Thứ Bảy, 19 tháng 5, 2018

CÂU CHUYỆN TÌNH BÁO 229

(ĐC sưu tầm trên NET)
 
Hợp tác và va chạm giữa tình báo VN với tình báo Liên Xô
Liên Xô đã giúp đỡ Việt Nam về rất nhiều lĩnh vực trong thời chiến, vậy quan hệ giữa tình báo của Việt Nam với các cơ quan tình báo như KGB và GRU của Liên Xô thì thế nào?

Điệp viên hiếm hoi sống sót khi chạy trốn khỏi KGB

Năm 1991, khi Liên Xô sụp đổ, cơ quan tình báo của nước này là KGB cũng chính thức dừng hoạt động. Tuy nhiên, 16 năm kể từ khi không còn tồn tại, cái tên KGB vẫn thường xuyên được nhắc tới với sự ngưỡng mộ và nể trọng. Người đó là Oleg Gordievsky, một trong những điệp viên sừng sỏ nhất trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh, cũng là điệp viên quan trọng nhất của cơ quan tình báo Anh MI6 trong hàng ngũ tình báo Liên Xô KGB.
 >> Nữ điệp viên một chân từng khiến Hitler phát điên
 >> Nữ điệp viên Nga “quyến rũ chết người” từng bị lộ thân phận trên đất Mỹ
 >> Chuyện về siêu điệp viên “không bao giờ bị lộ”

Cuộc đào thoát ngoạn mục
Trong thùng của chiếc xe hiệu Ford chật hẹp, một người đàn ông 46 tuổi toát hết mồ hôi khi cố cởi chiếc áo khoác ngoài cho bớt nóng. Người đàn ông là một nạn nhân bị bắt cóc?
Không hề, ông ta đã chọn có mặt ở đó. Ông ta chưa từng gặp lái xe cũng như những người có mặt trên xe nhưng những người này đang là hy vọng sống sót duy nhất của ông ta. Bởi, nếu họ không thể đưa ông ta ra khỏi được nước Nga, ông ta sẽ bị đưa về Moscow và có thể phải lĩnh án tử hình do phản bội tổ quốc.
Ngược lại, ông ta sẽ an toàn nếu đặt chân được sang đất Phần Lan vốn chỉ còn cách đó vài km. Thế nhưng, để làm được điều này, đoàn xe phải vượt qua 5 trạm kiểm soát có sự hiện diện dày đặc của các nhân viên an ninh của Nga.
Khi những chiếc xe đi qua chốt thứ nhất, người đàn ông kéo “chiếc chăn” bằng bạc quanh người để tránh bị máy ảnh nhiệt của các lính gác phát hiện. Ở trong thùng xe, tim người đàn ông đập mạnh khi xe dừng lại trong vài phút và chỉ thở phào khi thấy xe tiếp tục lăn bánh. Trong 2 trạm kiểm soát sau đó, mọi việc khá suôn sẻ.
Tuy nhiên, đến trạm thứ 4, tình hình trở nên rắc rối khi những người lái xe được yêu cầu mang theo hộ chiếu vào một tòa nhà. Người đàn ông trong thùng xe không nhìn được nhưng ông ta biết chắc ở đó toàn là những hàng rào dây thép gai, tháp canh, lính gác và cả những khẩu súng. Khi những người lái xe vào xuất trình hộ chiếu ngoại giao thì 2 bà vợ ở ngoài chờ.
Trong một khoảnh khắc lạnh người, người đàn ông nghe thấy tiếng đánh hơi và tiếng sủa của những chú chó nghiệp vụ. Bị nhốt trong thùng xe nóng nực lại thêm căng thẳng khiến mồ hôi của ông ta vã ra như tắm nên chó nghiệp vụ chắc chắn sẽ đánh hơi ra. Và như vậy mọi thứ sẽ kết thúc.
Giây phút nghẹt thở, người đàn ông đã nghĩ đến tình huống xấu nhất thì bất ngờ những chú chó lại rời đi về phía chiếc xe ở phía trước. Nguyên nhân không phải ngẫu nhiên mà do người phụ nữ trên chiếc xe đã cố tình đánh đổ pho mát và hành tây chiên ra xe để đánh lạc hướng.
Cùng lúc này, người phụ nữ còn lại “vô tình” bế con ra ngoài, thay tã cho đứa trẻ ở ngay trên nắp thùng xe rồi cố ý vứt xuống đất, khiến mùi tã át cả mùi người.
Nhờ đó mà vài phút sau đó, chiếc xe đã được rời đi. Ở chốt kiểm soát cuối cùng, đoàn xe chỉ dừng lại trong chốc lát rồi đi. Bản nhạc Finlandia vang lên và người đàn ông biết được rằng điều đó có nghĩa là ông ta đã bỏ trốn thành công.
Đây là câu chuyện thực, xảy ra cách nay gần 33 năm. Và người đàn ông trong thùng xe có tên Oleg Gordievsky – điệp viên có giá trị nhất của MI6 tại KGB trong những năm tháng cuối thời kỳ Chiến tranh Lạnh.
“Át chủ bài” trong lòng KGB
Oleg Gordievsky sinh năm 1938 trong một gia đình có cả cha và mẹ đều là những cán bộ an ninh của Liên Xô. Thế nên cũng dễ hiểu khi ông ta chọn KGB là nơi làm việc sau khi tốt nghiệp Học viện Quan hệ quốc tế Moscow vào đầu thập niên 60.
Ít lâu sau khi được tuyển dụng, Gordievsky được cử sang Đan Mạch với tư cách là tùy viên của Đại sứ quán Liên Xô ở nước này. Song, đó chỉ là vỏ bọc để che giấu hoạt động tuyển mộ và tổ chức các điệp viên của KGB ở nước ngoài.
Theo các nguồn tin, Gordievsky bắt đầu phản bội nước Nga và làm việc cho cơ quan tình báo Anh MI6 từ năm 1974.
Trong vòng 3 năm kể từ đó, ông ta đã làm việc cho cả KGB lẫn MI6. Đặc biệt, do nắm được nội tình của cả 2 bên nên các thông tin mà ông ta cung cấp đều có giá trị và được trọng dụng. Cuối những năm 1970, Gordievsky bị triệu về nước làm việc nhưng đến tháng 6/1982, ông ta đã được điều tới London, Anh.

Oleg Gordievsky.
Oleg Gordievsky.

Để hỗ trợ cho hoạt động 2 mang của Gordievsky, tình báo Anh đã dần đẩy các nhân viên tình báo của KGB tại nước này về nước. Trong tình thế đó, vì không muốn kích động một cuộc chiến visa người Anh, KGB đã phải đưa Gordievsky lên giữ chức phụ trách các hoạt động tình báo của Liên Xô tại Anh.
Việc này, ngoài việc giúp Gordievsky tiếp cận được nhiều thông tin còn giúp ông ta ít có nguy cơ bị tố giác hay bị phát hiện hơn. Quả thực, các thông tin mà Gordievsky đã giúp tình báo Anh vạch mặt được 25 điệp viên của Liên Xô hoạt động tại nước này.
Ngoài ra, ông ta cũng giúp Anh và các nước đồng minh hiểu được các suy nghĩ và tính toán của Liên Xô ở giai đoạn vô cùng quan trọng của cuộc Chiến tranh Lạnh, trong đó phải kể đến việc Gordievsky đã giúp ngăn chặn được khả năng xảy ra một cuộc chiến tranh hạt nhân giữa Liên Xô và NATO.
Cụ thể, tháng 11/1983, khi NATO tiến hành cuộc diễn tập quân sự có tên Able Archer 83, Liên Xô đã tưởng rằng đối thủ đang chuẩn bị cho một cuộc tấn công hạt nhân nên đã đưa lực lượng hạt nhân chiến lược của nước này vào tình trạng báo động.
Cùng với đó, các đơn vị không quân của Liên Xô ở Đức cũng đã được yêu cầu sẵn sàng tấn công bất cứ lúc nào. Trong tình thế mà bất cứ tính toán sai lầm nào cũng có thể gây ra hậu quả khôn lường như vậy, chính các thông tin mà Gordievsky chuyển về cho Liên Xô đã giúp dẹp tan những lo sợ của người Nga, kéo bầu không khí “căng như dây đàn” lúc đó hạ nhiệt.
Cũng nhờ thông tin của Gordievsky mà Anh và các đồng minh của nước này biết được rằng ông Mikhail Gorbachev sẽ trở thành lãnh đạo của Liên Xô. Các thông tin sâu trong nội bộ của Nga do Gordievsky cung cấp và một số thông tin khác đã giúp Thủ tướng Anh lúc bấy giờ là bà Margaret Thatcher và Tổng thống Mỹ Ronald Reagan hiểu được rõ hơn về lập trường của Liên Xô quanh bàn đàm phán, từ đó giúp các bên có thể kết thúc được Chiến tranh Lạnh một cách hòa bình.
Nghi vấn bị đầu độc
Tuy nhiên, cái kim trong bọc lâu ngày cũng lòi ra. Với các tiết lộ do điệp viên CIA Aldrich Ames cung cấp, KGB dần đoán được Gordievsky đã phản bội họ. Năm 1985, Gordievsky lại được triệu về nước. Lần này, ông ta đã phải trải qua một cuộc phỏng vấn dài nhưng do đã được chuẩn bị từ trước nên đã vượt qua được. Mặc dù vậy nhưng ông ta biết rõ sự nghiệp của mình đã kết thúc và việc bị phanh phui là không thể tránh khỏi.
Do đó, Gordievsky đã quyết định khởi động kế hoạch trốn chạy đầy mạo hiểm đã được MI6 chuẩn bị sẵn. Trở về từ phòng thẩm vấn, tại căn nhà ở số 103 Leninsky Prospect tại Moscow, Gordievsky đã lấy bản copy một bài thơ của Shakespeare và nhúng vào một dung dịch đặc biệt để bóc ra. Ở bên trong, ông ta phát hiện một tờ giấy bóng kính có ghi chi tiết về kế hoạch trốn chạy.
Theo chỉ dẫn trong đó, vào lúc 19h00 ngày 16/7/1985, Gordievsky đứng ở một góc phố với một chiếc túi xách hiệu Safeway. Đó chính là tín hiệu để các điệp viên của Anh làm việc tại một văn phòng ở bên kia đường biết được rằng ông ta đã bị phát hiện và cần trốn sớm nhất có thể. Đúng 24 phút sau, một người đàn ông xách chiếc túi Harrods và cầm một chiếc Mars Bar đi ngang qua. Người đàn ông đó là nhân viên của MI6 và đó là tín hiệu cho thấy kế hoạch bỏ trốn sẽ được tiến hành. Gordievsky và người đàn ông đánh mắt cho nhau.
Sau đó, Gordievsky bắt tàu tới Leningrad, tới thị trấn Vyborg giáp biên giới Phần Lan. Tại đó, ông ta đứng ở một tảng đá lớn để chờ người Anh tới đón. Trong lúc này, theo kế hoạch của MI6, các điệp viên người Anh cũng lái xe chở những bà vợ và trẻ con tới điểm hẹn.
Trong suốt quá trình này, KGB đã theo sát đoàn xe của Anh nhưng vẫn bị cắt đuôi. Cuối cùng, đến rạng sáng ngày 20/7, 2 chiếc xe của người Anh đã gặp được Gordievsky đang chờ sẵn. Sau khi bảo Gordievsky chui vào thùng chiếc Ford, 2 chiếc xe nổ máy, hướng về Phần Lan. Sau khi vượt qua 5 trạm kiểm soát nghẹt thở như đã nói ở trên, chiếc thùng xe cuối cùng cũng đã được mở ra ở Phần Lan.
Sau khi Gordievsky đào tẩu thành công, dù ông ta không còn giá trị sử dụng và khai thác nhưng tình báo Anh vẫn tiếp tục bảo vệ ông ta khá nghiêm ngặt. Song, Gordievsky sau đó cho biết ông ta đã bị đầu độc tại nhà riêng vào năm 2007.
Phía Anh cho rằng Gordievsky đã bị đồng nghiệp người Nga đầu độc nhưng cũng có thông tin cho rằng chính Gordievsky đã cố tình tạo ra sự cố này để gây áp lực buộc giới chức Anh phải tăng các chế độ chính sách đối với ông ta.
Theo Hoàng Nam
Pháp luật Việt Nam

Vì đâu kỹ sư người Nga thành “điệp viên tỉ đô” của Mỹ?

Hoạt động gián điệp của Adolf Tolkachev giúp Mỹ tiết kiệm được 2 tỉ USD cho các hoạt động nghiên cứu và phát triển vũ khí, đưa nhân vật này trở thành điệp viên thành công và có giá trị nhất của Mỹ tại Liên Xô thời kỳ cuối Chiến tranh Lạnh.
 >> Nàng công chúa đẹp dịu dàng thành nữ điệp viên gan dạ
 >> Olga Chekhova - nữ diễn viên Hitler hâm mộ - là điệp viên của Liên Xô?



Adolf Tolkachev
Adolf Tolkachev
Giữa năm 1982, điệp viên thành công nhất và có giá trị nhất của Mỹ tại Liên Xô trong vòng 2 thập kỷ đột ngột biến mất. Các tài liệu và bản vẽ mà ông ta đã chuyển cho Mỹ vào đầu những năm 1980 đã giúp Washington nắm được những bí mật về hệ thống radar của Liên Xô cũng như những kế hoạch nghiên cứu về các hệ thống vũ khí nhạy cảm của nước đối thủ trong tương lai.
Hoạt động gián điệp của người này đã giúp nước Mỹ đạt được vị thế thống trị bầu trời trong các hoạt động chiến đấu trên không, đồng thời cho thấy rõ những điểm yếu của hệ thống phòng thủ trên không của Liên Xô thời kỳ đó để Mỹ có thể nghiên cứu được những tên lửa và máy bay ném bom có thể bay dưới tầm radar.
Những cuộc hẹn bị bỏ lỡ
Tuy nhiên, từ cuối thu và đầu đông năm 1982, Cục tình báo trung ương Mỹ (CIA) đã mất liên lạc với người này. Trong suốt 5 cuộc gặp đã được lên kế hoạch từ trước, người của Mỹ đã đến điểm hẹn nhưng không gặp được nguồn tin. Cùng thời điểm đó, lực lượng do thám của tình báo Liên Xô KGB bỗng nhiên trở nên dày đặc trên đường phố.
Buổi tối ngày 7/12, ngày diễn ra cuộc hẹn tiếp theo theo thỏa thuận từ trước, sỹ quan Bill Plunkert được giao nhiệm vụ đến điểm hẹn. Theo đúng kế hoạch đã vạch ra, vào khoảng giờ cơm tối, Plunkert và vợ cùng một cặp vợ chồng khác rời khỏi bãi đỗ xe của Đại sứ quán Mỹ ở Liên Xô78 dưới sự theo dõi của lực lượng dân quân mà họ biết chắc đang thông báo chi tiết từng hành động của họ cho KGB.
2 bà vợ đều bận đồ đen và mang theo một chiếc bánh sinh nhật lớn – thực chất là một thiết bị tạo hình nộm. Chiếc xe vòng vèo qua nhiều đoạn đường rồi đến một góc phố khuất, với sự hỗ trợ của thiết bị tạo hình nộm và những người đi cùng, Plunkert đã xuống xe thành công, dỡ bỏ vỏ bọc bên ngoài và hóa thân thành một người đàn ông Nga. Ông ta đến điểm hẹn, đứng chờ khá lâu nhưng điệp viên mà ông tìm kiếm vẫn không xuất hiện.
Điệp viên tỉ đô
Trong những năm đầu tiên của thời kỳ Chiến tranh lạnh giữa Mỹ và Liên Xô, CIA chưa bao giờ có thể thực sự thiết lập được mạng lưới gián điệp trên các tuyến phố ở Moscow. Bởi, việc tuyển dụng các điệp viên khi đó quá nguy hiểm với các công dân hay quan chức Liên Xô mà họ muốn chiêu mộ trong bối cảnh KGB nắm khá sát tình hình.
Trên thực tế, CIA đã tuyển dụng được một số người nhưng hầu hết đều hoạt động bên ngoài lãnh thổ Liên Xô chứ không hề có tay trong ở đây.
Nhưng với sự xuất hiện của Adolf Tolkachev - một kỹ sư chuyên về radar trên không tại Viện nghiên cứu khoa học kỹ thuật điện (Phazotron) của Liên Xô, mọi việc đã thay đổi hoàn toàn. Trong vòng 6 năm, người đàn ông này đã 21 lần vượt thành công những tai mắt theo dõi của KGB để gặp các sỹ quan của CIA ngay trên các tuyến đường ở Moscow và chuyển cho phía Mỹ những tài liệu, bảng mạch vô cùng quý giá.
Vào đầu những năm 1970, các radar không vận của Liên Xô không thể phát hiện những vật thể di chuyển sát mặt đất, đồng nghĩa với việc chúng không thể phát hiện được những máy bay ném bom hay tên lửa hành trình bay sát mặt đất.
Để lấp lỗ hổng đó, Tolkachev và những kỹ sư đồng nghiệp được giao nhiệm vụ phải thiết kế được những radar có thể “nhìn” từ trên cao xuống và phát hiện những vật thể đang di chuyển ngay ở sát mặt đất. Nhiệm vụ của họ càng trở nên cấp thiết khi các nguồn tin khi đó nói rằng Mỹ đang phát triển những máy bay ném bom bay ở tầm thấp để tấn công Liên Xô trong trường hợp có chiến tranh.
Tất cả những thông tin về hoạt động nghiên cứu này cùng nhiều bí mật khác đều được Tolkachev bí mật tuồn cho Mỹ. Không quân Mỹ ước tính hoạt động gián điệp của Tolkachev đã giúp nước này tiết kiệm được 2 tỉ USD cho các hoạt động nghiên cứu và phát triển vũ khí. Đổi lại, Tolkachev được CIA cho khá nhiều tiền.
Song, trên thực tế, ông ta nhận tiền không phải để làm giàu mà chỉ xem đó như một biểu hiện cho thấy sự tôn trọng của Mỹ đối với những hoạt động của ông ta. Ngoài ra, thi thoảng, Tolkachev cũng được yêu cầu trả công bằng những album nhạc phương Tây như nhạc của Beatles, Led Zeppelin, Uriah Heep để cho cậu con trai lớn đang tuổi ăn học của mình.

Adolf Tolkachev được đặt biệt danh điệp viên tỉ đô
Adolf Tolkachev được đặt biệt danh điệp viên tỉ đô

Adolf Tolkachev là ai?
Với những quen biết, Adolf Tolkachev là một người điềm tĩnh, có phần lạnh lùng. Tính cách này của Tolkachev 1 phần được cho là do công việc của ông ta. Ông ta và vợ là bà Natasha sống và làm việc trong một khu nhà đa năng, bao gồm nhiều bộ, ngành, viện nghiên cứu, nhà máy và cả các khu vực thử thiết bị. Chính vì thế nên 2 người cũng rất ít tiếp xúc với những người xung quanh.
Tuy nhiên, ẩn sâu bên trong, Tolkachev biết được rằng ông ta luôn câm lặng với thế giới xung quanh là do ông ta luôn cảm thấy không thoải mái. Ông ta bị ám ảnh bởi một chương đen tối trong lịch sử Xô viết và muốn trả thù cho cha mẹ vợ.
Trong những liên lạc của Tolkachev với CIA, ông ta không ngại ngần công khai danh tính thật của bản thân và gia đình. Ông ta cũng nói rõ muốn hợp tác với CIA để trả thù việc mẹ của bà Natasha đã bị xử tử vì cáo buộc chống nhà nước còn cha bà bị đưa tới trại lao động dưới thời Joseph Stalin vào những năm 1930 vì đã không tố giác vợ.
Natasha kết hôn với Adolf Tolkachev 1 năm sau khi cha bà ta qua đời. Bề ngoài, bà ta tỏ ra không hề để tâm tới các vấn đề của gia đình nhưng trên thực tế, bà ta vẫn luôn đem lòng oán hận Stalin. Bản thân Tolkachev cũng tỏ ra không thích chủ nghĩa cộng sản và tự miêu tả là một người bất đồng chính kiến với chính quyền.
Mang trong lòng những bất đồng như vậy, ông ta muốn tấn công nhằm vào Liên Xô. Ban đầu, ông ta thể hiện sự bất mãn bằng cách viết những tờ rơi có nội dung chống chính quyền và nuôi ý định lén mang đi rải ở một số nơi nhưng không thành.
Tháng 9/1976, Tolkachev nghe được thông tin trên đài phát thanh cho biết một phi công của Liên Xô đã đào tẩu bằng cách lái chiếc máy bay đánh chặn MiG-25 mà ông ta đang điều khiển tới Nhật Bản. Khi giới chức Liên Xô yêu cầu Phazotron thiết kế lại radar cho chiếc MiG-25, Tolkachev nhận ra rằng vũ khí lớn nhất mà ông ta có để chống lại Liên Xô chính là những bản thiết kế và báo cáo chứa những bí mật về hoạt động nghiên cứu của quân đội Liên Xô. Ông ta nhận thấy có thể trả thù nhà nước bằng cách phản bội đất nước, bán các bí mật quân sự cho Mỹ.
Theo các quan chức Mỹ từng làm việc với Tolkachev, ông ta làm vậy vì muốn gây tổn thất tối đa cho Liên Xô, bất chấp việc bản thân ông ta và gia đình có thể gặp nguy hiểm. Thậm chí, kể từ khi làm việc cho Mỹ, ông ta xác định có thể bị phát giác bất cứ lúc nào nên đã đề nghị CIA cho một viên thuốc độc để tự tử nếu bị bắt. Chính lòng thù hận đã thúc đẩy Tolkachev trở thành điệp viên quý giá nhất của Mỹ hoạt động ngay trong lòng Liên Xô trong suốt 2 thập kỷ.
Theo các thông tin, lợi dụng kẽ hở tại Viện nghiên cứu, Tolkachev thường lén giấu những tài liệu vào dạng tuyệt mật vào trong áo khoác để đưa ra khỏi văn phòng vào giờ ăn trưa. Rời văn phòng, ông ta sẽ về nhà, dùng chiếc máy ảnh Pentax mà CIA cung cấp để chụp lại những tài liệu mật, giấu đi rồi lặng lẽ đưa các tài liệu trở lại đúng vị trí sau bữa trưa. Những cuộn phim sau đó sẽ được ông ta chuyển cho CIA trong 21 cuộc gặp trên các đường phố ở Moscow.
Hoạt động gián điệp của Tolkachev được cho là đã bị phát giác vào cuối năm 1984, đầu năm 1985 do bị một nhân viên tập sự của CIA phản bội và tố cáo với KGB. Tolkachev bị bắt giữ năm 1985 và bị xét xử tại tòa án binh về tội phản quốc. Truyền thông Nga đưa tin ông ta bị tử hình vào ngày 22/10/1986...
Theo Minh Ngọc
Pháp luật Việt Nam
 
CỤM TÌNH BÁO A-22 VÀ NGƯỜI BÁN TIN MẬT CHO KGB CƠ QUAN TÌNH BÁO LIÊN XÔ (câu chuyện chưa kiểm chứng)

Tình báo Liên Xô khiến điệp viên "kim cương" của CIA chết tức tưởi

Quân sự |
Tình báo Liên Xô khiến điệp viên "kim cương" của CIA chết tức tưởi
Ảnh minh họa. Nguồn: tyden.cz

Các nguồn tin của Mỹ khẳng định, Oldrich Aims có thể đã phá vỡ hàng loạt chiến dịch lớn của các cơ quan đặc vụ Mỹ chống Liên Xô và nước Nga trong giai đoạn từ 1985 đến cuối 1992.

Một ngày xuân tháng 4 năm 1985, có một người lạ mặt gõ cửa Đại sứ quán Liên Xô ở Washington. Anh ta đưa cho người thường trực một cái túi, trong đó lại có một cái túi nữa có đóng dấu gửi cho một công dân Xô Viết.
Người lạ mặt thông báo họ tên của mình, đồng thời cung cấp một số thông tin về hai sĩ quan Mỹ hoạt động cho KGB, kèm theo một bức thư nhỏ có ghi: "5.000 USD", tức là cái giá quy định để từ nay anh sẽ cung cấp những thông tin bí mật.
Như vậy, theo lời thú nhận của chính Aims trước toà án Mỹ ngày 28-4-1994 - tại đó anh bị kết án tù chung thân, thì anh bắt đầu hợp tác với tình báo Xô Viết như thế đó. Nhưng vì các cơ quan mật vụ của Liên Xô không đưa ra lời nhận xét về vụ án Aims, cho nên những điều trình bày trong truyện này đều dựa vào báo chí nước ngoài.
"Nợ như chúa Chổm" và không được coi trọng
Tình báo Liên Xô khiến điệp viên kim cương của CIA chết tức tưởi - Ảnh 1.
Chân dung Oldrich Aims năm 1958 (một số nguồn ghi tên ông là Aldrich Ames). Nguồn: Wiki
Oldrich Aims sinh năm 1941 ở một thị trấn nhỏ bang Viskonsin. Cha anh, Carlton Aims năm 1951, là nhân viên CIA, và cả gia đình chuyển sang Miến Điện, lúc đó Miến Điện là trung tâm chú ý của CIA.
Học xong phổ thông Rik (tên anh ở nhà) vào đại học tổng hợp Chicago, nhưng bị đuổi học vì tội thường xuyên bỏ học, lang thang với bọn digan quanh nhà hát mong làm nghệ sĩ. Gần một năm anh không làm gì cả. Theo yêu cầu chủ cha, anh làm đơn xin vào CIA.
Vì không có trình độ đại học nên anh chỉ được làm việc văn phòng, mãi một năm sau, học xong lớp buổi tối của tổng hợp, anh mới được đi học lớp đào tạo của đội nhân viên tác nghiệp. Tại lớp này anh gặp cô gái Nensi, cũng là nhân viên CIA. Họ quyết định lấy nhau, nhưng sau đám cưới cô phải rời bỏ CIA theo luật định...
Năm 1980, anh được cử sang Mexico, cô đã từ chối theo anh. Họ sống ly thân. Tại Mexico, Rik quen một cô gái rất xinh đẹp là Rosario, làm tuỳ viên văn hoá ở Đại sứ quán Columbia. Là người có học vấn cao, duyên dáng và rất văn hoá, cô gái đã chinh phục trái tim người đàn ông bốn mươi tuổi này. Cô cũng là điệp viên ăn lương của CIA.
Cô cũng ngạc nhiên thấy Aims là người có trình độ văn hoá cao, am hiểu văn học cổ điển, là điều khác với đa số người Mỹ. Họ yêu nhau, quyết định sống chung, nhưng đó lại là một vấn đề nan giải đối với Aims: sắp tới vụ giải quyết ly hôn và quyết định vấn đề tài sản.
Tình hình tài chính của anh thật thảm hại, nợ như chúa Chổm, và đã nhiều khi anh có ý định phải sở hữu một nguồn thu nhập phong phú để có cuộc sống cao. Anh đã cố xua đuổi ý nghĩ đó mà không được.
Lại còn một điều nữa. Anh luôn luôn có cảm giác là mình thiếu khả năng thực tế, thường xuyên bị người ta đánh giá chưa đúng trong công việc. Anh là một nhà phân tích mạch lạc, nhưng người ta lại muốn sử dụng anh như một người chiêu mộ tác nghiệp ít tác dụng.
Anh bị giáng một đòn mạnh khi anh nhìn thấy trong hồ sơ của cha anh, một người quá cố mà anh rất yêu mến và kính trọng: "Ông Carlton Aims không có giá trị gì trong ngành tình báo và hoàn toàn không có khả năng". Anh không thể tha thứ cho sự xúc phạm này được. Và thế là Oldrich Aims đi đến một sự lựa chọn.
Từ nhân viên CIA tới tình báo Liên Xô
Về lý thì có thể xuất hiện một vấn đề là làm sao anh có thể tự do, không sợ bị theo dõi mà lai vãng đến đại sứ quán Xô Viết và rất nhiều lần gặp gỡ các nhà tình báo Xô Viết? Vấn đề là ở chỗ những cuộc tới thăm và gặp gỡ đó là hợp pháp vì anh là người lãnh đạo một đơn vị phản gián chống Xô Viết của CIA!
Oldrich Aims đã có một thời kỳ làm việc "dưới trướng" của đại sứ quán Mỹ ở Ancara, sau đó trong bộ máy trung tâm của CIA ở Washington.
Là cộng sự của Ban Xô Viết, anh đã học tiếng Nga thành thạo, có uy tín cao. Anh đã sống mấy năm ở New York, được giao trách nhiệm làm việc với các nhà ngoại giao Xô Viết, đặc biệt là với phó tổng thư ký Liên hiệp quốc Sevtrenco, chính ông này đã đề nghị được phục vụ cho CIA.
Năm 1985, khi Oldrich Aims đã là tình báo Xô Viết, anh lại đến Washington và nhờ chức vụ của mình mà biết được mọi hoạt động chống Liên Xô và chống tình báo Xô Viết đang được tiến hành ở bất kỳ nước nào trên thế giới.
Anh cũng được trực tiếp tham gia kiểm tra các điệp viên bị nghi ngờ là có quan hệ với tình báo nước ngoài. Từ tháng 6-1986 đến tháng 7-1989, anh làm việc ở La Mã, ở đây, theo anh thừa nhận, anh đã chuyển cho tình báo Xô Viết từng túi nguyên các tài liệu cơ mật.
Sau khi trở về Lengli (đại bản doanh của CIA) Aims lại được cử vào ban phản gián của CIA. Anh nhận việc tại Ban Xô Viết thuộc nhóm phân tích của Trung Tâm.
Anh đã viết những công trình khoa học về các hoạt động của KGB, và bây giờ tình báo Xô Viết đã có được khả năng không những đọc được các báo cáo của CIA, mà còn có thể tác động đến nội dung và những kết luận trong các báo cáo của CIA về KGB.
Anh có thể thâm nhập vào các cơ sở dữ liệu bí mật, tại đây, ngoài những điều nói trên còn có những thông tin về các điệp viên nhị trùng, có thể đọc được những tệp điện thoại bí mật. Một tác giả người Mỹ đã viết: "đối với KGB thì việc đặt mua tin tức tại một cơ sở dữ liệu bí mật hoàn toàn mới mang tên là "CIA Trực tuyến" cũng chẳng có gì là khó khăn cả".
Tất cả những chi tiết trong hoạt động tác nghiệp của Oldrich Aims với tư cách là điệp viên Xô Viết chắc gì đã được công bố trong một tương lai gần.
Tuy nhiên, các nguồn tin của Mỹ đã khẳng định rằng Aims có thể đã phá vỡ hàng loạt những chiến dịch lớn của các cơ quan đặc vụ Mỹ chống Liên Xô và nước Nga trong giai đoạn từ 1985 đến cuối 1992. Một trong những điều buộc tội Aims là anh đã "khai báo" hơn mười điệp viên giá trị của CIA.
Những "mất mát" lớn nhất trong số đó là ai?
Là Sergei Motorin, tình báo của KGB, là bí thư thứ ba phòng lãnh sự đại sứ quán Liên Xô ở Washington. Ông này bị chiêu mộ qua con đường quan hệ với gái điếm, buôn bán và ông đã chuyển cho người Mỹ những tin tức về các cộng sự và tình báo KGB trong đại sứ quán.
Cuối năm 1984, Motorin về Moscva, nửa năm sau Aims tố cáo ông và ông đã bị vô hiệu hoá.
Là Adolf Tolcatrev, cán bộ một viện nghiên cứu tuyệt mật, anh này đã chuyển cho người Mỹ những thông tin về hệ thống "ta - địch". Anh bị mua chuộc ở Moscva "bằng tiền" và cũng vì anh không hài lòng với cương vị công tác. Anh bị xử tử ngày 24-9-1986.
Là Valeri Martưnov, cộng sự của KGB, bí thư thứ ba đại sứ quán Xô Viết ở Washington. Bị mua chuộc bởi cả FBI và CIA. Bị triệu hồi về Moscva, bị ra toà và xử bắn ngày 28-5-1987.
Là Vladimir Potasev, chuyên gia về các vấn đề giải trừ quân bị, đã cung cấp cho CIA nhiều thông tin, khi làm việc tại Viện nghiên cứu Mỹ và Canada. Bị bắt ngày 1-7-1986, bị xử án 13 năm tù. Năm 1992 Elsin ân xá cho Potasev, anh này đã sang Mỹ và sống tại đó.
Là Boris Yuzhin, sĩ quan KGB, làm việc "dưới trướng" hãng thông tấn TASS ở San-Fransisko. Bị mua chuộc năm 1978. Năm 1986 bị bắt ở Moscva, bị kết án 15 năm tù. Năm 1992 được Elsin ân xá và hiện sống ở Mỹ.
Tình báo Liên Xô khiến điệp viên kim cương của CIA chết tức tưởi - Ảnh 2.
Oldrich Aims đã lật tẩy Dmitri Poliacov (trong ảnh) - điệp viên được CIA xem là "viên kim cương thực sự). Nguồn: espionagehistoryarchive
Cuối cùng là Dmitri Poliacov, một trong những điệp viên giá trị nhất của CIA. Tự nguyện liên hệ với người Mỹ năm 1961. Trong nhiều năm, Poliacov đã cung cấp cho CIA những số liệu về tên lửa chiến lược Xô Viết.
Trong thời gian làm việc cho Mỹ, Poliacov đã tố giác 19 tình báo Xô Viết, hơn 150 tình báo là người nước ngoài, gần 1.500 sĩ quan có liên quan đến Cục Tình báo Trung ương, đã trao cho Mỹ bản chụp các tài liệu về bất đồng sâu sắc giữa Trung Quốc và Liên Xô, giúp cho Nixon dàn hoà được quan hệ với Trung Quốc năm 1972.
Năm 1971 Poliakov nhận quân hàm thiếu tướng. Cuối năm 1986 bị bắt, bị tịch thu các thiết bị gián điệp. Đầu năm 1988 bị kết án tử hình. Bản án được thi hành ngày 15-3-1988, việc xử bắn được thông báo chính thức năm 1990.
Theo lời giám đốc CIA James Volsi, trong số các điệp viên Xô Viết được chiêu mộ trong thời kỳ "chiến tranh lạnh" thì Poliacov là "một viên kim cương thật sự".
Bản thân Oldrich Aims, theo nguồn tin của Mỹ, bị phát hiện là vì mức chi tiêu của anh cao hơn nhiều so với nguồn thu nhập chính. Chẳng hạn anh đã mua 3 chiếc xe ô tô "jahuar" v.v...
Anh bị theo dõi từ năm 1990 và bị bắt ngày 21-2-1994. Toà án đưa ra phán quyết ngày 28-4 năm đó. Các tài liệu đều cho thấy rằng anh nhận được của tình báo Xô Viết ít nhất là một triệu rưỡi đô la; nhiều khoản lớn còn nằm trong các tài khoản của anh ở các ngân hàng.
Rosario vợ anh bị kết án sáu mươi ba tháng tù vì tội "không chịu tố giác".
(Bài viết sử dụng tư liệu từ cuốn "108 Điệp Viên và Điệp vụ Thế giới", Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân năm 2004)
Các vũ khí bí mật của điệp viên thời Chiến tranh Lạnh

Người kiến tạo “thời kỳ trăng mật” giữa tình báo Mỹ và Liên Xô

Theo các nhà nghiên cứu lịch sử tình báo, trước Thế chiến thứ II, nước Mỹ chưa có cơ quan tình báo thống nhất. Khi nước Mỹ sửa soạn tham chiến, Tổng thống Roosevelt quyết định thành lập cơ quan tình báo trung ương thống lĩnh tất cả các cơ quan tình báo hiện hữu.
Việc này bị giới lãnh đạo nhiều cơ quan tình báo khác nhau chống đối, đặc biệt là Bộ Hải quân. Nhưng Tổng thống Roosevelt không nao núng. Ngày 11.7.1941 ông chỉ định Đại tá (sau này là Thiếu tướng William Joseph Donovan) soạn thảo dự án thành lập tổ chức đó.
Trong cuốn sách “Hoạt động tình báo - chìa khóa phòng vệ”, Donovan nhớ lại lời Tổng thống Roosevelt đã nói với ông vào ngày hôm đó: “Anh bắt đầu hoàn toàn từ đầu là rất tốt. Bởi vì nước Mỹ chưa có cái gọi là một cơ quan tình báo đúng nghĩa”.
Mối quan hệ giữa “Bill Hoang dã” và cha đẻ của điệp viên 007
William J.Donovan sinh trưởng trong một gia đình công chức người Ireland theo Thiên chúa giáo tại thành phố Buffalo. Từng là một luật sư và có thời gian tham gia Thế chiến thứ I, William Donovan bắt đầu hoạt động tình báo từ năm 1919 ở vùng Siberia, nơi ông đi hưởng tuần trăng mật với vợ.
Trợ lý tin cậy hàng đầu của ông là nữ đầu bếp Julia Child. Do OSS chú trọng việc cần tuyển dụng các nhà trí thức và những người giỏi nhất thuộc các lĩnh vực nên OSS bị đọc trại từ “Office Strategies Service” thành “Oh So Social”, hiểu nôm na là “xã hội hóa” cơ quan tình báo này.
nguoi kien tao thoi ky trang mat giua tinh bao my va lien xo
Ông William J.Donovan tại văn phòng của OSS.
Còn Wiliam Donovan, với tính cách ưa cầu toàn, rất dễ “nổi điên” với đồng nghiệp và thuộc cấp nhưng lại có thành tích chiến đấu can đảm, giàu trí tưởng tượng và cứng rắn nên ông được đặt cho biệt danh “Bill Hoang dã”. Chức vụ mà Donovan được chỉ định vào ngày 11.7.1941 ban đầu được gọi là “Người phối hợp cơ quan tình báo”.
Nhưng bất chấp lệnh của tổng thống gửi tất cả các cơ quan chính phủ yêu cầu cung cấp cho Donovan thông tin mang tính chiến lược và chiến thuật, viên đại tá đã vấp phải sự chống đối ra mặt, sự không thông hiểu, sự ghen ghét của những người đại diện cho quyền lợi cục bộ của các cơ quan và họ đã dùng đủ cách cản trở khiến công việc của ông gần như không thể thực hiện nổi.
Thông tin do Ngoại Vụ viện, Quân đội và Hạm đội Hải quân cung cấp cho ông chẳng thể sử dụng vào mục đích gì. Những người có kinh nghiệm hoạt động tình báo trước yêu cầu đề nghị chuyển sang làm việc cho Donovan đều từ chối. Cánh tình báo quân sự miễn cưỡng chia sẻ thông tin, họ vin vào chuyện bẻ khóa mật mã từng bị Bộ Ngoại giao Mỹ cấm từ năm 1929, do Ngoại trưởng Henry Stimson nhận định “người lịch sự thì không xem thư người khác”.
Khi đó William Donovan bèn chuyển hướng hành động và mời làm việc toàn những người ngoài cuộc, chưa hề hoạt động tình báo bao giờ như nhân viên các công ty, nhân viên các ngân hàng, luật sư, giáo sư các trường đại học, thậm chí là các linh mục.
Tháng 6.1942, theo lệnh của Tổng thống Roosevelt, Cục Thông tin quân sự được thành lập, còn sau đó là Cục Chiến lược do Donovan đứng đầu. Có ba nhiệm vụ được đặt ra cho ông là: tiếp tục thu thập những thông tin khoa học phi chính thức; tiến hành tuyên truyền phá hoại; hoạt động phá hoại (có sự phối hợp của quân đội).
Lúc lập OSS, “Bill hoang dã” cũng tư vấn các bậc thầy chiến tranh tình báo Anh như Ian Fleming (cha đẻ nhân vật tiểu thuyết James Bond 007) lúc đó là sĩ quan ngành tình báo hải quân Hoàng gia Anh. Vì lẽ đó, có thể nói nhà văn này cũng là cha đẻ OSS cùng Donovan. Trong Thế chiến II, Fleming là trợ lý của John Godfrey, chỉ huy Cục Tình báo hải quân và cũng là mẫu hình cho nhân vật M chỉ huy của 007. Một phần nhiệm vụ của Fleming là quan hệ chuyên môn với “Bill hoang dã”.
Ian Fleming còn viết “đề cương” 72 trang để giúp Donovan lập OSS, trong đó định nghĩa “một điệp viên bí mật phải được huấn luyện kỹ năng quan sát, phân tích và đánh giá, tuyệt đối kín miệng, tỉnh táo, xem nhiệm vụ là trên hết, giỏi ngoại ngữ và dày dạn kinh nghiệm sống, tuổi từ 40 đến 50”. Hiện tập đề cương này vẫn được trưng bày tại Bảo tàng chiến tranh ở London.
Ngoài ra, Ian Fleming cũng giúp OSS huấn luyện điệp viên ở Canada, theo lời William Stephenson, một chuyên gia tình báo Canada và có mật danh Intrepid. Một thông tin khác kể “Bill hoang dã” trả ơn Fleming bằng món quà tặng là khẩu súng colt. Trong khi đó, nhiều nguồn tư liệu cho biết, nhân vật Felix Leiter, điệp viên CIA là bạn thân của James Bond trong các tập truyện 007 chính là dựa theo hình mẫu của “Bill hoang dã”.
Cơ quan tình báo hợp tác với thành phần “ngoại đạo”
William Donovan nhanh chóng xây dựng được một cơ quan tình báo riêng rất mạnh, hoạt động lấn át cả những tổ chức tình báo khác, từ đó OSS nhận được nguồn kinh phí dồi dào. Lúc này Donovan đã có thể mời những chuyên gia cao cấp, nhà khoa học, giáo sư trong tất cả các lĩnh vực khoa học hiện đại, các nhà văn, nhà báo, nghệ sĩ, các chuyên viên kỹ thuật, thợ lành nghề và thậm chí cả những tên lừa đảo chuyên nghiệp và những tay “anh chị” trong thế giới ngầm... làm việc cho mình.
nguoi kien tao thoi ky trang mat giua tinh bao my va lien xo
Một lớp huấn luyện các điệp viên OSS.
Điều thú vị là tất cả những con người này không phải là các nhà tình báo chuyên nghiệp, đã sáng tạo ra những phương pháp hoạt động tình báo và phá hoại độc đáo của riêng mình, mà những gián điệp chuyên nghiệp thường bị hạn chế bởi thói quen, nguyên tắc.
OSS có tài khoản riêng, từ quỹ khẩn cấp của Tổng thống Roosevelt nên không phải báo cáo tài chính với Quốc hội Mỹ. Trong thời chiến, OSS tiêu số tiền khoảng 135 triệu USD, tức hơn 1 tỷ USD vào thời buổi hiện tại. Một trong những thành tựu lớn của họ trong Thế chiến 2 là xâm nhập vào Đức, huấn luyện khoảng 200 điệp viên - hầu hết là tù nhân chống phát xít - hoạt động tình báo.
Bên cạnh đó là hoạt động thu thập thông tin về các kế hoạch quân sự, chiến tranh du kích, hỗ trợ và huấn luyện các lực lượng vũ trang kháng chiến, bẻ khóa mật mã. Các chiến dịch tâm lý của họ gồm rải truyền đơn, “xào nấu thông tin” hay tạo tin giả để đánh lừa và làm suy yếu ý chí chiến đấu như “tung tin đồn nhảm” về sức khỏe, chứng điên của Hitler.
Từ năm 1943-1945, William Donovan đã tổ chức thành công các chiến dịch tung gián điệp vào hậu phương của đối thủ ở Pháp, Italy, Miến Điện, Thái Lan, Algérie và các nước khác. Cuối năm 1943, Tổng thống Roosevelt đã tán thành đề nghị của William Donovan về việc bắt đầu hợp tác với tình báo Liên Xô. Trước Giáng sinh năm 1943, William Donovan bay sang Moskva.
Ngày 25.12, ông cùng với đại sứ Harriman được Ngoại trưởng Molotov tiếp. Donovan trình bày cặn kẽ về OSS, về các nhiệm vụ, chức năng và hoạt động cụ thể của OSS ở hàng loạt các nước, trong đó có các nước vùng Balkan. Sau đó Donovan gặp gỡ với người đứng đầu cơ quan tình báo nước ngoài Fitin. Kết quả các cuộc đàm phán được trình lên Stalin. Stalin đồng ý việc trao đổi đại diện và hoạt động hợp tác của cơ quan tình báo Xôviết với Cục Chiến lược của Mỹ.
Trở về Mỹ, Donovan gửi đến tất cả các phòng ban chỉ thị về việc: “Cục chiến lược có thể cung cấp cho Nga thông tin tình báo giá trị, hữu ích cho đất nước đang tiến hành cuộc chiến tranh chống Đức”.
Trong thời kỳ “trăng mật” giữa hai cơ quan tình báo Mỹ- Liên Xô, phía Mỹ đã cung cấp những thông tin chính trị và quân sự đặc biệt có giá trị gồm: tin về tình hình tại Đức và các nước bị chiếm đóng, các bản tổng hợp tin tình báo về các vấn đề riêng rẽ, bản tổng kết phân tích khả năng của nền công nghiệp Đức; đánh giá tình hình trong giới lãnh đạo quốc xã của Đức, thông tin về tình hình Hungary, Rumani và Bungary.
Trong thời gian diễn ra các cuộc đàm phán, Donovan phát biểu nguyện vọng muốn trao đổi tài liệu về máy móc kỹ thuật cho hoạt động phá hoại, nhưng ông chỉ cung cấp được một cuốn danh mục có ảnh minh họa loại vũ khí và máy chuyên dụng nhưng cũng khiến các chuyên gia quan tâm.
Về phần mình, tình báo Liên Xô đã chuyển cho đối tác các báo cáo về tình hình quân đội Đức, tình trạng vũ trang, đánh giá tương lai chính trị của nước Đức; thông tin về các nhà máy hóa chất bí mật tại Đức và Ba Lan chuyên sản xuất chất độc; về nhà máy ngầm ở Svinemunde; về trạm thử nghiệm tên lửa tại Merzeburg; về tình hình Bungary với đánh giá tình thế chính trị bên trong nước này…
Năm 1944 - đầu năm 1945, tình báo Xôviết đã giúp đỡ các đồng nghiệp Mỹ rất nhiều trong việc làm sáng tỏ số phận của một số nhóm điệp viên Mỹ nhảy dù xuống Tiệp Khắc và của những phi công lái máy bay đã bị giết ở đó. Toàn bộ những thông tin do tình báo Liên Xô cung cấp được phía Mỹ đánh giá rất cao.
Những kẻ phá bĩnh
Đột nhiên, ngày 16.3.1944 từ Mỹ có một bức điện do Roosevelt gửi yêu cầu tạm hoãn vô thời hạn việc trao đổi các đoàn đại biểu. Quyết định đó được thông qua theo yêu cầu khẩn khoản của Giám đốc FBI là E. Hoover, người cho rằng mục đích “kết giao hữu hảo” của Ủy ban An ninh Quốc gia Liên Xô (KGB) là thâm nhập vào các cơ quan nhà nước của Mỹ.
William Donovan thực sự tức giận vì sự can thiệp của Hoover nhưng tổng thống không thay đổi quyết định. Mặc dù vậy, cuộc tiếp xúc giữa hai cơ quan tình báo vẫn được ấn định, nhưng chỉ thông qua người lãnh đạo phái đoàn đại diện quân sự của Mỹ tại Liên Xô.
Tháng 7.1944, sau khi Thế chiến thứ II kết thúc, William Donovan thông báo cho Fitin về việc chỉ huy mạng lưới tình báo ở các nước vùng Balkan là Huttle đã bị bắt giữ tại Áo vì đây là kẻ “mong muốn gây bất đồng giữa Liên Xô và Mỹ, sẵn sàng chuyển giao toàn bộ phần còn lại của mạng lưới tình báo đang tồn tại cho Mỹ để sử dụng chống người Nga”. Donovan đề xuất việc thảo luận các giải pháp phối hợp nhằm xóa bỏ mạng lưới của Huttle và thông báo đã giao nhiệm vụ này cho trợ lý của mình là Allen Dulles.
Donovan không ngờ mình đã “giao trứng cho ác” vì trong thời gian đó, Allen Dulles cùng với chỉ huy cơ quan tình báo của quân đội đã tiến hành những cuộc thương lượng với người đứng đầu cơ quan tình báo của Hitler ở mặt trận phía Đông - tướng Gehlen - về các hoạt động phối hợp chống người Nga.
Chống lại đề xuất của Donovan còn có cả nhóm liên minh chỉ huy các bộ tham mưu. Họ cho rằng nhất thiết phải “thảo luận vấn đề nên hay không nên hợp tác với các sĩ quan Đức không thuộc đảng Quốc xã để thu thập tin tức tình báo về tiềm lực và các dự định của người Nga”. Từ đây, hoạt động hợp tác giữa tình báo Liên Xô và Mỹ xem như kết thúc.
William Donovan còn lại một mình đơn độc. Tổng thống Roosevelt mất ngày 12.4.1945, tổng thống kế nhiệm Harry Truman lại là người giữ lập trường chống Liên Xô kịch liệt. William Donovan đành bùi ngùi viết trong một bức thư thể hiện sự ủng hộ cá nhân gửi Fitin rằng: “Tôi tin tưởng thành công đã đạt được bấy lâu trong sự nghiệp chung của chúng ta chứng tỏ chúng ta có thể là những đồng minh trong các hoạt động hợp tác, ít ra là trong lĩnh vực tình báo”.
Sau khi đế quốc Nhật đầu hàng Đồng minh, ngày 20.9.1945, Tổng thống Truman ra lệnh giải tán Cục Chiến lược. Tướng Donovan xin từ chức và trở về với nghề luật sư ở thành phố New York. Hoạt động tình báo thời kỳ này lại được trao về dưới sự điều khiển của các chủ nhân cũ của nó là Ngoại Vụ viện và Bộ Quốc phòng.
Gần 2 năm sau, vào ngày 15.9.1947, Tổng thống Truman ban hành Đạo luật An ninh Quốc gia và lại một lần nữa thống nhất ngành tình báo làm một, chính thức đặt bước khởi đầu cho việc thành lập Cục Tình báo Trung ương Mỹ CIA.
Bản thân William Donovan khi nhớ về quãng thời gian xông xáo cùng OSS, ông cũng nhận ra rằng “Làm tình báo không là một việc hay, cũng chẳng có phương pháp điển hình nào, không có bom hủy diệt hoặc khí độc. Chúng ta đối diện một địch thủ tin rằng một trong những vũ khí chủ đạo là khủng bố. Nhưng chúng ta cũng dùng khủng bố để chống lại địch thủ ấy”.
 

danviet.vn

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét