Thứ Sáu, 11 tháng 5, 2018

CÁC BẬC NHÂN TÀI KHOA HỌC 24

(ĐC sưu tầm trên NET)

-70:Mikhail Lomonosov
Mikhail_Lomonosov_1139.jpg
1711-1765
Nga
Hóa Học

Người khổng lồ trong những người khổng lồ

10:04 20/04/2011

Mikhail Vasilievich Lomonosov là một nhà "bách khoa toàn thư", có những đóng góp to lớn trên nhiều lĩnh vực. Không chỉ là một nhà khoa học tự nhiên, ông còn là một sử gia, một họa sĩ, một nhà thơ, người đặt nền móng cho ngôn ngữ văn học Nga hiện đại... Đại thi hào Pushkin từng tôn vinh Lomonosov là "Người thầy khoa học của nước Nga", còn nhà phê bình văn học lỗi lạc Belinsky thì ghi nhận ông là "Nhà thơ đầu tiên của nước Nga"...


Đây là câu chuyện kể về nhà khoa học vĩ đại người Nga Mikhail Vasilyevich Lomonosov. Lomonosov từ nhỏ thích đọc sách nhưng vì nhà nghèo, tới năm 10 tuổi mà cậu mới chỉ được đọc duy nhất một cuốn sách - đó là cuốn “Kinh thánh”. Điều Lomonosov luôn ước ao là có một cuốn sách viết về những kiến thức khoa học.
 
Ảnh minh hoạ (Nguồn Internet)
 
Năm 15, 16 tuổi, một lần đi theo bố tới nhà một người họ hàng, Lomonosov có lẽ lần đầu tiên được nhìn thấy nhiều sách như vậy. Giá sách trong nhà người họ hàng của Lomonosov rất lớn và ngăn nào, giá nào cũng chật kín sách. Trong số đó, có một cuốn sách đặc biệt hấp dẫn lomonosov - cuốn sách “Số học”. Được sự cho phép của người anh họ, Lomonosov lấy cuốn sách xuống xem. Cậu lật từng trang sách và ngay lập tức cuốn sách như hút cả hồn Lomonosov vào trong đó. Cầm cuốn sách trên tay như không muốn rời bỏ, Lomonosov đột ngột quay sang nới với người anh họ: “Em có thể đem tất cả những thứ quý giá nhất của em để đổi lấy cuốn sách này. Anh đổi cho em nhé!”.
 
- “Em thật muốn đổi lấy cuốn sách này à? Chỉ cần em đưa anh một con hải cẩu nhỏ thì cuốn sách này là của em” - người anh họ thủng thẳng nói với Lomonosov.
 
- “Một con hải cẩu nhỏ hả anh? Được rồi, cứ nhất định như thế nhé!” - Lomonosov phấn chấn nói với người anh họ. Nhưng lúc ấy Lomonosov quên mất rằng bây giờ chưa phải là mùa để bắt hải cẩu.
 
Trở về nhà, Lomonosov rất nhanh trí nghĩ ra một biện pháp: Anh đi làm thuê cho người bán hải cẩu 40 ngày công, đổi lại người bán hàng sẽ cho anh một con hải cẩu nhỏ. Sau đó, Lomonosov có hải cẩu để mang đi đổi lấy cuốn sách “Số học” từ tay người anh họ. Cầm cuốn sách trong tay, Lomonosov vui sướng không lời nào diễn tả...
 
Nhưng vài hôm sau, người anh họ của Lomonosov đến đòi lại cuốn sách. Lomonosov không hiểu sự tình ra sao. Người anh họ giải thích, con hải cẩu đã bị chết nên Lomonosov phải trả lại cuốn sách. Hơn nữa, cuốn sách này lại là của ông bác, người anh họ của Lomonosov vốn không có quyền đem cuốn sách đi cho hay đi tặng. Sững người một lúc, Lomonosov không biết phải làm thế nào. Sau đó, cậu nói cứng rằng: Việc đổi cuốn sách đã rõ ràng và bằng cách nào đi nữa thì cậu cũng không thể trả lại cuốn sách.
 
Biết rằng Lomonosov rất cương quyết, người anh họ nghĩ một cách để thương lượng: “Thôi được, cậu nhất định giữ cuốn sách thì cũng được. Nhưng đổi lại, cậu phải chấp thuận với anh một điều kiện...”.
 
- “Điều kiện gì vậy?” - Lomonosov vội vàng hỏi.
 
- “Điều kiện thì cũng không khó lắm...” - Người anh họ của Lomonosov chỉ tay về quả đồi thấp thoáng trong màn sương phía xa nói tiếp: “Điều kiện là xem cậu có dám đến chỗ đồi tha ma kia ở một đêm hay không?”.
 
Vừa nghe điều kiện quái ác của người anh họ, Lomonosov chợt rùng mình. Cậu đã từng nhiều lần nghe mọi người kể về những linh hồn vật vờ trên quả đồi đó - nơi đêm đêm những linh hồn đó vẫn hiện lên để bày trò ma quỷ. Nhưng mấy phút sau, nghĩ đến cuốn sách quý, Lomonosov không ngần ngại nhận lời.
 
Tối hôm ấy, Lomonosov cầm theo cuốn sách “Số học” đi tới quả đồi tha ma. Đêm xuống như một bức màn đen kịt và lặng ngắt phủ trùm lên quả đồi. Lomonosov nằm trên bãi cỏ, mắt ngước lên nhìn bầu trời đầy sao, tâm trí nhớ đến những điều thú vị viết trong cuốn sách “Số học”. Cậu nằm như thế một đêm trên quả đồi tha ma. Và như thế, cuốn sách “Số học” cuối cùng đã thuộc về Lomonosov. Đây là cánh cửa đầu tiên mở ra đón Lomonosov bước vào thế giới khoa học rộng lớn.
 
(Sưu tầm)

Mikhail Vasilyevich Lomonosov (1711 - 1765)- Михаил Васильевич Ломоносов - là nhà thơ, nhà bác học nổi tiếng. Sáng tác của Lomonosov đánh dấu sự phát triển của thơ ca Nga nửa đầu thế kỷ XVIII.

MIKHAIL LOMONOSOV VÀ BÀI TỤNG CA
SUY TƯỞNG BAN CHIỀU VỀ HIỆN TƯỢNG BẮC CỰC QUANG
Mikhail Lomonosov (1711 – 1765) là nhà thơ, nhà bác học nổi tiếng. Sáng tác của Lomonosov đánh dấu sự phát triển của thơ ca Nga nửa đầu thế kỷ XVIII.
Sinh ra trong một gia đình nông dân khá giả ở tỉnh Arkhangelsk miền bắc nước Nga, năm 19 tuổi Lomonosov vào học tại Học viện Slav-Hy lạp-Latin ở Moskva, rồi sau đó tiếp tục việc học của mình ở Học viện Hoàng gia Petersburg. Năm 1736, Lomonosov được gửi qua Đức học các khoa học như toán, vật lý, triết học, hóa học, khai thác mỏ và luyện kim. Bên cạnh lòng ham mê khoa học, Lomonosov rất quan tâm đến các lĩnh vực nhân văn, đặc biệt chú ý đến thơ ca. Trong hành trang qua Đức học tập, ông mang theo công trình “Phương pháp mới và ngắn gọn để sáng tác thơ Nga” của Trediakovsky. Lomonosov đã làm quen với thơ ca viết theo luật âm tiết trọng âm của Đức, và năm 1739, ông gửi về Hội đồng Nga (tức là một ban nghiên cứu tiếng Nga và văn học) của Học viện Petersburg “Thư bàn về các quy tắc sáng tác thơ Nga”. Lý thuyết của Lomonosov, cũng giống như của Trediakovsky, phát xuất từ một tiền đề: “Thơ Nga phải được sáng tác dựa trên những phẩm chất của ngôn ngữ dân tộc, còn những yếu tố từ các ngôn ngữ nước ngoài xa lạ với nó thì không nên đưa vào[1]. Bức thư của Lomonosov dài khoảng 8 trang, mô tả một cách giản dị toàn bộ hệ thống thi luật âm tiết trọng âm của Nga đã được vận dụng trong thơ ca Nga trước đó. Nó cũng xây dựng một hệ thống âm luật và vận luật cơ bản, khắc phục những hạn chế trong lý thuyết của Trediakovsky (Trediakovsky chỉ xem choree mới là thể thích hợp với thơ Nga, trong khi đó Lomonosov chỉ ra thế mạnh của mỗi thể thơ như iamb, choree, dactyl,… tùy thuộc vào chủ đề của bài thơ; Trediakovsky chỉ sử dụng vần âm với trọng âm ở âm tiết áp cuối, còn theo Lomonosov không chỉ vần âm, mà cả vần dương với trọng âm ở âm tiết cuối câu, và loại vần ông gọi là triglasnye – vần bắt đầu từ âm tiết thứ ba, cũng thích hợp với thơ Nga). Hệ thống thi luật âm tiết trọng âm của Lomonosov hầu như không thay đổi cho đến nay, và đa phần thơ ca Nga, thậm chí ngay cả thời hiện đại, cũng đều viết theo thi luật này.
Để minh họa cho những lý thuyết của mình, Lomonosov gửi kèm với “Thư bàn về các quy tắc sáng tác thơ Nga” bản tụng ca “Về cuộc chiếm đánh Khotin” (Oda na vzyatii Khotina). Đây là một bài thơ dài được viết nhân sự kiện quân đội Nga chiếm được pháo đài Khotin của Thổ Nhĩ Kỳ (nay thuộc đất của Moldavia) năm 1739, trong đó mang đủ những đặc tính tiêu biểu của thể tụng ca: lời ca hướng tới Thi thần, những từ ngữ đầy tính khoa trương, những hình tượng trừu tượng, lối nói phóng đại, chất bi tráng bao trùm tác phẩm. Tuy nhiên, bên cạnh những thể thức truyền thống đó, có những khổ thơ được viết bằng một ngôn ngữ với những tính ngữ chính xác, những tỉ dụ rõ ràng, gợi nhớ đến những chi tiết cụ thể. “Về cuộc chiếm đánh Khotin” là bản tụng ca đầu tiên viết theo thi luật âm tiết trọng âm của Nga.
Tụng ca là thể loại ưa thích nhất của Lomonosov, trong suốt cuộc đời mình, ông viết khoảng hơn 20 tụng ca. Nhà phê bình Belinsky trong khi không tiếc lời chê thơ ca thế kỷ XVIII là “khoa trương”, đã xem tụng ca của Lomonosov là ngoại lệ, bởi ông nhận thấy trong đó “ngoài nghệ thuật làm thơ điêu luyện còn có những cảm xúc sinh động”. Xem Lomonosov như “nhà thơ đầu tiên của nước Nga”, Belinsky đồng thời nhận định thơ Lomonosov chủ yếu mang “tinh thần ngợi ca trang trọng[2].
“Tinh thần ngợi ca” trong các tụng ca của Lomonosov có thể được lý giải bởi bản chất nghệ thuật của chủ nghĩa cổ điển, mà từ những năm 30 của thế kỷ XVIII đã trở thành trào lưu sáng tác chủ đạo trong văn học Nga. Thuật ngữ chủ nghĩa cổ điển có nguồn gốc từ một tính từ trong tiếng Latin classicus tức là “thuộc về tầng lớp công dân cao quý nhất”, đồng thời bao hàm nghĩa chuẩn mực, kiểu mẫu. Thành tựu của nghệ thuật cổ đại Hy Lạp – La Mã được các nhà cổ điển chủ nghĩa tiếp nhập như những chuẩn mực, những kiểu mẫu để noi theo. Trong các nền văn học tiên tiến châu Âu, chủ nghĩa cổ điển được khẳng định và thống trị văn học trong hai thế kỷ XVII – XVIII. Nó hướng tới mục đích ủng hộ nền quân chủ, vì lợi ích của đất nước và dân tộc. Bởi vậy, cảm hứng công dân, những chủ đề ái quốc, anh hùng chiếm vị trí quan trọng trong thơ ca. Cũng bởi vậy, vang lên giọng điệu “ngợi ca” trang trọng trong các bản tụng ca viết về những vị quân vương lý tưởng, các dũng tướng, các nhà hoạt động chính trị kiệt xuất – những người đã đặt việc phụng sự quốc gia lên trên cuộc sống cá nhân. Lý tưởng của nghệ thuật mang tinh thần công dân cao cả đã được nhắc đến trong các công trình của các triết gia cổ đại, như Platon, Aristotle. Mỹ học cổ đại cũng đòi hỏi một sự hài hòa trong thơ ca, tức là sự tương hợp giữa hình thức và nội dung tác phẩm.
Tuy nhiên, chủ nghĩa cổ điển Nga có những đặc điểm riêng của mình. Nó sinh ra muộn màng (chỉ đến năm 1740 mới thực sự trở thành một trào lưu nghệ thuật, trong khi lúc đó chủ nghĩa cổ điển Pháp đã bước sang thế kỷ tồn tại thứ hai), và vì thế sống cũng ngắn ngủi hơn (đến lúc giao thời giữa hai thế kỷ XVIII-XIX, nó đã trở thành, như cách ví von của Belinsky, “một cái thây bám theo chân người sống[3]) và cũng sống với nhịp độ gấp gáp hơn. Chủ nghĩa cổ điển Nga vừa mang tinh thần của chủ nghĩa duy lý, chủ nghĩa tuyệt đối (absolutism) đề cao nền quân chủ chuyên chế của thế kỷ XVII, vừa mang tinh thần Ánh Sáng của thế kỷ XVIII. Chủ nghĩa cổ điển Nga ít hướng tới các khuôn mẫu cổ đại Hy La, mà thường quay về các chủ đề của dân tộc. Các nhà thơ Nga cũng thường cho phép mình vượt ra ngoài những quy tắc nghiêm ngặt của chủ nghĩa cổ điển.
Trong thơ ca của chủ nghĩa cổ điển, tụng ca được xem là thể loại hàng đầu. Chúng tôi tạm dùng thuật ngữ tiếng Việt “tụng ca”, dù thấy đây là cách dịch không thành công, bởi ode – trong tiếng Hy Lạp cổ nghĩa là bài ca. Thời cổ đại, ode ban đầu chưa mang ý nghĩa của một thuật ngữ, nhưng rồi nó được dùng để chỉ những bài đồng ca trữ tình chủ yếu được viết theo khổ, trang trọng, cao nhã, mang tính giáo huấn. Thời Phục hưng và Baroque (thế kỷ XVI-XVII), từ này được sử dụng chủ yếu cho loại thơ trữ tình bi tráng, cao cả, dựa theo hình mẫu của các nhà thơ cổ đại (như Pindar[4], Horace[5]). Đến thời đại của chủ nghĩa cổ điển, tụng ca trở thành thể loại của phong cách bậc cao với những chủ đề mang tính quy điển (như ca tụng Chúa, ca tụng tổ quốc, ca tụng sự khôn ngoan trong cuộc sống,…). Có các loại: tụng ca ca ngợi, tụng ca tín ngưỡng, có tụng ca trang trọng (mang phong cách Pindar), tụng ca giáo huấn (mang phong cách Horace), tụng ca tình yêu (mang phong cách Anacreon).
Thuật ngữ tụng ca được đưa vào thơ ca Nga nhờ công của Trediakovsky, còn bản thân Trediakovsky thì lại vay mượn từ Boileau. Trong bài báo “Bàn về tụng ca”, Trediakovsky đã nêu đặc điểm của thể loại này như sau: “Tụng ca luôn nhất định phải lấy đề tài từ những sự kiện cao cả, quan trọng, phải đặc biệt êm ái và dễ chịu, được viết bằng ngôn từ hết sức nghệ thuật và kỳ diệu”. Mặc dù Trediakovsky và Lomonosov là hai đối thủ kình địch nhau, nhưng những nhận xét về đặc điểm của tụng ca nói trên của Trediakovsky lại được rút ra từ kinh nghiệm sáng tác tụng ca của Lomonosov.
Tụng ca của Lomonosov, từ tác phẩm đầu tiên là tụng ca “Về cuộc đánh chiếm Khotin” năm 1739 trở đi, đều là những kiểu mẫu cho tụng ca Nga với khổ thơ 10 câu và thể iamb 4 chân (Tuy nhiên, thể thơ này được sử dụng chủ yếu cho loại tụng ca mang tinh thần ca ngợi, những loại khác như tụng ca tôn giáo, tụng ca triết học, và về sau là tụng ca giáo huấn đa phần không dựa theo kiểu mẫu này). Những buổi lễ đăng quang của Nga hoàng, lễ hạ thủy tàu, những vũ hội, những cuộc đến hay đi của hoàng gia, những lễ tên thánh, sinh nhật và đủ các loại lễ lạt khác đều có thể trở thành cảm hứng sáng tác cho nhà thơ. Viết tụng ca “nhân các sự kiện” cụ thể như vậy, thực chất đối tượng mô tả nghệ thuật của Lomonosov chính là đời sống của nước Nga nửa đầu thế kỷ XVIII. Những cải cách của hoàng đế Pyotr I đã tạo nên những biến đổi to lớn trong lịch sử Nga, và nửa đầu thế kỷ XVIII mà đất nước và dân tộc Nga đã trải qua, đối với nhà thơ là cả một thời đại của dân tộc – thời đại Pyotr, thời đại “hóa thân vĩ đại”: từ một công quốc Moskva nhỏ bé, nước Nga biến thành một cường quốc sánh ngang với các nước lớn trên vũ đài quốc tế. Lomonosov trở thành nhà thơ của thời đại đó. Ý thức về dân tộc, quan tâm đến những vấn đề của thời đại, đến tương lai của đất nước và dân tộc – điều đó đã trở thành một truyền thống trong văn học Nga, mà Lomonosov là người khởi đầu, với những thành tựu tụng ca của mình.
Bên cạnh phong cách ngôn từ trang trọng, tụng ca của Lomonosov còn là một thế giới vạn hoa của những hình tượng. Có thể gặp những hình tượng đầy tính ẩn dụ ngay từ những dòng đầu tiên của mỗi bài tụng ca.
Ví dụ như bài tụng ca “Về cuộc đánh chiếm Khotin” (1739) mở đầu bằng những câu như sau:
Niềm vui bất ngờ tỏa sáng hồn tôi
Dẫn tôi lên đỉnh non cao vời vợi
Nơi ngọn gió giữa rừng cây quên thổi
Nơi thung lũng sâu tĩnh lặng, im lìm
Có điều gì mà con suối lặng thinh
Chẳng như mọi ngày rạt rào ầm ĩ
Chảy xuống từ đồi cao không ngưng nghỉ
Những cành nguyệt quế kết lại thành vòng
Tiếng đồn vội vang xa khắp mọi phương
Trên những cánh đồng xa xa khói tỏa
Những hình tượng thiên nhiên ở đây đều mang ý nghĩa ẩn dụ, bắt nguồn từ các thần thoại Hy Lap: đỉnh non cao là núi Parnassus (Thi sơn) của thần Apollo, suối là con suối dưới chân Thi sơn, mang tên nàng nhân ngư Castalia đã trầm mình xuống đó để chạy trốn tình yêu của thần Apollo – chúng đều là những ẩn dụ liên quan đến sáng tác thơ ca (leo lên đỉnh Thi sơn), cảm hứng thơ ca (dòng chảy của con suối Castalia).
Một loại tụng ca tiêu biểu khác của Lomonosov là thơ triết lý về tự nhiên. Có thể nói đây là một hiện tượng đặc biệt trong thơ ca Nga và thậm chí là trong thơ ca thế giới.
Giống như đa phần các học giả tiên tiến thể kỷ XVIII, Lomonosov là người theo thuyết Tự nhiên thần luận (deism), tin rằng Chúa sáng tạo ra thế giới vật chất nhưng không can thiệp vào tiến trình tự nhiên của thế giới đó. Đôi mắt của nhà khoa học, đồng thời là nhà thơ ngỡ ngàng trước những hiện tượng thiên nhiên bí ẩn, huyền diệu, chẳng hạn như hiện tượng Bắc cực quang (hiện tượng quang học được đặc trưng bởi sự thể hiện đầy màu sắc của ánh sáng trên bầu trời về đêm ở Bắc cực). Dưới đây là bài tụng ca “Suy tưởng ban chiều về Đấng Tối cao nhân sự kiện Bắc cực quang” viết về hiện tượng này:

Bắc cực quang - ảnh minh họa



SUY TƯỞNG BAN CHIỀU VỀ ĐẤNG TỐI CAO NHÂN SỰ KIỆN BẮC CỰC QUANG


Ngày che đi khuôn mặt của mình
Bao phủ bình nguyên là đêm tối
Bóng đen tràn lên trên đỉnh núi
Ánh mặt trời chạy trốn nơi nao.
Bầu trời thẳm sâu đong đầy sao
Trời không đáy, sao nhiều không đếm xuể

Như hạt cát trôi trong sóng bể
Như đốm lửa lấp lóe trong băng
Như hạt bụi trong cơn cuồng phong
Như túm lông rơi vào lửa cháy
Tôi đắm trong vực thẳm kia không đáy
Tôi lạc đường trong mệt mỏi suy tư.

Miệng các nhà thông thái nói với chúng ta:
Ở nơi kia có rất nhiều thế giới,
Vô vàn mặt trời đang rực cháy
Có các sắc dân, các thế kỷ tuần hoàn:
Sức mạnh tự nhiên nơi đó ngang bằng
Trước vinh quang chung Đấng Tối cao vĩ đại.

Nhưng hỡi tự nhiên, luật của người đâu vậy?
Bình minh mọc lên từ những xứ sở đêm!
Có phải mặt trời đặt nơi đó ngai của mình?
Có phải những biển băng đang bốc lửa?
Kìa ánh hồng lạnh lùng đang bao phủ!
Kìa trên mặt đất ngày lấn chỗ của đêm!

Ôi các ngài, những kẻ với cái nhìn tinh nhanh
Thấu suốt cuốn sách những luật điều vĩnh cửu
Những kẻ mà một dấu hiệu nhỏ nhoi tí xíu
Cũng trở thành luật lệ của tự nhiên
Các ngài biết đường đi của mọi hành tinh
Hãy nói, điều gì khiến ta sao bối rối?

Điều gì khiến những tia sáng lung linh đêm tối?
Sao ngọn lửa mảnh mai mà sáng rọi bầu trời?
Làm sao tia chớp bay từ mặt đất đến đỉnh trời
Mà không có sấm gầm, mây phủ?
Làn hơi lạnh giá sao có thể
Sinh ra đám cháy giữa mùa đông?

Nơi đó nước tranh cãi với mù sương
Hay những tia nắng mặt trời lấp lánh
Nghiêng xuống chúng ta xuyên không gian đặc quánh
Hay những đỉnh núi phủ mây cháy rực hồng
Hay gió tây ngưng thổi ra biển mênh mông
Và những con sóng vào thinh không nhẹ vỗ.

Trong lời đáp của các ngài hoài nghi chất chứa
Về cái gì đang ở những chốn gần kề
Trái đất rộng là bao, hãy nói chúng tôi nghe?
Và cái gì nằm sau những vì sao bé nhất?
Không thể biết sáng tạo đâu hồi kết?
Hãy nói xem, Đấng Tối cao vĩ đại nhường nào?
(1743)

ВЕЧЕРНЕЕ РАЗМЫШЛЕНИЕ
О БОЖИЕМ ВЕЛИЧЕСТВЕ ПРИ СЛУЧАЕ ВЕЛИКОГО СЕВЕРНОГО СИЯНИЯ

Лице свое скрывает день;
Поля покрыла мрачна ночь;
Взошла на горы чорна тень;
Лучи от нас склонились прочь;
Открылась бездна звезд полна;
Звездам числа нет, бездне дна.

Песчинка как в морских волнах,
Как мала искра в вечном льде,
Как в сильном вихре тонкой прах,
В свирепом как перо огне,
Так я, в сей бездне углублен,
Теряюсь, мысльми утомлен!

Уста премудрых нам гласят:
Там разных множество светов;
Несчетны солнца там горят,
Народы там и круг веков:
Для общей славы божества
Там равна сила естества.

Но где ж, натура, твой закон?
С полночных стран встает заря!
Не солнце ль ставит там свой трон?
Не льдисты ль мещут огнь моря?
Се хладный пламень нас покрыл!
Се в ночь на землю день вступил!

О вы, которых быстрый зрак
Пронзает в книгу вечных прав,
Которым малый вещи знак
Являет естества устав,
Вам путь известен всех планет;
Скажите, что нас так мятет?

Что зыблет ясный ночью луч?
Что тонкий пламень в твердь разит?
Как молния без грозных туч
Стремится от земли в зенит?
Как может быть, чтоб мерзлый пар
Среди зимы рождал пожар?

Там спорит жирна мгла с водой;
Иль солнечны лучи блестят,
Склонясь сквозь воздух к нам густой;
Иль тучных гор верьхи горят;
Иль в море дуть престал зефир,
И гладки волны бьют в эфир.

Сомнений полон ваш ответ
О том, что окрест ближних мест.
Скажите ж, коль пространен свет?
И что малейших дале звезд?
Несведом тварей вам конец?
Скажите ж, коль велик творец?

 Tiến sỹ: Trần Thị Phương Phương

[1] Lomonosov M. Thư về các quy tắc sáng tác thơ Nga (Письмо о правилах российского стихотворства). Sách trên, tr.465.
[2] Belinsky V. Sáng tác của Alexandr Pushkin. Bài báo thứ nhất: “Tổng quan văn học Nga từ Dezhavin đến Pushkin” (Trong: Belinsky V. Hợp tuyển tác phẩm gồm 3 tập, F.M.Golovenchenko tổng chủ biên, tập 3, Moskva, 1948. Nguồn trên Internet: http://az.lib.ru/b/belinskij_w_g/text_0120.shtml)
[3] Dẫn theo: Dushina L.N. Thơ ca Nga thế kỷ XVIII, http://www.licey.net/lit/poet18. Tác động của các bài viết của Belinsky đã gây nên một thái độ không thiện cảm đối với chủ nghĩa cổ điển trong giới phê bình văn học Nga thế kỷ XIX, điều này chỉ đến thời Xô viết mới khắc phục được.

[4] Pindar (Pindaros, khoảng 522- 443 trước CN), nhà thơ cổ đại Hy Lạp, được các nhà ngữ văn thời Alexandria đưa vào danh sách 9 nhà thơ kinh điển, tác giả của các bài hát đồng ca (choral lyrics) ca tụng thần linh, ca tụng chiến thắng trong các cuộc tranh tài Olympic.
[5] Horace (Quintus Horatius Flaccus, 65-8 trước CN), nhà thơ của “thời đại vàng” trong văn chương La Mã. Tác phẩm của Horace mang đậm chất triết lý và giáo huấn.

MIKHAIL LOMONOSOV VÀ BÀI TỤNG CA  SUY TƯỞNG BAN CHIỀU VỀ HIỆN TƯỢNG BẮC CỰC QUANG - 

Trần Thị Phương Phương biên soạn và giới thiệu

-71:Ignacy Lukasiewicz
Ignacy_Lukasiewicz_1143.jpg 
1802-1882
Ba Lan
Hóa Học, Phát Minh
 

Đèn Hoa Kỳ là đèn gì?

Đèn Hoa Kỳ, tức là đèn dầu, là một loại đèn phát sáng do ngọn lửa đốt bằng dầu hỏa. Đèn có tên là đèn Hoa Kỳ, do trước kia một hãng dầu lửa của Mỹ (Hoa Kỳ) mang dầu sang bán ở Việt Nam, để tiếp thị, hãng này (hãng Shell) đã phát không đèn dầu cho người mua dầu, do đó xuất hiện cái tên đèn Hoa Kỳ. ...

Đèn Hoa Kỳ, tức là đèn dầu, là một loại đèn phát sáng do ngọn lửa đốt bằng dầu hỏa. Đèn có tên là đèn Hoa Kỳ, do trước kia một hãng dầu lửa của Mỹ (Hoa Kỳ) mang dầu sang bán ở Việt Nam, để tiếp thị, hãng này (hãng Shell) đã phát không đèn dầu cho người mua dầu, do đó xuất hiện cái tên đèn Hoa Kỳ. Và dần dần, đèn Hoa Kỳ thay thế những loại đèn phổ biến ở Việt Nam vào xã hội thời bấy giờ như đĩa đèn dầu lạc và những ngọn bạch lạp.Đèn Hoa Kỳ (đèn dầu)Chiếc đèn dầu đầu tiên được al-Razi (Rhazes) ở Baghdad thế kỉ 9 mô tả trong cuốn Kitab al-Asrar (Sách về các điều bí mật), ông gọi nó là "naffatah". Chiếc đèn dầu hiện đại do nhà phát minh người Ba Lan, Ignacy Łukasiewicz, chế tạo ra vào năm 1853.Đèn có một bầu đựng dầu, thường làm bằng kim loại hay thủy tinh, một sợi bấc, thường được dệt bằng sợi bông, đoạn dưới nhúng trong dầu để hút dầu lên trên, đoạn trên nhô lên khỏi bầu đèn và thường được chỉnh độ dài bởi một hệ thống núm vặn.Khi châm lửa vào phần nhô lên của bấc, dầu ngấm trong bấc sẽ cháy và tạo ra một ngọn lửa màu vàng. Khi dầu cháy, hiện tượng mao dẫn bên trong sợi bấc sẽ kéo thêm dầu từ dưới bầu đựng lên để tiếp tục cháy. Kích thước của ngọn lửa được điều khiển bằng cách chỉnh độ dài của phần bấc nhô lên. Núm vặn bấc cùng với trục sẽ làm quay một bánh răng kim loại có răng găm vào sợi bấc, nhờ đó sợi bấc bị kéo lên hoặc xuống tùy theo chiều vặn núm. Nếu bấc được vặn lên quá cao, ngọn lửa sẽ có khói (muội carbon chưa cháy hết).Chiếc đèn Hoa Kỳ độc bản được Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc mang đến Mỹ tặng Tổng thống Donald Trump nhân dịp sang thăm Mỹ từ 29-31/5/2017"Tròn đầy" là cảm hứng để Hội Quán Di Sản thiết kế ra mẫu đèn Hoa Kỳ nói trên. Hình tượng đòng lúa (lúa non) được chọn làm họa tiết chân đèn mang ẩn ý về nền văn hóa lúa nước. Họa tiết hoa sen biểu trưng cho tính hướng thiện của tâm hồn người Việt, tạo thành điểm nhấn từ cổ đèn kéo xuống đế. Trên bầu đèn là họa tiết cuốn thư và cờ Việt Nam - Mỹ với thông điệp mở rộng giao thương, tạo lập vững chắc về sự hợp tác toàn diện.Chiếc đèn Hoa Kỳ có thân cao 32 cm, đường kính 12 cm, thông phong (bóng đèn thủy tinh) cao 12 cm. Chất liệu gốm Bát Tràng phủ men thanh lưu ly tạo cảm giác sang trọng, thân thiện. "Các họa tiết hoa sen ở cổ đèn, đế đèn được nghệ nhân đúc thủ công từ đồng lá, tạo ra một vật phẩm quà tặng đầy ý nghĩa và thể hiện sự sáng tạo, tài hoa của thợ Việt"Chiếc đèn Hoa Kỳ độc bản được Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc mang đến Mỹ tặng Tổng thống Donald Trump nhân dịp sang thăm Mỹ từ 29-31/5/2017Ngọn lửa đèn được bảo vệ bằng bóng đèn hoặc chụp đèn bằng thủy tinh. Mục đích là để tránh bị gió thổi tắt, tránh gây cháy, và để tăng luồng không khí cung cấp cho ngọn lửa nhờ hiệu ứng nhiệt. Luồng gió này mang nhiều không khí (ôxi) thổi qua ngọn lửa, làm nó cháy sáng hơn là khi để ngọn lửa không có bóng chụp. Đèn dầu có thể có mùi nếu lửa cháy không đượm, thường là do sử dụng dầu không đúng loại hoặc dầu nhiễm bẩn.Sử dụngĐèn Hoa Kỳ (đèn dầu) đã từng được sử dụng rộng rãi trên thế giới trước khi các thiết bị chiếu sáng bằng điện được phổ biến. Ngày nay, ngoài các mục đích trang trí, chiếu sáng trong trường hợp khẩn cấp, hoặc tại các vùng xa xôi không có điện, đèn dầu hiếm khi được sử dụng tại các nước có mạng lưới điện và khí đốt phát triển.Việt NamĐèn dầu bắt đầu xuất hiện tại Việt Nam vào cuối thế kỉ 19 đầu thế kỉ 20, khi hãng dầu lửa Shell (thời đó gọi là hãng "con sò") của Mỹ mang dầu hỏa sang bán ở Việt Nam. Thời đó, người dân Việt Nam quen dùng dầu lạc hay nến (bạch lạp) để thắp sáng mà không quen dùng dầu hỏa. Để tiếp thị, hãng Shell phát không đèn dầu cho người mua. Do đó xuất hiện cái tên đèn Hoa Kỳ (đèn Huê Kỳ). Dần dần, đèn Hoa Kỳ thay thế những đĩa đèn dầu lạc và những ngọn bạch lạp. Ngày nay, ngoại trừ các vùng sâu vùng xa chưa có lưới điện quốc gia, đèn dầu không còn là loại phương tiện chiếu sáng thông dụng ở Việt Nam. Tuy nhiên, đèn dầu vẫn còn được đặt trên bàn thờ ở các gia đình hoặc đình chùa để "giữ lửa" và để lấy lửa thắp hương trong các kì cúng lễ hay giỗ chạp. Đèn dầu cổ đã trở thành một thú chơi cho những người sưu tập.Đèn dầuCác loại đèn dầu đặc biệtĐèn bãoĐèn bão là loại đèn có hệ thống chụp và ống thông hơi phục vụ mục đích chiếu sáng ngoài trời trong điều kiện gió mạnh mà không bị thổi tắt.Hình ảnh đèn bão:Đèn bãoĐèn bãoĐèn măng-sông là đèn gì?
Đèn Hoa Kỳ dùng dầu hỏa, đèn măng sông dùng xăng, có bơm cao áp (bơm bằng tay) và phun xăng dưới dạng sương mù vào bấc được làm bằng sợi Amiăng, nếu dụng tay vào bấc đèn măng sông nó sẽ tan thành tro, vì nó tồn tại dưới dạng tro đã bị cháy. Đèn măng sông sáng trắng, 1 đám cưới chỉ cần khoảng 3 đèn Măng sông là đủ.

-72:Dmitri Mendeleev
Dmitri_Ivanovich_Mendeleev_1159.jpg 
1834-1907
Nga
Hóa Học

Mendeleep - nhà bác học vĩ đại của nhân loại

Mendeleev - nhà hóa học, nhà hoạt động xã hội, nhà sư phạm nổi tiếng nước Nga. Cống hiến vĩ đại nhất của ông là nghiên cứu ra Bảng hệ thống tuần hoàn các nguyên tố hóa học (còn gọi là Bảng tuần hoàn Mendeleev). Đây là một cống hiến xuyên thời đại đối với lĩnh vực hóa học, là chìa khóa dẫn đến sự phát minh nhiều nguyên tố hóa học mới, là kim chỉ nam cho những nghiên cứu trong hóa học nói chung. Người sau mệnh danh ông là “thần cửa của khoa học Nga” (door - god). Nhân kỷ niệm 100 năm ngày mất của Mendeleev, Tạp chí Hoạt động Khoa học xin giới thiệu đôi nét về ông và công trình vĩ đại này.
Dmitri Ivanovich Mendeleev (1834-1907) - cha đẻ của Bảng tuần hoàn các nguyên tố hóa học, sinh tại thành phố Tobolsk (Siberia), là người con thứ 16 trong một gia đình có 17 người con. Cha ông là hiệu trưởng một trường trung học phổ thông trong thành phố. Từ thủa nhỏ, ông đã bộc lộ khí chất thông minh, bản lĩnh cương nghị, bộc trực. Sống trong tình yêu thương và sự dạy dỗ của mẹ và các anh chị (cha ông qua đời sớm) - những người thầy đầu tiên của ông, Mendeleev luôn tâm niệm: “Mọi thứ trên đời đều là khoa học. Mọi thứ trên đời đều là nghệ thuật. Mọi thứ trên đời đều là sự yêu thương”.
Năm 1849, cả gia đình ông chuyển lên Moscow và vào mùa thu năm 1850, ông bắt đầu theo học chuyên ngành khoa học tự nhiên tại Đại học Tổng hợp St. Petersburg. Việc học hành của ông tiến triển rất tốt nhưng vào năm thứ 3, ông có dấu hiệu bị bệnh lao và phải nằm liệt giường một thời gian dài. Tuy nhiên, nhờ nỗ lực của bản thân, sự động viên, giúp đỡ của giáo sư trực tiếp giảng dạy và các bạn cùng lớp, sức khỏe của ông đã khôi phục dần và ông đã tốt nghiệp với tấm bằng loại ưu vào năm 1855. Muốn mở mang tầm nhìn, ngao du thiên hạ, cùng năm đó, ông chuyển đến Simferopol (gần Hắc Hải) làm giáo viên trung học. Năm đó ông 21 tuổi.
Năm 1856, ông quay trở lại Đại học Tổng hợp St. Petersburg tiếp tục công tác giảng dạy và nghiên cứu của mình. 3 năm sau, ông bảo vệ thành công luận án phó tiến sỹ với đề tài “Thể tích riêng”. ông đã sang Đức làm việc 2 năm. Sau khi trở về Nga, ông được phong giáo sư chính thức của Đại học Tổng hợp St. Petersburg. ở đây, ông tiến hành công tác giảng dạy và nghiên cứu khoa học trong vòng 35 năm. Năm 1892, ông được Nga hoàng bổ nhiệm làm phụ trách khoa học bảo toàn của Trạm cân đo mẫu. Theo sáng kiến của ông, vào năm 1893, Trạm này được cải tiến thành Viện đo lường.
Công trình xuất sắc của Mendeleev là cuốn “Cơ sở hóa học”, trong đó toàn bộ hóa học vô cơ được trình bày theo quan điểm định luật tuần hoàn. Nó có giá trị trang bị cho các nhà khoa học những kiến thức đúng đắn và chính xác khi bước vào nghề. Một số công trình nổi tiếng khác của ông là: “Nghiên cứu trọng lượng riêng của dung dịch nước”, luận án tiến sĩ “về hợp chất của rượu với nước”… Tất cả được tập hợp thành 25 tập sách dày - một bộ “Bách khoa toàn thư” thực sự.
Không chỉ là một nhà khoa học lỗi lạc với những công trình về hóa học, Mendeleev còn rất xuất sắc ở nhiều lĩnh vực khác. ông đã hệ thống hóa các tri thức tản mạn về hiện tượng đồng hình, nhờ đó đã phát triển môn địa hóa học. Nhờ phát hiện nhiệt độ sôi tới hạn, ông đã xây dựng thuyết hydrat hóa của dung dịch, do đó xứng đáng được xem như một nhà hóa lý kiệt xuất. Với những công trình nghiên cứu sâu sắc về tính chất các khí loãng, ông đã tỏ ra là một nhà vật lý thực nghiệm lỗi lạc. Mendeleev đã đề xuất thuyết nguồn gốc vô cơ của dầu mỏ, cho đến nay vẫn được nhiều người ủng hộ. ông còn nghiên cứu quá trình chế tạo thuốc súng không khói, sự du hành trên tầng cao của khí quyển, khí tượng học, hoàn thiện kỹ thuật đo lường. Ngoài ra, ông còn là một nhà công nghệ tài năng với các phương pháp khai thác dầu mỏ, các quy trình sản xuất hóa chất; một nhà sư phạm lỗi lạc, đào tạo ra nhiều nhà khoa học lớn; một trong những người có trình độ văn hóa cao nhất của thời đại ông…
Mặc dù được cả thế giới ngưỡng mộ nhưng ông lại bị chế độ Sa hoàng bài xích. Là một nhà khoa học chân chính, không chịu khuất phục trước bất cứ âm mưu nào, Mendeleev đã tham gia biểu tình phản đối Sa hoàng. Bọn tay chân của Sa hoàng đã dùng thủ đoạn bỉ ổi để thao túng không cho ông được vào Viện Hàn lâm Khoa học Nga. Các nhà khoa học chân chính trên khắp thế giới hết sức phẫn nộ. Một nhà khoa học người Đức đã viết thư gửi Mendeleev, trong thư nói rằng: “Tôi bày tỏ sự cảm thông sâu sắc tới ông. Thế nhưng, ông hãy tin rằng, thế lực phản động đen tối không thể bưng bít được tiếng nói của các nhà khoa học”. Gần như tất cả các trường đại học ở Nga đều chọn ông làm giáo sư danh dự, các viện hàn lâm khoa học nổi tiếng như: Viện Hàn lâm Khoa học Luân Đôn, Pari... đã mời ông làm viện sỹ danh dự.
Xúc động trước tấm lòng của mọi người đối với mình, ông nói: “Tôi hiểu sâu sắc rằng, đây không chỉ là niềm vinh dự đối với tôi mà còn là niềm vinh dự đối với nhân dân Nga”.
Bảng tuần hoàn các nguyên tố hóa học
Năm 1869, ông thiết lập bảng phân loại những nguyên tố dựa trên khối lượng nguyên tử và trên tính tuần hoàn về tính chất vật lý và hoá học của chúng, gọi là Bảng phân loại tuần hoàn các nguyên tố. Bản gốc chỉ có 63 nguyên tố. Một năm sau khi ông mất, Bảng đã có 86 nguyên tố.
Khi Mendeleev viết “Nguyên lý hóa học”, ông nghĩ chắc chắn giữa 63 nguyên tố này nhất định có những quy luật biến hóa thống nhất, vì theo ông, tất cả các sự vật trên thế giới đều liên quan với nhau. ông đã viết tên, nguyên tử lượng, tính chất hóa học của 63 nguyên tố này lên 63 chiếc thẻ. ông đã xếp đi xếp lại nhiều lần những chiếc thẻ này trên bàn. Bỗng nhiên, ông phát hiện ra rằng, nếu xếp những chiếc thẻ này theo thứ tự các nguyên tử lượng của các nguyên tố từ bé đến lớn thì sẽ xuất hiện một sự biến hóa mang tính liên tục rất kỳ lạ, nó “giống như một bản nhạc kỳ diệu”. Mendeleev không giấu nổi niềm vui, ông tin tưởng chắc chắn rằng, quy luật này chứng tỏ quan hệ của vạn vật trên thế giới này là tất nhiên và có luật tuần hoàn của chúng. Tuy nhiên, vẫn còn các nguyên tố vẫn phải để trống. Mặc dù, ông đã công bố công trình của mình để các nhà khoa học trên khắp thế giới kiểm nghiệm, nhưng suốt 4 năm sau đó, không một tuyên bố nào được đưa ra, không một nguyên tố mới nào được phát hiện.
Năm 1875, Viện Hàn lâm Khoa học Pari nhận được thư của một nhà khoa học, trong thư nói rằng ông đã tạo ra được một nguyên tố mới có tính chất giống như nhôm với nguyên tử lượng là 59,72, tỷ trọng là 4,7 (tạm gọi là Gali) trong quặng kẽm trắng. Mendeleev đã rất sửng sốt khi nghe được tin này. 4 năm trước đấy, ông đã dự đoán có một nguyên tố thế này nhưng cụ thể thế nào thì chưa tìm ra được. Tuy nhiên, theo cách tính của Bảng tuần hoàn thì nguyên tử lượng của nguyên tố tiếp theo nhôm phải là khoảng 68, tỷ trọng phải là 5,9-6,0. ông lập tức viết thư cho Viện Hàn lâm Khoa học Pari nói ý kiến của mình. Bức thư được chuyển đến tay nhà khoa học đã công bố phát hiện ra Gali. ông đã tiến hành xác định lại một lần nữa những số liệu trên, kết quả vẫn không thay đổi.
Không hề nản lòng, Mendeleev lại viết tiếp một bức thư gửi cho nhà khoa học Pháp nọ. Lời lẽ trong thư hết sức tự tin, hình như không phải là đang nói đến nguyên tố mới, mà là đang làm một bài toán: “4 + ( ) = 10” buộc nhà khoa học nọ một lần nữa phải kiểm tra lại các thông số của mình. Kết quả lần này đã hoàn toàn thay đổi. Đúng như những gì Mendeleev dự đoán: Tỷ trọng của Gali là 5,94. Một sự trùng hợp kinh ngạc!
Giới khoa học đã phải sững sờ sau sự thành công của sự kiện này. Bảng tuần hoàn nhanh chóng được dịch thành nhiều thứ tiếng và truyền bá khắp thế giới. Bảng tuần hoàn các nguyên tố hóa học trên 100 năm qua đã là chìa khóa dẫn đến việc phát minh nhiều nguyên tố hóa học mới.
Vài năm sau đó, một nhà khoa học người Thụy Điển đã phát hiện một nguyên tố mới khác (gọi là “Scanđi”). Khi tiến hành nghiên cứu về nguyên tố này, các nhà khoa học đã phát hiện ra “Scanđi” chính là nguyên tố nằm trong “nhóm của Bo” mà Menđêlêep đã dự đoán. Một lần nữa, giới khoa học lại ngả mũ trước Mendeleev. Lý luận về quy luật tuần hoàn các nguyên tố của ông không chỉ có thể dự kiến vị trí cho các nguyên tố chưa tìm ra mà còn có thế biết trước được tính chất quan trọng của chúng.
Bảng tuần hoàn các nguyên tố hóa học của Mendeleev đã trở thành bộ sách giáo khoa kinh điển được thế giới công nhận. Một nhà khoa học đã viết về ông: “Trong lịch sử hóa học, ông dùng một chủ đề đơn giản mà gọi ra được cả thế giới”.
Để ghi nhớ công lao to lớn của ông, một nhóm các nhà vật lý Mỹ, đứng đầu là G. T. Seaborg đã đặt tên cho nguyên tố hóa học thứ 101 do họ tổng hợp được năm 1955 là Mendelevi (Mendelevium).
Những hạn chế của Mendeleev
Không ai có thể phủ nhận, Bảng tuần hoàn các nguyên tố hóa học của Mendeleev là phát hiện có tính cách mạng trong lĩnh vực hoá học. Nhưng, có một hạn chế là ông không thoát khỏi ảnh hưởng của những quan niệm truyền thống - nguyên tố hóa học không thể chuyển hoá, không thể phân chia. Cuối thế kỷ XIX, một cuộc cách mạng mới nổ ra khi các nhà khoa học tìm ra các nguyên tố phóng xạ và điện tử, chỉ ra sự biến đổi từ lượng sang chất của nguyên tử thì Mendeleev lại ra sức phủ định tính phức tạp của nguyên tử và sự tồn tại khách quan của điện tử. Việc phát hiện ra nguyên tố phóng xạ rõ ràng chứng tỏ nguyên tố có thể chuyển hoá, nhưng ông lại tuyên bố: “Khái niệm nguyên tố không thể chuyển hoá là hết sức quan trọng, là cơ sở của cả thế giới quan”. Với các kiểm định nghiêm túc trên cơ sở những phát hiện vĩ đại về nguyên tố phóng xạ và điện tử, các nhà khoa học đã từng bước vạch ra bản chất của định luật tuần hoàn các nguyên tố hoá học. Họ dựa vào những nội dung hợp lý trong định luật tuần hoàn Mendeleev để đưa ra định luật tuần hoàn mới, khoa học hơn so với lý luận của ông. Từ đó giải quyết được vấn đề mà Mendeleev còn bỏ ngỏ.
 Ông là nhà hoá học Nga,đã phát minh định luận tuần hoàn các nguyên tố hoá học.
Năm 1955,các nhà vật lý Mỹ đứng đầu là Sibo (G.Seaborg) tổng hợp được nguyên tố hoá học có số thứ tự 101.Họ đặt tên nguyên tố này là Mendelevi để công nhận sự cống hiến của nhà bác học Nga vĩ đại.Hệ thống tuần hoàn do ông thiết lập hơn một trăm năm nay là chìa khoá dẫn đến sự phát minh nhiều nguyên tố hoá học mới.
 Định luật tuần hoàn và hệ thống tuần hoàn là cống hiến quan trọng nhất của D.I.Mendeleep trong sự phát triển khoa học tự nhiên.Nhưng đó chỉ là một phần trong di sản sáng tạo to lớn của nhà bác học.Toàn bộ sáng tác của ông gồm tới 25 tập sách.Đây là một bộ bách khoa toàn thư thực thụ.
 Mendeleep hệ thống hoá những tri thức tản mạn về hiện tượng đồng hình,và điều đó đã có tác dụng phát triển hoá địa.Ông phát hiện nhiệt độ sôi tới hạn,trên nhiệt độ này chất không thể tồn tại ở trạng thái lỏng,ông xây dựng thuyết hiđrat về dung dịch và do đó xứng đáng được coi là nhà hoá lý xuất sắc.Khi tiến hành những nghiên cứu sâu về tính chất các khí loãng,ông đã chứng tỏ là một nhà vật lý thực nghiệm xuất sắc.Mendeleep đề xuất thuyết nguồn gốc vô cơ của dầu mỏ,thuyết này cho đến nay vẫn được nhiều người ủng hộ;nghiên cứu quá trình chế thuốc súng không khói;nghiên cứu sự du hành trên những tầng cao của khí quyển,khí tượng học,hoàn thiện kĩ thuật đo lường.Khi là người lãnh đạo Viện đo lường trung ương ,ông đã có nhiều đóng góp để phát triển kỹ thuật đo lường.Nhờ những cống hiến khoa học của mình,Menđeleep được bầu làm Viện sĩ của hơn 50 Viện hàn lâm và Hội khoa học ở nhiều nước trên thế giới.
 Theo lời ông,ông coi hoạt động khoa học là "sự phục vụ đầu tiên đối với tổ quốc".
 Sự phục vụ thứ hai là hoạt động sư phạm.Menđeleep là tác giả của sách giáo khoa "Cơ sở hoá học",khi ông còn sống,cuốn sách này đã trải qua 8 lần xuất bản và nhiều lần được dịch ra tiếng nước ngoài.Menđeleep giảng dạy ở nhiều trường thuộc Petecbua.Vào cuối đời,ông viết: "Trong số hàng nghìn học sinh,nhiều người hiện nay là những nhà hoạt động có tiếng ở khắp nơi,và mỗi khi gặp học sinh cũ,bao giờ tôi cũng nghe nói rằng tôi đã gieo hạt giống tốt trong con người họ chứ không chỉ đơn thuần làm tròn nghĩa vụ của mình".
 "Sự phục vụ thứ ba đối với Tổ quốc" trong môi trường công nghiệp và nông nghiệp thật là đa dạng và hữu ích.Ở đây,Menđeleep tỏ ra là một người yêu nước chân chính,quan tâm đến sự phát triển và tương lai của nước Nga.Tại điền trang Boblôvo của ông,Menđeleep tiến hành "những thí nghiệm trồng lúa mì".Ông nghiên cứu chi tiết các phương pháp khai thác dầu mỏ và nêu nhiều chỉ dẫn quí báu nhằm hoàn thiện công việc này.Ông thường xuyên đi sâu tìm hiểu những nhu cầu sống còn của công nghiệp,thăm những công xưởng,nhà máy,khu mỏ và hầm mỏ.Uy tín của Menđeleep lớn đến mức ông thường xuyên được mời làm chuyên gia để giải quyết những vấn đề kinh tế phức tạp.
 Trước khi mất không lâu,ông cho xuất bản cuốn sách "Để nhận thức nước Nga",trong đó ông vạch ra một chương trình rộng lớn phát triển những lực lượng sản xuất của đất nước.
 "Hạt giống khoa học sẽ nảy mầm cho mùa gặt của nhân dân",đó là khẩu hiệu của toàn bộ hoạt động của nhà bác học.
 Menđeleep là một trong những người có trình độ văn hoá cao nhất thời đại ông.Ông quan tâm sâu sắc đến văn học và nghệ thuật,xây dựng một bộ sưu tập khổng lồ phiên bản tranh của các hoạ sĩ thuộc nhiều nước và nhiều dân tộc.Những nhà hoạt động văn hoá xuất sắc thường gặp nhau ở nhà ông.

5 phát minh ra đời từ giấc mơ

Sự nghiệp vĩ đại của Einstein là sự chiêm nghiệm kéo dài của ông dựa trên một giấc mơ thời niên thiếu. Máy khâu công nghiệp ra đời từ một cơn ác mộng của nhà phát minh Elias Howe.

Dmitri Mendeleev muốn sắp xếp 65 nguyên tố hóa học đã biết theo một cách nào đó. Ông nhận thấy có một mô hình để phân biệt chúng và cần phải làm gì đó với trọng lượng của các nguyên tử. Tuy nhiên, ông vẫn không thành công cho đến khi mơ một giấc kỳ lạ.
"Trong giấc mơ tôi thấy một tấm bảng, nơi tất cả các nguyên tố được đặt vào chỗ theo yêu cầu. Khi tỉnh dậy, tôi ngay lập tức viết nó vào giấy", Mendeleev nói.
1-7032-1433831792.jpg
Dmitri Mendeleev mơ thấy bảng các nguyên tố hóa học. Ảnh: Pin Words
Việc sắp xếp các nguyên tố mà Mendeleev thấy trong giấc mơ rất chính xác. Thậm chí nó còn tiết lộ rằng, số liệu đo của một vài nguyên tố không chính xác. Đặc biệt hơn, bảng tuần hoàn cũng giúp giới khoa học dự đoán những nguyên tố mới chưa được biết đến dựa trên trọng lượng nguyên tử.
Mô hình nguyên tử
Mô hình nguyên tử của Bohr mô tả nguyên tử gồm một hạt nhân nhỏ mang điện tích dương và các electron di chuyển xung quanh trên những quỹ đạo khác nhau. Điều này tương tự cấu trúc của hệ Mặt Trời nhưng lực hấp dẫn được thay bằng lực tĩnh điện.
"Niels Bohr cho biết ông phát triển mô hình nguyên tử dựa vào giấc mơ ngồi trên Mặt Trời cùng với tất cả các hành tinh bay xung quanh nó trên một sợi dây thừng nhỏ", Edwina Portocarrero, Viện Công nghệ Massachusetts (MIT), từng viết.
Máy khâu
Elias Howe thường được cho là người phát minh ra chiếc máy khâu. Trên thực tế, ông đã cải tiến đáng kể những thiết kế trước đó và nhận bằng sáng chế của Mỹ cho chiếc máy khâu sử dụng thiết kế lockstitch. Trước khi thành công, Howe dành nhiều thời gian để chế tạo chiếc máy may công nghiệp, nhưng tất cả đều đi vào ngõ cụt. Cuối cùng ông cũng hoàn thành phát minh nhờ vào giấc mơ của mình.
3-6690-1433831792.jpg
Elias Howe phát minh ra máy khâu nhờ giấc mơ. Ảnh: Pin Words
Howe nằm mơ phải chế tạo chiếc máy may cho một vị vua man rợ ở đất nước xa lạ. Vị vua yêu cầu phải hoàn thành nó trong 24 giờ. Do không hoàn thành đúng thời hạn nên ông bị đem đi xử tử. Trong lúc thi hành án, Howe nhận thấy binh lính cầm cây giáo có lỗ xuyên qua ở phần đầu. Ngay lập tức ông phát hiện ra cách giải quyết vấn đề và tỉnh dậy lúc 4 giờ sáng.
Howe nhảy ra khỏi giường rồi nhanh chóng chạy tới xưởng chế tạo. Ông quyết định từ bỏ nguyên lý may thủ công (lỗ xỏ chỉ may nằm ở đầu đối diện với đầu nhọn của kim). Howe thiết kế một loại kim cong, có lỗ kim để luồn chỉ ở đầu nhọn, phối hợp với con suốt chỉ tạo nên đường may.
Tốc độ ánh sáng
"Einstein nói toàn bộ sự nghiệp của ông là sự suy ngẫm kéo dài dựa trên một giấc mơ của ông vào thời thiếu niên", mục sư John W. Price nói trong buổi phỏng vấn với John H. Lienhard, giáo sư danh dự về kỹ thuật cơ khí và lịch sử tại Đại học Houston.
Trong giấc mơ, Einstein thấy mình cưỡi trên chiếc trượt tuyết đang xuống dốc rất nhanh. Khi Einstein và chiếc xe di chuyển gần bằng tốc độ ánh sáng, tất cả các màu sắc pha trộn thành một. Sau này, ông dành phần lớn sự nghiệp của mình để suy nghĩ về những gì xảy ra ở tốc độ ánh sáng.
Cấu trúc phân tử của benzen
Friedrich August Kekulé phát triển một lý thuyết về cấu trúc hóa học liên quan đến trật tự liên kết của các nguyên tử trong phân tử. Đây là điều không thể thiếu cho sự phát triển của hóa học hữu cơ. Ông phát hiện ra cấu tạo dạng vòng của benzen khi ngủ gật trên xe buýt.
5-2132-1433831792.jpg
Friedrich August Kekulé phát hiện cấu tạo vòng benzen khi ngủ gật trên xe buýt. Ảnh: Pin Words
"Khi đang ngồi xe buýt qua những con phố vắng lặng, tôi chìm vào trạng thái mơ màng. Các nguyên tử nhảy nhót trước mắt tôi và luôn luôn chuyển động. Tôi thấy hai nguyên tử nhỏ liên kết với nhau theo cặp. Một nguyên tử lớn hơn gắn chặt với hai nguyên tử nhỏ hơn, đồng thời những nguyên tử lớn hơn liên kết với nhau thành chuỗi. Sau đó, tôi đã trải qua gần một đêm để xây dựng bản phác thảo dựa trên giấc mơ ra giấy", Kekulé nói.
Lê Hùng (Theo Epoch Times)

Bảng tuần hoàn nguyên tố hóa học của Mendeleyev ra đời từ giấc mơ?

  • 26/04/2017 | 22:34 GMT+7
  • 2.333 lượt xem
Đúng như vậy! Có một giấc mơ quan trọng đã xảy ra vào một đêm tháng 2/1869, liên quan đến “hiến pháp của vương quốc hóa học” – luật tuần hoàn các nguyên tố hoá học.

Bảng tuần hoàn nguyên tố hóa học của Mendeleyev ra đời từ giấc mơ?
Lúc đó người ta mới phát hiện được 63 nguyên tố hóa học, nhưng còn chưa rõ chúng sắp xếp như thế nào.
Các nhà khoa học luôn trăn trở, cho rằng nhất định các nguyên tố hóa học phải được sắp xếp thứ tự theo một quy luật nào đó. Giáo sư hóa học người Nga Dimitri Ivanovich Mendeleyev (1834-1907) lúc bấy giờ mới 35 tuổi, đã tìm tòi suy nghĩ rất nhiều về vấn đề này.
Một hôm, sự mệt mỏi khiến ông ngủ thiếp đi và ông đã mơ. Trong giấc mơ, Mendeleyev nhìn thấy một trang bảng biểu gồm nhiều ô, đồng thời lại thấy các nguyên tố hóa học đã lũ lượt theo nhau rơi vào từng ô thích hợp.
Khi bừng tỉnh, ông vội ghi lại ý tưởng thiết lập bảng sắp xếp nguyên tố này. Tính chất của các nguyên tố cũng tăng theo sự tăng dần của số thứ tự nguyên tử trong các ô và xuất hiện biến hóa có quy luật. Trong bảng mà Mendeleyev thiết lập, với những nguyên tố chưa biết, ông để lại ô trống và rất nhanh sau đó đã có những nguyên tố mới tìm ra được điền bổ sung vào các ô trống này.
Bảng tuần hoàn nguyên tố hóa học của Mendeleyev ra đời từ giấc mơ?
Dự đoán của Mendeleyev về tính chất của các nguyên tố sắp xếp thứ tự theo quy luật trong bảng khiến người ta phải kinh ngạc, đó chính là bảng tuần hoàn các nguyên tố hóa học Mendeleyev.
(Sưu tầm)
 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét