn là bí ẩn, chưa ai giải
thích được. Tôi là người theo dõi bi kịch gia đình ông Rạng từ đầu đến
đuôi và quả thực thấy mọi người đều sợ hãi. Nhưng chuyện ấy đã trôi qua
mấy năm rồi, giờ đã khép lại. Chỉ tiếc là rất nhiều nhà khoa học đã về
nghiên cứu, nhưng chưa có câu trả lời thỏa đáng. Còn việc đồn đại thánh
vật thì tôi hoàn toàn không tin. Gia đình ông Rạng có phá cây hương
thật, nhưng đó chỉ là cây hương nhỏ, ở trên đất nhà ông Rạng, nên ông ấy
có quyền tự quyết. Việc phá cây hương là chuyện bình thường thôi, chứ
có gì sai phạm về mặt tâm linh đâu. Hơn nữa, gia đình ông ấy cũng chỉ di
chuyển cây hương ra chỗ khác, chứ có phải phá bỏ hẳn đâu. (Chuyện do Nhà báo Phạm Ngọc Dương chép lại)
“Thần xà” báo oán khiến 6 người trong gia đình chết thảm ở Thái Bình (Kỳ 5)
Bài 5: Cả trăm nhà tâm linh kỳ lạ không hóa giải nổi vận hạn khủng khiếp Sau cái chết bất đắc kỳ tử của bà Nguyễn Thị Đào và cháu nội
Trần Quốc Khánh, cùng hàng loạt người bất tỉnh nhân sự tại lễ cúng trăm
ngày ông Trần Văn Rạng, thì đại gia đình và nhân dân xóm 9 (Vũ Tây, Kiến
Xương, Thái Bình) hoang mang tột độ. Không khí và khung cảnh ngôi làng
thoi loi giữa cánh đồng khi đó quả thực vô cùng nghiêm trọng. Hàng trăm
nhà tâm linh vào cuộc cũng không ngăn được thảm họa kinh hoàng. Khoa học bó tay
Sự việc kỳ lạ này không còn giới hạn trong xóm 9, mà đã lan ra khắp
tỉnh. Đích thân bà Hà Thị Lãm, khi đó đương chức Phó Chủ tịch UBND tỉnh
Thái Bình, đã nhiều lần về tận nơi, chỉ đạo sát sao các lực lượng chức
năng cùng vào cuộc, đảm bảo an ninh trật tự, tuyên truyền để bà con an
tâm sinh sống. Lực lượng công an cũng vào cuộc điều tra, truy tìm nguyên
nhân những cái chết xảy đến với gia đình ông Trần Văn Rạng. Theo lời
ông Nguyễn Văn Thung, nhiều cán bộ an ninh đã túc trực ở nhà ông và nhà
ông Rạng suốt ngày đêm để nắm tình hình. Có tới mấy chục nhà khoa học
cũng vào cuộc. Các nhà nghiên cứu đã về tận nơi lấy mẫu vật đất xung
quanh nhà, lấy nước trong bể, nước ở ruộng, nước giếng đem đi phân tích.
Họ còn lấy rau cỏ trong vườn, ngoài ruộng, mẫu gạo, thóc trong nhà đem
đi. Thậm chí, một nhóm nhà khoa học đã chuyển các mẫu đất ra nước ngoài
để phân tích, tìm nguyên nhân, tốn kém cả tỷ bạc, số tiền rất lớn ngày
đó. Ông Thung nhớ lại: “Hồi đó, ngày nào tôi cũng phải đón tiếp, trả lời
mấy ông nhà khoa học. Họ cứ hỏi đi hỏi lại, vặn vẹo lung tung, đến nỗi
tôi từ chối không muốn tiếp nữa. Có lúc tôi phải bảo các anh thông cảm,
từ sáng đến chiều tôi cứ tiếp các anh, chưa được ăn miếng nào, tôi mà
ngã ra đây, thì các anh cũng không tìm được nguyên nhân nào đâu, lại chỉ
gây thêm hoang mang dư luận mà thôi”.
Phía trong căn nhà đổ nát của anh Trần Văn Út
Thời điểm đó, cán bộ điều tra đã thu thập mấy miếng vỏ thuốc trừ sâu
vứt ở bờ ruộng, cạnh nhà ông Trần Văn Rạng. Từ việc thu thập mẫu vật đó,
mà người dân đồn ầm lên rằng có việc bỏ độc giết người do thù oán. Tuy
nhiên, lời đồn này nhanh chóng bị loại bỏ. Cảnh sát điều tra không tìm
ra nguyên nhân, động cơ gây án nào. Gia đình ông Rạng chỉ làm thuần
nông, không có mâu thuẫn với ai trong làng ngoài xóm. Những vỏ thuốc trừ
sâu chỉ là do người dân bỏ lại bờ mương khi pha thuốc phun ruộng lúa,
đó là việc hết sức bình thường ở vùng quê lúa.
Trong quá trình diễn ra thảm kịch, các nhà khoa học cũng không tìm
được bất cứ loại chất độc nào tồn tại trong mẫu nước, đất, rau, củ, quả ở
nhà ông Rạng. Điều này cũng đã được các bác sĩ khẳng định lại bằng việc
không tìm ra chất độc nào trong máu những nạn nhân tự dưng lăn ra ngất,
co giật, chết. Tóm lại, những kết luận của bệnh viện trong quá trình
điều trị cho các nạn nhân nhà ông Rạng, chỉ là suy nhược cơ thể, huyết
áp không đều…
Rất nhiều chuyên gia, với máy móc hiện đại cũng đã được điều về nhà
ông Rạng để đo phóng xạ khu vực sinh sống. Tuy nhiên, người ta cũng
không phát hiện ra điều gì bất thường ở mảnh đất này. Nhiều chuyên gia
phong thủy về đây còn khẳng định, mảnh đất với cây cỏ tốt tươi thế này
thì không thể có tia đất xấu, phong thủy xấu. Trong con mắt của các nhà
phong thủy, mảnh đất nhà ông Rạng có tới 2 mặt là cánh đồng, thoáng mát,
sạch sẽ, trong lành, là chỗ đắc địa để sinh sống. Và cho đến tận hôm
nay, các kiến thức, trí tuệ cũng đã đều bó tay trước những cái chết kỳ
lạ này. Câu trả lời cho những cái chết xảy đến với gia đình ông Rạng vẫn
được gia đình, xóm làng, kể cả chính quyền địa phương mong chờ. Không
có được kết luận chính xác, thì người dân, với vốn hiểu biết chưa ra
khỏi lũy tre làng, chỉ có thể đổ cho nguyên do “thánh vật”.
Không biết bấu víu vào đâu, đại gia đình ông Rạng chỉ biết trông chờ
vào những ông thầy cúng, thầy bùa. Nhưng khi sự việc trở nên đình đám,
họ Trần ở làng này không phải đi tìm thầy nữa, mà thầy cúng, thầy pháp,
thầy bùa, nhà ngoại cảm ở khắp cả nước tự đến tìm cách hóa giải kiếp nạn
giúp gia đình.
Ngõ vào nhà đại gia đình ông Rạng ít người dám qua lại Những nhà tâm linh kỳ lạ
Khi gia đình ông Rạng liêu xiêu, thì ông Nguyễn Văn Thung và ông Trần
Văn Lưu là người đứng ra lo liệu mọi việc cho gia đình ông Rạng, kể cả
mặt tâm linh. Ông Thung bảo, suốt thời điểm kéo dài cả năm trời, ông
không nhớ nổi đã có bao nhiêu thầy bà đến giúp, có lẽ con số phải lên
đến cả trăm người. Có những hôm, thầy cúng, thầy tâm linh nhiều đến nỗi
ngồi kín nhà, tràn ra cả sân, vườn. Họ tự chuẩn bị lễ, tự lo ăn uống và
làm việc thiện giúp gia đình, chứ gia đình ông Rạng khi đó người chết,
kẻ bệnh, kinh tế cạn kiệt, không còn sức lực nào để lo cho những ân nhân
đó nữa.
Trong số những ông thầy cúng, thì ông Thung ấn tượng với ông thầy
Phương ở xã Vũ Đông. Ông này vốn được mời đến để lo phần âm giúp gia
đình ông Rạng ngay từ những ngày đầu. Hôm trăm ngày ông Rạng, thầy
Phương cũng được mời đến. Sau khi cúng bái, ông này tuyên bố hăng lắm.
Ông nói, chỉ có ông mới trị được, không ai làm được chuyện này. Thế
nhưng, ông vừa tuyên bố xong, thì hàng loạt người lăn ra bất tỉnh, người
chết tại chỗ, người chết ở bệnh viện, người phải đi cấp cứu. Sau sự
việc đó, ông Phương cũng quay lại làm tiếp. Ông lập đàn ngũ phủ 5 tầng,
lễ bái ghê gớm ở ngôi miếu. Tuy nhiên, đang đốt nhang, lửa cháy đùng
đùng, tin rằng sức mình không làm nổi, ông này bỏ chạy thoát thân, không
dám quay lại nữa.
Ngôi nhà ông Rạng cửa kín then cài, không có ai ở
Sau khi bà Đào chết được vài hôm, thì mấy chục người đi trên một xe
khách lớn đến tận nhà ông Rạng. Họ giới thiệu là hội tâm linh ở mãi Sài
Gòn. Ông Thung cũng không biết vì sao họ nắm rõ thông tin về nhà ông
Rạng. Họ không hỏi gia đình điều gì, cũng không làm phiền đến gia đình.
Họ chỉ xin một chỗ trong sân để làm lễ. Ông Thung kể: “Tôi tiếp xúc với
một người trong hội đó, thì họ bảo do bề trên yêu cầu họ về tận làng để
giúp gia đình ông Rạng tai qua nạn khỏi. Mấy chục người ngồi thành hàng
thành lối. Không ai nói câu gì. Họ tụng kinh hộ niệm hay giải nghiệp gì
đó trong vòng 30 phút. Làm lễ xong, họ bảo gia đình cứ yên tâm sinh
sống, từ này không phải lo lắng chuyện “ma hành, thánh vật” nữa. Họ đã
giải hoàn toàn nghiệp chướng cho gia đình. Nói xong, họ ra xe rồi vào
thẳng Sài Gòn. Đến giờ tôi cũng không hiểu vì sao họ lại nhiệt tình như
thế. Họ đi về vất vả mấy ngày trời chỉ để ngồi tụng kinh mấy chục phút.
Nhưng rồi, công sức của họ cũng công cốc. Những người trong gia đình ông
Rạng, rồi hàng xóm vẫn cứ lăn ra giãy đành đạch, người chết, người phải
đi viện cấp cứu”.
Trong số các nhà tâm linh, còn có một người phụ nữ, là tiến sĩ, cô
này được các đệ tử đi theo giới thiệu là đã có nhiều năm học ở Trung
Quốc, chuyên trị tâm linh. Cô này dùng nhiều máy móc đo đạc, rồi ngồi
trước ngôi miếu tập trung tư tưởng, gọi thần linh lên nói chuyện. Cách
làm của cô này vừa mang tính khoa học, vừa tâm linh huyền bí. Suốt một
ngày trời cô loay hoay làm lễ, cúng bái, nói chuyện với các đấng tối cao
ở chỗ ngôi miếu sát bờ ao, nhưng rốt cục cũng chẳng mang lại kết quả
gì.
Rồi một ông sư mặc áo vàng, từ mãi trong Nam ra. Ông này đến một
mình, mang theo một chiếc chuông nhỏ, một chiếc coong đồng. Ông ngồi
theo tư thế kiết già ở giữa sân. Trời nắng trang trang mà vị thiền sư
này không thèm che ô, đội mũ, cứ ngồi dưới cái nắng như đổ lửa, rồi hơi
nóng hầm hập bốc lên từ sân gạch. Nhiều người nhìn cảnh ấy mà xót xa,
muốn đem ô, đem mũ, thậm chí dựng căn lều ở chỗ vị thiền sư ngồi, song
ông từ chối. Ông yêu cầu gia đình không được giúp đỡ ông, cũng không
được làm phiền ông, cứ coi như ông không có mặt ở mảnh đất này. Sau khi
phơi nắng suốt một ngày, đến chiều trời nổi giông gió, mây đen ùn ùn kéo
đến, rồi mưa như trút nước. Tuy nhiên, vị thiền sư với dáng người còm
nhom vẫn ngồi bất động. Miệng ông niệm rất nhỏ, như thể chỉ để ông nghe
thấy. Thi thoảng ông vươn tay gõ vào chiếc coong đồng kêu vang vọng.
Nhiều người nhìn cảnh vị thiền sư dãi nắng dầm mưa mà không khỏi xót xa,
rơi nước mắt. Nhiều người không vái thánh thần ở ngôi miếu, mà cứ xì
xụp khấn vái vị thiền sư kỳ lạ nọ. Điều kỳ cục là ông cứ ngồi kiết già
giữa sân như thế đến tận sáng hôm sau. Đến khoảng 9 giờ sáng, đúng thời
điểm ông bắt đầu kiết già hôm trước, tức là đủ 24 giờ thì ông đứng dậy.
Trong suốt thời gian đó, vị thiền sư này ông ăn, ông uống, cũng không
nói với ai câu gì. Lúc ông hoàn thành công việc, ông cũng không trả lời
bất cứ câu hỏi nào. Ông chỉ chắp tay vái chào những người trong gia
đình, nói hai chữ “Mô Phật”, rồi quay gót đi. Ngoài đầu đường làng,
chiếc xe con bóng lộn đã mở cửa sẵn chở vị thiền sư kỳ lạ này đi.
Hành động kỳ lạ của vị thiền sư, khiến mọi người đều nghĩ đó là một
vị thánh. Ai cũng tin rằng, vị thánh đã đến đất này hóa giải mọi kiếp
nạn. Nhưng thật trớ trêu, là sau khi vị thiền sư này đi, thì không những
kiếp nạn trong đại gia đình ông Rạng không được hóa giải, mà tiếp tục
diễn ra cái chết của anh Trần Văn Út. Sau một thời gian nằm Bệnh viện
Bạch Mai, thấy sức khỏe hồi phục, nên các bác sĩ cho về. Về nhà hôm
trước, hôm sau anh Út lăn ra đột tử.
Ngay sau hôm anh Út chết, thì một nhóm tâm linh gồm 40 người, là các
Phật tử từ Hà Nội về, do một vị sư dẫn đầu. Cảm động với tấm lòng của
các Phật tử, con cháu gia đình ông Rạng đã đề nghị mổ gà, làm cơm, nhưng
họ đều từ chối. Họ chỉ nhờ gia đình nấu cho mấy nồi nước lã. Họ đề nghị
gia đình không được giết con gì, không được sát sinh trong thời điểm họ
tổ chức buổi tụng kinh và trong mấy ngày tới. Nhóm Phật tử này cứ ngồi
như vậy đọc kinh từ chiều đến tận sáng hôm sau. Họ không ăn, cũng không
ngủ, không nghỉ ngơi gì cả. Ông Thung kể: “Thấy mấy chục bà, người già,
người yếu, mà ngồi tụng kinh từ chiều đến sáng hôm sau, tôi lo lắng lắm.
Khuyên họ nghỉ ngơi, ăn uống không được, tôi mắng rằng, các thầy không
ăn uống uống gì thì sống thế nào được. Nếu các thầy không chịu ăn uống,
nhỡ lăn ra chết thì chúng tôi chôn sao cho xuể. Thú thực, lúc đó tôi
cũng sợ họ lăn ra co giật, bất tỉnh. Từng ấy người mà bị một lúc, thì
gia đình chúng tôi làm sao mà lo được”. Sáng hôm sau, họ bảo đã cúng
xong, rồi đi luôn. Vị “Thánh” xuất hiện?
Trong số những ông thầy cúng, thầy bùa, thầy pháp, nhà tâm linh, thì
ông Nguyễn Văn Thung nhớ nhất ông thầy tên Khương. Ông Thung cũng không
rõ ông này là thầy gì, nhưng trong suy nghĩ của ông và những người thân
trong gia đình, có lẽ ông là một vị thánh, đã mượn thân xác một người
bình thường, để tìm về làng hóa giải kiếp nạn cho đại gia đình ông Rạng.
Bữa đó, vào buổi chiều, có một người đàn ông chừng 40 tuổi, rất to
béo, nhưng ăn mặc rách rưới, da ngăm đen, tướng tá đặc nông dân lam lũ.
Thế nhưng, đôi mắt anh rất sáng, toát lên vẻ hiền từ. Gặp mọi người
trong gia đình ông Rạng, anh này từ tốn bảo: “Thưa các thí chủ. Tôi
không biết các thí chủ là ai, tên là gì, nhưng tôi biết rõ đại họa xảy
đến với gia đình thí chủ. Thánh đã cử tôi phải trực tiếp về đây để giải
quyết chuyện này”. Theo lời kể của người đàn ông giới thiệu tên là
Khương này, thì anh ta quê ở mãi Bình Phước, giáp biên giới Campuchia.
Gia đình anh này có mấy héc-ta trồng cao su cùng với 4 héc-ta trồng cam,
quýt. Từ xưa đến nay, anh này vốn không tin những chuyện tâm linh, thậm
chí, anh còn không thờ cúng gì cả. Sinh ra ở vùng núi non biên giới,
mới về Sài Gòn đôi lần, chưa ra miền Bắc bao giờ, nên tỉnh Thái Bình ở
đâu anh cũng chẳng biết. Thế nhưng, theo lời kể của anh, hôm đó, anh
cùng gia đình đang tiến hành thu hoạch cam, trong giấc ngủ trưa chập
chờn tại gốc cây bóng mát giữa rẫy cam, thì một vị “Thánh” râu tóc bạc
phơ xuất hiện trước mặt rõ mồn một. Lúc đó, rồi cả sau này, anh cũng
không giải thích được đó là giấc mơ, hay là sự thực hiển nhiên trước
mắt. Khi anh đang ngủ, thì ông cụ xưng là “Thánh” này đánh thức anh dậy.
Vị “Thánh” này nói: “Tôi là Thánh và tôi đề nghị anh phải lập tức ra
Thái Bình giúp đỡ một gia đình đang gặp cảnh chết chóc thảm hại”. Anh
Khương bảo: “Tôi có mấy héc-ta cam đang thu hoạch làm sao bỏ đi được?
Với lại, tôi đầu tư hết tiền bạc vào vườn cam này, còn đang nợ nần chồng
chất, một xu dính túi không có, thì làm sao đi xa thế được”. Ông cụ râu
tóc bạc phơ này nói tiếp: “Anh cứ đi, sẽ có xe đưa xe đón, có người cho
tiền để ăn”. Không biết lời kể của vị thầy pháp này có đúng không,
nhưng theo anh ta thì hàng loạt điều kỳ lạ đã xảy ra. Khi anh ta ra khỏi
rẫy, thì gặp một anh lái xe tải trong ấp có việc xuống Sài Gòn. Anh lái
xe đã mời anh Khương cùng đi cho vui. Anh ta đã chở anh Khương đến tận
bến xe Miền Đông. Anh này tìm xe khách về tận Thái Bình. Khi xe chuyển
bánh, bà chủ xe, người thu tiền đã trò chuyện với anh. Anh này tâm sự
thật về chuyện có một vị “Thánh” bảo cứ ra Thái Bình, để giúp một gia
đình đang gặp đại nạn, chết chóc liên tục, chứ bản thân anh cũng chưa
biết đi đâu. Nghe anh này kể vậy, bà chủ xe tái mặt. Hóa ra, bà chủ xe
này là người ở xã Vũ Tây, biết rõ chuyện “ma hành, thánh vật” đang gây
náo loạn trong tỉnh. Bà khẳng định rằng, “Thánh” hiển linh chỉ anh về xã
Vũ Tây cứu giúp đại gia đình ông Trần Văn Rạng. Mặc dù đã chuẩn bị một
chút tiền trong túi, nhưng khi trả tiền, bà chủ xe này nhất định không
lấy. Không những thế, bà còn trả tiền ăn cho anh trong suốt hành trình.
Bà chủ xe này nhất nhất xưng là con, gọi anh ta bằng cậu. Khi về đến bến
xe Thái Bình, bà kêu xe ôm chở anh về tận nhà ông Rạng và trả tiền
trước cho xe ôm. Bà cũng hẹn “cậu” có mặt ở bến xe vào mấy hôm nữa, để
bà đưa “cậu” vào Sài Gòn, lo cho “cậu” về đến tận Bình Phước mà không
mất bất cứ đồng nào.
Bà Lưu, thím ông Rạng, trước bàn thờ khói hương lạnh lẽo
Nghe câu chuyện về ông thầy pháp tên Khương này, ông Thung cũng như
con cháu ông Rạng hết sức cảm kích. Anh này không đòi hỏi gì, cũng không
yêu cầu gia đình phải phục vụ cơm nước. Theo lời anh ta, bình thường
anh ăn rất khỏe, mỗi bữa 4-5 bát cơm không biết no, thế nhưng, thời gian
ở nhà ông Rạng, anh từ chối mọi đồ ăn. Đến bữa, anh này chỉ hái mấy quả
mướp ở vườn nhà ông Rạng luộc ăn, rồi lại ngồi kiết già, nhắm mắt nói
bằng thứ tiếng mà không ai hiểu gì. Bản thân anh này, lúc tỉnh táo lại,
cũng không biết anh đã nói gì. Anh bảo rằng, khi ngồi nhắm mắt, vị
“Thánh” đã nhập vào anh, nói thay anh. Khi đó, anh không điều khiển được
lý trí của mình. Theo kế hoạch mà vị “Thánh” kia sai bảo, thì việc cúng
bái tại nhà ông Rạng phải diễn ra liên tục 3 ngày 3 đêm.
Tuy nhiên, đến buổi chiều ngày thứ 2, ông trưởng thôn Phạm Văn Đ.
xuất hiện trong tình trạng say xỉn. Ông trưởng thôn đã tuyên bố đuổi
thẳng cổ tất cả thầy cúng, thầy pháp khỏi nhà ông Rạng, ra khỏi ngôi
làng do ông quản lý. Ông thầy pháp tên Khương bảo: “Tôi làm việc nghĩa,
không lấy đồng nào của gia đình, đến cả lễ lạt cũng tự tôi bỏ tiền sắm
sửa, tôi cũng không làm phiền đến làng xóm, cớ gì anh đuổi tôi?”. Không
bắt bẻ được gì, ông trưởng thôn bỏ đi. Tuy nhiên, lát sau ông quay lại
với chiếc gậy trên tay. Ông trưởng thôn cứ cầm gậy chọc vào ông thầy
pháp này. Đúng lúc đó, tại nhà ông Rạng xuất hiện thêm mấy nhà tâm linh
nữa. Thế nhưng, ông trưởng thôn đã đuổi họ về hết.
Không thể tiếp tục cúng bái, thầy pháp tên Khương này buộc phải rời
nhà ông Rạng. Anh ta đi bộ từ xã Vũ Tây lên bến xe Thái Bình. Một người
con của ông Rạng đã phóng xe máy đuổi theo nhưng không kịp. Vị thầy pháp
bí ẩn đã lên xe đi mất.
Câu chuyện về ông thầy pháp này có lẽ sẽ không để lại nhiều dấu ấn,
bởi trong thời gian đại gia đình ông Rạng diễn ra nhiều chuyện liêu
xiêu, có tới cả trăm nhà tâm linh tìm đến giúp đỡ một cách tự nguyện,
nếu không có chuyện mấy năm sau, vị trưởng thôn này qua đời một cách kỳ
quái – như đồn thổi của người dân trong làng.
(Còn nữa) (Chuyện do nhà báo Phạm Ngọc Dương kể)
“Thần xà” báo oán khiến 6 người trong gia đình chết thảm ở Thái Bình (Kỳ 6)
Bài 6: Rợn người chuyện cả chục người lăn ra bất tỉnh vì gặt lúa giúp hàng xóm Đang bữa cơm, ông Thung bảo: “Tao uống rượu chưa bao giờ say,
sao nay lạ thế nhỉ? Tao mới uống có nửa chén mà thấy mất thăng bằng là
thế nào?”. Vừa nói xong câu đó, ông đổ vật ra giường. Ngay lập tức, 6
người đàn ông đang ngồi uống rượu trên giường cùng lăn ra co giật, mâm
bát đổ lung tung. Dưới nền nhà, mẹ đẻ ông Thung, cũng lăn ra ngất. Mấy
chị em phụ nữ chạy tán loạn. Có người chạy ra ngoài ngõ mới lăn ra ngất. Con chuột khổng lồ
Sau khi anh Trần Văn Út đột tử tại nhà, thì trụ cột gia đình chỉ còn
mỗi bà Phạm Thị Tâm và anh Trần Văn Việt, con trai duy nhất còn sống của
vợ chồng ông Rạng. Khi đó, bà Tâm đã 77 tuổi, là mẹ nuôi ông Rạng. Anh
Việt thì chưa có vợ con gì cả. Gia đình sợ hãi, nên sơ tán hết cháu
chắt, không cho ai về nữa. Những người con gái của ông Rạng cũng ở hết
nhà chồng, hoặc di chuyển đi nơi khác. Chị Vũ Thị Nhung, vợ anh Út về
nhà bố mẹ đẻ ở xã Vũ Đông ở, còn vợ anh Viết thì đưa cậu con trai duy
nhất trốn vào miền Nam trong một đêm mưa gió.
Sợ hãi cảnh tượng chết chóc, nên nhiều gia đình ở xóm 9 (Vũ Tây, Kiến
Xương, Thái Bình) đã bỏ hoang nhà cửa, trốn đi nơi khác. 5 hộ dân ở
cạnh nhà ông Rạng đã dọn hết đồ đi, khóa cửa để đó. Phải thời gian khá
dài sau, tình hình yên ổn, không xảy ra chết chóc nữa, họ mới tìm về.
Đại gia đình họ Trần họp lại, bàn bạc và thống nhất nhờ 2 người làm
trụ cột, qua lại giúp đỡ gia đình, gồm ông Nguyễn Văn Thung, là anh vợ
ông Rạng và ông Trần Văn Lưu, là chú ruột của ông Rạng. Ông Thung là
người ngoài họ Trần, nên không sợ bị “thánh vật”, còn ông Lưu thì tuyên
bố: “Tôi cũng đã ngoài 70, chết cũng được rồi. Nếu thánh thần có vật
tôi, tôi cũng chẳng có gì phải hối tiếc”.
Ngôi miếu thứ 2 được xây trước ngôi nhà xây dở của anh Trần Văn Út
Ban ngày, ông Thung làm việc ở nhà, tối sang nhà ông Rạng ở cùng với
ông Lưu. Nhà ông Lưu ở ngay sau nhà ông Rạng. Ông Thung kể: “Tôi khỏe
vía, nhưng thú thực trải qua từng ấy chuyện, nên cũng hãi lắm. Tôi
thường ăn cơm từ lúc 5 giờ chiều, rồi 6 giờ qua nhà cô Đào. Đi lúc đó
trời còn sáng cũng đỡ hãi”. Trong suốt những ngày ở nhà ông Rạng, vật
bất ly thân với ông Thung chính là con dao vót nan dài quá nửa mét, vô
cùng sắc bén, chỉ liếc dọc ống chân, lông rụng tơi tả. Lúc đi đường, ông
kẹp dao vào nách, đêm ngủ ông gối dao trên đầu. Trong túi áo lúc nào
cũng có một vốc tỏi… đuổi ma, cùng những mảnh bùa do thầy pháp làm cho.
Những ngày ở nhà ông Rạng, ông Thung và ông Lưu gặp vô số chuyện kỳ
lạ. Theo ông Thung, ngoài việc “thần” biến thành con rắn, thì cũng có
lúc biến thành các con khác. Có lần, buổi chiều, ông nhìn thấy con rắn
khổng lồ quấn trên cây xoài cao vượt mái căn bếp nhà ông Rạng, nhưng đêm
xuống, ông lấy đèn pin ra soi, thì không thấy con rắn đâu cả, mà chỗ
con rắn quấn hồi chiều có con chim lợn đứng bất động, hai mắt đỏ lừ nhìn
xuống phía ông, khiến ông lạnh cả sống lưng. Rắn to hay chim lợn thì
nhiều người gặp, nhưng con chuột khổng lồ, to hơn cả mèo, nặng ít nhất
3kg và có hành vi kỳ quái, thì quả thực ông Thung không giải thích nổi. Ở
đất Thái Bình có 2 loài chuột rất lớn, là chuột cống (có màu xám, bắt
gà vịt ăn, chứ không phải chuột sống trong cống ở thành phố) và chuột
đất. Người dân vẫn bắt hai loài chuột này làm thịt. Tuy nhiên, chúng chỉ
nặng không quá 1kg. Chuột to hơn cả mèo, nặng chừng 3kg thì chưa ai
từng thấy.
Đúng hôm anh nông dân “hiển linh thành Thánh” từ Bình Phước ra cúng,
bị trưởng thôn đuổi đi, thì chuột khổng lồ xuất hiện. Bữa đó, khoảng 9
giờ đêm, ông Thung và ông Lưu ngồi uống nước ở hiên. Mấy thanh niên, bạn
bè của anh Viết, Út và Việt cũng tụ tập ngồi ở hiên nhà. Mọi người hãi
hùng khi thấy con chuột to bằng cái phích lững thững bò ra giữa sân,
lừng lững tiến lại ngay mép hiên. Giống chuột hễ nhìn thấy người là bỏ
chạy, đằng này con chuột xuất hiện, thì đám thanh niên bỏ chạy tán loạn.
Mấy anh đi vòng chỗ khác, chạy tót về nhà. Vài anh chui vào trong nhà
đóng kín cửa, mồ hôi nhễ nhại vì khiếp sợ. Theo lời ông Thung, có lúc
con chuột ấy còn dựng người lên như thể đứng bằng 2 chân. Nó ngồi ở sân,
ngay bậc thềm đến 20 phút, rồi mới bỏ đi mất hút. Khi con chuột bỏ đi,
ai về nhà nấy.
Ông Thung chỉ nơi ngôi miếu cổ bị phá
Trong tâm trí của ông Rạng và ông Lưu, thì vị thần đã hiển linh thành
con chuột về nhà ông Rạng để… theo dõi tình hình. Chính vì thế, đêm ấy,
tự tay ông Thung đóng kín các cửa sổ, cửa chính. Thế nhưng, đang thiu
thiu ngủ, ông Thung và ông Lưu bị đánh thức bởi tiếng cánh cửa sổ đập
chan chát. Rõ ràng, ông Thung tự tay đóng cửa sổ. Cánh cửa được cài bằng
móc thép rất chắc chắn, nên người bên ngoài không thể mở được. Hơn nữa,
đêm khuya lặng thinh, không có tiếng gió xào xạc, vậy thứ gì khiến cánh
cửa cứ vật vờ đóng vào mở ra chan chát? Cả ông Thung và ông Lưu đều hãi
hùng, đùn đẩy cho nhau, không ai chịu trở dậy xem xét tình hình. Tiếng
đập cửa mỗi lúc một lớn, một nhanh, không thể yên lòng được, nên ông
Thung phải vác dao nhỏm dậy. Ông vừa đi về phía cửa sổ vừa trấn tĩnh
mình bằng cách nói thật to: “Có cái cửa không đóng được chặt thì còn làm
ăn được gì”. Rõ ràng ông là người đóng cửa, nhưng ông cứ nói đổng thế.
Cài cửa rồi, không còn tiếng đập cửa nữa, nhưng hai ông thức chong
chong, nhắm mắt mãi không ngủ được. Hai ông nằm nói chuyện đến 2 giờ
sáng, thì ông Lưu đòi về. Ông Lưu bảo: “Thôi, ông nằm ở đây trông nhà
cho chúng nó, tôi về nhà đây. Đêm qua tôi đã không ngủ, đêm nay mà thức
trắng nữa thì quỵ mất”. Nói xong, ông Lưu bỏ về nhà mình. Ông Thung kể:
“Có 2 người đã sợ, đằng này có mỗi mình thì còn hãi hơn. Thôi thì đâu
cũng mất ngủ rồi, thì cho mất ngủ cả thể. Nhà có bóng điện nào tôi bật
hết lên. Sau đêm hôm đó, tôi cứ bật điện sáng trưng, muốn hết bao nhiêu
điện thì thây kệ nhà nó. Tắt điện thì sợ không ngủ được, còn điện sáng
thì mình cũng chả ngủ được”. Đồng loạt ngất xỉu
Sáng hôm sau, như kế hoạch đã định, 6 giờ sáng ông về nhà mình. Tại
nhà ông, con cháu ông đã tụ tập đông đủ. Theo kế hoạch thì hôm đó ông
Thung sẽ chỉ đạo việc gặt lúa cho nhà ông Rạng. Hơn mẫu ruộng nhà ông
Rạng lúa đã chín vàng, nhưng nhà ông Rạng người chết, người bệnh, người
bỏ đi, chẳng có ai làm thay cả. Ông Thung đã kêu gọi con cháu mình tụ
họp gặt lúa, phơi phong, rồi chở thóc trả cho gia đình nhà ông Rạng. Sân
vườn nhà ông Rạng rộng rãi, nhưng chẳng ai dám đến, nên mọi việc được
thực hiện ở nhà ông Thung.
Tổng số có đến 20 người. Người gặt, người chở lúa. Đến gần trưa, lúa
đã chất ngập nửa sân nhà ông Thung. Theo tính toán, đến chiều thì từng
ấy người gặt xong cả mẫu lúa. Ông bà Thung ở nhà phụ trách bếp núc, nấu
nướng. Theo kế hoạch, đầu giờ chiều, thợ gặt tiếp tục gặt lúa, vài người
được phân công ở nhà phụ trách tuốt lúa, phơi phong. Mọi việc được gói
gọn trong vòng một ngày, rồi ai về nhà đó.
Bữa trưa được dọn ra gồm 3 mâm cơm. Hai mâm bày dưới nền nhà, một mâm
trên giường. Mâm đàn ông ngồi trên giường, còn phụ nữ ngồi dưới đất.
Rượu được rót ra, mỗi người một chén. Ông Thung nâng chén rượu, uống
được một nửa thì thấy người chếnh choáng. Ông bảo: “Tao uống rượu chưa
bao giờ say, sao nay lạ thế nhỉ? Tao mới uống có nửa chén mà thấy mất
thăng bằng là thế nào?”. Vừa nói xong câu đó, ông đổ ật ra giường. Ngay
lập tức, 6 đàn ông đang ngồi uống rượu trên giường cùng lăn ra co giật,
mâm bát đổ tung tóe. Những người này gồm anh Vĩnh – là con trai ông
Thung, rồi anh Cảo – con rể ông Thung, cùng các cháu của ông Thung.
Những người này đều khỏe mạnh, không ốm đau, không bệnh tật gì. Điều đặc
biệt là họ không có liên hệ gì với gia đình ông Rạng. Dưới nền nhà, mẹ
đẻ ông Thung cũng lăn ra ngất. Mấy chị em phụ nữ sợ hãi chạy tán loạn.
Có người chạy ra ngoài ngõ mới lăn ra ngất. Tình trạng lúc đó ở nhà ông
Thung vô cùng náo loạn, kinh khiếp. Làng trên xóm dưới người chạy đi, kẻ
chạy lại rầm rầm. Ngất một lúc, thì ông Thung chợt hồi tỉnh, nhận biết
được mọi việc xung quanh. Người ra người vào, người kêu khóc, người cấp
cứu. Mùi dầu gió sực nức khắp nhà. Mặc dù ông là người đầu tiên rơi vào
trạng thái kỳ cục đó, nhưng ông vẫn bình tĩnh mắng mọi người: “Chúng mày
có trật tự đi không. Cứ náo loạn như thế thì làm được việc gì. Bình
tĩnh gọi xe cấp cứu mau lên, chở đi viện không chết cả lũ bây giờ”.
Những quả trứng gà chín mọng không ai dám hái
Dặn dò, cắt đặt công việc cho mọi người xong, ông Thung chợt nhớ đến
lời dặn của bà Hà Thị Lãm, khi đó là Phó Chủ tịch UBND tỉnh Thái Bình.
Bà Lãm dặn rằng, hễ có việc gấp gì xảy đến với gia đình ông Rạng, thì
ông Thung cứ bấm số gọi trực tiếp, bà sẽ chỉ đạo sát sao mọi việc. Sự
việc nhà ông Rạng khi đó được tỉnh quan tâm sát sao, nên ông Thung có
thể điện thoại bất cứ lúc nào, không kể ngày đêm, khuya khoắt. Bấm điện
thoại báo cáo tình hình với bà Lãm xong, thì ông Thung lại thỉu đi,
không biết gì nữa.
Lát sau, xe con xe to, xe lớn xe bé, biển xanh biển đỏ, đỗ từ đầu ngõ
nhà ông Thung ra mãi đường cái, tới vài chục chiếc. Tiếng xe cấp cứu hụ
còi inh ỏi làng quê đang náo loạn vì sự kiện kinh hoàng này. Điều lạ
lùng nhất với người dân là những người gặt lúa cho nhà ông Rạng đều là
họ Nguyễn, không có dính dáng, liên quan gì đến họ Trần. Người dân đồn
toáng lên rằng, chỉ vì những người này gặt lúa cho gia đình ông Rạng, mà
bị thần thánh ở mảnh đất nhà ông Rạng quở phạt. Khi đó, lập tức lực
lượng an ninh vào cuộc, phong tỏa hiện trường, giữ thông tin bí mật, để
tránh hoang mang dư luận. Một cán bộ an ninh được phân công nằm vùng ở
nhà ông Thung từ hôm đó. Hơn chục người đang co giật, bất tỉnh được đưa
lên xe cấp cứu chuyển gấp lên Bệnh viện Đa khoa tỉnh Thái Bình. Các
phương tiện cấp cứu đã chuẩn bị sẵn, các bác sĩ đầu ngành về chống độc,
thần kinh được huy động từ Hà Nội về để can thiệp kịp thời, tránh để
tình trạng mắc bệnh kỳ quái này lan rộng. Nhiều chuyên gia về bệnh lây
truyền, virus cũng được điều đến hiện trường để tìm kiếm nguyên nhân
khiến hàng loạt người tự dưng co giật, lăn ra ngất xỉu. Các mẫu thức ăn,
rượu, nước uống ở nhà ông Thung cũng được các nhà khoa học niêm phong,
đem đi nghiên cứu. Tuy nhiên, các nhà khoa học cũng chẳng phát hiện được
chất lạ gì trong đồ ăn, nước uống, cũng không phát hiện được virus gì
có khả năng khiến hàng loạt người cùng lăn ra ngất xỉu một lúc như vậy. Chết vì bắt cá?
Ông Thung nằm ở bệnh viện 2 ngày thì sức khỏe hồi phục. Bác sĩ giữ
lại để theo dõi, nhưng ông thấy sốt ruột nên nhất định đòi về. Đám con
cháu ông, những người gặt lúa giúp gia đình ông Rạng, người nhanh thì 2
ngày sau xuất viện, còn lại đều nằm viện tới 1 tuần mới được về. Đám con
cháu ông Thung sợ hãi chuyện này quá, nên đi hết chùa nọ, miếu kia thờ
cúng, xin xỏ thần linh đừng vì chuyện gặt hộ nhà ông Rạng mà quở phạt.
Ông Thung phải đích thân quát nạt, sai khiến đám con cháu còn khỏe mạnh,
mới gặt nốt được ruộng lúa và xử lý đống thóc giúp nhà ông Rạng. Nếu
không có sự nhiệt tình, cứng vía của ông Thung, thì cả mẫu lúa chín vàng
nhà ông Rạng, có vứt đi cũng chẳng ai dám động vào.
Cho đến mãi về sau này, họ hàng, người thân, làng xóm, còn hãi hùng
mảnh đất nhà ông Rạng đến nỗi, bất cứ thứ gì thuộc về nhà ông Rạng, đều
không ai dám động vào. Cây xoài cổ thụ đến mùa hè, quả sai trĩu chịt
chẳng ai dám hái. Những quả trứng gà mọng vàng trên cây, tự rụng xuống
đất tỏa mùi thơm lừng không ai dám ăn. Hoa trái trong vườn nhà ông Rạng
cứ tự đơm, tự rụng, chẳng ai dám màng đến.
Cửa sổ từng bị giật tung dù ông Thung đã khép kín, bóc bằng dây thép
Nhắc đến ao cá nhà ông Rạng, ông Thung tỏ vẻ tiếc nuối. Ngay cạnh
mảnh vườn nhà 3 bố con ông Rạng, có một ao cá rất to. Ao nằm ngay cạnh
cánh đồng, nước ra vào ăm ắp, nên nuôi cá lớn rất nhanh. Cá dưới ao toàn
những con cá trăm 7-10kg, quẫy ủng oảng, rất thích mắt, nhưng chẳng ai
dám câu kẹo, vét lưới hay đánh điện, mặc dù nhà ông Rạng chẳng còn ai ở,
bỏ hoang cả nhà, ao, vườn.
Theo lời ông Thung, nghe chuyện ông kể về ao cá toàn cá to, một anh
làm rể họ Trần ở xóm 9, thích quá liền bảo: “Cá to thế mà không ai bắt
thì phí lắm. Bố để con xuống ao kiếm ít cơm gạo”. Nói rồi, anh này đi
thuê người đánh lưới. Tuy nhiên, nhắc đến ao cá nhà ông Rạng, mấy ông
đánh lưới thuê đều từ chối. Không nhờ được ai, anh này tự mượn lưới vét
chở đến bờ ao. Anh gọi ông Thung, nhưng ông chỉ ra xem, không dám lội
xuống ao. Không còn cách nào khác, anh này đành cột một đầu lưới, rồi tự
mình cầm một đầu kéo vòng quanh ao. Mẻ lưới thu được vô số cá. Anh này
chỉ tóm vài con trắm cỏ, toàn 7-8kg một con, còn lại thả cho cá ra hết,
để lần sau đánh bắt tiếp. Anh trút cá vào bao, vác ra chợ bán. Còn ế 2
con, đem về ăn. Chuyện anh này đánh cá xảy ra sau khi nhà ông Rạng bỏ
hoang 3 năm. Vài hôm sau buổi đánh cá, anh này lăn ra chết đột ngột.
Theo ông Thung, anh này hoàn toàn khỏe mạnh, béo tốt, không có tiền sử
bệnh tật gì cả. Cái chết của anh này chỉ là ngẫu nhiên trùng khớp vào
thời điểm đánh cá, nhưng cũng khiến cả làng kinh hãi, đồn thổi rất hãi
hùng. Từ đó, không ai dám động vào ao cá nhà ông Rạng nữa. Ông Thung thì
cho rằng, sau khi đại gia đình ông Rạng người chết chóc, người bỏ đi,
khu đất nhà ông Rạng đã thuộc sự quản lý của các vị thần, do đó, nếu ai
lấy thứ gì, phải xin phép đàng hoàng mới được. Mặc dù nghĩ như vậy,
nhưng ông cũng chẳng dám tơ hào bất cứ thứ gì ở mảnh đất thánh thần đang
ngự ấy.
Quay lại chuyện đại gia đình ông Thung có nhiều người ngất xỉu. Sau
khi ra viện, dù đêm xuống, nhưng ông Thung đã ngay lập tức chạy đến nhà
ông thầy Mơ. Gặp ông Mơ, ông Thung bảo: “Tình hình nghiêm trọng quá rồi
thầy ơi. Gia đình tôi mà không cúng bái tử tế thì phen này chết cả
đống”. Ông thầy Mơ bảo: “Thánh thần quở phạt gia đình ông Rạng, chứ nhà
ông có liên quan gì đâu. Ông cứ yên trí mà về, sớm mai tôi sẽ xuống nhà
làm lễ xin cho tai qua nạn khỏi”.
Hôm sau, ông thầy Mơ xuống làm lễ. Khi đó, đại gia đình ông Thung có 6
người đang nằm viện, sống chết thế nào chưa biết, nên rất lo sợ. Ông
thầy Mơ lập đàn cúng bái ở giữa sân, rồi trong nhà ông Thung. Làm lễ
xong, ông Mơ tiếp tục sang nhà ông Rạng cúng bái tiếp. Hôm đó, cũng có
mấy nhà tâm linh đang làm lễ ở ngôi miếu nhà ông Rạng. Cúng xong, ông
thầy Mơ này cùng với một số nhà tâm linh có mặt đề nghị gia đình ông
Rạng xây lại ngôi miếu, chứ ngôi miếu xây ở bờ ao không hợp phong thủy,
không đúng ý thần linh. Đích thân ông Mơ cùng mấy thầy pháp tiếp tục
chọn đất. Có người còn chắp tay nói chuyện với thinh không, nhưng xong
việc rồi, họ tiết lộ rằng họ vừa thỉnh thần linh, thổ địa lên tiếp kiến.
Cuối cùng, mấy ông thầy pháp cùng thống nhất xây tiếp ngôi miếu nữa ở
sát bức tường, đối diện ngôi nhà mái bằng đang xây dở của anh Trần Văn
Út. Ngôi miếu này được xây giống hệt ngôi miếu đã phá, cách nền ngôi
miếu đã phá khoảng 5m. Mặt tiền miếu quay thẳng vào nhà anh Út. Không
gian giữa ngôi miếu và ngôi nhà là cái sân rộng rãi, sạch sẽ.
Khu vườn này đầy hoa trái, nhưng không ai dám lấy
Các nhà tâm linh đều khẳng định, nếu xây lại ngôi miếu thì đại gia
đình ông Rạng sẽ tai qua nạn khỏi. Nếu không, thánh thần sẽ tiếp tục bắt
người trong gia đình ông Rạng để trừng phạt. Lúc đó, không ai dám nghi
ngờ lời phán của các thầy pháp. Thế là, vài hôm sau, thợ xây được gọi
đến và ngôi miếu mới đã hiện diện trong sân nhà anh Trần Văn Út. Vậy là,
phá một ngôi miếu, nhà ông Rạng phải đền tới 2 ngôi.
Tuy nhiên, giông bão vẫn không ngừng xảy đến với đại gia đình ông
Trần Văn Rạng. Chỉ đến khi bà Nguyễn Thị Tâm, mẹ ông Rạng, người cuối
cùng còn sống ở “mảnh đất dữ” này, về với tổ tiên, thì mọi oan trái cuộc
đời mới chấm dứt. Box: Ông Bùi Trọng Liễn, Chủ tịch UBND xã Vũ Tây: “Thời điểm
tai họa xảy đến với gia đình ông Trần Văn Rạng, lãnh đạo xã chỉ đạo,
giám sát sự việc rất sát sao. Thời kỳ đó, bà Hà Thị Lãm, Phó Chủ tịch
UBND tỉnh bảo do nhiễm khí độc. Tuy nhiên, sau đó, lại không có kết luận
gì về nguyên nhân. Người ta cũng không tìm ra khí độc tồn tại ở khu
vực. Tôi cũng không tin có khí độc, vì nếu có khí độc, thì những người
có mặt ở đó, thậm chí người dân trong làng đều phải lăn ra ngất xỉu,
hoặc chết, chứ không có chuyện rải rác vài người trong gia đình ông Rạng
gặp hiện tượng đó. Tôi thiên về suy nghĩ do những người trong gia đình
ông Rạng hoảng quá mà sinh bệnh rồi chết. Sau này, có một thời gian
người con gái ông Rạng ở Vũ Đông vẫn sang cấy ruộng, thu hoạch lúa,
nhưng không thấy xảy ra vấn đề gì nữa. Mới đây, con gái ông Rạng kêu
người đến tát ao thu hoạch cá, mà có thấy chuyện gì xảy ra đâu. Theo
tôi, mọi người hoảng sợ, rồi cứ đồn đại, suy diễn, nên sự việc mới ầm ĩ,
mang đầy màu sắc dị đoan như thế. (Còn tiếp) (Chuyện kể của Nhà báo Phạm Ngọc Dương)
“Thần xà” báo oán khiến 6 người trong gia đình chết thảm ở Thái Bình (bài 7-bài cuối)
Mặc dù các bác sĩ khẳng định bà
Phạm Thị Tâm đã qua cơn nguy kịch, thế nhưng, sau đúng 20 ngày điều
trị, theo dõi thận trọng, bà Tâm đã qua đời sau một cơn co giật bất ngờ,
ngay tại giường bệnh. Hai người trông nom bà ở Bệnh viện Đa khoa tỉnh
Thái Bình cũng lăn ra co giật ngay bên giường bệnh.
Kỳ cuối: Cái chết cuối cùng khép lại bi kịch của đại gia đình chết chóc bí hiểm ở Thái Bình Cái chết cuối cùng
Để độc giả hình dung lại được những bi kịch xảy đến liên tiếp với đại
gia đình ông Trần Văn Rạng (Xóm 9, Vũ Tây, Kiến Xương, Thái Bình),
chúng kể lại tuần tự vài dòng về loạt bi kịch này: Sau khi phá ngôi miếu
ở vườn để xây dựng ngôi nhà, thì anh Trần Văn Viết, con trai ông Rạng –
bà Đào bỗng đãng trí, lẫn lộn, thường ngủ li bì, rồi chết sau một cơn
co giật cứng người. Anh Viết chết vào tháng 3, thì đến tháng 5, ông Trần
Văn Rạng rơi vào trạng thái bị co giật tương tự, rồi chết sau một cú
sốc, dù đã được bệnh viện chăm sóc đặc biệt. Các bác sĩ không tìm được
nguyên nhân, nên chỉ có thể kết luận là tai biến mạch máu não. Đến trăm
ngày ông Rạng, khi mọi người đang thực hiện lễ cúng, do ông thầy cúng
chủ trì, thì bất ngờ hàng loạt người trong gia đình ông Rạng đột nhiên
lăn ra co giật, miệng sùi bọt, bất tỉnh nhân sự. Cả nhà anh Trần Văn Út
(anh út là con trai thứ 3 của ông Rạng), gồm anh Út, vợ là Vũ Thị Nhung,
cùng cháu Trần Quốc Khánh đều bất tỉnh nhân sự. Điều đau xót là cháu
Khánh, con trai duy nhất của anh Út, cháu nội ông Rạng đã mất tại chỗ.
Bà Nguyễn Thị Đào, vợ ông Rạng, mẹ anh Út cũng lăn ra co giật đúng hôm
trăm ngày chồng. Bà Đào mất tại bệnh viện, cùng ngày với cháu Khánh. Anh
Trần Văn Út được chăm sóc ở bệnh viện Bạch Mai rất chu đáo, nhưng ra
viện hôm trước, hôm sau anh đột ngột qua đời. Tất cả những cái chết này
đều được kết luận là mắc hội chứng não cấp. Bác sĩ Phạm Duệ, khi đó là
Phó trưởng Khoa Chống độc, Bệnh viện Bạch Mai tin rằng hiện tượng này là
ngộ độc bởi loại hóa chất gây co giật. Tuy nhiên, tất cả các xét nghiệm
đều không tìm ra loại chất độc nào gây nên triệu chứng chết người, mặc
dù quá trình họ nằm viện cứ lúc tỉnh lúc mê, là trạng thái của những
người trúng độc nặng.
Sự kiện hàng loạt người lăn ra co giật, chết chóc trong bữa cúng trăm
ngày của ông Rạng thực sự sốc với toàn thể họ Trần cũng như dân làng.
Con cháu họ Trần ở trong vùng được sơ tán khỏi “vùng nguy hiểm”. Cháu
Trần Văn Bảo, con trai anh Viết, đã được mẹ đưa thẳng vào Nam trong đêm,
để tránh khỏi mảnh đất đầy đau thương, chết chóc. Chị Vũ Thị Nhung, vợ
anh Út cũng không dám trở về nhà chồng nữa. Thậm chí, các hộ dân xung
quanh, dù không có họ hàng gì với gia đình ông Rạng, cũng dọn đồ đạc
chuyển đi nơi khác sinh sống. Mảnh đất rộng mênh mông, với tổng số 3
ngôi nhà khang trang, cùng 3 căn nhà ngang rộng rãi của đại gia đình ông
Rạng chỉ còn mỗi bà Phạm Thị Tâm, khi đó đã 77 tuổi trụ lại. Con trai,
con dâu, cùng các cháu, chắt đều đã vong mạng, khiến lòng bà đau như
cắt. Dù sợ hãi lắm, nhưng bà là người còn lại duy nhất của gia đình, nên
phải ở nhà để khói hương. Người đi về giúp đỡ bà Tâm là ông Nguyễn Văn
Thung và ông Trần Văn Lưu. Chỉ có 3 con người già cả đó dám đối diện với
cái chết tưởng như đang cận kề trước mắt. Họ hàng ngày lo hương khói
cho những người đã khuất, tiếp đón các nhà tâm linh ở khắp nơi về, trả
lời hàng ngàn câu hỏi của các nhà khoa học, quan chức, lực lượng công
an…
Ngôi miếu được gia đình ông Rạng xây lại
Vào ngày 1-10, đúng một tháng sau hôm trăm ngày ông Rạng, sau đúng
một tháng đám con cháu của bà nhất loạt lăn ra đất giãy đành đạch, thì
bà Phạm Thị Tâm đã bị vận hạn ghé thăm. Theo lời ông Nguyễn Văn Thung,
hôm đó là buổi sáng, bà Tâm đang ăn cơm cùng 2 đứa cháu, thì bà kêu khó
chịu, chân tay run lẩy bẩy, sùi bọt mép rồi rơi vào trạng thái co giật
toàn thân y như con cháu. Gia đình đã khẩn cấp đưa đi Bệnh viện Đa khoa
Thái Bình.
Cũng theo lời ông Thung, bà Phạm Thị Tâm, còn gọi là bà Khuê, vì có
chồng là ông Trần Văn Khuê. Ngày đó, nhiều người thắc mắc, không hiểu
sao, bà Tâm là mẹ ông Rạng, nhưng lại chỉ nhiều hơn ông Rạng có 12 tuổi
(Khi đó bà Tâm 77 tuổi, ông Rạng 65 tuổi). Thực ra, bà Tâm là thím của
ông Rạng. Bà Tâm là người xã Vũ Lạc, lấy ông Khuê, nhưng không có con.
Ông Khuê mất sớm, bố mẹ ông Rạng cũng mất sớm, nên ông Khuê nuôi dưỡng
ông Rạng từ bé và coi ông như con ruột của mình. Vợ chồng ông Rạng từ
trong sâu thẳm đã coi bà Tâm là mẹ và các cháu coi bà Tâm là bà, các
chắt coi là cụ. Thậm chí, người dân trong vùng cũng không biết gia cảnh
ông Rạng và bà Tâm, nên họ mặc định là mẹ con. Họ cũng xưng hô là mẹ
con, chứ không phải thím cháu.
Bà Tâm được điều trị tích cực tại Khoa Hồi sức cấp cứu, Bệnh viện Đa
khoa Thái Bình. Các bác sĩ phải luồn ống nội khí quản để bà Tâm thở dễ
dàng, nhằm tìm cách bảo toàn tính mạng cho bà, tiếp tục điều tra nguyên
nhân khiến bà rơi vào trạng thái co giật nguy hiểm.
Sau mấy ngày điều trị, bà Tâm đã thoát khỏi tình trạng nguy hiểm. Bà
đã được đưa về phòng theo dõi. Bệnh viện bố trí một phòng riêng để tiện
giám sát, cũng là để lãnh đạo đến thăm. Gia đình phân ông 2 người lên
trông coi là em dâu Bùi Thị Hợi (bà Hợi khi đó 69 tuổi, ở xã Vũ Lạc) và
bố vợ anh Trần Văn Út là ông Vũ Văn Bình (ông Bình lúc đó 52 tuổi, quê
xã Vũ Đông). Tuy nhiên, hai người này vừa lên trông bà Tâm được vài
tiếng, thì bỗng bủn rủn tay chân, rồi lăn ra bất tỉnh, chân tay co giật
đùng đùng ngay tại giường bệnh. Thế là hai người lên trông nom bà Tâm
lại tiếp tục nhập phòng cấp cứu. Điều kinh dị xảy ra ngay sau hôm hai
người trông nom bà Tâm phải cấp cứu, đó là Bệnh viện Đa khoa Thái Bình
tiếp tục đón gần chục bệnh nhân có biểu hiện tương tự, được chuyển lên
từ nhà ông Thung, khi họ gặt lúa cho đại gia đình nhà ông Rạng.
Bà Nguyễn Thị Đào (vợ ông Lưu, thím ông Rạng) bên bàn thờ đại gia đình ông Rạng
Mặc dù các bác sĩ khẳng định bà Phạm Thị Tâm đã qua cơn nguy kịch,
thế nhưng, sau đúng 20 ngày điều trị, theo dõi thận trọng, bà Tâm đã qua
đời sau một cơn co giật bất ngờ, ngay trên giường bệnh.
Ông Nguyễn Văn Thung vẫn nhớ như in cảnh tượng hôm đó: “Cái ngày bà
Tâm chết vẫn ám ảnh tôi đến hôm nay. Hôm đó, khoảng 5 giờ chiều, nghe
tin bà Tâm chết, cả gia tộc họ Trần bỏ chạy tán loạn, không ai dám đến
nữa. Dân làng thì không ai dám lại gần nhà ông Rạng, chứ đừng nói chuyện
vào nhà. Những người dân gần nhà ông Rạng thì đã bỏ đi hết. Các nhà tâm
linh, người chào thua, người cũng không dám đến nữa, vì họ cúng bái mãi
mà không có tác dụng gì. Hôm đó, chỉ có mỗi tôi và ông Lưu trực chiến ở
nhà ông Rạng. Xe cấp cứu đỗ ở đầu ngõ, bác sĩ và lái xe đeo khẩu trang
kín mít đẩy xác bà Tâm vào nhà. Mặc dù bà Tâm đã chết, nhưng họ vẫn đeo
mặt nạ thở ôxi. Đưa xác bà Tâm vào nhà, bác sĩ tháo mặt nạ, rồi bỏ đi.
Lúc đó, nhìn cảnh giữa sân rộng rãi, chẳng có ai, tôi hãi quá, nên cũng
bỏ về, mặc kệ ông Lưu. Nhà họ Trần còn đông người, con cháu bà Tâm cũng
đông, mà chẳng ai dám đến, thì tôi hà cớ gì phải ở lại. Nói thì nói vậy,
nhưng quả thực tôi sợ ở đó thì mình cũng bị vật ngay thôi.
Tôi về nhà một lúc thì ông Lưu chạy sang nhà tôi, đề nghị tôi sang
trông nom xác bà Tâm cùng ông ấy. Tuy nhiên, tôi từ chối, tôi bảo trông
nom hương khói cho bà Tâm không phải trách nhiệm của tôi, bà Tâm là con
dâu họ Trần, chẳng có liên quan gì đến tôi cả. Con cháu bà ấy còn sống,
thì chúng nó phải có trách nhiệm lo lắng chứ, sao lại tìm tôi. Nghe tôi
nói vậy, ông ấy bỏ về. Đến 9 giờ tối, ông ấy lại mò sang tìm tôi. Ông
Lưu bảo, có mỗi mình ông, ông sợ quá, nên nhờ tôi sang giúp. Tuy nhiên,
tôi cũng sợ, nên nhất định không sang. Nhờ vả không được, ông Lưu đứng ở
cổng chửi bới. Ông bảo, tao còn mỗi cái xác già, sợ đếch gì. Thánh thần
có bắt tao thì cứ trói tao vào mà đánh, đánh chết thì tôi. Chửi đổng
mấy câu rồi ông ấy về. Cả đêm hôm ấy, có mỗi xác bà Tâm đắp chiếu và ông
Lưu trong nhà ông Rạng. Ông Lưu cứ sang thắp hương cho bà Tâm, rồi lại
bỏ về nhà mình”.
Ông Bùi Văn Nghĩa, Phó Chủ tịch UBND xã Vũ Tây nhớ lại: “Sau cái chết
của bà Tâm, thì quả thực dân làng vô cùng hoang mang. Con cháu cũng
không dám đến làm tang ma cho bà Tâm. Thấy tình hình căng thẳng, và lại
quá tủi phận cho bà Tâm, nên anh Bùi Văn Vượng, khi đó là Chủ tịch UBND
xã, đã chỉ thị cho đóng cửa UBND xã, không làm việc nữa, và yêu cầu tất
cả cán bộ, nhân viên của xã phải đến nhà ông Trần Văn Rạng làm tang lễ,
đưa bà Tâm ra cánh đồng. Khi đó, lòng dân hoang mang, đồn đại dị đoan
ghê lắm, nếu chúng tôi không bạo gan đứng ra làm việc đó, thì làm sao
nói được dân chúng, với lại lấy ai làm tang ma cho bà Tâm. Nói thật, khi
đó anh chị em cán bộ xã cũng run lắm, nhưng đây không chỉ là góc độ
tình cảm, mà còn là nhiệm vụ chính trị, nên không ai được lảng tránh”. Cái chết của trưởng thôn và ông Lưu
Để thực hiện loạt bài giải mã những cái chết bí hiểm liên quan đến
gia đình ông Trần Văn Rạng, chúng tôi đã phải gặp gỡ nhiều nhân chứng,
cán bộ địa phương, những người trong gia tộc họ Trần. Tuy nhiên, khi tôi
đề xuất vào khu nhà ông Rạng, thì mọi người đều lắc đầu từ chối. Sau
nhiều lần thuyết phục, thì ông Nguyễn Văn Thung vác theo con dao dài,
sang nhà bà Nguyễn Thị Đào (bà Đào vợ ông Trần Văn Lưu, chứ không phải
bà Đào vợ ông Rạng). Ông Thung thỏa thuận rằng, nếu bà Đào dẫn sang, thì
ông mới dám sang nhà ông Rạng.
Sau khi thắp nhang ở nhà mình, bà Đào dẫn chúng tôi sang nhà ông
Rạng. Khung cảnh hoang tàn hiển hiện trước mắt. Cơn bão Sơn Tinh đổ về
Thái Bình năm ngoái quật cây cối đổ nghiêng ngả. Mái ngói căn nhà ngang
của ông Rạng và nhà anh Út bay mất mái. Toàn bộ nhà trên, nhà dưới của
anh Viết cũng trơ lại tường. Cỏ mọc lút gối, dây leo chằng chịt, lấp mất
lối vào nhà anh Viết. Tôi vạch dây leo tìm vào nhà anh Viết, song càng
đi càng tù mù, không thấy đường đâu cả, nên phải quay ra. Từ nhà ông
Rạng, có con đường mòn lát gạch dẫn sang nhà anh Út, với 2 lối nhỏ dẫn
ra 2 ngôi miếu được xây lại theo chỉ dẫn của thầy bói. Hai ngôi miếu
cũng hoang lạnh, với vài chân hương vung vãi. Cạnh ngôi miếu là ao nước
rộng mênh mông, nhưng bèo trùm kín, không hở chút mặt nước nào. Mọi thứ
đều hoang tàn, đổ nát, như thể bị lãng quên lâu lắm rồi.
Lãnh đạo xã phải chủ trì đám tang bà Phạm Thị Tâm, vì không có ai dám đến
Tôi tiến đến cửa chính nhà ông Rạng, gọi bà Đào mở cửa, thì bà Đào
mới kêu quên chìa khóa. Bà tất tả chạy về, để tôi và ông Thung ở lại.
Tôi vén bức rèm che cửa chính, nhìn vào trong nhà, thấy không có đồ đạc
gì. Tấm vải đỏ che lấp lửng bàn thờ bày biện trên mặt chiếc tủ nằm, lộ
ra ngót chục di ảnh mốc meo, loang lổ, mạng nhện chăng kín. Chỉ có duy
nhất bát hương được tận dụng từ ấm pha trà, với vài chân hương đổ
nghiêng ngả. Một cảnh lạnh lẽo, hoang tàn đến đau xót.
Trong lúc chờ bà Đào về tìm chìa khóa, tôi tiến lại chỗ chiếc cửa sổ,
nơi mà ông Thung kể rằng, ngày trước ông đang ngủ, hai cánh cửa này tự
bật tung, va đập chan chát, mà không có chút gió nào. Tôi vừa chạm vào
cánh cửa, thì rầm một cái, cánh cửa bật tung, rơi xuống đất. Ông Thung
hoảng hồn, tái mặt, nhưng tôi không thấy sợ hãi gì. Cánh cửa sổ lâu ngày
không sử dụng, nên dây cột cửa đã mục, rơi ra cũng là điều dễ hiểu.
Bà Đào là vợ thứ 2 của ông Lưu. Quê bà ở xã bên. Ông Lưu là chú ông
Rạng. Vợ ông Lưu mất từ năm 50 tuổi. Chồng bà Đào thì bỏ vào Nam lấy vợ
khác. Cùng cảnh ngộ đơn thân, nên bà Đào về làm dâu họ Trần. Mặc dù mới
60 tuổi, song bà Đào có địa vị cao trong dòng họ Trần ở làng. Theo lời
bà Đào, làm tang lễ cho bà Tâm xong, ông Lưu đi cúng bái gớm lắm. Khi
đó, chỉ có mỗi ông Lưu hương khói, chăm lo cho bàn thờ gia đình ông Rạng
và hương khói ở hai ngôi miếu. Ngày rằm, ngày giỗ, ông cúng 3 bát cơm ở
miếu. Cúng xong, ông đổ một bát cho con vịt ăn. Con vịt này đẻ một đống
trứng ở gốc cây. Sau thì nó làm ổ và ở luôn trong hầm của ngôi miếu.
Chính vì thế, chẳng ai dám động vào con vịt này.
Ông Thung dẫn tôi ra ngôi miếu ở sát bờ ao, chỗ bụi tre và cây sung
lớn. Chỉ 2 bát hương trong miếu, ông Thung kể: “Hồi gia đình ông Rạng
chết hết, tôi và ông Lưu vẫn dẫn một bà thầy cúng đến. Bà này thấy có
tới 11 bát hương, nên lắc đầu bảo thờ thế này không được. Ngày đó, gia
đình sợ hãi, lại lắm thầy nhiều ma, nên cứ bốc bát hương bừa bãi đặt vào
miếu, thờ đủ các thần thánh. Bà này bảo, có tới 11 bát hương thì biết
cúng ông thần nào, chỉ nên thờ Thổ Địa và long mạch thôi. Bà này thắp
hương, cúng bái nói rằng “Vị nào không nằm trong phạm vi thờ cúng thì
tôi mời đi chỗ mát mẻ (giải mát, thả xuống sông)”. Xin xong, bà này gieo
âm dương được ngay. Cứ mỗi lần gieo âm dương được, thì hạ xuống 1 bát
hương. 9 lần gieo, được cả 9, nên hạ 9 bát xuống. Tuy nhiên, khi còn lại
2 bát, thì gieo tới 20 lần không được. Lần gieo thứ 20, bát hương bốc
cháy đùng đùng. Sợ quá, nên bà thầy cúng này phải để lại 2 bát”.
Theo lời bà Đào, ông Lưu đã đi xem bói ở nhà một ông ở huyện Đông
Hưng. Ông thầy này phán rằng, cái chết của bà Tâm chưa phải đã chấm hết,
mà người chủ sẽ là người cuối cùng bị vật. Ông thầy bói này ám chỉ
“người chủ” chính là ông Lưu, người đứng đầu họ Trần, là chú ruột ông
Rạng, cũng là người thay mặt ông Rạng đứng ra làm chủ, lo lắng mọi việc
cho con cháu ông Rạng. Chẳng hiểu lời ông thầy bói đó có đúng không,
nhưng 2 năm sau khi bà Tâm mất, ông Lưu cũng ra đi vì bạo bệnh. Mặc dù
ông Lưu qua đời vì bệnh tật, tuổi già, nhưng bà Đào cũng như dân làng
nơi đây, đều liên hệ cái chết của ông với câu chuyện đầy bi kịch nhà ông
Rạng.
Còn một cái chết cũng bị đồn đại rùng rợn nữa, là cái chết của ông
trưởng thôn Phạm Văn Đức. Vào năm 2010, sau khi kiểm tra các cháu tập
dượt cho ngày lễ Trung thu, khoảng 9 giờ tối, ông Đức lên giường ngủ
ngay. Sáng hôm sau, không thấy dậy, vợ gọi, thì ông đã chết tự lúc nào,
miệng chảy ra máu. Trước đây, ông Đức là người uống rượu say, cầm gậy
xua đuổi thầy cúng ở nhà ông Rạng, nên người dân đã liên hệ cái chết bất
đắc kỳ tử của ông Đức với chuyện “thánh vật” ở nhà ông Rạng. Theo lời
ông Thung, ông Đức là người tốt, nhiệt tình trong công tác và được nhân
dân quý mến. Hành động xua đuổi thầy cúng khi đó là do ông say rượu, chứ
không có ý đồ xấu gì cả. Trao đổi với lãnh đạo xã, thì ông Đức vốn bị
đau dạ dày nặng, lại hay uống rượu, nên ông qua đời vì chảy máu dạ dày,
chứ chẳng có chuyện ma hành, thánh vật gì cả. Việc gắn cái chết của ông
Đức với chuyện nhà ông Rạng là suy diễn vô căn cứ. (Chuyện do nhà báo Phạm Ngọc Dương kể)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét