Choáng váng 2 siêu điệp viên làm khuynh đảo giới tình báo Trung Quốc và cái kết đầy bất ngờ
Sự lớn mạnh nhanh chóng của Trung Quốc sau ngày thành lập nhất là về
khoa học kỹ thuật khiến Mỹ và Phương Tây lo ngại sâu sắc họ do thám bằng
những điệp viên siêu hạng của mình
Ngày 28-11-1969, Tòa án quân sự ngụy quyền Sài Gòn đưa
Vũ Ngọc Nhạ, cố vấn Tổng thống ngụy Việt Nam cộng hòa, người cầm đầu Cụm
tình báo chiến lược A.22 của Việt cộng ra xét xử làm cả Sài Gòn và thế
giới bàn tán xôn xao. Báo chí khắp nơi đưa tin là đã tìm ra một lưới
tình báo chiến lược của Việt cộng nằm ngay trong cơ quan đầu não của
chính quyền Việt Nam cộng hòa với những hàng tít lớn: "Vụ án gián điệp
lớn nhất thời đại", "Vụ án chính trị của thế kỷ"...
Vẻ mặt tươi cười, rạng rỡ của các thành viên Cụm tình báo chiến lược A.22 sau khi bị xét xử.
Hệ thống điệp vụ vô cùng quan trọng
Trong
các bài báo đều nhấn mạnh: Các bị cáo đều là nhân vật quan yếu trong
Chính phủ Việt Nam cộng hòa, người là cố vấn đặc biệt của Tổng thống,
người là bộ trưởng, người là tham chính chánh văn phòng bộ chiêu hồi...
Có những nhà bình luận còn nói, trong số những người bị đưa ra tòa xét
xử, có cả người được coi là ứng cử viên Tổng thống nhiệm kỳ sắp tới.
Đặc
biệt, các cơ quan thông tin đại chúng nước ngoài, nhất là Mỹ, đã đưa
nhiều tin tức chi tiết về vụ án. Năm 1983, trong cuốn hồi ký nhan đề "Sự
lừa dối khủng khiếp" của Ráp Mác-ghi, một nhân vật kỳ cựu của CIA, đã
nhận, chính CIA đã gây áp lực mạnh mẽ với Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu để
tiến hành chiến dịch phá lưới gián điệp này. Vì nội vụ đề cập đến những
nhân vật quan yếu trong Chính phủ Việt Nam cộng hòa, những nhà hoạt
động chính trị, xã hội có uy tín trong quần chúng, nên người phúc trình
tin tức đã được CIA kiểm tra bằng "máy dò sự thật".
Cuối
cùng, ngày 28-11-1969, ngụy quyền Sài Gòn đã cho mở phiên tòa quân sự
tại Sài Gòn để xét xử những bị can. Hàng trăm ký giả trong và ngoài nước
đã có mặt tại Nha Quân pháp ở đại lộ Bạch Đằng và chật ních người đến
theo dõi vụ án. Bản cáo trạng dài gần 23 trang được đọc và phân tích
trong một tiếng rưỡi đồng hồ.
Tờ Chính luận, ra
ngày 29-11-1969, tường thuật: "Vụ án này rất căng thẳng và quan trọng,
vì qua hồ sơ không có một đảng phái chính trị nào mà không có liên quan
ít nhiều đến vụ án, xếp hồ sơ đó nặng gấp 200 lần so với bản cáo trạng
đã đọc...".
Sau ngày giải phóng miền Nam, thống
nhất đất nước, tháng 5-1975, quân giải phóng đã tìm được toàn bộ những
hồ sơ vụ án đó tại Nha Tổng giám đốc Cảnh sát quốc gia của ngụy quyền
Sài Gòn. Trong tập một của hồ sơ có thể trích ra vài nhận xét sau đây:
"Từ trước đến nay, ngoại trừ những giai thoại giả tưởng trong tiểu
thuyết trinh thám, chưa bao giờ có những tổ điệp báo thành công như
thế...
Cụm A.22 hoạt động, phát triển đều đặn và
đã thi thố nhiều thủ đoạn mà chúng ta phải nhìn nhận là huyền diệu và
xuất sắc... Cụm đã phát triển một hệ thống điệp vụ vô cùng quan trọng và
đã len lỏi vào được nhiều cơ quan đầu não của Chính phủ Việt Nam cộng
hòa... Những tin tức chiến lược mà cảnh sát quốc gia biết họ đã cung
cấp, đều có giá trị giúp cho Hà Nội có được những dữ kiện chắc chắn để
ấn định chính sách đối với cuộc chiến tranh hiện nay...
Các
dự án quốc gia đều được Cụm A.22 thu thập và phúc trình nhờ cụm tình
báo chiến lược mà chính các Tổng bộ trưởng Sài Gòn không biết... Họ đã
tiếp xúc được các yếu nhân Việt Nam và cũng gặp gỡ, đàm luận dễ dàng với
các yếu nhân Mỹ như Ô.Cô-lu, Hi-vơ, Xmít, Côn-bai, Bu-gơ...".
"Họ đến tòa án như đi dự đám cưới..."
Chỉ
cần dẫn chứng của báo chí Sài Gòn đưa ra như vậy cũng đủ thấy hoạt động
của Cụm tình báo chiến lược A.22, theo tên gọi của chính quyền Sài Gòn,
là quan trọng và lợi hại như thế nào. Thời gian đó, báo chí Sài Gòn ghi
nhận rằng, trong ngày xét xử, "tất cả bị can đều có nét mặt tươi cười
và rất tự nhiên", "họ đến tòa án như đi dự đám cưới" và "tất cả cũng vẫn
có vẻ đẹp trai"... Hơn 20 luật sư biện hộ, trong đó có những người danh
tiếng nhất, đứng sau lưng họ.
Phiên tòa đã trở
thành diễn đàn vạch rõ những mâu thuẫn trầm trọng của chế độ ngụy quyền
Sài Gòn, giữa chính quyền với các đảng phái, tôn giáo, đồng minh chiến
lược Hoa Kỳ, giữa những cá nhân trong tổ chức này, với những bằng chứng
cụ thể không thể bác bỏ và công khai tuyên truyền cho đường lối hòa
bình, hòa giải và hòa hợp dân tộc. Một luật sư đã nói: "Là người biện hộ
trong vụ án, tôi như ếch ngồi đáy giếng mà miệng giếng đã bị Tổng thống
Nguyễn Văn Thiệu đậy lại rồi...".
Cuộc
gặp gỡ sau nửa thế kỷ của Đại tướng Võ Nguyên Giáp và Thiếu tướng tình
báo Vũ Ngọc Nhạ tại nhà riêng, 30 Hoàng Diệu (ngày 3-4-2002).
Vũ
Ngọc Nhạ, tức Hai Long, người bị tố cáo cầm đầu lưới gián điệp A.22,
xuất hiện trước tòa với bộ áo trắng, quần đen, cà vạt nâu, ung dung cầm
một xếp giấy trắng, miệng luôn tươi cười. Ông từ chối nhờ luật sư biện
hộ cho mình và cũng không tự bào chữa. Ông tuyên bố những việc mình đã
làm chỉ có lịch sử phán xét. Tất cả những bị can không ai có một đề nghị
được khoan hồng. Vũ Ngọc Nhạ và hai đồng đội của ông đã bị kết án chung
thân khổ sai.
Báo Sài Gòn mới ngày 1-12-1969
đăng: "Lần đầu trong một vụ án quan trọng và trước những bản án nặng nề,
người ta không hề nhận thấy một tiếng khóc nào, mà chỉ thấy những gương
mặt vui vẻ và nghe những tiếng cười...". Đó chính là tiếng cười chiến
thắng.
Thật vậy, trước đông đảo công chúng tụ
tập ở cửa tòa án vây quanh chiếc xe bịt bùng đưa những người bị kết án
về trại giam, Vũ Ngọc Nhạ nói với mọi người: "Các bạn cứ chờ xem, một
trang sử mới sắp lật qua. Không còn bao lâu nữa đâu!". Ông và các bạn
hướng về máy ghi âm, ống kính vô tuyến truyền hình, máy ảnh của các nhà
báo nước ngoài, nói bằng tiếng Pháp, tiếng Anh: "Cuộc chiến đấu chưa kết
thúc, đến đây mới chỉ tạm dừng. Chúng tôi đi, nhưng nhất định chúng tôi
sẽ trở về trong chiến thắng...".
Họ đã giữ đúng
lời hứa. Ba năm sau đó, họ lại xuất hiện ở Sài Gòn, tiếp tục cuộc chiến
đấu trên mặt trận thầm lặng cùng biết bao đồng chí khác, trong đó có
nhiều người đã lập nên kỳ tích mà mọi người còn chưa biết tới.
Vụ
án trở thành một vấn đề nóng hổi. Dư luận cho là nó còn chứa đựng nhiều
nghi vấn. Theo nguồn tin từ Dinh Độc lập, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu
trong những cuộc trao đổi riêng tư đã nói đây là việc làm xấu xa của CIA
nhằm bôi nhọ uy tín cá nhân ông ta. Sau đó lại có tin Tỉnh trưởng Côn
Sơn (Côn Đảo) đã bị phế truất.
Người ta nói
rằng, Tổng thống đưa người của mình ra nắm quyền hành ở Côn Sơn để chăm
sóc ông cố vấn Vũ Ngọc Nhạ vừa ra đảo bắt đầu cuộc sống lưu đày. Giáo
hoàng Giăng Pôn VI cũng gửi tới Côn Sơn tặng ông nguyên cố vấn huy
chương "Vì hòa bình", với một bức thư tỏ lòng ngưỡng mộ người chiến sĩ
công giáo đã cống hiến nhiều cho hòa bình, vì lý tưởng thiêng liêng của
Chúa.
Cho đến những ngày cuối cùng của chế độ
ngụy quyền Sài Gòn, tháng 4-1975, Nguyễn Văn Thiệu vẫn giữ quan hệ với
người cố vấn cũ của mình, Vũ Ngọc Nhã, coi như đây là mối quan hệ tốt
đẹp trong suốt cuộc đời chấp chính của ông ta.
Nguyễn Đình Hùng
Những vụ bê bối gián điệp nổi tiếng thế giới
0
Hàng nghìn điệp viên Đức đang hoạt động ở nước ngoài có nguy cơ bị lộ
sau khi danh tính của họ xuất hiện trong máy tính của điệp viên “hai
mang” có mật danh là “Markus R”, người bị tình nghi làm gián điệp cho
CIA.
Điệp viên có mật danh là “Markus R” được xác định là 32 tuổi, người
Đức, bị bắt hồi tháng 7/2014. Markus R bị tình nghi làm gián điệp cho
Cục Tình báo Trung ương Mỹ (CIA).
Lật tẩy bộ mặt thật
Một ngày tháng 7/2014, khi đang mải mê với đống tài liệu có trong tay,
viên sĩ quan của Cục tình báo nước ngoài của Đức (BND) mang biệt danh
“Markus R” bất ngờ khi thấy các nhân viên điều tra xuất hiện. Trước
những bằng chứng không thể chối cãi, Markus R cúi đầu nhận tội.
(Ảnh minh họa)
Theo thông tin tờ Bild có được, Markus R là nhân viên của BND, làm
việc tại bộ phận đăng ký của chi nhánh hoạt động tại nước ngoài của cơ
quan này. Đó là lý do giải thích vì sao anh ta có thể tiếp cận được
những tài liệu tuyệt mật, trong đó có thông tin cá nhân của các điệp
viên hoạt động ở nước ngoài…
Các nhà điều tra cho rằng, vì muốn có nhiều tiền để tiêu xài nên trong
thư điện tử gửi tới Đại sứ quán Mỹ tại Berlin năm 2010, Markus R đã chủ
động đề nghị giúp đỡ tình báo Mỹ, sau đó được chấp thuận làm điệp viên
“hai mang”.
Mỗi tuần một lần, Markus R chuyển cho các nhân viên CIA những tài liệu
bí mật mà y đánh cắp được. Tổng cộng, y đã chuyển cho CIA 218 tài liệu
mật lấy từ những máy vi tính của BND, trong đó có hai tài liệu liên quan
hoạt động điều tra của một ủy ban thuộc Quốc hội Mỹ đối với hoạt động
của Cơ quan An ninh quốc gia Mỹ (NSA) tại Đức. Đổi lại, CIA đã trả cho
Markus R 34.000 USD.
(Ảnh minh họa)
Vụ việc có thể chưa sớm bị bại lộ nếu như Markus R không quá tham lam.
Một ngày tháng 5-2014, Markus R đã gửi thư điện tử cho Tổng lãnh sự
quán Nga tại Munich (Đức), trong đó đề nghị được làm gián điệp cho Nga.
Để chứng minh vai trò quan trọng của mình, y còn gửi kèm ba tài liệu mật
trong đó có hai tài liệu về cuộc điều tra hoạt động của NSA tại Đức.
Nhưng khác với những lần trao đổi trót lọt với Mỹ trước đó, phi vụ với
người Nga lại không thành công. Cuối cùng điệp viên “hai mang” Markus R
đã bị lật tẩy.
Khám xét nhà riêng của Markus R, cảnh sát tìm thấy nhiều thông tin mật
trong máy tính và USB. Tuy nhiên, phải đến gần đây, các nhà điều tra
mới đánh giá hết giá trị số thông tin mật đó. Điều khiến các nhà điều
tra lo ngại nhất là trong danh sách Markus R đánh cắp được từ năm 2011
có chứa tên thật, mật danh của các nhân viên BND làm việc dưới danh
nghĩa nhà ngoại giao tại nhiều đại sứ quán của CHLB Đức khắp thế giới và
những người làm việc bí mật ở các nước mà quân đội Đức đang triển khai
lực
lượng, trong đó có Afghanistan, Mali, Lebanon và Sudan.
(Ảnh minh họa).
Theo tờ De Spiegel của Đức, BND hiện có khoảng 6.500 nhân viên, thường
ở trong các Đại sứ quán Đức ở nước ngoài hoặc được phái đến những khu
vực có binh sĩ Đức triển khai. Nhiệm vụ BND là xác định mục tiêu thù
địch và cảnh báo quân đội nếu phát hiện có mối đe dọa. Việc thân phận bị
lộ có thể đặt các điệp viên Đức vào tình cảnh nguy hiểm. Mặc dù các
nguồn tin tình báo Đức khẳng định bản danh sách mật trên đã lỗi thời vì
tên tuổi được cập nhật lần cuối năm 2011, song BND cũng phải thừa nhận
rằng mối quan tâm lớn nhất của họ hiện nay là điều tra xem Markus R đã
bán danh sách điệp viên cho cơ quan tình báo nước ngoài thù địch hay
chưa.
Cuộc chiến gián điệp
Vụ bê bối chung quanh gián điệp “hai mang” mang mật danh Markus R đã
phủ “bóng đen” lên quan hệ Đức và Mỹ. Vụ việc đã đẩy quan hệ giữa hai
đồng minh Mỹ - Đức đứng trước những thách thức mới trong bối cảnh Berlin
vẫn chưa quên những tiết lộ động trời của cựu nhân viên tình báo Mỹ
Edward Snowden, phơi bày chương trình do thám khổng lồ của NSA nhằm vào
các công dân Đức và nghiêm trọng hơn, Thủ tướng Đức Angela Merkel cũng
là một mục tiêu do thám.
Trên thực tế, việc mua chuộc điệp viên hoặc cài điệp viên nằm vùng là
vấn đề luôn gây tranh cãi và căng thẳng giữa các nước, đặc biệt là giữa
Nga với Anh và Mỹ. Một trong những điệp viên nổi tiếng từng gây sóng gió
trong quan hệ giữa Liên Xô (trước đây) và Anh là Vasily Mitrokhin, một
cựu sĩ quan thuộc Ủy ban an ninh quốc gia Liên Xô (KGB).
Khởi nghiệp là một kiểm sát viên quân sự tại Kharkov (Ukraine), thời
gian sau Mitrokhin được đặc cách vào Học viện Ngoại giao ở Moscow. Năm
1948, Vasily Mitrokhin chính thức bước vào thế giới của những người
“hoạt động ngầm” khi đầu quân cho KGB và được đánh giá là điệp viên tràn
đầy nhiệt huyết. Nhờ những năng lực vượt trội cũng như bảng thành tích
dày đặc của mình, Mitrokhin nhanh chóng trở thành một điệp viên được tin
cậy và có cơ hội tiếp cận những nguồn tài liệu tuyệt mật của tình báo
Liên Xô. Năm 1956, Mitrokhin được chuyển tới làm việc tại kho lưu trữ
của KGB. Giai đoạn này Mitrokhin bắt đầu bộc lộ bất mãn.
Năm 1992, sau khi Liên Xô sụp đổ và tám năm sau khi rời KGB, đặc vụ
Mitrokhin đã phản bội và chạy sang phương Tây. Cựu điệp viên này nhanh
chóng liên lạc với các quan chức CIA tại Latvia với số tài liệu thu thập
được và đề nghị được giúp đỡ đào tẩu. Bị người Mỹ từ chối, Mitrokhin
quay sang liên hệ các mật vụ thuộc cơ quan tình báo Anh MI6. Sau này,
theo tiết lộ của điệp viên Anh, số tài liệu trên nhiều đến mức được chất
đầy trong sáu chiếc va-li để vận chuyển tới London. Từ thân phận “chuột
chũi”, Mitrokhin bỗng trở thành “người hùng”, được MI6 chiêu mộ, hậu
thuẫn. Mitrokhin và gia đình đã bí mật trốn sang Anh.
Năm 2010, quan hệ Nga - Mỹ trải qua nhiều sóng gió sau khi Washington
cất “mẻ lưới” chưa từng có: bắt giữ 10 gián điệp “nằm vùng” của Nga.
Theo Bộ Tư pháp Mỹ, việc bắt giữ những người tình nghi trên vào tháng
6-2010 là kết quả của một cuộc điều tra sát sao, theo dõi nhất cử nhất
động của tất cả các thành viên mạng lưới gián điệp. Các “điệp viên” này
còn được gọi là “dân nằm vùng”, được cài cắm ở Mỹ từ rất lâu, một số
người đã định cư khoảng 20 năm dưới vỏ bọc các cặp vợ chồng, hoạt động
trong
những ngành có khả năng xây dựng quan hệ rộng như tài chính, truyền
thông để lấy thông tin từ giới hoạch định chính sách của Washington.
Ngoài phương tiện công nghệ tối tân, các nghi can này còn sử dụng cả
những phương pháp truyền thống như mực vô hình và tráo đổi những cái túi
giống nhau khi “tình cờ” đi ngang qua nhau trong công viên để trao đổi
thông tin. Thông tin được mạng lưới gián điệp quan tâm tìm hiểu rất sâu
rộng, từ bom phá boong-ke hiện đại nhất, quan điểm của Mỹ với Hiệp ước
cắt giảm vũ khí chiến lược START-2... cho tới phương hướng xử lý chương
trình hạt nhân của Iran.
Một trong 10 người Nga bị cáo buộc liên quan tới vụ án gián điệp này
là nữ doanh nhân người Nga Anna Chapman, 28 tuổi. Cục điều tra liên bang
Mỹ (FBI) đã cử người theo dõi Anna từ đầu năm 2010 khi cô thực hiện các
cuộc giao tiếp tinh vi với người quản lý người Nga của mình trong những
bối cảnh như trong tiểu thuyết tình báo... Báo chí Mỹ khi đó nhận định,
vụ bắt giữ này được cho là đặc biệt so các vụ tương tự trong quá khứ vì
những người bị bắt đều là thường dân và không hề có mối liên hệ nào
với cơ quan sứ quán hoặc lực lượng quân sự Nga ở Mỹ.
Tuy nhiên, chỉ một tháng sau đó, Washington và Moscow đã tiến hành
trao đổi gián điệp. Theo đó, Moscow đã đồng ý thả bốn tù nhân bị kết tội
làm gián điệp phương Tây để đổi lấy 10 nghi phạm gián điệp nói trên của
Nga. Đây là vụ trao đổi gián điệp lớn nhất và cũng gây chú ý nhiều nhất
giữa hai cường quốc Nga và Mỹ kể từ sau Chiến tranh Lạnh.
Các vụ bê bối gián điệp là chuyện thường xảy ra giữa các cường quốc.
Tuy nhiên, việc để lộ danh tính hàng nghìn điệp viên như ở Đức mới đây
không chỉ gây nguy hiểm đến tính mạng các điệp viên, mà còn gây ảnh
hưởng tới an ninh quốc gia của đất nước đó.
Hợp tác cùng Thời nay
Những vụ tuyển mộ khét tiếng của tình báo KGB
00:45 21/04/2013
Trong khi tình báo phương Tây chú trọng trang thiết bị tinh vi thì cơ
quan tình báo Liên Xô KGB đầu tư cho mật thám con người, chiêu mộ những
người nắm giữ vị trí quan trọng trong chính quyền nước ngoài.
Cơ quan tình báo Liên Xô đã đặc biệt thành công ở Anh,
nơi KGB tuyển mộ thành công vài quan chức Chính phủ cấp cao để cung cấp
thông tin cho mình. KGB thành công đến mức năm 1971, 105 nhân viên Đại
sứ quán Liên Xô ở London bị trục xuất do tình nghi hoạt động gián điệp.
1. Melita Norwood
Năm 1936, KGB tuyển mộ Melita Norwood - người làm việc
cho Hiệp hội Kim loại Non Ferrous, một cơ sở nghiên cứu hạt nhân bí mật ở
Anh. Với vai trò là một thư ký, Norwood có mật danh Hola có khả năng
tiếp cận trực tiếp tài liệu của tổ chức này, khi đó đang đảm nhiệm trực
tiếp việc chế tạo bom nguyên tử. Hàng đêm, bà bí mật chụp rất nhiều tài
liệu mật về dự án “Tube alloys” lấy ra từ tủ của vị giám đốc và trao cho
KGB. Chính vì vậy, nhiều người cho rằng, lãnh tụ Liên Xô Stalin còn nắm
rõ về công trình nghiên cứu bom nguyên tử của Anh hơn cả Thủ tướng nước
này là Clement Attlee.
Điệp viên Melita Norwood.
Hola cống hiến cho KGB vì lý tưởng, chứ không phải vì
tiền. Trong một thời gian dài làm việc cho tình báo Liên Xô, bà không hề
nhận một xu nào. Chỉ đến khi về hưu, năm 1960, bà mới đồng ý nhận khoản
trợ cấp 20 bảng mỗi tháng. Vì những cống hiến của mình, bà đã được Liên
Xô trao Huân chương “Cờ đỏ” năm 1979.
Người lật tẩy hoạt động tình báo của điệp viên Norwood
là cựu đại tá KGB Vasili Mitrokhin đào ngũ sang Anh. Nhưng mãi đến ngày
11/9/1999, nữ điệp viên năm xưa nay đã là một bà già sống lặng lẽ mới bị
kết tội làm gián điệp cho Liên Xô. Nhưng chỉ hơn 3 tháng sau, Bộ Tư
pháp Anh chính thức tuyên bố bằng văn bản rằng, nữ gián điệp Norwood sẽ
không bị truy tố và bà có thể yên tâm sống đến cuối đời mà không sợ phải
ra toà. Cho đến trước khi chết, Norwood vẫn là một người rất hâm mộ
Stalin, lên án Gorbachev và Eltsin vì cho rằng họ là những thủ phạm
chính làm cho Liên Xô tan rã. Ngôi nhà của bà có treo đầy những khẩu
hiệu và hình ảnh ủng hộ Chủ tịch Fidel Castro.
2. Cambridge Five
Tuy nhiên, một trong những vụ thành công nhất của KGB
chính là việc tuyển mộ thành công Nhóm điệp viên Anh, sau này được biết
đến với tên gọi “Cambridge five”, gồm: Burgess (1910-1963) điệp viên
đồng tính trong MI6 (Cơ quan tình báo bí mật Anh), thư ký của Thứ trưởng
Ngoại giao Hector McNeil, Bí thư của Đại sứ quán Anh tại London,
Washington; Anthony F. Blunt (1907-1983), một cố vấn nghệ thuật của Nữ
hoàng Elizabeth, điệp viên MI5 (Cơ quan Phản gián Anh) trong suốt Chiến
tranh Thế giới lần thứ hai, Blunt cũng là người đồng tính và từng là
người yêu của Burgess; Donald Maclean (1915-1983), Bí thứ tại Đại sứ
quán Anh tại Paris, Washington, Cairo, London; Harold Adrian Russell
Philby (1912-1988), một nhà báo đồng thời là điệp viên MI6, hay "Nhân
vật thứ ba".
Nhóm Cambridge five.
Burgess và Blunt đóng góp cho KGB bằng cách chuyển các
tài liệu bí mật của Bộ Ngoại giao - những tài liệu mô tả chiến lược quân
sự của quân đồng minh. Trong khi đó, Donald Maclean, đặc biệt là trong
suốt thời gian làm việc ở Đại sứ quán Anh ở Washington (1944-1948), là
nguồn thông tin chính của Stalin về các diễn biến chính sách cũng như
thông tin giữa Churchill và Roosevelt, sau đó là giữa Churchill và
Truman. Mặc dù không chuyển dữ liệu kỹ thuật về bom nguyên tử nhưng
Maclean đã báo cáo về diễn biến và tình hình phát triển bom nguyên tử,
đặc biệt là lượng uranium mà Mỹ có. Ông là đại diện của Anh trong Hội
đồng Mỹ - Anh - Canada về việc chia sẻ các bí mật nguyên tử. Chỉ riêng
hiểu biết này đã giúp các nhà khoa học Liên Xô có được khả năng dự đoán
số bom nguyên tử mà người Mỹ có thể chế tạo. Về phần mình, Kim Philby
cũng đã thực hiện nhiều nhiệm vụ. Trong suốt Chiến tranh Thế giới lần
thứ hai, ông đã thông tin cho Liên Xô về việc các đồng nghiệp của ông
tại Trung tâm Giải mã nổi tiếng của Anh ở Bletchley Park đã phá vỡ mật
mã “Enigma’’ của Đức quốc xã. Với công việc tại MI6, ông có thể nhận
dạng các điệp viên Anh ở Nga. Ông không chỉ biết họ là ai mà còn là một
trong những người chỉ đạo các kỹ thuật làm gián điệp cho nhiều người
trong số họ.
3. Vợ chồng Julius và Ethel Rosenberg
Ngoài ra, KGB cũng rất thành công trong việc tuyển mộ
các điệp viên tại Mỹ. Điển hình trong số đố là cặp vợ chồng Julius và
Ethel Rosenberg. Hai người gặp nhau tại Liên minh Cộng sản của giới trẻ
năm 1936 ở Mỹ. Họ bị buộc tội chuyển giao các bí mật hạt nhân cho Liên
bang Xô Viết. Julius được KGB tuyển mộ năm 1942, và được xem là một
trong những điệp viên lừng lẫy nhất của tổ chức này. Sau đó Julius cũng
tuyển mộ nhiều người vào phục vụ cho KGB. Ông đã cung cấp cho cơ quan
tình báo này hàng ngàn tài liệu từ Ủy ban Tư vấn quốc gia Mỹ về hàng
không vũ trụ, trong đó có bản thiết kế hoàn chỉnh chiếc máy bay tiêm
kích phản lực Lockheed P-80 Shooting Star.
Vợ chồng Julius và Ethel Rosenberg.
Vợ chồng Julius và Ethel Rosenberg bị xử tử trên ghế
điện vì tội làm gián điệp. Vụ việc phát giác khi trung sĩ David
Greenglass bị bắt trong lúc đang hoạt động tình báo ở Los Alamos và đã
khai ra đồng minh là vợ chồng em gái Ethel và Julius Rosenberg.
4. Aldrich Hazen Ames
Năm 1985, KGB chiêu mộ Aldrich Hazen Ames, một nhân
viên kỳ cựu của Cục tình báo Trung ương Mỹ CIA. Trong năm này, Ames đã
tiết lộ tên của 3 điệp viên hai mang cho một liên lạc của KGB, nghĩ rằng
điều ông đang làm không phải là tội phản quốc vì họ chỉ là các điệp
viên KGB mang tính kỹ thuật. Ông nhận được 50.000 USD và vài tuần sau đó
tiết lộ cho KGB về nhiều điệp viên Mỹ khác tại Liên Xô, trong đó có
người bạn thân Sergey Fedorenko. Tổng cộng, Ames đã tiết lộ danh tính
của 25 điệp viên CIA, 10 trong số họ đã bị kết án tử hình.
Điệp viên Aldrich Hazen Ames.
Ngoài việc tiết lộ danh tính mọi điệp viên Mỹ cài tại
Liên Xô, Ames còn phá hỏng nhiều chiến dịch mật quan trọng của CIA và
khiến hàng chục nhân viên cơ quan tình báo Mỹ này vào vòng nguy hiểm.
Đổi lại, Ames nhận được từ KGB hơn 2 triệu USD và dành cho ông một tài
khoản 2 triệu USD khác trong một ngân hàng ở Moscow. Theo đó, Ames trở
thành điệp viên được trả tiền cao nhất trên thế giới. Việc Ames bị bắt
vào tháng 2/1994 đã khiến CIA bị bẽ mặt. Cho đến nay, Ames vẫn là điệp
viên hai mang nguy hiểm nhất từng luồn lách hoạt động trong CIA.
5. Robert Hanssen
Trước đó, năm 1979, KGB đã tuyển mộ Robert Hanssen –
nhân viên của FBI. Robert Hanssen đã cung cấp cho tình báo Liên Xô danh
tính nhiều điệp viên Mỹ và nhận được 1,5 triệu USD trong 15 năm. Robert
Hanssen bị bắt vào tháng 2/2001.
Điệp viên Robert Hanssen.
Thanh Hương
Theo Infonet
6 điệp viên lừng danh nhất mọi thời đại
07:50 17/01/2013
Bức màn bí mật của thế giới điệp viên luôn thu hút lòng hiếu kỳ của dư
luận. Dù việc giải mật hồ sơ của các điệp viên chỉ là bề nổi của “tảng
băng chìm”, nhưng qua đó độc giả phần nào hiểu được cuộc sống gian truân
và tính mạng luôn bị đe dọa của giới gián điệp.
Cùng khám phá câu chuyện của 6 điệp viên được đánh giá là lừng danh nhất mọi thời đại.
1. Mata Hari (1879-1917)
Mata Hari được cho là một trong những điệp viên, vũ
công kiêm “gái gọi” xinh đẹp nhất mọi thời đại. Bà là người Hà Lan, bị
buộc tội làm gián điệp cho Đức trong Chiến tranh thế giới I, và bị xử
bắn vào năm 1917.
Bà tán tỉnh những doanh nhân, nhà ngoại giao, các sĩ
quan quân đội, và chính trị gia cấp cao để thu thập thông tin tình báo
cho Đức. Khi bị bắt, bà thừa nhận làm gián điệp cho Pháp, nhưng Chính
phủ Pháp phủ nhận thông tin này.
Sau khi bị hành quyết, thi thể của bà không được chôn
cất mà bị chuyển tới trường y cho sinh viên nghiên cứu trên bàn giải
phẫu. Phần đầu của Mata Hari được ướp và trưng bày tại Bảo tàng tội phạm
của Pháp, song đã bị đánh cắp vào năm 1958, có thể do một người hâm mộ
nào đó.
2. Vợ chồng Julius và Ethel Rosenberg (1915, 1918-1953)
Cặp vợ chồng này gặp nhau tại Liên minh Cộng sản của
giới trẻ năm 1936 ở Mỹ. Họ bị buộc tội chuyển giao các bí mật hạt nhân
cho Liên bang Xô Viết.
Julius được KGB (Cơ quan tình báo Liên Xô) tuyển mộ năm
1942, và được xem là một trong những điệp viên lừng lẫy nhất của tổ
chức này. Sau đó Julius cũng tuyển mộ nhiều người vào phục vụ cho KGB.
Ông đã cung cấp cho cơ quan tình báo này hàng ngàn tài liệu từ Ủy ban Tư
vấn quốc gia Mỹ về hàng không vũ trụ, trong đó có bản thiết kế hoàn
chỉnh chiếc máy bay tiêm kích phản lực Lockheed P-80 Shooting Star.
Vợ chồng Julius và Ethel Rosenberg bị xử tử trên ghế
điện vì tội làm gián điệp. Vụ việc phát giác khi trung sĩ David
Greenglass bị bắt trong lúc đang hoạt động tình báo ở Los Alamos và đã
khai ra đồng minh là vợ chồng em gái Ethel và Julius Rosenberg.
3. Aldrich Ames (1941)
Aldrich Ames được xem là một trong những điệp viên hai
mang khét tiếng. Ames làm việc cho cả KGB và Cục Tình báo Trung ương Mỹ
(CIA) từ năm 1985 tới 1991. Ba năm sau, tức năm 1994, Ames bị bắt và kết
án tù treo. Trong nhiệm vụ đầu tiên, với tư cách là một sĩ quan hoạt
động đơn tuyến, Ames đã cắm chốt ở Ankara, Thổ Nhĩ Kỳ để tuyển mộ các sĩ
quan tình báo Xô Viết. Do các khó khăn tài chính trong cuộc sống riêng
xa hoa, ông bắt đầu làm gián điệp cho Xô Viết từ năm 1985.
Ames được cử tới hoạt động ở văn phòng châu Âu của CIA,
nơi ông có thể tiếp cận trực tiếp danh tính của các yếu viên CIA đang
cài cắm trong KGB nói riêng và quân đội Xô Viết nói chung. Thông tin do
Ames tiết lộ đã khiến hàng trăm yếu viên CIA lâm vào vòng nguy hiểm, và
hàng chục người bị kết án tử hình. Ames nhận được khoản tiền 4,6 triệu
USD để chi trả cho cuộc sống xa hoa hơn mức bình thường của một nhân
viên CIA.
Đầu năm 1985, CIA bắt đầu để ý tới những “tổn thất”
nhanh chóng này. Lúc đầu, CIA không thể tin kịch bản bị KGB “tương kế
tựu kế”. Tuy nhiên, khi Cục Điều tra Liên bang (FBI) vào cuộc, Ames trở
thành nghi vấn hàng đầu. Lo ngại Ames trốn, FBI đã bắt ông và vợ tại sân
bay. Ông bị kết án tù chung thân, và giam giữ ở Penitentiary, bang
Pennsylvania.
4. Klaus Emil Julius Fuchs (1911-1988)
Fuchs mang quốc tịch Đức, là một nhà vật lý làm việc ở
Los Alamos trong một dự án bom nguyên tử. Ông chịu trách nhiệm cho những
tính toán liên quan tới phân rã hạt nhân và bom khinh khí. Khi còn học
đại học ở Đức, ông đã có mối liên hệ với Đảng Cộng sản Đức.
Ông bắt đầu cung cấp thông tin cho Liên Xô khi đang làm
việc trong một dự án hạt nhân bom nguyên tử tại Anh. Ông nghĩ rằng,
người Xô Viết cần biết những gì người Anh và người Mỹ đang phát triển.
Năm 1943, ông được chuyển tới Mỹ để hỗ trợ dự án Manhattan.
Từ năm 1944, ông làm việc ở Los Alamos. Trong vòng 2
năm, ông cung cấp cho KGB các kế hoạch trên lý thuyết việc chế tạo bom
khinh khí và các dữ liệu sản xuất uranium, theo đó Liên Xô có thể ước
tính số liệu bom mà Washington sở hữu. Trong quá trình bị điều tra,
Fuchs thú nhận từng làm gián điệp cho Liên Xô và bị kết án 14 năm tù.
Ông được phóng thích năm 1959 và chuyển đến sinh sống tại Đông Đức.
5. Nhóm "5 Cambridge"
Nhóm "5 Cambridge" gồm 5 cựu sinh viên ĐH Cambridge làm
gián điệp cho Liên Xô: Anthony Blunt, Kim Philby, John Cairncross, Guy
Burgess và Donald McLean.
5 điệp viên này hoạt động trong Thế chiến II với nhiệm
vụ thâm nhập các đại sứ quán, các cơ quan tình báo để cung cấp thông tin
bí mật cho KGB.
6. Richard Sorge (1895-1944)
Richard Sorge, quốc tịch Đức, được xem là một trong
những điệp viên lừng danh nhất của Liên Xô hoạt động tại Nhật Bản trước
và sau Chiến tranh Thế giới II. Năm 1944, Richard Sorge xung phong phục
vụ Chiến tranh thế giới lần thứ nhất và bị thương nặng.
Trong quá trình dưỡng thương, ông đã đọc và thấm nhuần
sách của Marx và thấm nhuần hệ tư tưởng cộng sản. Sau đó ông tới Liên Xô
và được tuyển mộ làm điệp viên, hoạt động dưới vỏ bọc của một nhà báo
và được cử tới nhiều nước châu Âu.
Năm 1933, Liên Xô quyết định cử ông tới xây dựng mạng
lưới gián điệp tại Nhật Bản. Năm 1941, Sorge biết được chiến dịch
Barbarossa Đức chuẩn bị xâm lược Liên Xô và thông báo cho phía Liên Xô,
nhưng thật không may vì Stalin (lãnh đạo của Liên Xô lúc bấy giờ) đã lờ
đi mọi chuyện. Vài tuần sau, cơ quan tình báo của Nhật đã bắt và hành
quyết Sorge vào năm 1944. 20 năm sau khi bị xử tử, Sorge được truy tặng
danh hiệu Anh hùng Liên Xô vào năm 1964.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét