VÕ THUẬT TINH HOA 64
(ĐC sưu tầm trên NET)
Top 7 môn võ thực chiến nguy hiểm nhất thế giới
Hãy cùng điểm mặt 10 môn võ nguy hiểm nhất thế giới:

Lý Liên Kiệt hoá thân thành Hoàng Phi Hồng trong bộ phim cùng tên năm 1991.

Bức ảnh hiếm hoi về danh sư Hoàng Phi Hồng.

2. Lý Tiểu Long có thể dùng côn nhị khúc đánh ra một lực nặng 1600 Pounds.

3. Trong 1 giây, Lý Tiểu Long có thể đánh ra 9 đòn tay. Thốn quyền của Lý Tiểu Long đã ghi kỷ lục khi đánh một người nặn 75kg bay xa năm sáu mét.

4. Lý Tiểu Long có thể dùng ngón tay mở nắp chai Cocacola một cách dễ dàng.


7. Theo ghi chép, Lý Tiểu Long có thể dùng 2 tay hít đất 1500 lần, dùng 1 tay có thể lên xuống được 400 lần, chỉ dùng 2 ngón của 1 tay có thể lên xuống được 200 lần, chỉ dùng ngón cái có thể lên xuống được 100 lần.

8. Lý Tiểu Long có thể đá một bao cát nặng 135kg lên trần nhà, khoảng 5 mét.
9. Lý Tiểu Long có thể cầm một thanh tạ 34kg duỗi thẳng tay trong 20 giây. Sau đó thu tay lại và lập tức cầm thanh tạ 56 kg duỗi thẳng tay được trong mấy giây.
Có lẽ ít người biết, Lý Tiểu Long chính là quán quân cuộc thi bước nhảy cha cha năm 1958 của Hồng Kông
Nếu như Lý Tiểu Long còn sống, thì nhất định anh sẽ ghi thêm những kỷ lục thế giới mới. Nhưng thật đáng tiếc, anh qua đời khi tuổi đời còn quá trẻ; giờ đây, những người đi sau cũng chẳng có ai có thể phá vỡ những kỷ lục của anh.
Những Môn Võ Thực Chiến Nguy Hiểm Nhất Thế Giới
Top 7 môn võ thực chiến nguy hiểm nhất thế giới
Mỗi
môn võ đều có ưu điểm và nhược điểm riêng của nó. Dựa vào tính ưu việt
của từng môn, các võ sư và huấn luyện viên võ thuật trên thế giới đã
chọn ra 7 môn võ được xem có tính thực chiến nguy hiểm nhất thế giới.
Lý Liên Kiệt và dàn cao thủ võ thuật gục ngã vì bệnh tậtViên Hòa Bình: Người đạo diễn đại tài của võ thuật điện ảnh Hồng Kông
1. Kickboxing
Kickboxing là môn võ phát triển từ
Quyền Thái, Quyền Anh và Karate. Nếu boxing cổ điển chỉ sử dụng những
cú đấm thì kickboxing kết hợp cả đấm và đá. Đây là môn võ chỉ dùng cho
phái mạnh với những đòn đánh khá nguy hiểm, đầy bạo lực. Những cú đấm
thôi sơn, đòn phan ống ác liệt có thể dễ dàng knock-out đối thủ nhanh
chóng. Kickboxing là một trong những môn võ tự vệ và chiến đấu hiệu quả
nhất hiện nay.
2. Muay Thai
Muay Thai ra đời từ thế kỷ 16 với
tên gọi lúc đầu là Muay Boran. Muay Thai sử dụng tất cả các bộ phận trên
cơ thể để chiến đấu, kể cả gối và chỏ. Chính vì sử dụng gối và chỏ nên
Muay Thai được coi là môn võ tàn bạo và nguy hiểm bậc nhất thế giới.
Ngày nay, Muay Thai được phổ biến rộng rãi trên thế giới bởi khả năng tự
vệ hiệu quả và tính chiến đấu cao. Các giải đấu Muay Thai và UFC đã trở
thành các sân chơi lớn thu hút đông đảo lượng fan hâm mộ trên thế giới.
3. Krav Maga
Krav Maga là môn võ tự vệ của quân
đội Isarel, được sáng tạo bởi võ sư Imi Lichtenfied. Krav Maga kết hợp
của các môn Boxing, Savate, Muay Thai, Vịnh Xuân, Judo, Jiu-Jitsu và đô
vật. Đây được xem là môn võ có tính sát thương cao và hiệu quả chiến đấu
tốt nhất hiện nay với các đòn tấn công trực tiếp vào chỗ hiểm trên cơ
thể như ngực, cổ, mắt, yết hầu, sương xườn. Ngày nay, môn võ này được
truyền dạy rộng rãi trong quân đội các nước trên thế giới, trong đó có
Việt Nam.
4. Systema
Systema
là sự pha trộn giữa võ cổ truyền Nga và nhiều tinh hoa võ thuật phương
Đông. Nó được sáng tạo và truyền bá bởi HLV Mikhail Ryabko. Môn võ này
đòi hỏi sự tập trung cao độ, kết liễu đối thủ với các đòn nhanh mạnh,
dứt khoát. Systema được truyền dạy rộng rãi, là môn võ bắt buộc và cơ
bản của quân đội, cảnh sát Nga. Không chỉ dạy đòn đánh hiểm độc, Systema
còn rèn luyện cả yếu tố tâm lý và thần kinh thép.
5. Wushu Shanshou (Tán thủ)
Wushu Shanshu là môn võ thuật hiện
đại và vô cùng tàn bạo, nguy hiểm của Trung Quốc. Môn võ này là sự tổng
hợp từ các môn phái Thiếu Lâm, Võ Đang, Nga Mi, Không Động, Vịnh Xuân
Quyền. Wushu Shanshu là tinh hoa của võ cổ truyền Trung Hoa với các thế
đánh độc, tàn bạo và hiểm ác. Vì tính thực chiến cao nên Wushu Shanshou
được chọn là môn võ cận chiến của quân đội Trung Quốc.
6. Võ cổ truyền Việt Nam
Từ một dân tộc nhỏ bé, luôn chịu
các cuộc chiến tranh xâm lược, các bậc võ sư tiền bối Việt Nam đã đúc
kết và rút ra những miếng đánh cực độc và nguy hiểm nhất. Với nguyên lý
lấy yếu đánh mạnh, lấy ít địch nhiều, hạ kẻ thù một cách nhanh nhất, có
thể nói Võ cổ truyền Việt Nam là môn võ có chiến thuật cận chiến nguy
hiểm nhất thế giới. Ngoài ra, võ cổ truyền Việt Nam còn có các bài quyền
cước đẹp mắt và kỹ thuật dùng binh khí cực kỳ linh hoạt, uyển chuyển.
7. Triệt quyền đạo
Người sáng lập ra Triệt quyền đạo
chính là ngôi sao võ thuật điện ảnh Lý Tiểu Long. Nói về tính thực chiến
thì khó ai có thể qua được Lý Tiểu Long, ông kết hợp các môn võ Trung
Hoa như Vịnh Xuân…với võ học phương Tây để tạo ra Triệt quyền đạo với
nguyên lý cắt đứt đường quyền đối thủ trước khi đối thủ tung ra đòn.
Triệt quyền đạo đòi hỏi tốc độ, nhãn quan tốt, tính bền bỉ và khả năng
ra đòn chuẩn xác, mạnh mẽ nhất. Nhiều võ sư còn đánh giá Triệt quyền đạo
còn có tính thực chiến cao hơn cả Muay Thai lẫn Kick-boxing.
V.Đ (Tổng hợp)
Top 10 môn võ nguy hiểm nhất hành tinh
29-12-2016
Công phu Thiếu Lâm (Trung Quốc)
Nguồn
gốc: Võ Thiếu Lâm là một trong các môn võ cổ xưa nhất tại Trung Quốc,
bắt nguồn từ chùa Thiếu Lâm tại tỉnh Hà Nam. Chùa Thiếu Lâm được xây
dựng vào năm 495 sau Công nguyên và người đầu tiên thuyết giảng kinh
Phật tại đây là một tăng sĩ Ấn Độ Phật Ðà-Bạt-Ðà-La (Buddhabhadra). Một
tăng sĩ Ấn Độ khác Bồ Đề Đạt Ma (Bodhidharma) người sáng lập ra Phật
giáo Thiền tông, đến Thiếu Lâm vào năm 527 sau Công nguyên. Có nhiều ý
kiến cho rằng ông là người sáng lập ra võ Thiếu Lâm, nhưng vẫn chưa thể
khẳng định.
Đặc điểm: Được các tăng
nhân Thiếu Lâm khổ luyện, các kỹ năng cơ bản của Võ Thiếu Lâm thường tập
trung vào khả năng chịu đựng, sự linh hoạt, tính bền bỉ và thăng bằng.
Nó thể hiện niềm tin của người Trung Quốc cổ xưa về “sự hòa hợp giữa con
người và thiên nhiên” và đề cao các chiêu thức phù hợp với cấu trúc cơ
thể tự nhiên của con người. Trên cơ sở các chiêu thức quyền và cước, võ
Thiếu Lâm gây ấn tượng với tốc độ ra đòn nhanh như chớp và sức mạnh phi
thường.
Muay Thái (Thái Lan)
Nguồn
gốc: Muay Thái là môn võ đối kháng bắt nguồn từ Thái Lan vào thế kỷ 16.
Theo lời kể, trong suốt cuộc chiến giữa Miến Điện và Xiêm La, một chiến
binh tên Nai Khanomtom bị Miến Điện bắt giữ. Ông nổi tiếng thành thạo
các kỹ năng chiến đấu tay đôi và người Miến Điện cho ông cơ hội chiến
đấu để giành lại sự tự do. Với khả năng của mình, ông đã chiến thắng
trận đấu và trở về Xiêm La, nơi ông được chào đón như một vị anh hùng.
Kỹ năng chiến đấu của ông chính là Muay Thai và sớm được công nhận là
môn thể thao quốcgia.
Đặc điểm: Được
gọi là “Nghệ thuật 8 chi” hay “Kỹ thuật 8 chi”, Muay Thai sử dụng các cú
đấm, đòn đá, giựt cùi trỏ và lên gối. Đặc điểm nổi bật của Muay Thái là
sự kết hợp của kỹ thuật ôm ghì và tấn công ở tư thế đứng để quật ngã
hoặc quăng ngã đối thủ. “Cú đấm ngàn cân” được cho là có thể hạ gục một
con trâu mộng chỉ với một chiêu thức! Bên cạnh việc là một môn võ thuật
để tấn công và tự vệ, Muay Thái cũng là một môn thể thao để rèn luyện
sức khỏe và tiêu khiển.
Kalaripayattu (Ấn Độ)
Nguồn
gốc: Kalaripayattu là một trong các trường phái võ thuật lâu đời nhất
trên thế giới, bắt nguồn ở Kerala và khu vực phía Nam của Tamil Nadu, Ấn
Độ. Hiện tại chưa xác định ai là người sáng lập nhưng theo truyền
thuyết Ấn Độ cho rằng đó là Thần Shiva, Sage Agastya hay Parashurama, là
hiện thân kiếp thứ 6 của Thần Vishnu. Môn võ này đã được phát triển từ
thế kỷ thứ 6 trong cuộc chiến giữa 2 đế chế Chera và Chola. Chiến tranh
lan rộng buộc các chiến binh phải trui rèn võ thuật và phát triển các kỹ
thuật hiệu quả trong thực chiến.
Đặc
điểm: Kalaripayattu nghĩa là ‘Luyện võ trên chiến trường’. Đặc điểm của
môn võ này là các cú đá, đòn đánh, khóa xiết, sử dụng vũ khí và phương
pháp trị thương. Các kỹ thuật được kết hợp trên cơ sở các đòn chân và tư
thế mô phỏng động vật. Có 2 trường phái cơ bản: Kalaripayattu phương
Bắc dựa trên chuyển động linh hoạt, các cú nhảy, đòn thế phòng thủ và sử
dụng vũ khí trong khi Kalaripayattu phương Nam lại dựa vào chiến đấu
tay không và tấn công vào các huyệt đạo.
Krav Maga (Israel)
Nguồn
gốc: KravMaga (nghĩa là cận chiến) là hệ thống tự vệ được phát triển
bởi lực lượng phòng vệ Israel. Bắt nguồn từ các kỹ thuật chiến đấu đường
phố được phát triển bởi một võ sư Imi Lichtenfeld. Ông sử dụng các kỹ
thuật trong đấm bốc và đấu vật để phát triển các kỹ thuật này và sử dụng
để bảo vệ người Hồi giáo khỏi các nhóm phát xít ở Czechoslovakia vào
những năm 1930. Vào cuối những năm 1940, ông di cư đến Israel và bắt đầu
truyền dạy các kỹ thuật chiến đấu, mà sau này phát triển thành Krav
Maga.
Đặc điểm: Không phải là môn võ
thuật cổ truyền, Krav Maga là sự kết hợp kỹ thuật của các loại võ judo,
aikido, đấm bốc và đấu vật. Điểm nổi bật là chú trọng vào các tình huống
thực chiến và dựa trên triết lý phòng thủ và tấn công cùng lúc cũng như
vô hiệu hóa các mối đe dọa. Mặc dù Krav Maga khuyến khích tránh đối đầu
trực tiếp, nhưng trong trường hợp buộc phải xuất chiêu, sẽ tập trung
vào việc kết thúc trận đấu càng nhanh càng tốt. Nổi tiếng với tính hiệu
quả và cách phản đòn hiểm hóc có thể gây thương tích nặng hoặc lấy mạng
đối thủ.
Ninjutsu (Nhật Bản)
Nguồn
gốc: Ninjutsu (Nhẫn thuật) là hệ thống các thế võ và chiến thuật được
phát triển chủ yếu để do thám, phá hoại và đánh lén. Môn võ này được tạo
ra và tập luyện bởi các shinobi (thường được biết với cái tên ninja).
Được sử dụng lần đầu tiên trong một trận chiến thuộc cuộc chiến tranh
Genpei (1180-1185), nhưng được phổ biến trong thời kỳ Segoku
(1467-1603), cũng được biết với cái tên “Thời kỳ Chiến quốc”. Môn võ này
được cho là phát triển tại tỉnh Koka và Iga, Nhật Bản.
Đặc
điểm: Ninjutsu được phát triển chủ yếu với một loạt các kỹ thuật sinh
tồn và đòi hỏi sự khổ luyện như phi thân, ngụy trang, tẩu thoát, ẩn
thân, phóng phi tiêu và chữa thương. Kỹ thuật của Ninjutsu bao gồm các
cú đá, khóa xiết (grappling), đấm đá gây sát thương khi va chạm trực
tiếp (striking) và chiến đấu tay không. Ngoài ra, môn võ này cũng nổi
tiếng với việc sử dụng các công cụ và vũ khí như kiếm, giáo, dao găm,
phi tiêu và dây thừng đầu có móc sắt.
Sambo (Nga)
Nguồn
gốc: Sambo là loại võ được phát triển bởi Hồng quân Liên Xô để cải
thiện kỹ thuật chiến đấu đối kháng. Sambo là viết tắt của SAMozashchita
Bez Oruzhiya, nghĩa là ‘tự vệ không có vũ khí’. Môn võ là hội tụ của các
kỹ thuật chiến đấu được phát triển độc lập bởi Viktor Spiridonov và
Vasili Oshchepkov. Oshchepkov đã tập luyện Judo vài năm tại Nhật Bản và
đã đạt được nhị đẳng huyền đai dưới sự huấn luyện của tổ sư môn võ Judo
Kano Jigoro. Sau đó ông dạy judo trong Hồng quân. Trong khi đó,
Spiridonov đã tập luyện các môn võ của Liên Xô cùng với niềm đam mê
Jujutsu của Nhật Bản. Cả hai bị cuốn hút bởi niềm tin kỹ thuật chiến đấu
tay không của quân đội Liên Xô có thể được phát triển bằng cách kết hợp
kỹ thuật của các phái võ nước ngoài. Điều này khiến cả hai phát triển
các kỹ thuật chiến đấu mà sau này được kết hợp để tạo nên Sambo.
Đặc
điểm: Sambo kết hợp kỹ thuật của các môn võ thuật và thể thao như Judo
(Nhu đạo), Đấu vật, Jujutsu (Nhu thuật) và võ thuật cổ truyền Liên Xô.
Đặc điểm nổi bật là sự kết hợp của các đòn thế khóa xiết (grappling),
các thế vật (wrestling) và kỹ thuật đấm đá gây sát thương khi va chạm
trực tiếp (striking). Một vài kỹ thuật đặc trưng của môn võ này gồm đánh
ngã kết hợp kỹ thuật của judo và môn vật, kỹ năng kiểm soát đối thủ
khi nằm trên mặt đất và khóa chân.
Eskrima (Philippines)
Nguồn
gốc: Eskrima, cũng được gọi Arnis và Kali, là môn võ cổ truyền và môn
thể thao quốc gia của Philippines. Nguồn gốc của môn võ này bắt nguồn từ
các kỹ thuật chiến đấu của người bản địa và được phát triển trong suốt
thời gian xung đột giữa các bộ lạc Philippines và các vương quốc trước
khi thực dân Tây Ban Nha đến và chiếm đóng. Qua thời gian, môn võ
này chịu sự ảnh hưởng dưới sự bảo hộ của Tây Ban Nha cũng như võ
thuật Trung Hoa, Ảrập và Ấn Độ được truyền bá vào bởi những người khai
hoang và thương gia. Một giả thiết khác là Arnis có nguồn gốc từ
Silambam, một trường phái võ thuật sử dụng vu�� khí ở Ấn Độ, đồng
thời cũng chịu ảnh hưởng võ thuật của các nước Đông Nam Á khác như
Silat.
Đặc điểm: Eskrima là trường
phái võ thuật cơ bản sử dụng vũ khí, chủ yếu là gậy, dao và kiếm. Kỹ
thuật chiến đấu đặc trưng là các đòn đá sáng tạo, các đòn ở tư thế
thấp và phòng thủ hay phản đòn các góc tấn công. Môn võ này cũng bao
gồm cả các kỹ thuật chiến đấu tay đôi khác như đá, đấm, khóa và khóa
xiết cũng như các kỹ thuật tước vũ khí.
LINE (Mỹ)
Nguồn
gốc: LINE, viết tắt của cụm “Linear Infighting Neural Override
Engagement”, được phát triển bởi một người lính Thủy chiến lục quân
nghỉ hưu tên Ron Donvito. Môn võ này được Thủy quân lục chiến Mỹ sử
dụng trong giữa những năm 1989 - 1998 và Lực lượng đặc biệt quân đội Mỹ
sử dụng từ 1998-2007. Được thiết kế để sử dụng trong các tình huống
chiến đấu khắc nghiệt và cụ thể.
Đặc
điểm: Các kỹ thuật được dùng trong LINE xuất phát từ các môn võ thuật
khác nhau và nổi bật với các kỹ thuật khóa xiết và đấm đá gây sát thương
khi va chạm trực tiếp (striking). Môn võ được thiết kế để áp dụng trong
điều kiện tầm nhìn kém, tinh thần thể chất suy giảm và phải mang vác
các thiết bị, khí tài khi chiến đấu. Mỗi đòn thế đều mang
tính chí mạng và có thể lấy mạng đối thủ ngay lập tức. Môn
võ này được thay thể bởi Chương trình huấn luyện quân đội hiện
đại (MACP) vào năm 2007.
Teakwondo (Hàn Quốc)
Nguồn
gốc: Taekwondo là môn võ cổ truyền của Hàn Quốc, tên gọi được ghép từ
các chữ: tae (nghĩa là cước pháp), kwon (nghĩa là quyền pháp) và do
(nghĩa là đạo, phương pháp tập luyện). Nguồn gốc của Taekwondo hiện đại
được cho là xuất phát từ các võ quán (kwans) được mở ra ngay sau khi kết
thúc sự chiếm đóng của Nhật Bản vào khoảng năm 1945. Mỗi võ quán đều
dạy môn võ tổng hợp của mình trong những năm 1940-1950 mà sau đó thống
nhất thành Taekwondo. Ban đầu môn võ này được đặt tên là Tae Su Do,
nhưng Choi Hong Hi, một sĩ quan quân đội Hàn Quốc đồng thời là võ sư,
chủ trương đổi tên thành Tae Kwon Do, thay thế chữ su (nghĩa là thủ, bàn
tay) thành chữ kwon. Khởi đầu môn võ này chưa phổ biến đối với
tầng lớp dân chúng, nhưng với việc sử dụng huấn luyện trong
quân đội đã giúp nó được đón nhận và ưa chuộng rộng rãi.
Đặc
điểm: Tập trung vào tốc độ và tính linh hoạt, Taekwondo nổi bật với
các kỹ thuật đá cao đầu, đá xoay vòng trên không và đòn đá tốc độ
nhanh. Để cải thiện tốc độ, Teakwondo sử dụng các tư thế hẹp hơn
trong các môn võ thuật khác. Trong thi đấu thể thao hiện đại,
Taekwondo chú trọng đặc biệt vào những đòn chân với những cú đá đầy uy
lực. Tuy nhiên, thực tế Taekwondo có một số lượng đòn tay khá lớn, nếu
xem xét các bài quyền và chương trình luyện tập, người tập dễ nhận thấy
số lượng đòn tay của Taekwondo nhiều gấp ba lần các đòn tấn công hoặc
phòng ngự bằng chân.
Gatka (Ấn Độ)
Nguồn
gốc: Gatka là môn võ cổ truyền của đạo Sikh tại Ấn Độ. Môn võ được
phát triển như hiện tại qua hàng thời kỷ từ thời guru thứ 6 của đạo
Sikh, Guru Hargobind, ban đầu truyền bá triết lý về sức mạnh
chính quyền và tinh thần (miri-piri) và nhấn mạnh vào nhu cầu
tập luyện các kỹ thuật chiến đấu để tự vệ. Sau đó, dưới
thời của guru thứ 10, Guru Gobind Singh, Gatka được thúc đẩy phát
triển mạnh mẽ với việc tập hợp một nhóm người gọi là
Khalsa, những chiến binh, kiếm sĩ sử dụng điêu luyện giáo mác
và chakram (một loại vũ khí ném). Qua thời gian, Gatka cũng dần
chịu ảnh hưởng bởi các kỹ thuật đơn giản hơn của phái Gatka
được luyện tập bởi cộng đồng người Jat.
Đặc
điểm: Tập trung chủ yếu vào việc sử dụng vũ khí, Gatka sử dụng các loại
vũ khí như kiếm, Kirpan (dao), Kataar (dao găm), gậy và khiên. Có cả
thảy 10 dạng thức Gatka, mô phỏng theo các loài động vật và thần
thánh, đòi hỏi trong quá trình tập luyện phải tuân theo thứ tự
cụ thể đã được hệ thống hóa. Việc thuận cả hai tay được đánh
giá cao và Gatka nhấn mạnh đồng thời sử dụng cả 2 tay khi
chiến đấu (như hai gậy, kiếm và gậy, kiếm và khiên). Nguyên tắc
cơ bản của Gatka trong thực chiến là chatka (hạ gục đối thủ
nhanh chóng) - kết thúc trận chiến càng nhanh càng tốt với
việc lấy mạng đối thủ hoặc gây trọng thương để không còn khả
năng chiến đấu bằng cách đánh bất tỉnh hay bẻ gãy tay, chân.
Nguồn: Wikipedia
Duy Nghĩa - Topplus
Những giai thoại về võ công của cao thủ Thiết Kiều Tam
Thiết Kiều Tam là một cao thủ võ thuật nổi danh ở Quảng Đông
cuối thời nhà Thanh và được người đời sau liệt vào Quảng Đông Thập Hổ.
Uy danh vang lừng
Theo từ điển Wikipedia, trong phần viết về thiết tuyến quyền nói rằng: “Thiết tuyến quyền là một quyền thuật của Thiết Kiều Tam
sáng tạo ra. Thiết Kiều Tam là một quyền sư nổi tiếng trong giới võ
thuật Quảng Đông thời đó. Ông là đệ tử tâm đắc của hòa thượng Giác Nhân ở
chùa Nam Thiếu Lâm (Bồ Điền – Phúc Kiến)”.
Trong từ điển bách khoa tri thức của mạng tìm kiếm Baidu cũng nói rằng: “Thiết Kiều Tam
được xưng tán là Hồng quyền đại sư. Ông cùng với Hoàng Kỳ Anh, Tô Hắc
Hổ, Vương Ẩn Lâm, Hoàng Trừng Khả, Châu Thái, Đàm Tế Quân, Lê Nhân Siêu,
Trần Thiết Chí, Tô Xán được gọi là Quảng Đông thập hổ.
Một cảnh quay Thiết Kiều Tam (áo trắng) trong phim Quảng Đông thập hổ.
Vốn dĩ Thiết Kiều Tam
tên là Lương Khôn nguyên gốc là người ở huyện Nam Hải tỉnh Quảng Đông,
sinh vào năm 1813 dưới triều đại Gia Khánh nhà Thanh. Từ nhỏ Lương Khôn
đã ham mê võ nghệ và bái một danh thủ phái Thiếu Lâm là Lý Hồ Tử làm
thầy. Đến năm 14, 15 tuổi, ông đã luyện được một thân võ nghệ cao cường
hơn người. Sau đó, Lương Khôn lại có duyên gặp hòa thượng Giác Nhân của
chùa Nam Thiếu Lâm (ở Bồ Điền – Phúc Kiến) và bái Giác Nhân làm sư phụ
học thêm võ nghệ.
Lương Khôn chăm chỉ luyện tập
lại luôn cung kính nên được sư phụ rất thương yêu và trong 7 năm truyền
thụ cho hết võ nghệ. Nhờ nỗ lực không ngừng, võ công của ông đã đạt cảnh
giới rất cao. Tương truyền, Lương Khôn ở chỗ hòa thượng Giác Nhân sở
đắc được Thiết Tuyến Quyền, Tam Triển Quyền và Thiên Cân Trụy. Ông cũng
luyện kiều thủ đến mức cứng rắn như thép, giống như sắt thép đúc thành
khiến 10 người cũng không thể làm lay chuyển. Bởi thế người đời gọi ông
là Thiết Kiều Tam mà không gọi tên thật.
Riêng
môn thiết tuyến quyền, sau này Thiết Kiều Tam dạy cho Lâm Phúc Thành và
chính Lâm Phúc Thành truyền dạy cho Hoàng Phi Hồng. Sau khi học được
tuyệt kỹ này, Hoàng Phi Hồng đặc biệt coi trọng, thường nói rằng thiết
tuyến quyền là vật chí bảo của Hồng gia quyền và dặn đệ tử ghi nhớ cẩn
thận, chớ coi nhẹ mà truyền thụ bừa bãi ra ngoài.
Ân oán giang hồ vì một trận đấu
Giai
thoại truyền lại rằng, một lần Kiều Tam đến dự tiệc ở nhà một người
bạn. Ngồi bên cạnh ông là một vị giáo đầu (người sống bằng nghề dạy võ)
tên là Hồ Hải. Ông này muốn chứng tỏ bản lĩnh nên đã thách đấu Thiết
Kiều Tam. Khi cả hai bên vào tỉ thí, Kiều Tam chỉ phòng thủ bằng đôi tay
của mình mà Hồ Hải cũng không có cách gì tiếp cận.
Khi
Kiều Tam thấy có cơ hội liền tiến 3 bước chân, bất ngờ đột phá vào môn
hộ của đối phương rồi hất tay một cái, Hồ Hải liền bị ngã lăn xuống đất.
Nhưng Hồ Hải không bỏ cuộc liền dùng một chiêu “hắc hổ đào tâm” đánh
vào Kiều Tam. Chẳng ngờ Kiều Tam đề phòng từ trước nên nhanh như chớp né
khỏi bàn tay thiết trảo của địch rồi chỉ một chiêu “long mã dương đề”
đá Hồ Hải văng ra.
Mọi người đều cười, Hồ Hải có
vẻ xấu hổ nhưng không biết làm sao đành cay đắng bỏ đi. Trong đám đông
có một người là sư đệ của Hồ Hải đi ra, giả vờ ngồi xuống trước mặt
Thiết Kiều Tam, định xuất kỳ bất ý đánh thốc lên nhưng Kiều Tam vẫn ngồi
vững như thép bất động.
Sau đó, Hồ Hải muốn trả
thù Kiều Tam nên đi tìm một vị giáo đầu võ nghệ cao cường khác tên là
Mã Nam và đặt điều nói rằng Thiết Kiều Tam ở sau lưng mắng Mã Nam là một
con heo mập, không thể chịu nổi một đòn. Mã Nam giận dữ muốn đi tìm
Thiết Kiều Tam tính sổ, Hồ Hải bèn vội vàng chạy đến trước Mã Nam bày
một kế và Mã Nam sau đó cứ theo kế này thi hành.
Hôm
đó, có một người đến tìm Thiết Kiều Tam, nói rằng Mã Nam phái anh ta
tới mời Kiều Tam đi dự tiệc và trình ra một lá thư của Mã Nam. Trong khi
nói chuyện, Kiều Tam thấy người đến đưa thư thần sắc hồi hộp, lời nói
không tự nhiên nên biết bên trong chắc có gian trá. Ông cùng người đưa
thư lên đường, đến bên sông, chỉ thấy một chiếc thuyền nhỏ đỗ ở đó, có
một người lái thuyền đứng ở đằng sau thuyền. Người kia mời Kiều Tam mau
chóng lên thuyền.
Quyền phổ chép lại bài Thiết tuyến quyền - di sản võ thuật của Thiết Kiều Tam.
Khi
lên thuyền, Thiết Kiều Tam thấy chiếc thuyền này có điều khả nghi nên
âm thầm vận kình phát công lực. Chỉ thấy đầu thuyền từ từ chìm xuống,
không mấy chốc đã chìm xuống dưới mặt nước.
Đột
nhiên, Thiết Kiều Tam nghe thấy sau tai có tiếng gió ở một bên, ông liền
nhấc chân đá một cái, người kia rơi xuống sông. Ngoảnh lại thì ra người
đó chính là người đã đi mời Kiều Tam. Kiều Tam cười ha hả dùng một
chiêu yến tử phiên thân bay lên bờ, khi quay đầu lại, chiếc thuyền nhỏ
kia đã chìm xuống sông.
Vốn dĩ Hồ Hải và Mã Nam
hai người tưởng rằng Thiết Kiều Tam không biết bơi nên tính lừa cho ông
lên thuyền, để thuyền chìm thì ông sẽ trở thành một kẻ khờ dại. Nhưng
sau đó thấy Kiều Tam thoát được, hai người từ một gốc cây lớn đi ra,
đồng thời vòng tay thi lễ. Sau đó, Hồ Mã hai người tìm một quán rượu ở
gần đó và mời Thiết Kiều Tam vào để xin lỗi. Kể từ đó, uy danh của Thiết
Kiều Tam lại càng nổi hơn.
Sinh nghề tử nghiệp
Năm
1886, Thiết Kiều Tam qua đời, hưởng thọ 70 tuổi. Cái chết của ông không
phải vì đấu trên võ đài cũng không phải vì ốm bệnh bình thường mà có
liên quan đến việc tập võ. Trước đó, ông gặp Viên Quang hòa thượng và
hâm mộ kỹ thuật “Tam thập lục điểm Đồng Hoàn Côn” của vị này nên đã xin
theo học.
Được hòa thượng Viên Quang đồng ý,
Thiết Kiều Tam đến chùa Hải Tràng luyện côn. Thời gian này, người phương
Tây mang nha phiến vào đầu độc người dân Trung Quốc, rất nhiều người đã
bị nghiện ngập, Thiết Kiều Tam những năm cuối đời cũng nghiện nha
phiến. Khi đến chùa Hải Tràng luyện côn, hòa thượng Viên Quang thấy vậy
mới đặt ra giới luật cấm ông không được hút nữa.
Kiều
Tam quyết tâm thực hiện theo giới luật của hòa thượng Viên Quang để tập
trung khổ luyện côn pháp. Tuy nhiên lúc đó Kiều Tam đã già, thể lực
không còn được như lúc trẻ nên đã nhiễm bệnh lao mà qua đời. Cả cuộc đời
Thiết Kiều Tam đã tập trung cho sự nghiệp võ thuật và cũng đã dạy dỗ
được khá nhiều đệ tử nổi tiếng. Trong đó có Lâm Phúc Thành sau này là
thầy của Hoàng Phi Hồng. Thiết Kiều Tam cũng được người ta xưng tán là
“Hồng quyền đại sư”.
Nam Khánh
Sự Thật Chết Người: Sử Dụng Găng Boxing Còn Nguy Hiểm Hơn Tay Trần
Bi kịch cuối đời của huyền thoại võ thuật Hoàng Phi Hồng
Là một võ sư tiếng tăm và một danh y tài giỏi nhưng Hoàng Phi
Hồng chịu cảnh chết trong nghèo khổ, mộ của ông vẫn lưu lạc đâu đó trong
lòng đất mẹ.
Lý Liên Kiệt hoá thân thành Hoàng Phi Hồng trong bộ phim cùng tên năm 1991.
Những người yêu thích phim võ thuật chắc chắn không thể không biết đến
cái tên Hoàng Phi Hồng. Ông là một nhân vật có thật, một võ sư nổi tiếng
của nền võ thuật Trung Quốc, được mệnh danh là “đại sư hồng quyền” cuối
thời nhà Thanh.
Con trai của mãnh hổ Quảng Đông
Hoàng Phi Hồng tên thật là Hoàng Tích Tường, tự là Đạt Vân, sinh năm 1847 tại Phật San, Nam Hải, Quảng Đông, Trung Quốc. Hoàng Phi Hồng là con nhà võ, cha ông – Hoàng Kỳ Anh là đệ tử của Nam Thiếu Lâm, là một trong 10 mãnh hổ vùng đất Quảng Đông, nên từ năm 3 tuổi, Hoàng Phi Hồng đã được cha dạy võ. Năm 1872, cậu bé 12 tuổi đã theo cha đi mãi võ khắp Quảng Châu – Phật Sơn.
Con trai của mãnh hổ Quảng Đông
Hoàng Phi Hồng tên thật là Hoàng Tích Tường, tự là Đạt Vân, sinh năm 1847 tại Phật San, Nam Hải, Quảng Đông, Trung Quốc. Hoàng Phi Hồng là con nhà võ, cha ông – Hoàng Kỳ Anh là đệ tử của Nam Thiếu Lâm, là một trong 10 mãnh hổ vùng đất Quảng Đông, nên từ năm 3 tuổi, Hoàng Phi Hồng đã được cha dạy võ. Năm 1872, cậu bé 12 tuổi đã theo cha đi mãi võ khắp Quảng Châu – Phật Sơn.
Trong khoảng thời gian này, Hoàng Phi Hồng đã theo học nhiều danh sư
của các môn võ khác nhau, chàng trai trẻ đã chiến thắng cả người lớn
trong nhiều lần thách đấu nên nổi tiếng với biệt hiệu “thiếu niên anh
hùng”.
Những tuyệt chiêu của Hoàng Phi Hồng bao gồm Thiết tuyến quyền, Hổ Hạc Song Hình quyền, Cung Tự Phục Hổ quyền, Vô Ảnh cước, Tử Mẫu đao, Đơn song hổ trảo,Tứ Lượng Tiêu Long côn, Song phi đà, La Hán bào…
Những tuyệt chiêu của Hoàng Phi Hồng bao gồm Thiết tuyến quyền, Hổ Hạc Song Hình quyền, Cung Tự Phục Hổ quyền, Vô Ảnh cước, Tử Mẫu đao, Đơn song hổ trảo,Tứ Lượng Tiêu Long côn, Song phi đà, La Hán bào…
Bức ảnh hiếm hoi về danh sư Hoàng Phi Hồng.
Một mình lấy lại danh dự cho người Hong Kong
Giai thoại nổi tiếng nhất về Hoàng Phi Hồng đánh bại một tên hống hách
người phương Tây và lấy lại thể diện cho người Hong Kong năm 1876.
Khi đó, một người phương Tây đem một con chó hung dữ tới, hống hách
khiêu chiến, hắn ra điều kiện, bất cứ ai có thể đánh thắng được con chó
sẽ được thưởng 50 HKD. Rất nhiều người bị con chú hung dữ tấn công và bị
thương rất nặng, ngậm ngùi ra về.
Thấy cảnh tượng người dân mình đại bại trước một con chó Tây, Hoàng Phi
Hồng tức giận nhận lời thách đấu, chỉ sau vài cú ra đòn, con chó bị
đánh gục.
Người chủ thấy vậy tức giận, không chịu đưa tiền mà đòi Hoàng Phi Hồng
phải đấu tay tôi với hắn: “Chó của ta thua, nhưng ta không thua, muốn
lấy được tiền thì đấu với ta”. Hoàng Phi Hồng khảng khái nói: “Được,
nhưng võ thuật phải có chữ tín, ngươi viết cam kết rồi điểm chỉ vào, ta
sẽ đấu”.
Thoả thuận xong xuôi, Hoàng Phi Hồng nhanh chóng đánh bại tên người Tây
hống hách. Câu chuyện này ngay ngày hôm sau được các báo lớn của Hong
Kong đưa tin với giọng điệu rất phấn khích, Hoàng Phi Hồng từ đó được
người dân Hong Kong gọi là “anh hùng dân tộc”.
Ngôi mộ mất tích
Không chỉ nổi tiếng với tài võ nghệ, Hoàng Phi Hồng còn là một danh y,
hiệu thuốc Bảo Chi Lâm của ông rất nổi tiếng, không chỉ vì đã chữa được
bệnh cho người dân trong vòng mà còn xuất phát từ y đức của Hoàng Phi
Hồng.
Tháng 10/1924, trong một cuộc bạo loạn tại Quảng Đông, Bảo Chi Lâm bị
thiêu rụi. Quá đau buồn, Hoàng Phi Hồng ngã bệnh và mất vào ngày
17/4/1925.
Võ sư – danh y Hoàng Phi Hồng qua đời trong cảnh khốn khó, Hoàng Đạt
Sinh – một trong những học sinh của Hoàng Phi Hồng kể lại: “Lúc chết,
gia cảnh sư phụ cực kỳ khó khăn, không có tiền mua quan tài. Các đệ tử
thấy vậy, liền góp tiền lại mua quan tài chôn cất sư phụ”.
Theo lời ông Hoàng Đạt Sinh, sư phụ được chôn tập thể với nhiều nấm mộ
khác tại khu vực đường Lưu Hoa, núi Tượng Sơn tại Quảng Châu, tỉnh Quảng
Đông. Tuy nhiên, hiện tại đã hoàn toàn mất dấu ngôi mộ.
“Đã 90 năm trôi qua, mọi thứ đã thay đổi quá nhiều, hiện tại khu vực
đó toàn cao ốc” – ông Hoàng Đạt Sinh ngậm ngùi – “Rất nhiều đệ tử đã tìm
thử, nhưng đều không thể tìm ra bất cứ dấu vết gì của ngôi mộ”.
9 Kỷ lục thế giới của huyền thoại võ thuật Lý Tiểu Long chưa ai vượt được qua
Lý Tiểu Long sinh năm 1940 tại San Francisco (Mỹ), tổ tiên anh là người trấn Quân An, Thuận Đức, Quảng Đông (Trung Quốc). Nhắc tới Lý Tiểu Long là nhắc tới một bậc thầy võ thuật, người đầu tiên trên thế giới thay đổi vũ đạ, nhà triết học trong giới võ thuật, một
tông sư võ học, người sáng lập ra phim công phu và là người sáng lập ra
Tiệt Quyền Đạo,người phát huy công phu Trung Hoa ra toàn thế giới và
lập nên những kỷ lục thế giới mà đến nay vẫn chưa ai có thể phá vỡ được, đó là những kỷ lục:
1. Anh có thể đá vỡ một bao cát nặng 45 kg chỉ với một cú đá nghiêng
2. Lý Tiểu Long có thể dùng côn nhị khúc đánh ra một lực nặng 1600 Pounds.


4. Lý Tiểu Long có thể dùng ngón tay mở nắp chai Cocacola một cách dễ dàng.

5. Một chưởng của Lý Tiểu Long có sức mạnh bằng 350 pounds, Chưởng Vương A Lý lúc bấy giờ cũng chỉ đánh được như vậy. Tuy nhiên, Lý Tiểu Long chỉ nặng 130 pounds, trong khi A Lý nặng 260 pounds.
6. Trong 1 giây, Lý Tiểu Long có thể dùng chân đá ra 6 cước, anh có thể dùng chân đá bay một người mặc áo giáp bay xa 20 mét.

7. Theo ghi chép, Lý Tiểu Long có thể dùng 2 tay hít đất 1500 lần, dùng 1 tay có thể lên xuống được 400 lần, chỉ dùng 2 ngón của 1 tay có thể lên xuống được 200 lần, chỉ dùng ngón cái có thể lên xuống được 100 lần.

8. Lý Tiểu Long có thể đá một bao cát nặng 135kg lên trần nhà, khoảng 5 mét.
9. Lý Tiểu Long có thể cầm một thanh tạ 34kg duỗi thẳng tay trong 20 giây. Sau đó thu tay lại và lập tức cầm thanh tạ 56 kg duỗi thẳng tay được trong mấy giây.
Có lẽ ít người biết, Lý Tiểu Long chính là quán quân cuộc thi bước nhảy cha cha năm 1958 của Hồng Kông
Nếu như Lý Tiểu Long còn sống, thì nhất định anh sẽ ghi thêm những kỷ lục thế giới mới. Nhưng thật đáng tiếc, anh qua đời khi tuổi đời còn quá trẻ; giờ đây, những người đi sau cũng chẳng có ai có thể phá vỡ những kỷ lục của anh.
Theo facebook
Nhận xét
Đăng nhận xét