Mọi người đều nhớ lại rằng trong
chiến tranh Triều Tiên (1950-1953), khi miền Bắc được Trung Quốc hỗ trợ
lao xuống tấn công miền Nam, đã có hàng triệu người ở hai miền thiệt
mạng, riêng miền Nam đã bị tàn phá nặng nề, còn Seoul đã bị đổi chủ 4
lần.
Hiện nay, thủ đô Hàn Quốc đã trở thành một thành phố công nghệ và văn
hóa lớn với 10 triệu dân sống ở cả trong nội thành lẫn ngoại thành. Con
số 10 triệu dân này sẽ là mồi ngon cho lực lượng pháo binh hùng hậu của
Bắc Triều Tiên đồn trú phía bên kia khu phi quân sự.
Theo ước tính, Bắc Triều Tiên đã dàn trải khoảng 10.000 khẩu đại pháo
và 500 quả tên lửa tầm ngắn dọc theo biên giới, đa phần được che giấu
trong các hang động đường hầm hay bunker. Ngoài ra, theo phía Hàn Quốc,
lực lượng bộ binh của Bắc Triều Tiên lên đến 1,1 triệu người, trong đó
70% đồn trú trong phạm vi 100 km tính từ biên giới với miền Nam.
Trong bối cảnh đó, các chuyên gia lo ngại rằng Bình Nhưỡng, vốn luôn
đe dọa biến Seoul thành biển lửa, có thể sẽ áp dụng chiến thuật giết
càng nhiều người càng tốt trong những giờ khắc đầu tiên của cuộc chiến.
Theo viện Nghiên Cứu Nautilus ở California, 65.000 người dân Seoul sẽ
chết trong ngày đầu tiên của cuộc chiến tranh thông thường, hầu hết
trong ba giờ đầu. Trong vòng một tuần sẽ có 80.000 người chết.
Chuyên gia Roger Cavazos của Viện Nautilus cho rằng chiến thuật của Bắc Triều Tiên là « giết hàng chục ngàn người, bắt đầu một cuộc chiến dài hơi, gây nên những thiệt hại to lớn trước khi chế độ bị đánh gục ».
Trong trường hợp nổ ra xung đột, phản ứng của Mỹ và Hàn Quốc sẽ gần
như tức thời, sau khoảng một vài phút, điều đó sẽ làm giảm tác hại của
pháo binh Bắc Triều Tiên và số lượng thương vong ở miền Nam. Nhiều
thường dân sẽ nhanh chóng tìm nơi ẩn náu tại hàng ngàn nhà tạm trú ở
Seoul.
Theo kịch bản này, cuộc phản công sẽ hủy hoại 1% pháo binh Bắc Triều
Tiên trong mỗi tiếng đồng hồ giờ, hoặc gần một phần tư ngày đầu tiên. Và
phần lớn cuộc chiến sẽ kết thúc trong bốn ngày.
Các tài liệu chính thức của Hàn Quốc từ năm 2016 cho thấy là
Washington sẽ huy động đến 690.000 binh lính, 160 tàu và 2.000 máy bay
vào cuộc, bổ sung cho 28.500 quân Mỹ trú đóng tại Hàn Quốc, và đạo quân
của Hàn Quốc gồm 625.000 quân.
Lợi thế như vậy sẽ nghiêng về phía Mỹ và Hàn Quốc, và kịch bản nào
cũng kết thúc bằng thất bại của Bắc Triều Tiên. Vấn đề khiến nhiều người
lo ngại, tuy nhiên lại là kho vũ khí nguyên tử mà Bình Nhưỡng nắm trong
tay.
Trang web Nukemap, chuyên ước tính thiệt hại của các vụ tấn công hạt
nhân, cho rằng nếu Bình Nhưỡng cho nổ một quả bom cỡ như trái bom thử
đầu tháng 09/2017 ở độ cao 1.500 mét trên Seoul, thì sẽ có 660.000 người
thiệt mạng. Trong trường hợp Mỹ dùng một quả bom tương tự đánh Bình
Nhưỡng, thì số người chết sẽ lên đến 820.000 người.
Thứ Bảy, 19 tháng 5, 2018
SỰ NGU XUẨN CỦA CUỘC SỐNG 6
-Nhưng xét trên bình diện đánh giá sự sống là thứ quí giá nhất trên đời, thì giết chóc lẫn nhau, dù là giết chóc bắt buộc, là hành động điên rồ tột bậc của con người và chiến tranh, dù là chiến tranh chính nghĩa, vẫn là sự ngu xuẩn vô hạn, dù là sự ngu xuẩn tự giác, nhân danh bảo vệ sự sống!
-Đứng lên trên tất cả mà phán xét, thì:
trí tuệ siêu việt của con người thậm ngu ngốc!
-Chân lý là đây:
Chiến tranh là mệnh lệnh tối thượng của tự nhiên mù quáng đối với trí tuệ sáng suốt của loài người: hãy giết chóc lẫn nhau!
-Như vậy, muốn không còn chiến tranh nữa, con người hoặc không còn lòng tham và tính tư hữu hoặc trở lại suy nghĩ tăm tối như hươu, nai.
-Nhưng hết chiến tranh rồi, xã hội loài người có hết bạo tàn?
-----------------------------------------------------------------
(ĐC sưu tầm trên NET)
10 Trânh Đánh GIÁP LÁ CÀ Đẫm Máu Nhất Trong Lịch Sử Bằng Vũ Khí Thô Sơ
Chiến tranh thế giới và sự phá hoại văn minh nhân loại
II. Chiến tranh thế giới và sự phá hoại văn minh nhân loại
Mục lục
1. Những cuộc chiến tranh trên thế giới
Theo tính toán của nhà khoa học người Thụy Sĩ Giăng Giắc Baben bằng máy tính điện tử thì trong 5.550 năm, trên hành tinh chúng ta đã xảy ra tới 14.513 cuộc chiến tranh với số người chết là 3,6 tỉ người.Đó là những con số khủng khiếp.
Sang thế kỷ XX, sự thiệt hại ấy lại tăng lên gấp bội do quy mô chiến tranh mở rộng không bao giờ hết, chiến trường bao trùm cùng lúc trên lãnh thổ các quốc gia thuộc nhiều lục địa khác nhau, sự tàn phá và sức hủy diệt của các loại vũ khí, bom đạn tới mức khó lường được hết.
Chiến tranh là một hiện tượng phức tạp, là sự tiếp tục cuộc đấu tranh chính trị của các quốc gia, dân tộc và giai cấp bằng bạo lực quân sự. Thực tế lịch sử cho thấy cần phân biệt hai loại chiến tranh: chính nghĩa và phi nghĩa.
Những cuộc chiến tranh chống xâm lược, giải phóng dân tộc, chống sự cai trị của ngoại bang là chiến tranh chính nghĩa được nhân dân thế giới ủng hộ. Dù đất nước có bị tàn phá, nhân dân phải chịu đựng hi sinh nhưng nhiều dân tộc vẫn đương đầu với chủ nghĩa đế quốc để giành độc lập và tự do. Cuộc kháng chiến 30 năm của nhân dân Việt Nam chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ (1945 - 1975) được coi là cuộc chiến tranh thần thánh, đã giành thắng lợi hoàn toàn. Ngược lại, những cuộc chiến tranh xâm chiếm và giành giật thuộc địa giữa các đế quốc, nhằm giữ ngôi bá chủ thế giới, nhằm bành trướng lãnh thổ, xâm phạm chủ quyền nước khác... mang tính phi nghĩa và hết sức tàn bạo.
Thế kỷ XX đã xảy ra hai lần chiến tranh thế giới vào các năm 1914 - 1918 và 1939 - 1945.
Tháng 8 - 1914, cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ là hậu quả của những mâu thuẫn về quyền lợi và sự giành giật thuộc địa không thể điều hòa được giữa hai tập đoàn đế quốc: khối “Liên minh” gồm Đức, Áo - Hung, Thổ Nhĩ Kỳ, Bungari và khối “Hiệp ước” gồm Anh, Pháp, Nga...
Hai mươi năm sau, cuộc chiến tranh thế giới thứ hai (1939 - 1945) lại diễn ra với quy mô và cường độ ác liệt chưa từng thấy. Nhưng khác với năm 1914 - 1918, chiến tranh thế giới thứ hai phức tạp hơn về nội dung chính trị, tính chất giai cấp và dẫn tới những thay đổi căn bản. Chiến tranh nổ ra là do những mâu thuẫn đối kháng giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội, đồng thời do những mâu thuẫn gay gắt trong thế giới tư bản chủ nghĩa: Cuộc chiến đã bắt đầu giữa hai tập đoàn đế quốc, giữa các nước phát xít Đức, Ý, Nhật và các nước đế quốc Anh, Pháp rồi thêm Mỹ và nhiều nước khác. Nhưng dưới tác động của cuộc đấu tranh chống phát xít ngày càng mở rộng ở nhiều nước, nó đã trở thành cuộc chiến tranh giải phóng của các dân tộc chống ách phát xít chiếm đóng và nô dịch. Việc Liên Xô tham chiến (1941), nhất là sự hình thành khối Đồng minh chống phát xít (1942) đã làm thay đổi tính chất của chiến tranh.
Chiến tranh thế giới trong thế kỷ XX là những cuộc chiến tranh ác liệt nhất trong lịch sử loài người. Có thể thấy rõ quy mô của hai cuộc chiến tranh thế giới qua những số liệu sau:
Với quy mô như thế, sự tàn phá và tổn thất lại càng nặng nề hơn.
Nền văn minh của loài người bị phá hoại nghiêm trọng.
2. Những sự phá hoại khủng khiếp
Chiến tranh và những hậu quả của nó như một nghịch lý lớn trong lịch sử tiến hóa nhân loại. Hầu như những thành tựu khoa học - kỹ thuật mới nhất, hiện đại nhất đều dùng cho các mục đích quân sự - chính trị. Nói cách khác, chiến tranh đã thu hút, tập trung cao nhất những nỗ lực sức người, sức của, những phương tiện và thành tựu khoa học - kỹ thuật. Theo đó, sự tàn phá của chiến tranh ngày càng mang tính tàn sát và hủy diệt.Trong cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914 - 1918) lần đầu tiên xuất hiện xe tăng và máy bay. Các vũ khí và phương tiện quân sự được cải tiến không ngừng, đến Chiến tranh thế giới thứ hai (1939 - 1945) đã ra đời các loại xe tăng thiết giáp nặng hơn nhưng cơ động hơn, các loại máy bay bay cao hơn, xa hơn và mang nặng hơn: lần đầu tiên xuất hiện rađa, tên lửa và nhất là vào giai đoạn cuối của cuộc chiến đã dùng đến bom nguyên tử.
Thế giới đã bị tàn phá nghiêm trọng.
Trước hết là về sinh mạng con người. Theo Pôn Kennơđi trong cuốn Hưng thịnh và suy vong của các cường quốc, chỉ trong cuộc chiến tranh “tổng lực 1914 - 1918” khoảng 8 triệu người đã chết trong các trận chiến, 7 triệu người nữa bị tàn phế lâu dài và 15 triệu người bị thương nặng, đại đa số những người này đang ở độ tuổi thanh xuân. Ngoài ra, châu Âu (không kể Nga) có hơn 5 triệu người đã chịu hậu quả chiến tranh như bệnh tật, nạn đói và thiếu thốn. Còn hàng triệu người bị thương vong trong các cuộc đụng độ ở biên giới và dịch bệnh sau chiến tranh. Tổng số thương vong lên đến 60 triệu người, gần một nửa ở Nga, còn Pháp, Đức và Ý cũng bị thiệt hại nặng nề. Trong thảm họa đó, cái không thể đo được là nỗi thống khổ và sự xao động về tâm lý con người, tác động mạnh mẽ vào đời sống gia đình và xã hội.
Trong cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai, con số thương vong tăng lên gấp bội. Chỉ riêng số người chết đã lên tới hơn 50 triệu người, trong đó nhiều dân tộc phải gánh chịu những tổn thất cực kỳ nặng nề.
Riêng Liên Xô, hơn 20 triệu người chết (gần đây một số tài liệu đã đưa ra những số liệu mới là 30 triệu người, thậm chí 40 triệu người chết). Ở Trung Quốc đã mất đi 10 triệu người, Ba Lan - trên 6 triệu người (chiếm 20% dân số), Nam Tư - 1 triệu 702 nghìn người. Người Nhật là những nạn nhân đầu tiên của thảm họa bom nguyên tử. Chỉ trong khoảnh khắc, hơn 270 nghìn người dân đã thiệt mạng và hai thành phố Hirôsima và Nagadaki bị sập đổ hoang tàn.
Hai cuộc chiến tranh thế giới còn gây ra những thiệt hại khổng lồ về của cải vật chất và tài sản văn hóa không sao kể xiết. Thành phố, làng mạc, đường sá, cầu cống, nhà máy xí nghiệp cùng bao công trình lịch sử và văn hóa của các dân tộc bị phá hủy.
Đất nước Xô viết bị tàn phá nặng nề nhất: 1.710 thành phố, hơn 70 nghìn làng, gần 32 nghìn nhà máy xí nghiệp, 65 nghìn kilômet đường sắt đã bị phá hủy. Tính chung, thiệt hại vật chất lên tới 679 tỉ rúp.
Những giá trị văn minh của loài người bị chà đạp thô bạo. Đó là những tội ác của bọn phát xít, chúng không chỉ chiếm đóng lãnh thổ, cướp đoạt tài nguyên mà còn chà đạp lên những quyền cơ bản, những giá trị thiêng liêng của các dân tộc và nhân phẩm danh dự của con người.
Bọn quốc xã đã tàn sát hơn 6 triệu người Do thái và kêu gào tiêu diệt người Xlavơ: “Nếu chúng ta muốn thành lập Đế chế Đức vĩ đại, trước hết phải đuổi và tiêu diệt sạch các dân tộc Xlavơ: người Nga, Ba Lan, Séc, Xlôvaki, Bungari, Ucraina, Bêlarut. Không có lý do gì để không làm việc đó”. Hơn 6 triệu người Ba Lan - tức 1/5 dân số nước này - đã bị tàn sát bởi những lời kêu gào đó của Hítle. Chúng còn lập ra các nhà tù, các trại tập trung và các lò thiêu người bằng hơi ngạt như ở Bunkhenvan, Đachau, Biếccơnô, Ausơvít... để đầy đọa con người theo lối trung cổ và tàn sát họ bằng những kỹ thuật hiện đại...
Ở châu Á, bọn phát xít còn tàn sát và gây ra nạn đói khủng khiếp với bao cái chết thê thảm. Chỉ trong một tháng, hơn 30 vạn dân lành tay không tấc sắt đã bị giết ở Nam Kinh (Trung Quốc). Hai triệu người Việt Nam bị chết đói dưới ách thống trị của Nhật - Pháp trong những năm chiến tranh. Tội ác của chúng đã vượt xa các thế lực xâm lược trước đây trong lịch sử.
3. Chiến tranh vẫn đang tiếp diễn
Cuộc chiến tranh thế giới 1939 - 1945 vừa chấm dứt chưa được bao lâu, các dân tộc lại phải trải qua tình trạng đầy căng thẳng của “chiến tranh lạnh” với những cuộc chạy đua vũ trang cực kỳ tốn kém sức người, sức của. Một lần nữa, những tiến bộ khoa học - kỹ thuật hiện đại nhất của văn minh nhân loại, những nguồn tài nguyên và tiền của khổng lồ lại ném vào việc tìm tòi, chế tạo những loại vũ khí và phương tiện chiến tranh có sức tàn phá, hủy diệt chưa từng thấy.Sau gần nửa thế kỷ chạy đua vũ trang tốn kém và mệt mỏi, các dân tộc đã rút ra được nhiều bài học. Nền văn minh của nhân loại, mối quan hệ quốc tế giữa các dân tộc chỉ có thể phát triển tốt đẹp nếu dựa trên phương thức cùng nhau chung sống hòa bình, hợp tác phát triển và cạnh tranh trong kinh tế, bình đẳng và cùng có lợi.
Ngày nay, thời kỳ chiến tranh lạnh đã kết thúc, hòa bình thế giới được củng cố. Nhưng do nhiều nguyên nhân như những tranh chấp về sắc tộc, tôn giáo và lãnh thổ... hòa bình ở nhiều khu vực bị đe dọa nghiêm trọng, thậm chí xung đột quân sự, nội chiến đẫm máu đã kéo dài nhiều năm ở nhiều quốc gia. Tại những nơi đó, dân chúng lại đổ máu và điêu linh, những giá trị văn minh lại bị hủy diệt không thương tiếc.
Sau gần 4 năm nội chiến, Bôxnia từ một nước cộng hòa khá phát triển của Liên bang Nam Tư đã trở thành một trong những nước nghèo nhất châu Âu, khoảng 35% đường sá, 40% cầu cống bị tàn phá và nguồn điện trong nước, thậm chí không cung cấp đủ cho các bệnh viện và trạm bơm.
Ở châu Phi - lục địa không ổn định nhất trên hành tinh - trong bốn thập kỷ qua đã xảy ra tới 33 cuộc xung đột vũ trang và nội chiến làm chết 7 triệu người và 6,7 triệu người phải rời bỏ xứ sở, tị nạn ở nước khác. Dòng người lang thang trôi dạt ấy chiếm 43% tổng số người tị nạn trên thế giới.
Sau nhiều năm nội chiến liên miên giữa các phe phái ở Ápganixtan, bảo tàng quốc gia Cabun đã bị đổ nát và bị cướp phá tới mức báo chí thế giới phải gọi là “tội ác của thế kỷ XX”. 90% sưu tập của Bảo tàng bị mất với nhiều loại hiện vật được coi là cổ nhất thế giới. Bảo tàng quốc gia Cabun là một trong những bảo tàng phong phú nhất toàn vùng, bao gồm những chứng tích của 50.000 năm lịch sử Ápganixtan và Trung Á. Nhà khảo cổ học hàng đầu và sử gia người Pakixtan là Hassan Dani cho rằng, Bảo tàng có những sưu tập rất có giá trị về ngà voi, tượng, tranh, tiền tệ, vàng, đồ gốm, vũ khí, quần áo từ thời tiền sử qua các nền văn minh Bactrian, Kushan và Ghandara, rồi đến giai đoạn các đạo Hinđu, Phật giáo và Hồi giáo...
Những cuộc xung đột vùng Trung Đông và các nước A rập, nhiều cuộc nội chiến liên miên tại nhiều nơi, nạn diệt chủng của chế độ Khơme đỏ, những vụ tranh chấp biên giới... để lại bao hậu quả nặng nề về sinh mạng, tài sản và tinh thần của người dân.
Cho tới nay, tiếng súng vẫn nổ ở nơi này, nơi khác trên hành tinh và khó có thể biết tới bao giờ mới chấm dứt hoàn toàn. Đó chính là điều cảnh báo đối với loài người, đối với nền văn minh nhân loại.
Bức ảnh tố cáo sự hủy diệt khủng khiếp của chiến tranh
Bất cứ khi nào tuyệt vọng trước khó khăn của cuộc sống, hãy nhìn bức ảnh dưới đây và bạn sẽ thấy mình vẫn còn may mắn hơn rất nhiều người.
Người
đàn ông 70 tuổi lặng lẽ hút tẩu thuốc ngồi nghe nhạc phát ra từ máy hát
cổ xưa trong căn phòng bị bom đạn phá hủy tại Aleppo. Ảnh: AFP
|
Theo tạp chí TIME, người đàn ông trong ảnh là Mohammed Mohiedin Anis, hay được biết đến với cái tên Abu Omar – một nhà sưu tầm xe ô tô cổ.
Bức ảnh này sau khi được đăng tải trên các phương tiện truyền thông từ 9/3 đã được chia sẻ một cách chóng mặt, một lần nữa lại cho thấy sức tàn phá khủng khiếp của cuộc nội chiến bước sang năm thứ 7 tại Syria.
Đây không phải là lần đầu tiên độc giả gặp Abu Omar. Đầu năm 2016, trong một bài viết của hãng thông tấn AFP, Abu Omar xuất hiện với tư cách là một nhà sưu tầm xe cổ sở hữu hơn 30 xe ô tô và sống tại thị trấn al-Shaar – nơi bị nhóm phiến quân nắm quyền kiểm soát.
Sau khi quân đội chính phủ giải phóng thị trấn, phóng viên AFP quay lại khu vực để tìm ông. Abu Omar cho biết 1/3 số xe sưu tầm của ông đã bị lấy cắp hoặc phá hủy. Ngồi trên chiếc giường gần như chẳng thể đặt lưng xuống nằm, ông Abu lẳng lặng nhìn chiếc máy phát nhạc cũ: “Tôi vẫn thường xuyên sử dụng nó, vì không cần điện để hoạt động".
Theo nhiếp ảnh gia Joseph Eid – tác giả của bức ảnh hiện tượng này, ông Abu Omar luôn muốn gắn chặt và trân trọng những gì thuộc về quá khứ. Ông cho biết không có chúng ông sẽ quên mất mình là ai. Đó là lý do vì sao ông vẫn kiên quyết ở lại trong ngôi nhà bị phá hủy gần như hoàn toàn bởi bom đạn chiến tranh này.
Eid chia sẻ có lẽ đây là khung cảnh anh sẽ không bao giờ quên. “Cứ lúc nào tôi cảm thấy tuyệt vọng trước những khó khăn, vấn đề của cuộc sống, tôi luôn nghĩ về hình ảnh ông Abu Omar đang hút thuốc ngồi trên chiếc giường gãy bám đầy bụi và lắng nghe khúc nhạc yêu thích của mình, để làm động lực”.
Hồng Hạnh (Tin tức/TTXVN)
Một cuộc chiến tranh Triều Tiên thứ II sẽ gây ra tử vong khủng khiếp!
Một cuộc diễn tập quân sự kỷ niệm 85 năm thành lập Quân Đội Nhân Dân Triều Tiên (KPA). Ảnh do KCNA cung cấp ngày 26/04/2017.
KCNA via REUTERS
Vào lúc tình hình trên bán đảo
Triều Tiên càng lúc càng nóng bỏng trong khoảng thời gian từ năm 2016
đến nay, bóng ma chiến tranh đã quay trở lại và các nhà quan sát đã liên
tiếp báo động về thảm họa của một cuộc chiến tranh Triều Tiên thứ hai.
Giới chuyên gia đã cho rằng, ngay cả trong trường hợp một cuộc chiến
tranh thông thường, hàng chục nghìn người dân Hàn Quốc sẽ bị thiệt mạng
ngay trong ngày đầu tiên của một cuộc xung đột vũ trang mới với Bình
Nhưỡng.
Vũ khí sát thương khủng khiếp nhất trong lịch sử chiến tranh thế giới
0
Việt Dũng
ANTD.VN - Bom napalm là một trong những loại vũ
khí gây cháy khủng khiếp nhất từng được con người sử dụng trong chiến tranh, nó
được đánh giá còn ghê gớm hơn cả bom nhiệt áp tới vài lần.
6 trận chiến đẫm máu nhất lịch sử chiến tranh thế giới
Tiểu Đào (Theo BI) Thứ Năm, ngày 19/04/2018 16:00 PM (GMT+7)
Sự kiện: Vũ khí quân sự
(Dân Việt) Trong suốt chiều dài lịch sử chiến tranh của nhân loại, có nhiều trận đánh đẫm máu với tỷ lệ tử thương cực kỳ cao. Thế nhưng, trận đánh hao tổn sinh mạng nhất không diễn ra vào hai cuộc Chiến tranh Thế giới hiện đại mà lại thuộc thời kỳ cổ đại.
6. Trận Antietam (Nội chiến Mỹ) – Tỷ lệ tử thương: 3,22%
Diễn ra vào ngày 17.91862, trận Antietam đứng thứ 4 về độ khốc liệt
của Nội chiến Mỹ và là trận đánh một ngày đẫm máu nhất trong lịch sử
quân sự Mỹ. Chỉ trong vòng 12 tiếng, khoảng 25% quân số của Liên bang
miền Bắc (Union) và 31% quân của Liên minh miền Nam (Confederate) đã tử
trận, tàn phế hoặc bị bắt giữ (thiệt hại ước tính hơn 10.000 người mỗi
bên). Cũng trong trận này, 6 vị tướng cũng đã thiệt mạng – một con số
khủng khiếp với các cấp chỉ huy.
Trận Antietam được đánh giá là thắng lợi chiến lược của Liên bang miền Bắc, dọn đường cho Tổng thống Abraham Lincoln đưa ra Tuyên ngôn Giải phóng Nô lệ (Emancipation Proclamation) vào 5 ngày sau đó. Theo Business Insider, nếu quân Liên minh miền Nam đợi thêm vài giờ, lợi thế của trận chiến sẽ nghiêng về phía họ, khiến cho Tổng thống Lincoln không đủ tự tin để đưa ra Tuyên ngôn. Khi ấy, miền Nam sẽ nhận được sự hỗ trợ mạnh mẽ hơn từ các đồng minh ở châu Âu, dẫn tới thay đổi cục diện Nội chiến Mỹ.
5. Trận Gettysburg (Nội chiến Mỹ) – Tỷ lệ tử thương: 4,75%
Trận chiến kéo dài 3 ngày giữa tướng George G. Meade cùng với Binh
đoàn Potomac (Liên bang miền Bắc) và tướng Robert E. Lee cùng với Binh
đoàn bắc Virginia luôn được ghi nhận là điểm ngoặt của Nội chiến Mỹ khi
đã cướp đi qua nhiều mạng sống.
Trận Gettysburg là trận chiến đẫm máu nhất trong lịch sử chiến tranh Mỹ với thương vong từ 46.000 đến 51.000 người mỗi bên. Chỉ riêng trận đánh tranh giành ngọn đồi đá “Little Round Top” đã khiến 1.750 binh sĩ tử trận.
4. Trận Tuyurti (Chiến tranh Paraguay) – Tỷ lệ tử thương: 8,71%
Chiến tranh Paraguay, hay còn gọi là Chiến tranh Tam đồng minh, trở
thành trận chiến đẫm máu nhất trong lịch sử chiến tranh Mỹ Latinh khi
Paraguay “gây sự” với những quốc gia láng giềng, khiến cho ba nước
Brazil, Argentina và Uruguay quyết định thành lập liên minh chống lại
nước này
Theo các tư liệu lịch sử, với nỗ lực đột kích vào doanh trai Tam đồng minh không thành, trận Tuyurti đã khiến Paraguay gần như mất toàn bộ lực lượng vũ trang. Kết thúc chiến tranh, Paraguay đã mất 70% tổng số nam giới của mình.
3. Trận Okinawa (Thế chiến II) – Tỷ lệ tử thương: 35,48%
Trận Okinawa là một trong những trận đánh cao điểm chính trong giai
đoạn cuối của Thế chiến II, cướp đi mạng sống của tổng cộng 240.931 binh
sĩ, trong đó cả cả những người dân đảo Okinawa bị ép phải tòng quân.
Trong khi phía Mỹ có 14.009 người thiệt mạng và hơn 82.000 người bị
thương, quân đội Nhật Bản cũng chịu thiệt hại không kém khi mất tới 80%
lực lượng phòng thủ của mình.
Theo Business Insider, có hai lý do khiến cho Nhật Bản tử thương lớn như vậy. Một là do thành phần quân Nhật có nhiều dân thường của đảo Okinawa bị buộc phải tòng quân và chiến đấu. Họ phải đối đầu với những binh lính Mỹ thiện chiến, trải qua nhiều trận chiến ở khu vực Thái Bình Dương. Thứ hai là do các chỉ huy của quân Nhật đã không chịu đầu hàng mà quyết định tử thủ, gây khó khăn và cả kinh hãi cho lính Mỹ.
2. Trận Rừng Argonne (Thế chiến I) – Tỷ lệ tử thương: 39,48%
Trận Argonne là cuộc tiến công cuối cùng của phe Hiệp ước trong Thế
chiến I, đồng thời cũng là trận đánh đẫm máu nhất của cuộc chiến. Vào
ngày 26.9.1918 – ngày đầu tiên của trận đánh, chỉ trong ba giờ đầu tiên,
quân Hiệp ước đã sử dụng số đạn dược nhiều hơn cả Nội chiến Mỹ!
Theo các số liệu, cả 2 bên đều chịu thiệt hại rất lớn: nước Đức mất 28.000 binh sĩ, nước Mỹ mất 26.277 binh sĩ. Cá biệt, nước Pháp mất tới 70.000 người trong trận đánh này.
1. Trận Cannae (Chiến tranh Punic lần 2) – Tỷ lệ tử thương: 53,42%
Trong trận Cannae, quân đội Carthage dưới sự chỉ huy của Hannibal
Barca đã ghi danh vào lịch sử khi đánh bại quân đội La Mã có quân số
đông gấp đôi. Đây cũng là lần đầu tiên trong lịch sử, chiến thuật “đánh
thọc sườn” được ghi nhận.
Theo nhà học giả cổ đại Polybius, trong tổng số 86.400 binh sĩ La Mã tham gia trận đánh, chỉ có 770 sống sót!. Trong khi đó, quân Carthage chỉ mất có 5.700 trên tổng số 50.000 binh sĩ và 200 trên tổng tố 10.000 kỵ binh.
Trận Antietam được đánh giá là thắng lợi chiến lược của Liên bang miền Bắc, dọn đường cho Tổng thống Abraham Lincoln đưa ra Tuyên ngôn Giải phóng Nô lệ (Emancipation Proclamation) vào 5 ngày sau đó. Theo Business Insider, nếu quân Liên minh miền Nam đợi thêm vài giờ, lợi thế của trận chiến sẽ nghiêng về phía họ, khiến cho Tổng thống Lincoln không đủ tự tin để đưa ra Tuyên ngôn. Khi ấy, miền Nam sẽ nhận được sự hỗ trợ mạnh mẽ hơn từ các đồng minh ở châu Âu, dẫn tới thay đổi cục diện Nội chiến Mỹ.
5. Trận Gettysburg (Nội chiến Mỹ) – Tỷ lệ tử thương: 4,75%
Trận Gettysburg là trận chiến đẫm máu nhất trong lịch sử chiến tranh Mỹ với thương vong từ 46.000 đến 51.000 người mỗi bên. Chỉ riêng trận đánh tranh giành ngọn đồi đá “Little Round Top” đã khiến 1.750 binh sĩ tử trận.
4. Trận Tuyurti (Chiến tranh Paraguay) – Tỷ lệ tử thương: 8,71%
Theo các tư liệu lịch sử, với nỗ lực đột kích vào doanh trai Tam đồng minh không thành, trận Tuyurti đã khiến Paraguay gần như mất toàn bộ lực lượng vũ trang. Kết thúc chiến tranh, Paraguay đã mất 70% tổng số nam giới của mình.
3. Trận Okinawa (Thế chiến II) – Tỷ lệ tử thương: 35,48%
Theo Business Insider, có hai lý do khiến cho Nhật Bản tử thương lớn như vậy. Một là do thành phần quân Nhật có nhiều dân thường của đảo Okinawa bị buộc phải tòng quân và chiến đấu. Họ phải đối đầu với những binh lính Mỹ thiện chiến, trải qua nhiều trận chiến ở khu vực Thái Bình Dương. Thứ hai là do các chỉ huy của quân Nhật đã không chịu đầu hàng mà quyết định tử thủ, gây khó khăn và cả kinh hãi cho lính Mỹ.
2. Trận Rừng Argonne (Thế chiến I) – Tỷ lệ tử thương: 39,48%
Theo các số liệu, cả 2 bên đều chịu thiệt hại rất lớn: nước Đức mất 28.000 binh sĩ, nước Mỹ mất 26.277 binh sĩ. Cá biệt, nước Pháp mất tới 70.000 người trong trận đánh này.
1. Trận Cannae (Chiến tranh Punic lần 2) – Tỷ lệ tử thương: 53,42%
Theo nhà học giả cổ đại Polybius, trong tổng số 86.400 binh sĩ La Mã tham gia trận đánh, chỉ có 770 sống sót!. Trong khi đó, quân Carthage chỉ mất có 5.700 trên tổng số 50.000 binh sĩ và 200 trên tổng tố 10.000 kỵ binh.
Những Con Số Khủng Khiếp Trong Chiến Tranh Xâm Lược Việt Nam Của Mỹ!
2. Đây là cuộc chiến tốn kém nhất trong lịch sử nước Mỹ,tiêu tốn 738 tỷ USD(chỉ sau thế chiến thứ 2). Điều đáng nói, số tiền thuế đó của dân Mỹ đã chảy vào túi các nhà tài phiệt trong lĩnh vực công nghiệp vũ khí, tàn sát người Việt và gây ra chết chóc cho lính Mỹ. Trong khi giá trị toàn bộ hệ thống đường sá giữa các bang của Mỹ 1972 chỉ có 53 tỷ USD. Riêng năm 1968, mỗi ngày Mỹ chi phí cho cuộc chiến xâm lược Việt Nam lên tới 100 triệu USD, gấp 10 lần chi phí cho cuộc chiến chống nghèo đói ở Mỹ, và gấp 4 lần chi phí nghiên cứu vũ trụ của Mỹ.
3. Mỹ đã ném xuống 2 miền Nam-Bắc Việt Nam hơn 7,8 triệu tấn bom đạn các loại(tương đương 640 quả bom nguyên tử ném xuống Hirosima) gấp nhiều lần bất cứ cuộc chiến tranh nào của Mỹ, cùng với đó là hơn 70 triệu lít chất độc hoá học làm trụi cây lá, trong đó hơn 40 triệu lít chất độc da cam Dioxin gây ra những hậu quả tàn khốc kéo dài đến ngày nay và tương lai(ước tính 500 năm sau mới sạch hẳn).
4. Hậu quả về con người,số liệu về thương vong của Việt Nam được công bố gần đây nhất là gần 2 triệu thường dân tử vong,hơn 2 triệu thường dân mang thương tật suốt đời,khoảng 2 triệu người (quân nhân và dân thường) phơi nhiễm Dioxin. Lực lượng QĐND Việt Nam (bao gồm cả Quân giải phóng miền Nam) có khoảng 1,1 triệu quân nhân hi sinh,600.000 bị thương hoặc bị bệnh.Trong số hi sinh, có 300.000 quân nhân chưa tìm được hài cốt.
5. Tổn thất về con người đối với Mỹ,tổng số thương vong của quân đội Mỹ trong chiến tranh Việt Nam là 365.157 quân, trong dó 58.168 quân tử trận trong lúc giao tranh với 64% chưa quá tuổi 21. Ngoài ra còn có 1.875 người mất tích(tính đến 2004).Trong số 58.168 quân tử trận,có 7.878 sĩ quan,426 tư lệnh và sĩ quan chỉ huy(37 cấp tướng). Sự tổn thất về nhân mạng của Mỹ tại Việt Nam vượt cả số thương vong trong chiến tranh thế giới thứ nhất và chiến tranh Triều Tiên cộng lại.
Trong số 303.704 lính bị thương, có 53.329 người bị thương nặng phải nằm viện lâu dài,20.000 lính Mỹ nhiệm chất độc da cam Dioxin do Mỹ sử dụng ở Việt Nam. Ngoài ra còn có gần 350.000 cựu binh khác (15% tổng số) bị giải ngũ như một sự vứt bỏ,không có việc làm, không được tôn trọng và tin cậy khi về nước. Mặc khác, vết thương chiến tranh Việt Nam với vô vàn hệ lụy của nó vẫn tiếp tục gây ảnh hưởng tới hàng trăm ngàn cựu binh và xã hội Mỹ cho tới tận hôm nay…
Qua những con số lạnh lẽo trên, có thể thấy rõ cách thức để biến tiền thuế của dân Mỹ, máu của binh sĩ Mỹ, máu và tài nguyên người Việt, cũng như của nhân dân các quốc gia đã được biến thành tài sản riêng cho những tên tài phiệt đồ tể Mỹ như thế nào…Đó cũng là lý do khiến giới cầm quyền Mỹ và phương Tây ra sức gieo rắc khái niệm “dân chủ,nhân quyền” để có thể đưa quân đội và bom đạn đi tiêu thụ, để bảo vệ”tự do, nhân quyền” ở các quốc gia khác!!!
Kinh Thánh nói gì về chiến tranh?
Câu hỏi: Kinh Thánh nói gì về chiến tranh?
Trả lời: Rất nhiều người mắc lầm khi đọc Kinh Thánh trong Xuất Hành 20:13, nói rằng “Con không được giết người,” (RVV) rồi tìm cách áp dụng mệnh lệnh này cho chiến tranh. Tuy nhiên, từ Hê-bơ-rơ mang đúng nghĩa là “việc giết hại có chủ đích, tính toán trước với ác tâm; ám sát.” Đức Chúa Trời nhiều lần lệnh cho người Y-sơ-ra-ên tranh chiến với các nước khác (Xuất Hành 21:12, 15; 22:19; Lê-vi Ký 20:11). Do đó, Đức Chúa Trời không cấm đoán việc giết người trong tất cả các trường hợp, nhưng chỉ việc ám sát. Chiến tranh chưa bao giờ là tốt đẹp, nhưng thỉnh thoảng là điều cần thiết. Trong một thế giới đầy những kẻ tội lỗi (Rô-ma 3:10-18), chiến tranh là không thể tránh khỏi. Thỉnh thoảng cách duy nhất để giữ cho những kẻ tội lỗi không gây tổn hại nặng nề cho những người vô tội là chiến tranh.
Trong kinh Cựu Ước, Đức Chúa Trời ra lệnh cho người Y-sơ-ra-ên “Hãy báo thù người Ma-đi-an cho dân Y-sơ-ra-ên” (Dân số 31:2). Phục Truyền Luật Lệ Ký 20:16-17 nói, “Nhưng trong các thành thuộc lãnh thổ của những dân tộc mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời ban cho anh em làm cơ nghiệp thì đừng để cho một sinh vật nào được sống. Phải tận diệt chúng… như lời Giê-hô-va Đức Chúa Trời anh em đã phán dặn.” (RVV) Tương tự, 1 Sa-mu-ên 15:18 nói rằng, “Đức Giê-hô-va đã sai vua đi với sứ mệnh: ‘Hãy đi, tiêu diệt toàn bộ những kẻ tội lỗi kia, là người A-ma-léc, và giao chiến cùng chúng cho đến khi ngươi đã tận diệt chúng.’” (RVV) Hiển nhiên là Đức Chúa Trời không chống lại tất cả chiến tranh. Chúa Giê-xu luôn luôn đồng tâm đồng ý với Đức Chúa Cha (Giăng 10:30), và chúng ta không thể nói rằng chiến tranh chỉ là ý của Chúa trong thời Cựu Ước. Đức Chúa Trời không hề thay đổi (Ma-la-chi 3:6; Gia-cơ 1:17).
Sẽ có rất nhiều bạo lực diễn ra khi Chúa Giê-xu đến lần thứ hai. Khải Huyền 19:11-21 miêu tả một cuộc chiến đỉnh điểm, cuối cùng với Đấng Christ là Đấng chỉ huy, phán xét và gây chiến với “sự công chính” (câu 11). Đây sẽ là một cuộc chiến đẫm máu (câu 13). Chim chóc sẽ ăn thịt tất cả những kẻ chống lại Ngài (câu 17-18). Ngài sẽ không thương xót những kẻ thù nghịch mà sẽ chinh phục hoàn toàn và quẳng chúng xuống “hồ lửa lưu huỳnh đang bừng cháy” (câu 20).
Nói rằng Đức Chúa Trời không bao giờ hỗ trợ chiến tranh là sai lệch. Chúa Giê-xu không phải là người theo chủ nghĩa hòa bình. Trong một thế giới đầy rẫy những kẻ ác, thỉnh thoảng chiến tranh là cần thiết để chống lại những tội ác lớn hơn. Thử hỏi nếu Hít Le không bị đánh bại trong Thế Chiến thứ 2, còn bao nhiêu triệu người bị giết hại nữa? Nếu Cuộc Nội Chiến Hoa Kỳ không được hỗ trợ thì bao lâu nữa những con người Mỹ gốc Châu Phi vẫn phải chịu đựng số phận nô lệ?
Chiến tranh là điều khủng khiếp. Có những cuộc chiến là “chính nghĩa” hơn những cuộc chiến khác, tuy nhiên chiến tranh luôn là kết quả của tội lỗi (Rô-ma 3:10-18). Tương tự, Truyền Đạo 3:8 nói rằng, “Có kỳ yêu, có kỳ ghét; Có kỳ chiến tranh, có kỳ hòa bình.” Trong một thế giới đầy rẫy tội lỗi, sự hận thù, và điều ác (Rô-ma 3:10-18), chiến tranh là không thể tránh khỏi. Cơ Đốc Nhân không nên mong chiến tranh xảy ra, nhưng Cơ Đốc Nhân cũng không nên chống lại chính quyền mà Đức Chúa Trời đã đặt để trên họ (Rô-ma 13:1-4; 1 Phi-e-rơ 2:17). Điều quan trọng nhất chúng ta cần làm khi chiến tranh diễn ra là cầu nguyện cho sự thông sáng thánh khiết của những nhà lãnh đạo, sự an toàn cho quân đội, hai bên nhanh chóng đưa ra được nghị quyết giải tỏa xung đột, và cầu nguyện cho tổn hại tối thiểu cho thường dân cả hai bên (Phi-líp 4:6-7).
Chưa đầy 5 phút, bạn sẽ hiểu bom hạt nhân có thể để lại hậu quả khủng khiếp tới mức nào?
Chúng ta ít nhiều ý thức được sự tàn phá và hậu quả để lại của chiến tranh hạt nhân qua các bộ phim điện ảnh, nhưng nếu một ngày nào đó phải đối diện chúng trong thực tế, bạn sẽ xử trí ra sao?
Đã hơn 70 năm kể từ khi vụ thả bom nguyên tử xảy ra tại thành phố
Hiroshima và Nagasaki (Nhật Bản), cướp đi sinh mạng của gần 129 000
người và để lại nhiều hậu quả nặng nề cho tới ngày nay. Thực tế là vẫn
còn khoảng 15 000 đầu đạn hạt nhân chưa được sử dụng tới. Thậm chí trong
số đó còn có những loại có sức công phá còn lớn hơn những loại đã từng
được dùng ở thế chiến thứ 2. Vậy điều gì sẽ xảy ra nếu chiến tranh hạt
nhân lại tái diễn?
Đoạn video dưới đây sẽ đi sâu vào tìm hiểu cách thức bom hạt nhân hoạt động và những tình huống con người phải đối mặt trong chiến tranh hạt nhân:
Đoạn video dưới đây sẽ đi sâu vào tìm hiểu cách thức bom hạt nhân hoạt động và những tình huống con người phải đối mặt trong chiến tranh hạt nhân:
Chiến tranh hạt nhân khủng khiếp như thế nào?
Theo đoạn video, khoảng 35% năng lượng quả bom phát ra là bức xạ nhiệt. Vận tốc truyền đi của bức xạ nhiệt này xấp xỉ tốc độ ánh sáng, thế nên vài giây trước khi nhận thấy sự rung chuyển, hai thứ mà ta cảm nhận được đầu tiên là sức nóng và ánh sáng. Những ai không may đối diện với nó sẽ trải qua vài phút “mù sáng”, nghĩa là mắt sẽ không còn nhìn thấy gì.
Với quả bom nguyên tử nặng 1 tấn (gấp 80 lần quả bom Hiroshima), hiện tượng “mù sáng” xảy ra trong bán kính 21km vào ban ngày, 85km vào ban đêm. Sức nóng từ vụ nổ sẽ gây bỏng cấp độ 1 trong bán kính 11km, bỏng cấp độ 2 trong bán kính 10km và nặng nhất là cấp độ 3 trong bán kính 8km. Bỏng cấp độ 3 gây thương tật khoảng 24% diện tích cơ thể và có thể sẽ tử vong nếu không được cấp cứu kịp thời. Trong trường hợp như thế này, quần áo sáng màu sẽ làm tăng khả năng sống sót bởi nó hấp thụ nhiệt ít hơn so với quần áo tối màu.
Tại tâm của vụ nổ Hiroshima, nhiệt độ được ước tính lên tới 300 000 độ C. Năng lượng giải phóng trong vụ nổ hạt nhân giảm làm áp suất không khí thay đổi đột ngột, gây nên sự rung chuyển mạnh. Giả sử một quả bom nặng 1 tấn phát nổ trong bán kính 6km, nó sẽ gây áp lực tương đương 180 tấn lên toàn bộ 4 mặt tòa nhà với sức gió 255km/h. Ở bán kính 1km, con số này tăng lên gấp 4 lần, sức gió đạt 756km/h.
Về mặt vật lý, cơ thể chúng ta có khả năng chống chịu được những áp lực này mà không hề hấn gì. Tuy nhiên chính sự sụp đổ từ các tòa nhà (do gió và áp suất) mới là nguyên nhân gây ra cái chết trong các vụ đánh bom nguyên tử.
Theo ScienceAlert
Mai Elliot: Chiến tranh là một tai họa và chỉ nên chiến đấu như một lựa chọn cuối cùng
Mai Elliott là một học giả và tác giả của cuốn "The Willowed Sacred Willow: 4 thế hệ trong cuộc đời của một gia đình Việt," một hồi ký cá nhân và gia đình được đề cử giải Pulitzer Prize. Bà cũng là tác giả của cuốn "RAND ở Đông Nam Á: Một
lịch sử của thời kỳ chiến tranh Việt Nam". Sinh ra ở Việt Nam và lớn
lên ở Hà Nội và Sài Gòn, tác giả tốt nghiệp Đại học Georgetown ở
Washington DC và hiện đang sinh sống tại Los Angeles. Elliot là một
trong số gần 100 người phỏng vấn trong "The VIetnam War,"
bộ phim mười phần của Lynn Novick và Ken Burns, loạt phim tài liệu dài
18 giờ, sẽ ra mắt vào ngày 17 tháng 9 năm 2017 trên PBS. Cô đã nói
chuyện với biên tập viên của New America Media, Andrew Lam.
English version: Mai Elliot: War is a Scourge and Should Only Be Fought As A Last Resort
Theo ước mong của bà, thì phim tài liệu “The Vietnam War” sẽ làm tỏ rõ những gì về quá khứ?
Quá khứ mở đầu cho hiện tại. Quá khứ có ảnh hưởng đến hiện tại vì hiện tại là do những nguồn lịch sử và những sức mạnh đương thời chi phối xã hội và quốc gia đào tạo nên. Khi nhìn sâu vào quá khứ, chúng ta có thể hiểu tại sao chúng ra đã đi đến giai đoạn hiện tại. Như ông Ken Burns và bà Lynn Novick, đạo diễn phim tài liệu “The Vietnam War,” đã giải thích, tại nước Mỹ hiện nay, sự nghi ngờ không tin cậy chính phủ, sự chia rẽ, sự bất đồng và phẫn nộ, thiếu thiện chí bàn luận ôn hòa với những đối thủ của mình, điều này sinh ra trong thời gian Mỹ tham gia chiến tranh của Việt Nam. Ở Việt Nam, những sự biến chuyến xã hội và chính quyền hiện giờ cũng có nguồn gốc trong chiến tranh Việt Nam.
Phim tài liệu vạch lên những điều sai lầm đã đưa đến thảm hại. Tôi xin nhắc lại lời nói của ông George Santayana mà nhiều người thường nhắc đến, “nếu chúng ta không hiểu quá khứ, chúng ta sẽ nhất định lập lại những gì sai lầm trong quá khứ.” Vì vậy, tìm hiểu những gì đã xảy ra trong chiến tranh Việt Nam và lý do tại sao những sự việc này đã xảy ra sẽ giúp chúng ta hiểu những sai lầm này. Vì những sai lầm này đã đưa đến thảm hại lớn lao, chúng ta càng cần phải hiểu biết những sự việc xảy ra trong chiến tranh và tìm cách tránh không lặp lại những sai lầm này.
Bộ phim đưa đến ta những sự việc khủng khiếp của chiến tranh. Hy vọng lớn lao của tôi là bộ phim sẽ như là một liều thuốc giải khuây cho các cá nhân và gia đình đã trải qua những tổn thất to lớn. Bộ phim gợi nhắc chúng ta là tất cả những ai bị mắc trong mạng lưới của chiến tranh – bất cứ ở phía nào trong cuộc chiến – đều bị tổn thương và tổn thất, nhiều khi rất khủng khiếp. Làm như vậy, bộ phim có thể giúp chúng ta hiểu biết và thông cảm với những người bên kia vĩ tuyến. Giống như khi chúng ta tháo băng ra để không khí làm lành vết thương, tôi mong bộ phim sẽ giúp những vết thương do chiến tranh tạo nên – nếu những vết thương này còn tồn tại – hàn gắn lại.
Chúng ta đang sống trong thời đại chiến tranh không ngừng, bộ phim nhắc nhở rằng chiến tranh là một tai họa khủng khiếp và các quốc gia nên tránh chiến tranh hết mức, trừ khi tuyệt đối không còn giải pháp nào khác.
Bà được đạo diễn bộ phim phỏng vấn khá dài. Theo bà nghĩ thì phim này có thực sự miêu tả tất cả các phía trong chiến tranh Việt Nam hay không?
Bà Lynn Novick phỏng vấn tôi trong hai giờ đồng hồ. Chúng tôi bàn luận rất nhiều vấn đề để cố gắng hết mức thâu lại những khía cạnh của chiến tranh và những kinh nghiệm bản thân của tôi và của gia đình tôi. Tôi chỉ là một trong số 100 người được phỏng vấn. Họ phỏng vấn nhiều người như vậy vì họ muốn bao trùm tối đa càng nhiều ý nghĩ, ý kiến, kinh nghiệm càng tốt. Như ông Ken Burns đã nói, mục đích của ông là “không để tay lên cân” lịch sử, thiên vị bên nào, và để trưng bày nhiều sự thật của chiến tranh vì trong chiến tranh không chỉ có một sự thật, mà có rất nhiều sự thật. Theo tôi nghĩ thì ông Ken Burns, bà Lynn Novick và ông Geoffrey Ward (người biên kịch), đã thành công trong khía cạnh này. Bộ phim bao gồm tiếng nói và sự hiện diện của nhiều người thường dân ở miền Bắc và miền Nam, và nhất là những quân lính của Việt Cộng và ngoài Bắc trong thời chiến – những tiếng nói và những mẩu chuyện mà vì hoàn cảnh không cho phép, chúng ta ít được nghe và ít được biết. Theo ý kiến của tôi thì chính vì bộ phim bao gồm sự hiện diện bi tráng và tiếng nói nhạy cảm của người Việt của cả hai bên đã làm cho bộ phim phong phú hơn, rất khác so với nhiều phim tài liệu chỉ nói đến kinh nghiệm của những người thanh niên Mỹ bị quân đội gửi sang Việt Nam chiến đấu, rồi trở về Mỹ cảm thấy bỡ ngỡ và gặp khó khăn tiếp nối lại đời sống thường dân hay trở về Mỹ phản đối, chống lại chiến tranh.
Nhờ vậy, bộ phim trở thành như một bức tranh muôn màu, phong phú, lôi cuốn, hấp dẫn và cảm động.
Theo bà thì bộ phim thiếu sót những gì? Có vấn đề gì người Mỹ không hiểu hay không biết về Việt Nam?
Phim tài liệu dài 18 tiếng đồng hồ, nhưng cũng không thể trở thành một bộ bách khoa toàn thư về cuộc chiến tranh Việt Nam. Nhưng các hoan thanh vien không có tham vọng biến bộ phim thành một bách khoa toàn thư. Mục tiêu của họ là kể chuyện chiến tranh qua con mắt và kinh nghiệm của những người trong cuộc và những người đã chứng kiến cuộc chiến. Họ không phỏng vấn các nhà lãnh đạo, hay đi sâu và các chính sách hay chiến lược, hay trình bày những thống kê của chiến tranh. Như vậy có thể nói phim không phải là toàn diện. Nhưng mục tiêu của họ không phải là trình bày tất cả các chi tiết từ A cho đến Z. Mục tiêu của họ là trình bày những kinh nghiệm cá nhân và những sự tổn thất, mất mát của nước Mỹ và xã hội Mỹ.
Phần đông người Mỹ, khi họ nghĩ đến Việt Nam – nếu họ nghĩ đến – thì họ nghĩ đến chiến tranh Việt Nam. Khi họ nghĩ đến cuộc chiến, thì họ phần nhiều hay chỉ nghĩ đến vai trò của Mỹ và các sự tổn thất về sinh mạng và tiền của nước Mỹ phải hứng chịu. Vì vậy tôi mong muốn rắng bộ phim sẽ giúp họ hiểu biết tại sao người Việt Nam chúng ta – trong cả hai phe – đã chiến đấu mãnh liệt, và giúp người Mỹ biết những sự hy sinh khốc liệt của các cá nhân và gia đình của người Việt Nam.
Mục đích của phim tài liệu là diễn tả chiến tranh và nêu lên sự tổn thất sinh mạng và tài của. Phim kết thúc khi chiến tranh kết thúc, và không kéo dài đến giai đoạn sau 1975. Như vậy, có thể người Mỹ không biết và không hiểu hậu quả của chiến tranh. Họ không biết Việt Nam đã trải qua giai đoạn trần ai như thế nào, nhất là sự khốn khó những người theo chế độ cũ gặp phải sau khi súng đạn ngừng bắn, và họ không hiểu lý do tại sao hàng trăm hàng ngàn người vượt biên trên các con thuyền mong manh, so thien.
Có lẽ người Mỹ biết Việt Nam hiện nay nhiều hơn – nhưng chỉ là một nơi để thăm viếng với tính cách du lịch.
Chúng ta có thể rút được những bài học gì vì đây là những việc đã xảy ra 40 năm trước đây? Tại sao chiến tranh Việt Nam có tầm quan trọng?
Đối với nước Mỹ, chiến tranh Việt Nam cho thấy là dù Hoa Kỳ có quyền lực vĩ đại đi nữa, họ không thể bắt buộc được một quốc gia khác phải làm theo ý muốn, ý đồ của họ. Một bài học khác là trước khi nước Mỹ can thiệp và tham gia trong một cuộc chiến ở hải ngoại, họ nên tìm hiểu rõ cuộc chiến này có dính líu gì đến lợi ích quốc gia của họ không và họ nên tìm hiểu rõ lý do tại sao cuộc chiến xảy ra và các phe đánh nhau là ai, có những mục đích gì. Nếu họ ủng hộ một phe không có triển vọng, họ sẽ hứng một thảm họa lớn lao. Nhưng nếu họ ủng hộ một phe có triển vọng, họ cũng không thể áp đặt ý muốn, ý chí của họ và đi đến thắng lợi. Chiến tranh Việt Nam cũng cho thấy chiến lược giúp đồng minh xây dựng đất nước rất khó khăn thực hiện khi điều kiện không cho phép thành công. Vì vậy, tôi nghĩ, bài học cho nước Mỹ là “nhìn trước khi nhảy vào” một cuộc chiến ngoại bang.
Đối với nước Việt Nam, cuộc chiến tranh chứng tỏ rằng nếu hai bên cố thủ thì nhân dân sẽ thiệt hại. Hai bên quốc gia và cộng sản đều không muốn thỏa hiệp và nhất định đánh đến cùng. Bên này sợ bên kia, và về phía cộng sản thì họ có tham vọng hoàn thành cuộc cách mạng của họ và họ muốn kiểm soát toàn thể nước Việt Nam. Đối với họ đây là một nhiệm vụ mà Hiệp Định Geneve năm 1954 đã làm gián đoạn, với kết quả là họ chỉ được kiểm soát miền Bắc mà thôi. Bộ phim tài liệu không đặt các câu hỏi, “nếu” như thế này, thế khác, thì kết quả ra sao. Nhưng chúng ta có thể đặt một câu hỏi có tính chất giả thuyết, “Nếu miền Bắc và miền Nam đã mềm dẻo, và sẵn sàng thương lượng, bầu cử thống nhất đất nước năm 1956 như Hiệp Định Geneve quy định, thay vì khởi chiến, thì đất nước Việt Nam đã ra sao? Nếu có thỏa hiệp thì nước Việt Nam đã có thể tránh cuộc chiến tranh đẫm máu?
Trong quá trình cuộc chiến, quan điểm của bà về miền Băc và chế độ cộng sản thay đổi. Xin bà giải thích.
Quan điểm về cuộc chiến tranh của tôi thay đổi trong khi cuộc chiến diễn biến vì tôi nghĩ rằng nếu không có hòa bình thì nước Việt Nam và nhất là những người nông dân ở miền Nam sẽ bị tổn hại hơn nữa. Tôi ủng hộ cuộc chiến vì tôi sợ rằng nếu cộng sản thắng lợi thì gia đình tôi sẽ bị tai họa. Nhưng chiến tranh cứ kéo dài mãi, không biết bao giờ mới chấm dứt, và tôi nhìn thấy người dân càng ngày càng chết càng đông và nước Việt Nam càng ngày càng bị tàn phá, tôi bắt đầu nghĩ phải có hòa bình. Cuc chang nua, hòa bình dưới một chế độ cộng sản nếu họ là bên thắng cuộc vẫn hơn là tiếp tục bắn giết, nhất là đối với những nông dân đang tổn thất nặng nề.
Tôi nghĩ nếu cộng sản thắng lợi, gia đình tôi sẽ khổ cực, nhưng chắc gia đình tôi sẽ sống sót, như những người bà con họ hàng của tôi ở ngoài Bắc đã sống dưới chế độ cộng sản. Nhưng sau khi hòa bình lập lại năm 1975 thì những bà con họ hàng tôi còn ở lại miền Nam đã gặp những khó khăn dữ dội. Họ bị doi. Chính quyền công sản kỳ thị họ và coi khinh họ vì họ đã theo phía thất bại. Anh cả của tôi bị giam trong trại cải tạo trong năm năm.
Bà đã sống ở hải ngoại, xa nước Việt Nam trong nhiều năm. Mối quan hệ của bả đối với quê hương ra sao ?
Việt Nam vẫn là quê hương của tôi. Tôi sinh trưởng, lớn lên ở đó. Gia đình tôi đã sống ở đó. Mồ mả tổ tiên của tôi ở đó. Gia đình tôi và tôi có bao nhiêu kỷ niệm gắn bó với Việt Nam. Tôi là thành tựu của những ảnh hưởng của Việt Nam cũng như của Mỹ. Tôi vẫn còn gắn bó với đất nước, quê hương. Tuy đã sống ở Mỹ lâu hơn là ở Việt Nam, quê hương vẫn lôi cuốn tôi về tình cảm. Theo văn hóa Việt Nam, mình sinh ra ở đâu thì mình thuộc về đó. Tôi cảm thấy như vậy đối với Việt Nam. Nhưng tôi cũng phải nói là khi tôi về viếng thăm Việt Nam, nhiều lúc tôi cảm thấy khác lạ vì tôi đã quen mức sống ở Mỹ, tôi đã được Mỹ hóa, và tôi thích nhiều khía cạnh văn hóa Mỹ và đời sống Mỹ mà ở Việt Nam không có. Tôi biết nhiều Việt Kiều hay về Việt Nam thường xuyên, họ rất thích về. Tôi chỉ về khi cần khảo cứu viết sách hay khi nào xum họp gia đình. Tôi không có hằn thù gì đối với nước Việt Nam. Tôi rất quý trọng, thương mến người dân Việt, và tôi cầu mong đời sống của họ càng ngày càng khá lên, và tương lai của họ sẽ tươi sáng và hạnh phúc.
Bà đang viết sách về đề tài gì ?
Tôi mới viết xong một quyển tiểu thuyết và tôi mong sẽ được xuất bản. Tôi mới soạn lại một chút quyển sách “Cây dương liễu màu nhiệm ” (The Sacred Willow) về gia đình tôi, và nhà xuất bản Oxford University Press. Mới in xong và phân phát.
Tôi bắt đầu nghiên cứu để viết một chương đóng góp vào một bộ sách, ba quyển, về chiến tranh Việt Nam do Cambridge University Press xuất bản. Sau khi viết xong tôi dự định viết một quyển sách về một đề tài không liên hệ đến Việt Nam. Tôi có vài ý kiến nhưng chưa quyết định chọn lựa đề tài nào.
English version: Mai Elliot: War is a Scourge and Should Only Be Fought As A Last Resort
Theo ước mong của bà, thì phim tài liệu “The Vietnam War” sẽ làm tỏ rõ những gì về quá khứ?
Quá khứ mở đầu cho hiện tại. Quá khứ có ảnh hưởng đến hiện tại vì hiện tại là do những nguồn lịch sử và những sức mạnh đương thời chi phối xã hội và quốc gia đào tạo nên. Khi nhìn sâu vào quá khứ, chúng ta có thể hiểu tại sao chúng ra đã đi đến giai đoạn hiện tại. Như ông Ken Burns và bà Lynn Novick, đạo diễn phim tài liệu “The Vietnam War,” đã giải thích, tại nước Mỹ hiện nay, sự nghi ngờ không tin cậy chính phủ, sự chia rẽ, sự bất đồng và phẫn nộ, thiếu thiện chí bàn luận ôn hòa với những đối thủ của mình, điều này sinh ra trong thời gian Mỹ tham gia chiến tranh của Việt Nam. Ở Việt Nam, những sự biến chuyến xã hội và chính quyền hiện giờ cũng có nguồn gốc trong chiến tranh Việt Nam.
Phim tài liệu vạch lên những điều sai lầm đã đưa đến thảm hại. Tôi xin nhắc lại lời nói của ông George Santayana mà nhiều người thường nhắc đến, “nếu chúng ta không hiểu quá khứ, chúng ta sẽ nhất định lập lại những gì sai lầm trong quá khứ.” Vì vậy, tìm hiểu những gì đã xảy ra trong chiến tranh Việt Nam và lý do tại sao những sự việc này đã xảy ra sẽ giúp chúng ta hiểu những sai lầm này. Vì những sai lầm này đã đưa đến thảm hại lớn lao, chúng ta càng cần phải hiểu biết những sự việc xảy ra trong chiến tranh và tìm cách tránh không lặp lại những sai lầm này.
Bộ phim đưa đến ta những sự việc khủng khiếp của chiến tranh. Hy vọng lớn lao của tôi là bộ phim sẽ như là một liều thuốc giải khuây cho các cá nhân và gia đình đã trải qua những tổn thất to lớn. Bộ phim gợi nhắc chúng ta là tất cả những ai bị mắc trong mạng lưới của chiến tranh – bất cứ ở phía nào trong cuộc chiến – đều bị tổn thương và tổn thất, nhiều khi rất khủng khiếp. Làm như vậy, bộ phim có thể giúp chúng ta hiểu biết và thông cảm với những người bên kia vĩ tuyến. Giống như khi chúng ta tháo băng ra để không khí làm lành vết thương, tôi mong bộ phim sẽ giúp những vết thương do chiến tranh tạo nên – nếu những vết thương này còn tồn tại – hàn gắn lại.
Chúng ta đang sống trong thời đại chiến tranh không ngừng, bộ phim nhắc nhở rằng chiến tranh là một tai họa khủng khiếp và các quốc gia nên tránh chiến tranh hết mức, trừ khi tuyệt đối không còn giải pháp nào khác.
Bà được đạo diễn bộ phim phỏng vấn khá dài. Theo bà nghĩ thì phim này có thực sự miêu tả tất cả các phía trong chiến tranh Việt Nam hay không?
Bà Lynn Novick phỏng vấn tôi trong hai giờ đồng hồ. Chúng tôi bàn luận rất nhiều vấn đề để cố gắng hết mức thâu lại những khía cạnh của chiến tranh và những kinh nghiệm bản thân của tôi và của gia đình tôi. Tôi chỉ là một trong số 100 người được phỏng vấn. Họ phỏng vấn nhiều người như vậy vì họ muốn bao trùm tối đa càng nhiều ý nghĩ, ý kiến, kinh nghiệm càng tốt. Như ông Ken Burns đã nói, mục đích của ông là “không để tay lên cân” lịch sử, thiên vị bên nào, và để trưng bày nhiều sự thật của chiến tranh vì trong chiến tranh không chỉ có một sự thật, mà có rất nhiều sự thật. Theo tôi nghĩ thì ông Ken Burns, bà Lynn Novick và ông Geoffrey Ward (người biên kịch), đã thành công trong khía cạnh này. Bộ phim bao gồm tiếng nói và sự hiện diện của nhiều người thường dân ở miền Bắc và miền Nam, và nhất là những quân lính của Việt Cộng và ngoài Bắc trong thời chiến – những tiếng nói và những mẩu chuyện mà vì hoàn cảnh không cho phép, chúng ta ít được nghe và ít được biết. Theo ý kiến của tôi thì chính vì bộ phim bao gồm sự hiện diện bi tráng và tiếng nói nhạy cảm của người Việt của cả hai bên đã làm cho bộ phim phong phú hơn, rất khác so với nhiều phim tài liệu chỉ nói đến kinh nghiệm của những người thanh niên Mỹ bị quân đội gửi sang Việt Nam chiến đấu, rồi trở về Mỹ cảm thấy bỡ ngỡ và gặp khó khăn tiếp nối lại đời sống thường dân hay trở về Mỹ phản đối, chống lại chiến tranh.
Nhờ vậy, bộ phim trở thành như một bức tranh muôn màu, phong phú, lôi cuốn, hấp dẫn và cảm động.
Theo bà thì bộ phim thiếu sót những gì? Có vấn đề gì người Mỹ không hiểu hay không biết về Việt Nam?
Phim tài liệu dài 18 tiếng đồng hồ, nhưng cũng không thể trở thành một bộ bách khoa toàn thư về cuộc chiến tranh Việt Nam. Nhưng các hoan thanh vien không có tham vọng biến bộ phim thành một bách khoa toàn thư. Mục tiêu của họ là kể chuyện chiến tranh qua con mắt và kinh nghiệm của những người trong cuộc và những người đã chứng kiến cuộc chiến. Họ không phỏng vấn các nhà lãnh đạo, hay đi sâu và các chính sách hay chiến lược, hay trình bày những thống kê của chiến tranh. Như vậy có thể nói phim không phải là toàn diện. Nhưng mục tiêu của họ không phải là trình bày tất cả các chi tiết từ A cho đến Z. Mục tiêu của họ là trình bày những kinh nghiệm cá nhân và những sự tổn thất, mất mát của nước Mỹ và xã hội Mỹ.
Phần đông người Mỹ, khi họ nghĩ đến Việt Nam – nếu họ nghĩ đến – thì họ nghĩ đến chiến tranh Việt Nam. Khi họ nghĩ đến cuộc chiến, thì họ phần nhiều hay chỉ nghĩ đến vai trò của Mỹ và các sự tổn thất về sinh mạng và tiền của nước Mỹ phải hứng chịu. Vì vậy tôi mong muốn rắng bộ phim sẽ giúp họ hiểu biết tại sao người Việt Nam chúng ta – trong cả hai phe – đã chiến đấu mãnh liệt, và giúp người Mỹ biết những sự hy sinh khốc liệt của các cá nhân và gia đình của người Việt Nam.
Mục đích của phim tài liệu là diễn tả chiến tranh và nêu lên sự tổn thất sinh mạng và tài của. Phim kết thúc khi chiến tranh kết thúc, và không kéo dài đến giai đoạn sau 1975. Như vậy, có thể người Mỹ không biết và không hiểu hậu quả của chiến tranh. Họ không biết Việt Nam đã trải qua giai đoạn trần ai như thế nào, nhất là sự khốn khó những người theo chế độ cũ gặp phải sau khi súng đạn ngừng bắn, và họ không hiểu lý do tại sao hàng trăm hàng ngàn người vượt biên trên các con thuyền mong manh, so thien.
Có lẽ người Mỹ biết Việt Nam hiện nay nhiều hơn – nhưng chỉ là một nơi để thăm viếng với tính cách du lịch.
Chúng ta có thể rút được những bài học gì vì đây là những việc đã xảy ra 40 năm trước đây? Tại sao chiến tranh Việt Nam có tầm quan trọng?
Đối với nước Mỹ, chiến tranh Việt Nam cho thấy là dù Hoa Kỳ có quyền lực vĩ đại đi nữa, họ không thể bắt buộc được một quốc gia khác phải làm theo ý muốn, ý đồ của họ. Một bài học khác là trước khi nước Mỹ can thiệp và tham gia trong một cuộc chiến ở hải ngoại, họ nên tìm hiểu rõ cuộc chiến này có dính líu gì đến lợi ích quốc gia của họ không và họ nên tìm hiểu rõ lý do tại sao cuộc chiến xảy ra và các phe đánh nhau là ai, có những mục đích gì. Nếu họ ủng hộ một phe không có triển vọng, họ sẽ hứng một thảm họa lớn lao. Nhưng nếu họ ủng hộ một phe có triển vọng, họ cũng không thể áp đặt ý muốn, ý chí của họ và đi đến thắng lợi. Chiến tranh Việt Nam cũng cho thấy chiến lược giúp đồng minh xây dựng đất nước rất khó khăn thực hiện khi điều kiện không cho phép thành công. Vì vậy, tôi nghĩ, bài học cho nước Mỹ là “nhìn trước khi nhảy vào” một cuộc chiến ngoại bang.
Đối với nước Việt Nam, cuộc chiến tranh chứng tỏ rằng nếu hai bên cố thủ thì nhân dân sẽ thiệt hại. Hai bên quốc gia và cộng sản đều không muốn thỏa hiệp và nhất định đánh đến cùng. Bên này sợ bên kia, và về phía cộng sản thì họ có tham vọng hoàn thành cuộc cách mạng của họ và họ muốn kiểm soát toàn thể nước Việt Nam. Đối với họ đây là một nhiệm vụ mà Hiệp Định Geneve năm 1954 đã làm gián đoạn, với kết quả là họ chỉ được kiểm soát miền Bắc mà thôi. Bộ phim tài liệu không đặt các câu hỏi, “nếu” như thế này, thế khác, thì kết quả ra sao. Nhưng chúng ta có thể đặt một câu hỏi có tính chất giả thuyết, “Nếu miền Bắc và miền Nam đã mềm dẻo, và sẵn sàng thương lượng, bầu cử thống nhất đất nước năm 1956 như Hiệp Định Geneve quy định, thay vì khởi chiến, thì đất nước Việt Nam đã ra sao? Nếu có thỏa hiệp thì nước Việt Nam đã có thể tránh cuộc chiến tranh đẫm máu?
Trong quá trình cuộc chiến, quan điểm của bà về miền Băc và chế độ cộng sản thay đổi. Xin bà giải thích.
Quan điểm về cuộc chiến tranh của tôi thay đổi trong khi cuộc chiến diễn biến vì tôi nghĩ rằng nếu không có hòa bình thì nước Việt Nam và nhất là những người nông dân ở miền Nam sẽ bị tổn hại hơn nữa. Tôi ủng hộ cuộc chiến vì tôi sợ rằng nếu cộng sản thắng lợi thì gia đình tôi sẽ bị tai họa. Nhưng chiến tranh cứ kéo dài mãi, không biết bao giờ mới chấm dứt, và tôi nhìn thấy người dân càng ngày càng chết càng đông và nước Việt Nam càng ngày càng bị tàn phá, tôi bắt đầu nghĩ phải có hòa bình. Cuc chang nua, hòa bình dưới một chế độ cộng sản nếu họ là bên thắng cuộc vẫn hơn là tiếp tục bắn giết, nhất là đối với những nông dân đang tổn thất nặng nề.
Tôi nghĩ nếu cộng sản thắng lợi, gia đình tôi sẽ khổ cực, nhưng chắc gia đình tôi sẽ sống sót, như những người bà con họ hàng của tôi ở ngoài Bắc đã sống dưới chế độ cộng sản. Nhưng sau khi hòa bình lập lại năm 1975 thì những bà con họ hàng tôi còn ở lại miền Nam đã gặp những khó khăn dữ dội. Họ bị doi. Chính quyền công sản kỳ thị họ và coi khinh họ vì họ đã theo phía thất bại. Anh cả của tôi bị giam trong trại cải tạo trong năm năm.
Bà đã sống ở hải ngoại, xa nước Việt Nam trong nhiều năm. Mối quan hệ của bả đối với quê hương ra sao ?
Việt Nam vẫn là quê hương của tôi. Tôi sinh trưởng, lớn lên ở đó. Gia đình tôi đã sống ở đó. Mồ mả tổ tiên của tôi ở đó. Gia đình tôi và tôi có bao nhiêu kỷ niệm gắn bó với Việt Nam. Tôi là thành tựu của những ảnh hưởng của Việt Nam cũng như của Mỹ. Tôi vẫn còn gắn bó với đất nước, quê hương. Tuy đã sống ở Mỹ lâu hơn là ở Việt Nam, quê hương vẫn lôi cuốn tôi về tình cảm. Theo văn hóa Việt Nam, mình sinh ra ở đâu thì mình thuộc về đó. Tôi cảm thấy như vậy đối với Việt Nam. Nhưng tôi cũng phải nói là khi tôi về viếng thăm Việt Nam, nhiều lúc tôi cảm thấy khác lạ vì tôi đã quen mức sống ở Mỹ, tôi đã được Mỹ hóa, và tôi thích nhiều khía cạnh văn hóa Mỹ và đời sống Mỹ mà ở Việt Nam không có. Tôi biết nhiều Việt Kiều hay về Việt Nam thường xuyên, họ rất thích về. Tôi chỉ về khi cần khảo cứu viết sách hay khi nào xum họp gia đình. Tôi không có hằn thù gì đối với nước Việt Nam. Tôi rất quý trọng, thương mến người dân Việt, và tôi cầu mong đời sống của họ càng ngày càng khá lên, và tương lai của họ sẽ tươi sáng và hạnh phúc.
Bà đang viết sách về đề tài gì ?
Tôi mới viết xong một quyển tiểu thuyết và tôi mong sẽ được xuất bản. Tôi mới soạn lại một chút quyển sách “Cây dương liễu màu nhiệm ” (The Sacred Willow) về gia đình tôi, và nhà xuất bản Oxford University Press. Mới in xong và phân phát.
Tôi bắt đầu nghiên cứu để viết một chương đóng góp vào một bộ sách, ba quyển, về chiến tranh Việt Nam do Cambridge University Press xuất bản. Sau khi viết xong tôi dự định viết một quyển sách về một đề tài không liên hệ đến Việt Nam. Tôi có vài ý kiến nhưng chưa quyết định chọn lựa đề tài nào.
New America Media, 209 9th Street, Suite 200, San Francisco, CA 94103
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét