Thứ Ba, 22 tháng 5, 2018

SỰ NGU XUẨN CỦA CUỘC SỐNG 9

-Xét được sống còn trong no đủ là mưu cầu cơ bản và ước nguyện chính đáng của mọi cuộc đời, thì sẽ phân biệt được chiến tranh phi nghĩa và chiến tranh chính nghĩa, sự phòng vệ chính đáng cũng như sự bắt buộc hạ sát lực lượng đối kháng. Và khi phải hành động xả thân vì lẽ phải, con người trở nên vô cùng cao quí.
-Nhưng xét trên bình diện đánh giá sự sống là thứ quí giá nhất trên đời, thì giết chóc lẫn nhau, dù là giết chóc bắt buộc, là hành động điên rồ tột bậc của con người và chiến tranh, dù là chiến tranh chính nghĩa, vẫn là sự ngu xuẩn vô hạn, dù là sự ngu xuẩn tự giác, nhân danh bảo vệ sự sống! 
-Đứng lên trên tất cả mà phán xét, thì:
trí tuệ siêu việt của con người thậm ngu ngốc!
-Chân lý là đây:
Chiến tranh là mệnh lệnh tối thượng của tự nhiên mù quáng đối với trí tuệ sáng suốt của loài người: hãy giết chóc lẫn nhau!
-Như vậy, muốn không còn chiến tranh nữa, con người hoặc không còn lòng tham và tính tư hữu hoặc trở lại suy nghĩ tăm tối như hươu, nai.
-Nhưng hết chiến tranh rồi, xã hội loài người có hết bạo tàn? 

-----------------------------------------------------------------
(ĐC sưu tầm trên NET)
 
 
Black Hawk Down |2001| All Battle Scenes

 
Bob Dylan - Masters of War - lyrics

Người Nhật phát hiện tội ác của ông cha mình trong cuộc chiến tranh thế giới thứ hai

Từ một năm nay, ở Nhật Bản, người ta tổ chức một cuộc triển lãm lưu động nói về tội ác của đơn vị 731 trong thời gian chiến tranh. Triển lãm mở đầu bằng lời kể của một nhân chứng: “Người ta tiêm vi trùng dịch hạch cho một người Trung Hoa. Khi các hiện tượng bênh lý xuất hiện, họ trói anh ta vào giường rồi nhét một cái khăn vào miệng cho khỏi kêu. Rồi một bác sĩ Nhật Bản mổ lồng ngực từ cằm đến bụng, ông lần lượt lấy ra từng bộ phận cơ thể. Khi lôi quả tim ra, nó còn đập”. Là một trong những người tổ chức cuộc triển lãm này, ông Keiichi Tsuneishi, giáo sư lịch sử các môn khoa học ở Đại học Kanagava, đã dành phần lớn thời gian để điều tra về đơn vị 731, đã tiến hành ở Mãn Châu những thí nghiệm y học trên cơ thể con người. Dựa trên những tư liệu mới phát hiện trong hồ sơ của Mỹ và Nga, Tsuneishi và người Mỹ Sheldon Harris đã chứng minh cho công chúng Nhật thấy lại một tội ác ghê tởm của cha ông họ mà đơn vị 731 là một bộ phận trong guồng máy công nghiệp chiến tranh khổng lồ tập hợp những nhà quân sự, chính trị và y học lớn nhất của Nhật Bản thời đó.
Sự việc bắt đầu năm 1932, khi thiếu tá Ishii Shiro đi thăm Mãn Châu đang bị quân Nhật xâm chiếm. Ở tuổi 40, Ishii là một thầy thuốc giỏi, chủ nhiệm khoa miễn dịch học ở trường quân y Tokyo, có tham vọng lập một chương trình thí nghiệm về vũ khí sinh học. Từ năm 1928 y đã tiếp xúc với nhiều tướng lĩnh trong quân đội để thuyết phục xin tài trợ cho dự án sản xuất vũ khí sinh học.
Năm 1933 y đạt được ý muốn. Trung tâm nghiên cứu đầu tiên được lập tại làng Beiyinye thuộc vùng Cáp Nhĩ Tân sau bức tường có hàng rào điện là một nhà tù nhốt từ 500 đến 600 “tên phiến loạn cộng sản, bọn du đãng và kẻ cướp” cùng với những phòng thì nghiệm và một lò thiêu xác. Người ta gây bệnh dịch hạch, thổ tả và nhiệt thân cho tù nhân. Sau khi nghiên cứu phản ứng của họ xong, chúng giết chết người bệnh bằng tiêm một liều thuốc độc rồi cho thiêu xá. Để nghiên cứu não, chúng dùng búa bổ đầu, lấy bộ nào còn nóng hổi đưa về phòng thí nghiệm. Chúng còn thí nghiệm phản ứng của cơ thể đối với nhiệt độ thấp và các dòng điện chạy qua (từ 4500 đến 20000 vôn).
Mùa thu 1934, lợi dụng lúc lính gác Nhật Bản uống rượu say, tù binh nổi loạn và chạy trốn. Mười hai trong số họ đã trốn thoát. Bí mật của Ishii có nguy cơ bị tiết lộ. Ít lâu sau một vụ nổ có tính toán đã phá hủy toàn bộ nhà tù, Ishii trở về Nhật, tiếp tục những chuyến đi nói chuyện nhằm thuyết phục quân đội hưởng ứng dự án của hắn. Đồng nghiệp gọi hắn là “nhà giải phẫu điên”.
Ngày 1 tháng 7-1936, Ishii được bổ nhiệm làm giám đốc “Văn phòng làm sạch nước” ở Mãn Châu. Dưới cái vỏ đó, y cho xây một trung tâm thí nghiệm lớn ở Pingfang, cách Cáp Nhĩ Tân 24 km, gồm 76 tòa nhà, chiếm diện tích 6km2, ngang với trại tập trung Auschwitz của Đức. Tại đây có 3000 người Nhật được chọn lọc kỹ đến làm việc. Trung tâm có sân bay và phi đội riêng. Khoảng 1500 đến 3000 người Trung Hoa làm công việc quét dọn, người nào có ý định trốn sẽ bị lính Nhật bắn chết hoặc cho chó cắn.
Năm 1941 Trung tâm đổi tên là Đơn vị 731, thu hút những nhà nghiên cứu ưu tú của Nhật Bản. Bảy người phụ trách là thành viên Đại học hoàng gia Kyoto. Tất cả có 300 đến 500 bác sĩ làm công việc nghiên cứu trên cơ thể con người. Vật thí nghiệm được chở bằng tầu hỏa hay xe tải từ Cáp Nhĩ Tân tới, gồm có người Trung Hoa và cả người Nga theo bảo vệ, người Do Thái, lính Liên Xô bị bắt trong các cuộc phục kích ở biên giới, người Triều Tiên, Mông Cổ… Họ được cho ăn uống tốt nhưng không sống được lâu.
Tại đây chúng tôi đã nghiên cứu các bệnh thương hàn, kiết lỵ, uốn ván, hoại thư, lao và bạch cầu. Chúng tiêm nước đái ngựa vào thận, chích mầm viêm não của chuột vào mạch máu người. Chúng thí nghiệm liều gây chết người của bạch phiến và dầu hải ly. Chúng thí nghiệm Socola, bánh ngọt, bia, chứa vi trùng dịch hạch và thổ tả. Và chúng huênh hoang công bố hàng trăm công trình được thực nghiệm trên “Chúng tôi có thể cung cấp 300 kg vi trùng dịch hạch và 800kg mầm thương hàn mỗi tháng”. Nhiều nhân vật cao cấp của quân đội đã đến thăm Ping Fang. Hoàng thân Higashigumi Naruhiko, chú và bạn thân của Nhật hoàng, cùng nhiều nhân vật khác trong hoàng gia đã có mặt tại đây. Ishii trở thành người được coi trọng, y sống cùng gia đình trong một trang trại lớn ở Cáp Nhĩ Tân, có máy bay riêng và đi xe bọc thép.
Không ai lên tiếng ngăn cản khi chúng quyết định thí nghiệm trên thực địa. Máy bay Nhật đã ném các loại bom chứa vi trùng dịch hạch hay hơi gây hoại thư xuống An Đại. Chúng đã đầu độc hàng nghìn nguồn nước và giếng bằng vi trùng thương hàn. Ở Nam Kinh chúng phát hiện trẻ em kẹo chứa vi trùng mụn nhọt. Chúng tung rận và chuột mang vi trùng dịch hạch ở Cát Lâm và Trường Đức. Mỗi lần như vậy, các nhà khoa học Nhật Bản theo dõi sự lan truyền của các bệnh dịch, tính đến hàng trăm người chết, rồi viết báo cáo.
Sau 10 năm thí nghiệm, năm 1942 Ishii được điều đi Nam Kinh. Có lẽ là do việc này gây nên cái chết của 1700 lính Nhật vì bệnh thương hàn sau một cuộc thí nghiệm. Người kế nhiệm y là Kitano Masaji, đồng thời là giáo sư trường ý khoa Phụng Thiên (Mãn Châu). Kitano đã từng thủ tiêu hàng nghìn người Trung Hoa và Triều Tiên trong các cuộc thí nghiệm. Thành tích lớn của y là gây nên bệnh dịch bằng phun thuốc từ máy bay xuống ở Thượng Hải năm 1944.
Đơn vị 731 là một mắt xích trong dây truyền thí nghiệm. Đơn vị 100 ở Trường Thuận, nơi vua bù nhìn Phổ Nghi ở, cũng gây nên những tội ác không kém. Dưới danh nghĩa tiêm phòng dịch, chúng đã chích vi trùng dịch hạch cho dân chúng cả một thành phố. Cả hai đơn vị đều có khoảng một tá chi nhánh rái rác khắp Trung Quốc. Ở Nam Kinh đơn vị 1644 chuyến thí nghiệm trên đàn bà trẻ con và dùng các thứ thuốc độc như nọc rắn, thạch tín, axit xianhydric. Giám đốc đơn vị mà là Matsuda đã được chuyển đến Miến Điện năm 1942 để chỉ đạo một trung tâm “phòng dịch” miền Đông Nam Á.
Theo Sheldon Harris thì con số nạn nhân bị thủ tiêu trong các phòng thí nghiệm của Ishii lên đến 12000 người. Còn phải kể đến hàng nghìn lao động Trung Hoa bị chết vì kiệt sức và bị thủ tiêu trước khi quân Liên Xô đến Mãn Châu. Lại còn hơn 100.000 người chết trong các cuộc “thí nghiệm” trên thực địa. Nhiều vùng của Trung Quốc xưa nay chưa hề có dịch hạch và sâu quảng vẫn còn bị dị hại sau chiến tranh. Những thành thị vùng Sơn Đông cho đến giữa những năm 50 vẫn chưa thể cư trú được.
Trở lại Nhật Bản sau khi thua trận, Ishii Shiro không phải lo lắng gì. Y đã thỏa thuận với người Mỹ rằng kể lại hết “chiến tích” và đưa các kết luận khoa học của mình. Đánh đổi lại, y sẽ không bị đưa ra xử như tội phạm chiến tranh. Cuộc đổi chác thành công, y đã yên ổn chết tại nhà năm 1958. Những tên tội phạm khác cũng được tha bổng theo kiểu đó. Một đàn em xuất sắc của Ishii ở Đơn vị 731 là Naito Ryoichi, sau chiến tranh đã thành lập công ty dược phẩm Midori Jugi (chữ thập xanh). Kitano Masaji, người kế tục Ishii ở Đơn vị 730 vẫn là người chỉ đạo trong thời gian dài một chi nhánh ở Tokyo. Những tên đầu xỏ của Đơn vị đã chuyển thành những chủ nhiệm khoa ở đại học, cán bộ lãnh đạo của công ty, vụ trưởng ở bộ y tế, chủ tịch Hiệp hội các thầy thuốc. Người em họ của Nhật hoàng thường lui tới trung tâm Ping Fang, trở thành người lãnh đạo Ủy ban Olimpic Nhật Bản chuẩn bị cho Thế vận hội Tokyo. Năm 1983 ông tuyên bố: “tôi nghĩ rằng chúng ta cần phải nghiên cứu mọi biện pháp để tiến hành chiến tranh”.
Trong 40 năm nước Nhật muốn quên đi hết. Vậy mà từ ba năm nay chính phủ Nhật đã phải thừa nhận là có cưỡng bức 200.000 phụ nữ Triều Tiên, Trung Hoa và Philippin làm gái mãi dâm cho quân đội Nhật. Một số sách giáo khoa Nhật Bản đã phải nói lên vụ thảm sát và cưỡng hiếp 200.000 người Trung Hoa ở Nam Kinh. Tuy nhiên người ta vẫn chưa muốn nói đến hoạt động tội ác của đơn vị 731, và việc một số thị trường ở Nhật từ chối không cho đoàn triển lãm lưu động đến thành phố của mình là một bằng chứng.
Giờ đây, một nhóm nhà khoa học và hoạt động xã hội muốn thức tỉnh người Nhật. Họ muốn những thành viên cũ của Đơn vị 731 phá vỡ sự im lặng đó. Cuối cùng ken Yuasa là người đầu tiên công  khai thú nhận tội ác “thí nghiệm” của mình trong một bệnh viện quân y Nhật Bản ở Sơn Tây Trung Quốc. Ở đó Yussa đã cắt và nối lại các xương sườn, ruột và tinh hoàn của 13 người Trung Hoa để làm thí nghiệm, trước khi giết chết họ. Ngày nay, người giám đốc một bệnh viện tư ở Tokyo đã nói trước đám học sinh đến xem triển lãm về đơn vị 731 rằng: “Tôi là một tên tội phạm chiến tranh”
Đào Hùng – Theo L’Evenement du Jeudi

  
The Magnificent Seven |2016| Battle Scenes
Ha-ma-ghê-đôn—Trận chiến của Đức Chúa Trời để chấm dứt mọi cuộc chiến
“Họ xem việc giết người đồng loại là điều tàn ác. Vì thế, đối với họ, chiến tranh là cái gì đó không thể hiểu được và đáng ghê tởm, một điều không hề có trong ngôn ngữ của họ”.—LỜI NHẬN XÉT CỦA ÔNG FRIDTJOF NANSEN, MỘT NHÀ THÁM HIỂM NGƯỜI NA UY, VỀ NGƯỜI INUIT (ESKIMO) Ở GREENLAND, NĂM 1888.
Có ai không ao ước được sống trong một xã hội mà chiến tranh là điều “không thể hiểu được và đáng ghê tởm”? Có ai không mong đợi một thế giới mà từ “chiến tranh” không hề tồn tại vì không ai biết đến nó? Một thế giới như thế có lẽ quá xa vời, đặc biệt nếu chúng ta đặt hy vọng đó nơi con người.
Tuy nhiên, trong lời tiên tri của Ê-sai, chính Đức Chúa Trời đã hứa sẽ mang lại một thế giới như thế: “Họ sẽ lấy gươm rèn lưỡi-cày, lấy giáo rèn lưỡi-liềm. Nước nầy chẳng còn giá gươm lên nghịch cùng nước khác, người ta chẳng còn tập sự chiến-tranh”.—Ê-sai 2:4.
Ngày nay, có 20 triệu binh lính đang thi hành nhiệm vụ và khoảng 20 cuộc chiến đang diễn ra. Rõ ràng, thế giới cần phải có sự thay đổi vô cùng to lớn để lời hứa này thành hiện thực. Không có gì ngạc nhiên, Đức Chúa Trời toàn năng, Đức Giê-hô-va, sẽ can thiệp vào các vấn đề của loài người. Sự can thiệp của Đức Giê-hô-va sẽ lên đến đỉnh điểm, và Kinh Thánh gọi đó là Ha-ma-ghê-đôn.—Khải-huyền 16:14, 16.
Dù trong những năm gần đây, từ “Ha-ma-ghê-đôn” được dùng để ám chỉ đến thảm họa hạt nhân trên khắp thế giới, nhưng một từ điển cho biết nghĩa chính của từ này là “nơi chiến đấu quyết liệt cuối cùng giữa thiện và ác”. Liệu thiện sẽ thắng ác không? Hay đó chỉ là một trận chiến trong tưởng tượng?
Chúng ta có thể được khích lệ khi thấy Kinh Thánh thường lặp đi lặp lại kết cuộc của sự gian ác. Người viết Thi-thiên báo trước: “Nguyện tội-nhân bị diệt mất khỏi đất, và kẻ ác chẳng còn nữa” (Thi-thiên 104:35). Sách Châm-ngôn cho biết: “Người ngay-thẳng sẽ được ở trên đất, và người trọn-vẹn sẽ còn ở đó luôn luôn. Nhưng kẻ gian-ác sẽ bị truất khỏi đất, và kẻ bất-trung sẽ bị nhổ rứt khỏi đó”.—Châm-ngôn 2:21, 22.
Kinh Thánh cũng cho thấy rõ ràng là những người ác sẽ không từ bỏ quyền lực của mình trong yên bình. Vì thế, Đức Chúa Trời cần hành động dứt khoát để loại trừ mọi gian ác, kể cả chiến tranh (Thi-thiên 2:2). Tên gọi Ha-ma-ghê-đôn mà Kinh Thánh dùng cho trận chiến đặc biệt này rất đáng lưu ý.
Những trận chiến trước đây diễn ra gần Mê-ghi-đô
Từ “Ha-ma-ghê-đôn” có nghĩa là “núi Mê-ghi-đô”. Cùng với đồng bằng Gít-rê-ên bao quanh, thành phố Mê-ghi-đô cổ xưa đã có một lịch sử lâu dài về các trận đánh quyết định. Sử gia Eric H. Cline viết trong cuốn The Battles of Armageddon (Các trận chiến Ha-ma-ghê-đôn) như sau: “Trong suốt lịch sử, Mê-ghi-đô và thung lũng Gít-rê-ên là địa điểm của các trận chiến quyết định và tạo nên bước ngoặc trong lịch sử của các dân tộc”.
Như ông Cline cho biết, những trận chiến diễn ra gần Mê-ghi-đô thường mang tính quyết định. Đội quân Mông Cổ, xâm chiếm phần lớn Châu Á vào thế kỷ 13, đã thất bại lần đầu tiên tại thung lũng này. Không xa Mê-ghi-đô, quân đội Anh Quốc dưới sự chỉ huy của Tướng Edmund Allenby đã đánh bại quân Thổ Nhĩ Kỳ trong Thế Chiến I. Một sử gia quân đội miêu tả chiến thắng của vị tướng này là “một trong những chiến dịch quyết định diễn ra nhanh chóng nhất, và là trận đánh quyết liệt nhất trong lịch sử”.
Những trận quyết chiến trong Kinh Thánh cũng diễn ra gần Mê-ghi-đô. Nơi ấy, quan xét Ba-rác đã chiến thắng quân đội Ca-na-an do Si-sê-ra chỉ huy (Các Quan Xét 4:14-16; 5:19-21). Ghê-đê-ôn với một nhóm chỉ 300 quân đã đánh bại đạo binh của người Ma-đi-an trong vùng phụ cận (Các Quan Xét 7:19-22). Vua Sau-lơ và con trai ông là Giô-na-than đã chết gần núi Ghinh-bô-a khi lực lượng Phi-li-tin chiến thắng quân Y-sơ-ra-ên.—1 Sa-mu-ên 31:1-7.
Do có địa hình chiến lược, Mê-ghi-đô và thung lũng kế cận đã chứng kiến nhiều trận chiến trong suốt 4.000 năm qua. Một sử gia tính được có đến ít nhất 34 trận!
Lịch sử và vị trí chiến lược của Mê-ghi-đô chắc hẳn có liên quan đến ý nghĩa tượng trưng của từ “Ha-ma-ghê-đôn”. Dù từ này chỉ xuất hiện một lần trong Kinh Thánh, nhưng những gì sách Khải-huyền nói về Ha-ma-ghê-đôn cho thấy rõ trận chiến này sẽ ảnh hưởng đến đời sống của mỗi người trên đất.
Ý nghĩa của Ha-ma-ghê-đôn trong Kinh Thánh
Dù nhiều trận chiến trước đây diễn ra ở Mê-ghi-đô rất quyết liệt, nhưng không có trận nào xóa bỏ được sự gian ác, hoặc thật sự là cuộc chiến đấu giữa thiện và ác. Thế nên, điều hợp lý là cuộc chiến đấu như thế phải do Đức Chúa Trời khởi xướng. Chúa Giê-su đã từng nói: “Chỉ có một Đấng Thánh thiện là Thượng Đế” (Lu-ca 18:19, Bản Diễn Ý). Hơn nữa, Kinh Thánh cũng đặc biệt cho biết Ha-ma-ghê-đôn là trận chiến của Đức Chúa Trời.
Sách Khải-huyền trong Kinh Thánh nói rằng “các vua trên khắp thế-gian” sẽ nhóm nhau lại để “chiến-tranh trong ngày lớn của Đức Chúa Trời toàn-năng” (Khải-huyền 16:14). Lời tiên tri ấy cũng nói thêm: “Chúng nhóm các vua lại một chỗ, theo tiếng Hê-bơ-rơ gọi là Ha-ma-ghê-đôn”* (Khải-huyền 16:16). Sau đó, sách Khải-huyền cho biết “các vua thế-gian” sẽ “nhóm lại đặng tranh-chiến với Đấng cưỡi ngựa, và với đạo binh của Ngài” (Khải-huyền 19:19). Đấng cưỡi ngựa không ai khác hơn là Chúa Giê-su.—1 Ti-mô-thê 6:14, 15; Khải-huyền 19:11, 12, 16.
Chúng ta kết luận gì về những câu Kinh Thánh này? Đó là Ha-ma-ghê-đôn là trận chiến giữa Đức Chúa Trời với lực lượng của những kẻ không vâng lời. Tại sao Đức Giê-hô-va và Con Ngài là Chúa Giê-su phải tranh chiến như thế? Một lý do là vì Ha-ma-ghê-đôn sẽ “hủy-phá những kẻ đã hủy-phá thế-gian” (Khải-huyền 11:18). Ngoài ra, Ha-ma-ghê-đôn cũng sẽ mang lại một thế giới hòa bình, “đất mới” mà chúng ta đang chờ đợi theo lời hứa của Đức Chúa Trời. Đó là “nơi sự công-bình ăn-ở”.—2 Phi-e-rơ 3:13.
Tại sao cần có trận chiến Ha-ma-ghê-đôn?
Kinh Thánh cho biết Đức Giê-hô-va là ‘Đức Chúa Trời yêu-thương’, và Con Ngài là “Chúa Bình-an”. Bạn có thấy khó hình dung khi chính Đức Chúa Trời đã bổ nhiệm Chúa Giê-su để chiến đấu trong trận chiến này không? (2 Cô-rinh-tô 13:11; Ê-sai 9:5). Hiểu được động lực của hai Đấng này sẽ giúp bạn biết lý do. Sách Thi-thiên miêu tả Chúa Giê-su là một chiến binh cưỡi ngựa. Tại sao ngài tranh chiến? Người viết Thi-thiên giải thích là “vì cớ sự chân-thật, sự hiền-từ, và sự công-bình”. Chúa Giê-su tranh chiến vì ngài yêu sự công bình và ghét điều gian ác.—Thi-thiên 45:4, 7.
Tương tự, Kinh Thánh miêu tả phản ứng của Đức Giê-hô-va trước sự bất công mà Ngài thấy trên thế giới ngày nay. Nhà tiên tri Ê-sai viết như sau: “Đức Giê-hô-va thấy không có sự công-bình thì chẳng đẹp lòng, Ngài mặc sự công-bình làm giáp, đội sự cứu-rỗi trên đầu làm mão-trụ; lấy sự báo-thù làm áo mà bận, lấy sự sốt-sắng làm áo tơi mà choàng mình”.—Ê-sai 59:15, 17.
Bao lâu kẻ ác còn có quyền lực, người ngay thẳng sẽ không được hưởng hòa bình và an ninh (Châm-ngôn 29:2; Truyền-đạo 8:9). Trên thực tế, chúng ta không thể xóa bỏ sự gian ác và bại hoại nếu những kẻ ác vẫn còn tồn tại. Vì thế, nền hòa bình và công lý lâu dài chỉ có được sau khi kẻ ác bị hủy diệt. Vua Sa-lô-môn viết: “Kẻ ác là một giá chuộc người công-bình”.—Châm-ngôn 21:18.
Vì Đức Chúa Trời là Đấng đoán xét, chúng ta có thể tin chắc rằng mọi phán quyết của Ngài trên kẻ ác đều là công bình. Áp-ra-ham đã hỏi: “Đấng đoán-xét toàn thế-gian, há lại không làm sự công-bình sao?”. Và rồi ông biết câu trả lời là Đức Giê-hô-va luôn luôn đúng! (Sáng-thế Ký 18:25). Ngoài ra, Kinh Thánh cũng bảo đảm với chúng ta rằng Đức Giê-hô-va không vui về việc hủy diệt những kẻ ác, đó chỉ là biện pháp cuối cùng.—Ê-xê-chi-ên 18:32; 2 Phi-e-rơ 3:9.
Ha-ma-ghê-đôn là trận chiến có thật
Chúng ta sẽ đứng về bên nào trong trận chiến quyết liệt này? Hầu hết mọi người đều tự nhiên cho rằng mình thuộc về bên thiện. Nhưng làm sao chúng ta có thể chắc chắn về điều đó? Nhà tiên tri Sô-phô-ni khuyến khích chúng ta “tìm-kiếm sự công-bình, tìm-kiếm sự nhu-mì” (Sô-phô-ni 2:3). Sứ đồ Phao-lô cho biết Đức Chúa Trời muốn “mọi người được cứu-rỗi và hiểu-biết lẽ thật”.—1 Ti-mô-thê 2:4.
Để được cứu rỗi, bước đầu tiên là học biết chân lý về Đức Giê-hô-va và ý định của Ngài liên quan đến việc tẩy sạch những người ác khỏi mặt đất. Bước tiếp theo là làm những điều công bình. Nhờ đó, chúng ta được Đức Chúa Trời chấp nhận và bảo vệ.
Khi đã làm những bước quan trọng này, thay vì sợ hãi, chúng ta có thể trông mong Ha-ma-ghê-đôn, trận chiến chấm dứt mọi cuộc chiến của con người. Sau khi Ha-ma-ghê-đôn kết thúc, người ta ở khắp mọi nơi sẽ xem chiến tranh là một điều không thể hiểu được và đáng ghê tởm. Lúc ấy, “người ta chẳng còn tập sự chiến-tranh”.—Ê-sai 2:4.
[Chú thích]
Để biết Ha-ma-ghê-đôn có phải là một nơi chốn theo nghĩa đen hay không, xin xem mục “Câu hỏi độc giả”, nơi trang 31.
[Câu nổi bật nơi trang 5]
Sự can thiệp của Đức Chúa Trời vào các vấn đề của loài người được gọi là Ha-ma-ghê-đôn
[Hình nơi trang 6]
Mê-ghi-đô
[Hình nơi trang 6]
Ghê-đê-ôn và lính của ông đã chiến thắng trong trận chiến quyết liệt diễn ra gần Mê-ghi-đô
[Hình nơi trang 6, 7]
Sau khi Ha-ma-ghê-đôn kết thúc, người ta ở khắp mọi nơi sẽ xem chiến tranh là một điều không thể hiểu được và đáng ghê tởm
[Hình nơi trang 8]
Học biết chân lý về Đức Giê-hô-va và ý định của Ngài là bước đầu tiên để được cứu rỗi

  
Elysium |2013| All Fight Scenes

Chủ nghĩa tư bản và chiến tranh: Những người lính chỉ là nạn nhân


Mỗi khi nước Mỹ tham gia chiến tranh, những người lính đều được tuyên dương như những người hùng vì đã có sự hy sinh lớn lao cho lợi ích “của quốc gia”.

Trích từ cuốn “Sự khó nắm bắt của hòa bình trong một hệ thống toàn cầu đáng ngờ” (The Elusiveness of Peace in a Suspect Global System) của tác giả Tatah Mentan, xuất bản năm 2016.
Nguồn: Capitalism and War / Angelfire.
Biên dịch: Đoàn Hiểu Linh / Redsvn.net.
Giới truyền thông do các doanh nghiệp thao túng luôn luôn khẳng định rằng các khái niệm “tự do”, “dân chủ” ở một quốc gia nào đó đang được phó thác cho nước Mỹ, và việc đem quân đánh các nước này là cần thiết. Chúng ta thậm chí có một ngày nghỉ, ngày Cựu chiến binh (Veteran’s Day) để tôn vinh những hành động “anh hùng” của những người lính “của chúng ta”.
Liệu đó có thật sự là những người lính anh hùng, hay chúng ta nên gọi họ bằng một từ khác, ví dụ như “nạn nhân”?
Đó là mục đích của bài viết này. Bài viết sẽ phân tích ý nghĩa chiến tranh dưới trào chủ nghĩa tư bản dưới góc nhìn của giai cấp công nhân, lý do thật sự buộc họ chiến đấu, vai trò của người lính.
Đầu tiên, trái ngược với những gì chúng ta thường xuyên được người Mỹ tuyên truyền về chiến tranh, các cuộc chiến của họ không bao giờ được thực hiện dựa trên lý tưởng đạo đức hoặc việc ủng hộ một loại khát vọng “công lý” trừu tượng nào đó. Các cuộc chiến trong thế giới bị tư bản kiểm soát luôn luôn là sự chiến đấu để giành quyền kiểm soát các nguồn lực tiền tệ và lãnh thổ giữa hai hay nhiều tập hợp các tầng lớp cai trị quốc gia riêng rẽ.
Khát khao “tự do” chính trị của những dân tộc bị áp bức sẽ không bao giờ có mặt trong nghị trình mà các nhà chính trị (tư bản) quan ngại. Đó là lý do vì sao Mỹ bỏ qua các vụ bạo lực gây chết chóc ở nhiều quốc gia (như Indonesia và Sri Lanka) khi điều đó không liên quan đến các lợi nhuận của các nhà tư bản Mỹ.
Điều này trái ngược với khi các lợi ích bị đe dọa, ví dụ như khi Saddam Hussein giành quyền kiểm soát Kuwait và nguồn cung dầu của nước này, đe dọa dòng chảy êm ả của nguồn tài nguyên giá trị vào túi tiền của các doanh nghiệp Mỹ. Khi đó, tổng thống Bush cha, người đã đầu tư nhiều khoản tài chính cá nhân vào dầu mỏ Kuwait, đã ngay lập tức ra lệnh “đưa quân đội tới”, thậm chí không buồn xin ý kiến Quốc hội (do đó, cuộc chiến tranh Vùng Vịnh thập niên 1990, cũng như chiến tranh Việt Nam và Triều Tiên trước đó, và các cuộc chiến sau này ở Kosovo và Iraq những năm 1998 và 2003, về mặt kỹ thuật đều trái với hiến pháp).
Cũng cần lưu ý rằng, ở Kuwait chưa từng tồn tại một loại hình dân chủ nào dù là dân chủ kinh tế hay chính trị. Mối quan tâm chủ yếu của Mỹ và đồng minh của họ không phải dân chủ mà là bảo đảm sự liên tục của một giá dầu hợp lý. Các nhà cầm quyền “thân thiện” như ở Kuwait cực kỳ giàu có, dù nhiều lần bị kết tội vi phạm nhân quyền (trong đó có việc kỳ thị phụ nữ), họ đã không hề làm bận tâm giới cầm quyền Mỹ bởi vì họ vẫn còn có lợi cho việc kinh doanh của Mỹ.
Tuy nhiên, để giành được sự ủng hộ của các công dân Mỹ, hệ thống truyền thông đã tuyên truyền rằng Hussien là kẻ độc ác và ám chỉ một cách dối trá rằng chính phủ Mỹ đang thực hiện một sứ mệnh nhân đạo, vị tha dựa trên các lợi ích luân lý thuần túy. Thực sự thì cuộc chiến này không đem lại bất cứ lợi ích gì cho người lao động ở Kuwait.
Còn nhiều ví dụ từ các cuộc chiến tranh khác. Như chiến tranh Việt Nam được thực hiện chủ yếu dựa trên thực tế là người lao động Việt Nam đã lựa chọn lật đổ sự cai trị độc ác của tư bản Pháp để thiết lập một hệ thống theo chủ nghĩa Marx-Lenin mà giới cầm quyền Mỹ e sợ rằng sẽ khiến Việt Nam phụ thuộc vào quỹ đạo kinh tế – chính trị của Xô-viết. Do đó, các nhà chính trị Mỹ, dẫn đầu bởi tổng thống chiến bại Lyndon B. Johnson, đã gửi hàng trăm nghìn công dân thuộc tầng lớp lao động Mỹ đến để bắn hạ những người anh em thuộc tầng lớp lao động Việt Nam mà họ vốn không có xung đột gì, chủ yếu vì lợi ích của tư bản Mỹ.
Nhiều lính Mỹ ở Việt Nam (bị buộc đi nghĩa vụ trái với lương tâm cá nhân và ý chí của họ) được lệnh thực hiện những tội ác không thể biện minh được với những em bé và phụ nữ vô tội, rồi bị chính phủ của chính họ đầu độc bằng chất độc da cam. Những trải nghiệm khủng khiếp khiến họ chấn động đến mức không thể tận hưởng nổi một giấc ngủ thanh thản nào trong suốt phần đời còn lại. Cũng có nhiều cựu binh đang nằm trong nhóm vô số công dân bị tâm thần và vô gia cư của xã hội tư bản. Dĩ nhiên, nhiều người lính khác đã bị giết hoặc thương tật vĩnh viễn.
Và tất cả những điều này đã xảy ra vì đâu? Đó là cuộc cạnh tranh, phân chia ảnh hưởng với hệ thống Xô viết vì lợi nhuận của giới tư bản.
Những người đàn ông chết cho các cuộc chiến đó không phải anh hùng mà là nạn nhân của một hệ thống phân chia giai cấp khủng khiếp đã lạm dụng họ cho mục đích bạo lực, tàn phá và kết liễu cuộc đời họ một cách tàn nhẫn bằng cách cưỡng bức họ cầm vũ khí chống lại những người anh em thuộc tầng lớp lao động ở các quốc gia khác.
Những người ủng hộ chiến tranh hay những người biện hộ cho chủ nghĩa tư bản thường hay cố gắng bào chữa cho chiến tranh bằng câu ngạn ngữ cũ kỹ “Còn Hitler thì sao?”. Câu hỏi này hoàn toàn phớt lờ sự thật rằng Hitler sẽ không bao giờ gia tăng quyền lực ngay từ đầu nếu không phải vì sự suy yếu của chủ nghĩa tư bản ở Đức và việc giai cấp công nhân của đất nước này cho phép một chính trị gia như Adolph Hitler lôi kéo họ vào chiến dịch ủng hộ chiến tranh của hắn. Giới tư bản Mỹ và những con rối chính trị của họ đã bỏ qua những cuộc tấn công đầu tiên của Hitler nhằm vào người Do Thái, Czech, người đồng tính và các nhóm khác vì chiến dịch phi nhân đạo đó không đe dọa các lợi ích lợi nhuận của Mỹ.
Nhưng khi Hitler và các đồng minh Tojo (Hideki Tojo, thủ tướng Nhật thời thế chiến II), Mussolini trực tiếp đe dọa đến sự thống trị toàn cầu về kinh tế của Mỹ, thì tổng thống Franklin Delano Roosevelt đã đột ngột “bị sốc” bởi sự tàn ác của phát xít Đức và thét lên câu nói nổi tiếng “Đưa quân đội tới!” (Send in the troops!). Như thường lệ, các lợi ích nhân đạo luôn phải nhường bước cho lợi ích kinh tế, đó là chuyện bình thường trong một thế giới bị chia rẽ nghiêm trọng bởi sự phân chia giai cấp.
Chúng ta cũng đừng quên thảm họa diệt chủng của chính phủ Mỹ nhằm vào người Mỹ bản địa trong thế kỷ 19 đã được thực thi một cách mãn nguyện bởi những người lính “chỉ làm theo mệnh lệnh”. Liệu họ có đáng được ca ngợi vì đã thực hiện những hành động tàn ác đó để “phục vụ quốc gia”, và họ đang hành động như những “anh hùng” hay “chiến đấu vì lý tưởng?”.
Đó là những lời bào chữa phổ biến về động lực của những người lính trong việc phục vụ các lợi ích tư bản. Vì họ đã “tin” rằng họ đang làm điều đúng, điều đó biện hộ cho sự phi đạo đức trong những hành động của họ. Điều này có nghĩa là niềm tin của một tên sát nhân hàng loạt đã mất trí rằng việc hắn ta đang đem lại lợi ích cho phụ nữ bằng cách giết họ sẽ bào chữa cho hành động của hắn? Hay một kẻ khủng bố có thể bào chữa cho việc sát hại người vô tội là hắn đang theo đuổi những niềm tin của mình? Hoặc một kẻ phân biệt chủng tộc điên cuồng tin rằng hắn đáng được tuyên dương khi phục vụ cho lợi ích của nhóm hay quốc gia thiểu số của mình bằng cách sát hại những người thuộc một chủng tộc cụ thể nào đó?
Có nên xem hành động của họ là anh hùng vì họ đang chiến đấu cho những gì họ tin là đúng? Dĩ nhiên, điều này đã phớt lờ thực tế là hầu hết những người lính của nhà nước tư bản không chiến đấu cho những gì họ tin vào, mà họ chỉ là người làm thuê của nhà nước, và thường bị cưỡng bức đi nghĩa vụ do tình trạng thất nghiệp tệ hại mà chủ nghĩa tư bản làm cho ngày càng lan rộng.
Hơn nữa, nếu ai đó tranh luận rằng trong Thế chiến II, chính phủ Mỹ vượt trội hơn chính phủ phát xít Đức về mặt đạo đức, thì đừng quên bằng cách nào mà vị tổng thống được nhiều người trong chúng ta yêu mến, Roosevelt, đã tập hợp vô số nisei (người Mỹ gốc Nhật) vào các trại tập trung tạm thời được chuyển đổi từ các chuồng ngựa bẩn thỉu, hoàn toàn bỏ qua sự thật là hầu hết trong số đó đều trung thành với tư bản Mỹ. Nhiều công dân cấp cao và trẻ em đã chết ở đó vì điều kiện sống đầy bệnh tật rất ghê tởm, và nhiều phụ nữ kể về việc bị những người Mỹ bắt giữ họ lạm dụng tình dục.
Ai đã đầy đọa các đối tượng trên? Những người lính Mỹ, dĩ nhiên, những người “chỉ làm theo mệnh lệnh”. Vì họ tin rằng họ đang làm điều đúng do được tuyên truyền phải ghét bỏ tất cả người Nhật. Liệu điều đó có khiến cho hành động của họ trở thành anh hùng?
Đáng chú ý là động thái khủng khiếp đó của chính phủ Mỹ lại được ủng hộ chủ yếu bởi sự hời hợt của giai cấp công nhân Mỹ, những người mà chính phủ đã tuyên truyền thành công khi lừa gạt họ tin rằng tất cả người Nhật là kẻ thù của họ. Điều đó cho thầy họ cũng thất bại như giai cấp công nhân Đức, những người bị lừa gạt để tin rằng tất cả người Do Thái là kẻ thù theo cách tương tự.
Việc các thể chế độc ác được người lao động ủng hộ là những ví dụ mạnh mẽ về sức mạnh của sự truyên truyền. Các chương trình truyền hình như G.I. Joe đã tô điểm cho chiến tranh và khắc họa người lính Mỹ như các chiến binh anh hùng đang chiến đấu chống lại những gã xấu xa được định nghĩa rõ ràng như những “ác quỷ” về mặt đạo đức.
Một cuộc thảo luận đời thường với nhiều cựu binh đi qua chiến tranh sẽ cho thấy không có xu hướng nào biện hộ cho chiến tranh. Trong thực tế, chúng ta hãy nghiêm túc lo lắng về sự tỉnh táo của bất kỳ cựu binh nào phát biểu tích cực về chiến tranh sau khi bản thân họ đã kinh qua cuộc chiến. Các công dân thuộc tầng lớp lao động không nên vinh danh những người lính, thay vào đó hãy xót thương họ vì những trải nghiệm khủng khiếp mà họ sẽ đối mặt, và phản đối mọi cuộc chiến tranh sắp xảy ra.
Trong nền kinh tế xã hội chủ nghĩa đích thực của thế giới, sẽ không có sự chia rẽ giai cấp trong một quốc gia, và không có sự chia rẽ giữa các quốc gia trong việc kiểm soát các nguồn lực toàn cầu. Thay vào đó, sự giàu có vật chất của thế giới sẽ được chia sẻ rộng rãi cho tất cả. Không có cá nhân hay nhóm nào sở hữu quyền lực kinh tế để cưỡng bức chiến tranh hay nhân danh họ đưa một ai đó đi chiến đấu.
Động lực tư bản chủ nghĩa cho các cuộc chiến, xung đột trong việc kiểm soát nguồn lực kinh tế, sẽ bị loại bỏ. Sự hợp tác hòa bình chứ không phải sự cạnh tranh đầy bạo lực sẽ là chuẩn mực cho thế giới. Bạo lực sẽ bị xem là ghê tởm và sẽ không có ai được đối xử như một người hùng vì đã khơi mào bạo lực. Thay vào đó, mọi quyết định sẽ được thực hiện một cách dân chủ mà không cần tới bạo lực hay chiến tranh.
Chiến tranh không phải vì bản tính tự nhiên của loài người là “xấu xa” và bạo lực, hoặc bất lực về tâm lý hay trí tuệ trong việc giải quyết các vấn đề mà không cần bạo lực. Các nguyên nhân gây ra chiến tranh trong thế giới tư bản là vật chất, không phải các nguyên nhân về hệ tư tưởng, tâm lý, di truyền hay các lý do siêu hình huyền bí. Khi chúng ta đạt được nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, khi đó nhân loại sẽ loại trừ được sự hủy diệt của chiến tranh và những động lực vật chất gây ra chiến tranh.
ĐOÀN HIỂU LINH / REDSVN.NET

  
London Has Fallen |2016| All Fight/Battle Scenes

Loạt ảnh hiếm về số phận động vật trong Thế chiến thứ nhất (1914 - 1918)

Nhiếp ảnh
Động vật thời chiến tranh thế giới thứ nhất được xem là phương tiện vận chuyển vũ khí và thương binh giữa các chiến trường.
Vào thời chiến, vũ khí và lương thực được vận chuyển chủ yếu bằng đường sắt, đường bộ và đường thuỷ, tuy nhiên để tối ưu số lượng vận chuyển, động vật như lừa, ngựa, lạc đà và bò cũng được đưa vào sử dụng. Một pháo dã chiến được 6 - 12 chú ngựa kéo và cả những người bị thương cũng do ngựa và bò đưa về.

Một người lính tuần tra trên con ngựa của mình
Chó đã được sử dụng trong suốt chiến tranh như lính đánh thuê, thám thính, cứu hộ, đưa tin, và nhiều hơn nữa.
Súng máy của lính Đức được đặt trên lưng của một con ngựa
Dụng cụ y tế được lấy từ lưng của chú chó Anh vào năm 1915.
Một con chim bồ câu của Đức được gắn trên người máy ảnh nhỏ, có nhiệm vụ chụp ảnh trên cao.
Bốc dỡ con la ở Alexandria, Ai Cập, năm 1915. Chiến tranh leo thang đã thúc đẩy Anh và Pháp nhập khẩu ngựa và la từ nước ngoài.
Sergeant Stubby là chú chó thời chiến duy nhất được thăng cấp trung sĩ. Nó đã giúp tìm kiếm những người bị thương, thậm chí bắt được một gián điệp Đức.
Các thành viên của trung đoàn binh Royal Scots Grays dừng ngựa của họ ở bên đường
Tại Kemmel, Tây Flanders, Bỉ. Tác động của hỏa lực pháo địch vào xe cứu thương của Đức, tháng 5 năm 1918.
Bệnh viện Bán Nguyệt Đỏ ở Hafir Aujah, 1916.
Một tập thể, có thể là nhân viên của bệnh viện đa khoa Úc, giữ một con gấu túi ở Cairo vào năm 1915.
Các cuộc tập trận của binh lính Thổ Nhĩ Kỳ trên mặt trận Saloniki, Thổ Nhĩ Kỳ, tháng 3 năm 1917.
Một con chó đưa tin với một ống kéo đưa đường dây điện mới vào tháng Chín năm 1917
Một con voi Ấn Độ được người Đức sử dụng ở Valenciennes, Pháp để giúp chuyển thân cây vào năm 1915. Những con thú có thể tải nặng trở nên khan hiếm ở Đức, nên một số động vật trong rạp xiếc và sở thú đã bị trưng dụng để sử dụng trong quân đội.


Các sĩ quan Đức trong một chiếc ô tô cùng với đoàn xe và binh lính.
Những chú chim bồ câu đã cứu sống nhiều người ở Pháp. Chúng hoạt động như những sứ giả đưa tin.
Chim bồ câu của quân đội Bỉ.
Những con chim bồ câu được nhốt trong những cái giỏ.
Tin tức được gắn trên chim bồ câu bởi quân đội Anh trên mặt trận phía Tây, 1917.
Một con ngựa bị cột vào khúc cây, chủ nhân của nó vừa bị giết, năm 1916.
Con mèo trên tàu tuần dương hạng nhẹ HMAS Encounter, nó đang nhìn chằm chằm từ nòng của một khẩu pháo 6 inch.
Tướng Kamio, tổng tư lệnh Quân đội Nhật Bản tại cửa khẩu chính thức Tsing-Tau, tháng 12 năm 1914
Người tị nạn Bỉ rời Brussels, đồ đạc của họ trong xe kéo bởi một con chó, 1914.
Quân đội Camel Úc đi vào hoạt động tại Sharia gần Beersheba, vào tháng 12 năm 1917. Đại tá và nhiều người trong số họ đã bị giết sau một giờ.
Một người lính và con ngựa của ông mang khẩu trang chống khí gas. Năm 1918.
Chó của Hội chữ thập đỏ Đức
Cảnh tượng ở Walachia, Romania.
Các tay săn Bỉ đi qua thị trấn Daynze, Bỉ, trên đường từ Ghent để chống trả cuộc xâm lăng của Đức.
Pháo binh được kéo bằng ngựa
Mặt trận phía Tây, vỏ đạn được đeo trên ngựa, 1916.
Trạm uống nước khổng lồ cho những con lạc đà trong chiến dịch Asluj, Palestine, 1916.
Một chiếc xe tăng Mark V của Anh đang đi ngang qua một con ngựa chết trên đường Peronne, Pháp vào năm 1918.
Người điều khiển chó đang đọc tin nhắn của một con chó đưa tin, nó vừa bơi qua một con kênh ở Pháp
Ngựa của nông dân bị trưng dụng cho chiến tranh ở Paris, Pháp, 1915.
Tại Bỉ, sau trận Haelen, một con ngựa còn sống đang kéo xác ngựa chết trong chiến tranh, năm 1914.
Một con chó được đào tạo để tìm kiếm những người lính bị thương năm 1915.
Binh Algeria thuộc quân đội Pháp, hộ tống một nhóm tù nhân Đức tham chiến ở phía tây Bỉ.
Một lính Nga nhắm bắn phía sau con ngựa đã chết, năm 1915.
Pháo binh Serbia đang hành động trên mặt trận Salonika vào tháng 12 năm 1917.
Chú ngựa đang được chữa vết thương do đạn ở Pháp.
Trung đoàn ngựa thứ 6 của Úc, diễu hành ở Sheikh Jarrah, trên đường tới núi Scopus, Jerusalem, vào năm 1918.
Những con ngựa của binh lính Pháp bơi ngang qua một con sông ở miền Bắc nước Pháp.
Xác ngựa la liệt bên một chiếc xe đổ ở Bỉ, năm 1917
Chú chó đưa tin được trang bị một cái giỏ để vận chuyển chim bồ câu lên tiền tuyến.

Nguồn ảnh: Rare historical photos

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét