Thứ Tư, 23 tháng 5, 2018

NHỮNG GIAI THOẠI HUYỀN BÍ 2 / Đọc truyện

(ĐC sưu tầm trên NET)

Sách là ngọn đuốc soi rọi chân lý, là chiếc khăn thấm đẫm máu, nước mắt và lòng nhân ái của loài người!
--------------------------------------------------------------------
NGUYN HU KIT dịch
TSÁCH HUYN MÔN
NHNG GIAI THOI HUYN BÍ
(LCH SHI THÔNG THIÊN HC - PHN 2)
HI KÝ CA ĐẠI TÁ H. S. OLCOTT
CHI TRƯỞNG HI THÔNG THIÊN HC THGII

CHƯƠNG HAI 
HÀNH TRÌNH SANG ẤN ĐỘ

I.

Ngày dời Trụ sở Hội quán của chúng tôi càng đến gần thì bà Blavatsky càng phấn khởi hơn trong việc ca tụng xứ Ấn Độ cũng như những người Ấn giáo và toàn thể người Đông phương nói chung. Bà cũng hăng hái hơn trong việc chỉ trích người Tây phương với những tập quán xã hội, óc độc tài tôn giáo và những tư tưởng hẹp hòi nói chung của họ.
Có những đêm hào hứng sôi nổi diễn ra tại “Lạt- ma Viện”. Trong những đêm đó, có xảy ra một chuyện đáng kể. Nhà nghệ sĩ Walter Paris, một trong những hội viên đắc lực nhất đã từng sống vài năm ở Bombay với chức vụ kiến trúc sư của chính phủ, đã thích thú nói chuyện với chúng tôi về xứ Ấn Độ. Nhưng ông ta không có lòng kính trọng đặc biệt đối với Ấn Độ và lòng ưu ái đối với dân tộc xứ ấy như chúng tôi, nên ông thường làm phật lòng bà Blavatsky với những lời lẽ mà tôi cho rằng theo lập trường của giới cai trị Anh Ấn.
Một đêm nọ, ông ta kể chuyện về một việc lỗi lầm ngu ngốc của người giúp việc trong khi thắng yên ngựa, và thản nhiên nói rằng ông đã quất người ấy bằng roi vọt. Ngay tức khắc, dường như bị những roi vọt ấy quất vào mặt mình, bà Blavatsky chồm hẳn dậy, đứng ngay trước mặt người kia, và trong một tràng độc thoại kéo dài độ năm phút, bà cho y một trận sửa sai và quở trách nặng nề đến mức làm cho ông ta ngồi im không thốt ra được một lời nào. Bà lên án hành động của ông ta như một cử chỉ hèn mạt, và nhân dịp ấy bà ứng khẩu thốt ra một bài luận thuyết hùng hồn chỉ trích cách đối xử của giới cai trị Anh Ấn đối với các chủng tộc Đông phương.
Đó không phải là một trường hợp duy nhất cho thấy mối bất bình của bà đối với cách xử sự của người Tây phương. Bà vẫn luôn bày tỏ thái độ đó trong nhiều dịp khác nữa, và tôi đã từng thấy bà biểu lộ hào khí và cách nói năng bạo dạn y như vậy trong nhiều lần tiếp xúc với những viên chức cao cấp Anh Ấn ở Allahabad, Simla, Bombay, Madras, và ở các nơi khác.
Khi cuộc hành trình sang Ấn Độ của chúng tôi đã được quyết định, tôi bắt đầu thu xếp mọi công việc riêng vào mùa thu năm 1878. Việc trao đổi thư từ vẫn tiếp tục với các bạn đạo ở Bombay và Tích Lan (Śrī Lanka). Chúng tôi không công khai tuyên bố ý định xuất hành, nhưng các bạn bè thân hữu đã đến rất đông khi biết tin chúng tôi sắp ra đi. Những ghi chép của bà Blavatsky trong tập nhật ký của tôi khi tôi thường vắng mặt tại New York trong những tuần lễ cuối cùng cho thấy sự hối thúc của các chân sư mong muốn chúng tôi lên đường càng sớm càng hay.
Ngày 22 tháng 10, bà viết: “N. xuất ra và S. nhập vào (thể xác của bà) với mật lệnh của Quần tiên hội, dạy phải hoàn thành tất cả mọi việc vào đầu tháng 12.”
Câu ấy ngụ ý có sự thay đổi cá tính các nhân vật mượn xác bà Blavatsky, và các đoạn nhật ký với những lời ghi bằng tuồng chữ khác nhau cũng xác nhận việc ấy.
Một đoạn nhật ký tương tự ngày 14 tháng 11 nói rằng chúng tôi phải cố gắng tối đa để lên đường trước ngày 20 tháng 12 như kỳ hạn cuối cùng.
Ngày 22 tháng 11, những thượng lệnh khẩn cấp khác nữa cũng đến bằng một đường lối ấy, và chúng tôi được lệnh phải bắt đầu chuẩn bị đầy đủ hành lý.
Nhiều bạn đạo muốn tháp tùng chúng tôi sang Ấn Độ, và vài người cũng đã cố gắng sửa soạn chuyến đi, nhưng sau cùng chỉ có hai người là cô Bates, một cô giáo người Anh, và ông Wimbridge, một họa sư kiêm kiến trúc sư, cùng đi với chúng tôi. Kể từ đó, các thượng lệnh vẫn tiếp tục đến luôn không ngớt và hối thúc chúng tôi lên đường.
Những quan khách đến viếng thăm tới lui dồn dập, nhộn nhịp. Có những bài viết xuất hiện trên các báo nói về chuyến đi của chúng tôi và những bài trả lời của bà Blavatsky.
Ngày 13 tháng 12, tôi nhận được một bức thư viết tay của Tổng thống Hoa Kỳ1 giới thiệu tôi cho tất cả các viên đại sứ và lãnh sự Hoa Kỳ ở hải ngoại; và một thẻ thông hành đặc biệt của Bộ Ngoại giao, giống như những thẻ thông hành cấp cho các nhà ngoại giao Mỹ, với sứ mạng tường trình cho chính phủ Mỹ về triển vọng và khả năng nới rộng những quyền lợi thương mãi của Hoa Kỳ ở châu Á.
Những văn kiện này về sau đã tỏ ra có tác dụng hữu ích ở Ấn Độ, khi bà Blavatsky và tôi bị nghi ngờ là gián điệp của Nga! Những chi tiết của diễn biến khôi hài này sẽ được tường thuật ở một chương sau.
Trong những ngày cuối cùng, tôi không nghỉ ngơi được chút nào, thường ngồi suốt đêm để viết thư, hoặc di chuyển thường xuyên đến các thành phố xa gần để thu xếp công việc, và ăn uống rất thất thường trong khi đi lại. Trong khi đó thì vẫn luôn vang dội những mật lệnh hối thúc chúng tôi phải lên đường trước ngày 17 tháng 12 là kỳ hạn chót.
Tuồng chữ của bà Blavatsky có vẻ nguệch ngoạc, và trong đoạn nhật ký đề ngày 15 tháng 12, tôi nhận thấy có hai lối viết khác nhau của tuồng chữ bà như đã nói trước đây, chứng tỏ rằng có hai vị chân sư đã mượn xác của bà trong đêm hôm đó.
Ngày 17 tháng 12 là ngày cuối cùng của chúng tôi trên đất Mỹ. Đoạn nhật ký của bà Blavatsky viết:
“Một ngày đáng ghi nhớ! Olcott trở về lúc bảy giờ tối với những vé tàu Canada và ngồi viết thư đến 11 giờ 30. Maynard mời Blavatsky dùng cơm tối tại nhà y. Bà về nhà lúc chín giờ. Đến gần mười hai giờ đêm, Olcott và Blavatsky rời khỏi nhà bước lên xe ngựa để ra bến tàu.”
(Hãy lưu ý là người viết luôn đề cập đến bà Blavatsky bằng đại từ ngôi thứ ba, như thể đây là một người khác viết về bà!)
Thế là chấm dứt giai đoạn đầu tiên của lịch sử Hội Thông thiên học, với cuộc khởi hành của hai nhà sáng lập rời khỏi Mỹ Quốc. Sau lưng chúng tôi là một dĩ vãng ba năm tranh đấu, với những chướng ngại đã vượt qua, những kế hoạch đã thực hiện được vài phần, những nỗ lực trước tác sách vở, những bạn bè bỏ cuộc nửa chừng, những kẻ thù nghịch phải đối phó, và trọng trách thiết đặt nền tảng rộng lớn cho một cơ cấu vĩ đại được xây dựng lên trải qua thời gian để qui tụ các quốc gia. Thành quả này, quả thật ban đầu chúng tôi không thể nào ngờ trước được. Bởi vì chúng tôi đã xây dựng được một công trình qui mô rực rỡ và tốt đẹp hơn nhiều so với dự tưởng, hay ít ra cũng phải nói là tốt đẹp hơn nhiều so với là sự tưởng tượng của riêng tôi.
Những gì thuộc về tương lai chúng tôi không thể tiên liệu trước. Ý nghĩ về sự phát triển kỳ diệu và lạ lùng của Hội Thông thiên học không hề thoáng qua ngay cả trong những ước mơ của chúng tôi.
Một bạn đạo của chúng tôi tuyên bố rằng Hội Thông thiên học đã chết một cách tự nhiên trước khi chúng tôi lên đường sang Ấn Độ. Sự thật là trong những năm đầu ở New York, Hội tương đối bất động và không có hoạt động gì đáng kể, nhưng lại bắt đầu hồi phục kể từ khi Trụ sở Hội được dời sang Ấn Độ.
Chiếc tàu “Canada” rời bến vào ngày 18 và phải đợi cho nước thủy triều lên cao mới ra khơi vào trưa ngày 19 tháng 12. Sau cùng, chiếc tàu đã vượt ra giữa đại dương màu xanh biếc, thẳng hướng về vùng “đất hứa” của chúng tôi.
Lòng tôi tràn đầy một niềm hứng khởi và triển vọng tương lai, đến nỗi tôi không còn muốn đứng trên boong tàu để ngắm nhìn cảnh tượng đất Mỹ lui dần rồi tan biến khỏi tầm mắt, mà liền đi xuống phòng “cabin” để tìm vị trí hải cảng Bombay trên tấm bản đồ Ấn Độ.

II.

Tuy rời khỏi cảng New York vào ngày 17 tháng 12 năm 1878, nhưng chúng tôi vẫn chưa ra khỏi hải phận Mỹ cho đến trưa ngày 19, vì bị nước ròng vào ngày 18 và tàu phải bỏ neo ở vịnh Lower Bay để chờ nước lên.
Bạn đọc hãy thử tưởng tượng tâm trạng của bà Blavatsky! Bà quở trách, quát tháo vị thuyền trưởng, viên hoa tiêu, các kỹ sư, chủ tàu, và cả những con nước thủy triều lên xuống!
Sau hơn hai tuần vượt Đại Tây Dương, vào ngày đầu năm 1879, tàu chúng tôi tiến vào hải phận Anh trong một biển sương mù dày đặc, cũng giống như cái tương lai hãy còn mờ mịt của chúng tôi. Sáng hôm sau, tàu cập bến Gravesend.2 Tại đây chúng tôi đáp xe lửa đi London, và thế là kết thúc giai đoạn đầu của cuộc hành trình.
Đến thủ đô Anh quốc, chúng tôi được tiến sĩ Billing và phu nhân tiếp đón nồng hậu tại tư gia của họ ở vùng ngoại ô Norwood Park. Ngôi nhà này đã trở thành trung tâm qui tụ tất cả những bạn đạo và thư tín viên của chúng tôi ở London kể từ lúc đó.
Ngày 15 tháng 1, tôi chủ tọa một phiên họp của xứ bộ Thông thiên học Anh quốc để bầu cử một Ban chấp hành và bàn về nhiều vấn đề linh tinh khác.
Thời gian chúng tôi ở London hoàn toàn bận rộn với những công việc của Hội, tiếp khách và viếng thăm Viện Bảo Tàng Anh cùng nhiều nơi khác. Ngoài ra cũng có những dịp biểu diễn phép mầu của bà Blavatsky và những buổi họp đàn với bà Hollis-Billing và một vong linh mệnh danh là “Ski” mà toàn thể giới Thần linh học đều biết.
Diễn biến kỳ diệu nhất trong thời gian chúng tôi ở London là việc gặp gỡ một vị chân sư khi tôi và hai bạn đạo cùng nhau dạo chơi trên đường Cannon Street.
Sáng hôm đó, sương mù dày đặc đến nỗi người ta không nhìn thấy bờ bên kia đường, và cả thành phố đều hoàn toàn mờ mịt. Hai bạn tôi nhìn thấy ngài trước nhất, còn tôi lúc ấy mải lo nhìn quanh nên không để ý. Khi hai bạn tôi thốt lên một tiếng kêu ngạc nhiên, tôi mới quay đầu nhìn lại và bắt gặp cái nhìn của chân sư. Khi ấy ngài cũng vừa quay đầu nhìn lại đằng sau.
Tôi nhận ra ngài không phải như một người quen biết thường, mà là nhận ra gương mặt của một đấng cao cả, vì gương mặt ấy khi người ta đã gặp một lần thì không bao giờ có thể lầm lẫn. Cũng như ánh sáng huy hoàng chói rạng của mặt trời so với ánh sáng nhẹ nhàng êm dịu của mặt trăng, vốn có một sự khác biệt rõ ràng giữa sự sáng sủa dịu hiền trên gương mặt một người hiền lương của thế tục so với sự xán lạn huy hoàng rực rỡ trên gương mặt của một vị chân sư, vì gương mặt ấy phản ảnh cái ánh sáng bên trong của một tinh thần đã thức tỉnh về phương diện tâm linh và hoàn toàn giải thoát.
Chúng tôi ba người cùng dạo chơi trong thành phố và cùng về một lượt, nhưng khi vừa bước vào nhà thì đã nghe bà Billing và bà Blavatsky nói cho chúng tôi biết rằng chân sư đã đến đây và ngài có nói đã gặp chúng tôi đi chơi ngoài phố. Ngài cũng có nêu tên cả ba người.
Câu chuyện của bà Billing thuật lại rất thú vị. Bà nói rằng cửa trước vẫn đóng và khóa chặt như thường lệ, và không ai có thể vào nhà mà không reo chuông báo hiệu. Tuy nhiên, khi bà rời khỏi phòng khách đi qua hành lang để đến phòng bà Blavatsky thì bà suýt đụng phải một người lạ mặt hình dung cao lớn, đứng sững ngoài hành lang trước cửa buồng của bà Blavatsky.
Bà mô tả người ấy như là một người Ấn Độ có tác phong cao quý, với đôi mắt sáng và cái nhìn như soi thấu lòng người. Lúc ấy bà ngạc nhiên đến nỗi không thốt ra được môt lời nào, nhưng người lạ mặt nói: “Tôi muốn gặp bà Blavatsky”, và tiến về phía cửa phòng của bà Blavatsky.
Bà Billing đích thân mở cửa cho ngài và mời ngài vào. Ngài bước vào phòng, tiến đến gần bà Blavatsky, chào bà theo cung cách của người phương Đông, và bắt đầu nói chuyện với bà Blavatsky bằng thứ ngôn ngữ hoàn toàn xa lạ đối với bà Billing, tuy rằng bà này, với tư cách một người đồng tử công cộng với nhiều năm thực nghiệm, đã từng tiếp xúc với đủ mọi hạng người của nhiều xứ khác nhau.
Lẽ tự nhiên là bà Billing đứng dậy để bước ra ngoài, nhưng bà Blavatsky mời bà ở lại và bảo bà đừng để ý về việc hai người nói chuyện với nhau bằng một thổ ngữ lạ, vì họ cần thảo luận với nhau về một việc đạo sự trên phương diện huyền linh. Tôi không biết là người khách Ấn Độ bí mật này có trợ giúp thêm thần lực cho bà Blavatsky hay không, nhưng khi ngồi vào bàn ăn tối hôm đó, bà làm cho vị nữ gia chủ rất vui mừng thích thú khi thò tay xuống dưới mặt bàn rồi lấy lên một ấm trà Nhật Bản bằng sứ rất đẹp, dường như là theo lời yêu cầu của chủ nhà, tuy rằng tôi không chắc lắm về chi tiết này.
Ngày 15 tháng 1, chúng tôi sửa soạn đến Liverpool để đáp tàu “Speke Hall” đi Ấn Độ qua ngã Địa Trung Hải, Hồng Hải và Ấn Độ Dương rồi thẳng vào Bombay.
Đúng một tháng sau, ngày 15 tháng 2, chúng tôi đã vào hải phận Ấn Độ và sáng hôm sau tàu cập bến hải cảng Bombay.
Đêm hôm đó, tôi đã ngồi trên boong tàu đến một giờ sáng để ngắm nhìn bầu trời xanh biếc hùng vĩ của xứ Ấn Độ, và căng mắt nhìn lên bờ để mong thấy được ánh sáng đầu tiên của thành phố Bombay.
Sau cùng, từ xa một ngọn đèn nhỏ xuất hiện trên mặt biển, và tôi liền trở về ca-bin để thân xác mỏi mệt được nghỉ ngơi chờ đón những công việc của ngày mai.
Trước khi mặt trời mọc, tôi lại trở lên boong tàu, và khi chiếc tàu lướt trên mặt nước, tôi ngắm nhìn và thưởng thức cảnh tượng hải cảng Bombay hiện ra trước mắt tôi. Động Voi (Elephanta Cave) ngay trước mặt là địa điểm đầu tiên mà chúng tôi muốn xem, vì đó là kiểu mẫu điển hình của xứ Ấn Độ cổ xưa, tức đất Thiên Trúc thiêng liêng cổ kính của muôn đời (Bharata-Varsha) mà chúng tôi vẫn kính ngưỡng tận đáy lòng và ước mong được nhìn thấy sự phục sinh nơi xứ Ấn Độ ngày nay.
Nhưng than ôi! Khi chiếc tàu lượn vòng quanh ngọn đồi Malabar Hill thì mơ ước của chúng tôi liền tiêu tan như mây khói. Cảnh tượng mà chúng tôi thấy ngay trước mắt là một xứ Ấn Độ tân thời với những dinh thự, lầu đài nguy nga tráng lệ, lồng trong cái bối cảnh xinh tươi của những công viên được chăm sóc lịch sự theo kiểu mẫu du nhập từ Anh quốc, và bao phủ bằng tất cả những dấu hiệu của sự giàu có sung mãn thu hoạch được bằng các dịch vụ kinh doanh thương mãi!
Xứ Tây Vực cổ kính của Elephanta3 xa xưa nay đã bị xóa nhòa bởi sự lộng lẫy huy hoàng của một nền kiến trúc mới, trong đó triết học và tôn giáo không có dự phần, và lòng tôn sùng nhiệt thành nhất được đặt vào hình ảnh của thần tượng Nữ hoàng trên tờ giấy bạc Ru-pi!
Bây giờ chúng tôi đã quen với thực trạng, nhưng lần đầu tiên thì cảnh tượng đó đã gây cho chúng tôi cảm giác đau lòng của sự thất vọng chua cay. Tàu chưa bỏ neo cập bến thì đã có ba người Ấn sắc phục chỉnh tề đến tìm chúng tôi. Đó là Mulji Thackersey, Krishnavarma Sitaram, đã gia nhập Hội Thông thiên học bằng thư từ và được cấp chứng thư của Hội. Ba người này đã ngủ đêm trên một chiếc ca-nô nhỏ để đợi tàu cập bến và lấy làm vui mừng được tiếp đón chúng tôi, cũng như chúng tôi rất vui mừng khi được đến đất nước của họ.
Chúng tôi bốn người cùng xuống ca-nô với họ để vào bờ. Khi vừa lên đất liền, cử chỉ đầu tiên của tôi là cúi rạp xuống hôn bậc tam cấp bằng đá, một hành động chiêm bái do bản năng tự nhiên thúc đẩy! Đây là giờ phút chờ đợi từ lâu, chúng tôi đã thật sự được đặt chân lên dải đất thiêng liêng, nơi đất lành của các chân sư, quê hương của các tôn giáo cổ từ nghìn đời, xứ sở của những huynh đệ đồng môn cùng một lý tưởng tâm linh với chúng tôi, và được cùng sống chết với họ là tất cả những gì chúng tôi có thể mong ước.
Tất cả những gì người ta nói với chúng tôi trên tàu về những thói hư, tật xấu của người Ấn như sự nhu nhược tinh thần, thói a dua, nịnh hót, bợ đỡ, sự bất trung bất tín... đều đã bị quên hết cả. Đó là vì chúng tôi thương yêu họ, vì những truyền thống tổ tiên của họ, và thậm chí còn vì những điểm thiếu sót bất toàn của họ nữa. Nói đúng hơn, chúng tôi sẵn lòng thương yêu họ bất luận họ là như thế nào. Ít nhất là đối với tôi, cái cảm nghĩ đó vẫn còn nguyên vẹn cho đến tận ngày nay. Tôi cảm thấy thật sự rằng dân tộc họ là dân tộc của tôi, quê hương xứ sở họ là quê hương xứ sở của tôi: ước mong sao những ân huệ của các đấng chân sư minh triết luôn luôn đến với họ và che chở họ mãi mãi!

III.

Những đường phố của Bombay có một tính chất đặc biệt Đông phương làm cho chúng tôi vô cùng thích thú. Những dinh cơ nguy nga đồ sộ, những sắc phục màu mè sặc sỡ của dân bản xứ gồm đủ mọi thành phần vô cùng phức tạp, những xe cộ hình dạng dị kỳ, cái cảm giác mới mẻ lạ lùng mà toàn thể cảnh tượng đó gây ra nơi thẩm quan mỹ thuật của chúng tôi, và niềm phúc lạc thần tiên được đạt tới mục đích cuộc hành trình sau chuỗi ngày khắc khoải chờ mong kéo dài, để đến được dải đất của những dân tộc mệnh danh “ngoại đạo” thân yêu của chúng tôi. Để tiếp xúc và sống chung với họ, chúng tôi đã vượt qua bao vùng biển cả trùng dương và chạm trán với bao cơn giông tố bão bùng. Tất cả những cảm giác, ấn tượng sống động đó làm cho lòng chúng tôi tràn ngập một niềm sung sướng hạnh phúc khôn tả.
Chiều ngày 17 tháng 2, một cuộc tiếp tân được tổ chức tại tư gia một bạn đạo với 300 quan khách được mời đến để gặp gỡ chúng tôi. Như thường lệ, trong những dịp này có đọc diễn văn chúc mừng, với những vòng hoa choàng vào cổ và nước hoa rẩy vào người chúng tôi theo phong tục bản xứ.
Blavatsky, ông Wimbridge, ông Scott và tôi đều có đáp từ tùy theo khả năng và cảm hứng của mỗi người, và cơn xúc động sâu xa trong lòng đã khiến tôi rơi nước mắt!
Ngày hôm sau, chúng tôi được mời tham dự cuộc lễ kỷ niệm “Shivaratri” của Ấn giáo tại Động Voi (Elephant Cave). Sau đó, hằng ngày đều có quan khách dồn dập đến viếng thăm chúng tôi càng lúc càng đông, trong số đó có các gia đình cư sĩ tại gia theo Parsi (Bái hỏa giáo), Ấn giáo, và các tu sĩ xuất gia, tăng lữ Kỳ-na giáo (Jain) v.v...
Có những mâm lễ vật hoa quả được gửi đến tặng chúng tôi kèm theo thông điệp chào mừng. Một đêm văn nghệ đặc biệt với vở kịch Ấn Độ “Sitaram” được trình diễn cho chúng tôi xem tại Hí Viện Elphinstone.
Ngày 7 tháng 3, chúng tôi dời đến một ngôi biệt thự nhỏ ở số 108 đường Girgaum. Chúng tôi đã ở luôn tại đây suốt hai năm liền và dùng nơi này làm Tổng hành dinh của Hội Thông thiên học Thế giới.
Bạn Mulji có tìm được cho chúng tôi một thiếu niên giúp việc chừng 15 tuổi, tên Babula. Ai cũng biết thằng bé có lòng trung tín đối với bà Blavatsky hầu như tuyệt đối, cho đến khi bà rời khỏi xứ Ấn Độ.
Mỗi đêm chúng tôi đều có quan khách đến viếng. Trong những dịp đó, những vấn đề triết học, siêu hình và khoa học phức tạp, khó khăn nhất được mang ra thảo luận. Chúng tôi sống trong một bầu không khí tinh thần, trí tuệ, với những lý tưởng tâm linh cao cả nhất.
Trong bối cảnh tinh thần đó lần đầu tiên đã xuất hiện những bạn đạo đồng thanh khí với chúng tôi. Những người này về sau đã có liên hệ mật thiết với sự phát triển của phong trào Thông thiên học.
Trong số những người bạn mới của chúng tôi lúc ấy, có hai anh em MM. AM. Kunte. Người anh là một giáo sư kiêm học giả ưu tú về môn Phạn ngữ, còn người em là một vị bác sĩ giảng dạy khoa Cơ thể học tại trường Đại học Y khoa ở Bombay.
Nhưng người bác sĩ này về sau đã tỏ ra thiếu hẳn sự can đảm, tinh thần bạc nhược đến mức khiến tôi phải đem lòng khinh bỉ.
Ông ta là một thành viên trong Hội đồng Quản trị của Hội Thông thiên học, được đối xử trên một cương vị bình đẳng và thân hữu, quan hệ mật thiết với chúng tôi. Lúc đầu, ông ta rất nhiệt thành với Hội, sẵn lòng trợ giúp và đáp ứng rộng rãi mọi nhu cầu của Hội. Ông sẵn lòng cung hiến nhà ở, tài sản, xe ngựa cho chúng tôi tùy nghi sử dụng, thật sự xem chúng tôi như anh em một nhà.
Bỗng nhiên, một ngày nọ, người giúp việc của ông ta mang đến cho tôi một bức thư từ chức và xin ra khỏi Hội mà không một lời giải thích lý do. Tôi còn không tin ở mắt mình và nghĩ rằng đó hẳn là một trò đùa đáng trách, nhưng khi tôi hối hả đến nhà ông ta thì mới bật ngửa người ra mà nghe ông ta xác nhận rằng đó là sự thật.
Sau nhiều lần cật vấn về lý do của sự việc ấy, tôi mới biết rõ sự thật. Vị Khoa trưởng ở trường Đại học Y khoa đã khuyên ông ta nên chấm dứt mọi liên hệ với chúng tôi, vì Hội Thông thiên học đã bị chính phủ Anh Ấn nghi ngờ là có những ý đồ và mục tiêu chính trị!
Như vậy, thay vì mạnh dạn đứng ra bênh vực chúng tôi và tuyên bố rằng Hội Thông thiên học hoàn toàn không dính dáng gì đến vấn đề chính trị- với tư cách là bạn thân của chúng tôi và là một thành viên Hội đồng Quản trị của Hội, ông ta có thể làm điều đó một cách dễ dàng - thì người bác sĩ giàu có phong lưu này, người mà vấn đề sinh kế không phụ thuộc chút nào vào số tiền lương chết đói của chính phủ, lại chạy thẳng một mạch về nhà và biểu lộ sự hèn nhát của y trên giấy trắng mực đen!
Những ai biết chuyện sẽ hiểu được cái cảm giác khinh bỉ của tôi đối với ông ta kể từ đó về sau. Ngày hôm sau, tôi viết thư cho vị giáo sư Phạn ngữ nói rằng vì người em ruột của ông thấy có điều bất lợi trong việc liên hệ với Hội Thông thiên học, nên tôi hy vọng rằng không một sự e ngại tế nhị nào có thể ngăn cản sự rút lui của ông nếu ông cũng chia sẻ sự băn khoăn ấy. Câu trả lời của ông ta là một lá đơn từ chức viết tay!
Trong một trường hợp khác, tôi có nói với một bạn đạo Ấn Độ mà tôi biết rằng vấn đề sinh kế phải phụ thuộc vào số lương nghèo nàn của chính phủ là 40 ru- pi mỗi tháng: “Này anh Martandras Bhai, giả dụ như sáng mai đến sở làm anh thấy trên bàn giấy một bức thư nói rằng anh hãy chọn một trong hai điều, là chỗ làm của anh và Hội Thông thiên học, bởi vì Hội chúng ta bị nghi ngờ là có âm mưu chính trị, khi ấy anh sẽ nghĩ sao?”
Người bạn này lộ vẻ đăm chiêu nghĩ ngợi, nét mặt cứng rắn như người sắp phải quyết định một việc nghiêm trọng, và kế đó với đôi môi mím chặt và một cái lắc đầu, anh ta đáp một cách quyết liệt: “Tôi... tôi không thể làm trái với lương tri của tôi!”
Tôi bèn ôm chầm lấy anh ta và kêu to với bà Blavatsky ở phòng kế bên: “Qua đây! Bà hãy qua đây để nhìn xem một người Ấn Độ chân chính, một con người can đảm!”
Tên đầy đủ của người này là Martandras Babaji Nagnath. Anh ta là một người Bà-la-môn thuộc tiểu bang Maratha.

IV.

Những quan khách thuộc đủ mọi tầng lớp xã hội vẫn tiếp tục đến viếng Trụ sở Thông thiên học của chúng tôi càng ngày càng đông, và thường ở nán lại mỗi đêm đến khuya để thảo luận về các vấn đề tôn giáo.
Nhờ những cuộc tiếp xúc này trong giai đoạn ban đầu sống trên đất Ấn Độ mà chúng tôi mới nhận thức được sự khác biệt giữa những quan niệm sống của người phương Đông và phương Tây, và thấy rằng người phương Đông có một nhân sinh quan cao cả, thoát tục hơn nhiều. Những vấn đề danh lợi trần gian, khác biệt chủng tộc, doanh thương hay chính trị không hề lọt vào ngưỡng cửa của chúng tôi. Sự tiến hóa tâm linh là đề tài thảo luận thường xuyên nhất, và đó là lần đầu tiên mà bà Blavatsky và tôi chú trọng sâu xa đến những vấn đề tiến hóa tuần tự của linh hồn qua từng giai đoạn luân hồi chuyển tiếp theo định luật tuần hoàn.
Chúng tôi cảm thấy hoàn toàn thỏa mãn với sự ẩn cư trong một biệt thự hẻo lánh dưới bóng những hàng dừa râm mát, trong một khu vực bình dân của thành phố này. Những chuyến tàu đến đi chở đầy của cải vật chất; sự ồn ào, náo nhiệt của thị trường thương mãi; sự cạnh tranh ráo riết của các xí nghiệp doanh thương trên thị trường bông vải và sự lên cao xuống thấp của các giá trị cổ phần; sự tranh đua ti tiện nhỏ nhen giữa các quan chức; những cuộc tiếp tân linh đình trọng thể tại dinh Chính phủ; tất cả những thứ đó không hề thoáng qua trong trí óc của chúng tôi. Chúng tôi lấy làm sung sướng mà quên lãng việc đời cũng như được người đời bỏ quên!
Người đời có thể cho chúng tôi là cuồng tín, mộng mơ, có những hứng khởi điên rồ, không thiết thực, nạn nhân của những điều giả tưởng ngông cuồng, hoặc tự lừa dối mình. Tuy nhiên, những mộng mơ của chúng tôi là ước mơ sự toàn thiện của loài người, khát khao sự minh triết thiêng liêng; hy vọng duy nhất của chúng tôi là giúp đỡ nhân loại, nâng cao hoài bão tinh thần và sống một cuộc đời thanh cao tốt đẹp hơn.
Và dưới bóng những hàng dừa râm mát, chúng tôi đã được sự đích thân viếng thăm của các đấng chân sư. Sự hiện diện cao cả của các ngài đã giúp thêm sức mạnh cho chúng tôi tiến bước trên con đường đang theo đuổi, và tưởng thưởng chúng tôi gấp trăm lần nhiều hơn tất cả những sự lừa đảo, phản bội, nhạo báng, lăng nhục, ngược đãi của người đời và sự rình rập theo dõi của những nhân viên an ninh, cảnh sát mà chúng tôi đã phải gánh chịu.
Khi đã có các ngài thường xuyên hỗ trợ chúng tôi, thì có hề gì nếu chúng tôi bị người đời chống đối, thù nghịch? Thế gian không chinh phục được chúng tôi, nhưng nghiệp quả đã mang đến cho chúng tôi cái vai trò thắng đoạt sự thờ ơ lãnh đạm của nó và rốt cuộc đáng được thế gian tôn trọng.
Chúng tôi không biết, nhưng các đấng chân sư biết, rằng hai chúng tôi sẽ được sử dụng như một trung tâm cần thiết cho sự tập trung và phổ biến những giáo lý huyền môn cổ truyền của Ấn Độ, nay đã đến chu kỳ tái xuất hiện để đáp ứng nhu cầu của nhân loại theo định luật tuần hoàn. Một người thừa hành luôn luôn cần thiết như một phương tiện để phát động những phong trào phục hưng trí tuệ và tâm linh, và tuy hãy còn là thiếu sót bất toàn nhưng chúng tôi cũng tạm gọi là khá tốt để thi hành sứ mạng đó, bởi vì ít nhất chúng tôi cũng có được niềm hứng khởi nhiệt thành, lòng ưu ái và sự vâng lời tuyệt đối. Những điểm thiếu sót bất toàn cá nhân của chúng tôi không đáng kể vào đâu so với những nhu cầu cấp bách của nhân loại. Bởi vậy nên, hiểu theo một ý nghĩa, chúng tôi là những người hướng đạo mở đường, khai sáng phong trào Thông thiên học, có tác động như một trung tâm để thể hiện và phát huy bầu ánh sáng rạng ngời của nền minh triết cổ truyền phương Đông. Phong trào này đang tạo ra sự thán phục và ca tụng trong các giới học giả quốc tế hiện đại nhờ vào sự thanh cao mỹ lệ và giá trị độc đáo vô song của nó.

CHƯƠNG BA 
MỘT ĐỘNG PHÙ THỦY

I.

Mọi người đều biết tên tuổi của ông A. P. Sinnett, Phó Hội trưởng Hội Thông thiên học, có tình thân hữu đậm đà với hai nhà sáng lập và liên hệ mật thiết với mọi ngành hoạt động của Hội trong một thời gian dài.
Sự quen thuộc của ông với chúng tôi bắt đầu bằng một bức thư đề ngày 25 tháng 2 năm 1879, tức chín ngày sau khi chúng tôi đến Bombay. Trong thư đó, với tư cách Chủ nhiệm tờ nhật báo Pioneer, ông bày tỏ ý muốn làm quen với chúng tôi và sẵn lòng công bố trên mặt báo mọi sự kiện lý thú về sứ mạng của chúng tôi ở Ấn Độ.
Cũng như toàn thể báo giới Ấn Độ, nhật báo Pioneer đã đăng tin chúng tôi đến. Trong thư ông Sinnett nói rằng, hồi còn ở London ông đã có nhiều dịp khảo sát  một số hiện tượng đồng tử đáng kể, do đó ông cảm thấy thích thú với những vấn đề huyền linh hơn những ký giả thông thường. Vì lẽ những định luật về các hiện tượng này còn chưa được khám phá, những cuộc biểu diễn thường xảy ra dưới những điều kiện không thỏa đáng, và cái trí lực đằng sau các hiện tượng này vẫn còn được giải thích bằng nhiều lý thuyết mâu thuẫn, hỗn độn, không được rõ ràng dứt khoát, nên sự tò mò của ông không được thỏa mãn đúng mức, và lý trí của ông cũng chưa được thuyết phục.
Bức thư trả lời của tôi đánh dấu sự bắt đầu một mối liên hệ quý giá và một tình thân hữu bền bỉ lâu dài. Sự trợ giúp của ông Sinnett đã đến với chúng tôi vào đúng lúc khẩn thiết nhất, và tôi không bao giờ quên rằng Hội Thông thiên học nói chung, và cá nhân chúng tôi nói riêng, đều có một sự biết ơn sâu xa đối với ông.
Vừa rời thuyền lên đất liền không bao lâu, chúng tôi đã được mọi người biết là có khuynh hướng đồng hóa với tư tưởng phương Đông và không có thiện cảm với quan niệm nhân sinh của các giới trong cộng đồng Anh Ấn. Không những vậy, chúng tôi lại định nơi cư trú trong một ngôi nhà hẻo lánh ở trung tâm khu bản xứ của thành phố Bombay, được nghênh đón một cách hứng khởi, nồng nhiệt và được người Ấn Độ chấp nhận như những người đại diện cho nền đạo lý cổ truyền và hoằng khai tôn giáo của chính họ.
Hơn nữa, chúng tôi không đến ra mắt các quan chức trong dinh Chính phủ, cũng không viếng thăm xã giao những nhân vật quan trọng của giai cấp người Âu, vì giai cấp này thật hoàn toàn dốt đặc về Ấn giáo và về dân tộc Ấn, cũng như họ vốn mù tịt về cá nhân chúng tôi. Bởi vậy, đương nhiên chúng tôi không có quyền trông đợi một ân sủng nào từ phía những người đồng chủng của mình, và cũng không có gì đáng ngạc nhiên khi bị Chính phủ nghi ngờ là có những ý đồ riêng tư, bí mật.
Không một vị chủ báo Anh Ấn nào khác sẵn lòng có hảo ý với chúng tôi, hoặc có thái độ vô tư trong việc thảo luận về những quan điểm và lý tưởng của chúng tôi. Chỉ có ông Sinnett là người bạn duy nhất và người phê bình vô tư, chân chính của chúng tôi. Ông là một bạn đồng minh có thế lực rất mạnh, vì ông làm chủ tờ nhật báo có ảnh hưởng lớn nhất ở Ấn Độ, và hơn tất cả mọi vị chủ báo khác, ông được sự tín nhiệm và kính trọng của những quan chức thượng cấp trong Chính phủ.
Tôi luôn ngạc nhiên khi nói chuyện với các nhân vật Anh Ấn, vì thấy rằng họ và chúng tôi sống trong những thế giới rất khác biệt nhau trên cùng một đất nước Ấn Độ. Thế giới của họ chỉ là một sự nới rộng nếp sống quen thuộc ở quê nhà, gồm những thú vui tầm thường và những trò tiêu khiển vô vị để giúp cho những giờ phút nghỉ ngơi của họ được ít nhàm chán nhất. Ngược lại, thế giới của chúng tôi là những lý tưởng thấm nhuần đạo lý phương Đông, suy tư cảm nghĩ với những tư tưởng phương Đông, không hề có chút thời gian rảnh để vui chơi hưởng lạc, cũng không bao giờ cảm thấy có nhu cầu về những trò tiêu khiển, những tiệc tùng đình đám, những buổi dạ hội tiếp tân xã giao tầm thường...
Nếu không phải do kinh nghiệm bản thân, người ta không thể tưởng tượng được rằng có một sự tương phản lớn lao và rõ rệt đến như vậy!

II.

Ít lâu sau khi chúng tôi đến định cư tại ngôi nhà ở đường Girgaum, một giai thoại xảy ra và về sau bà Blavatsky đã viết lại thành một chuyện rất ly kỳ trong quyển “Động thẳm rừng già của Ấn Độ”.
Tôi chỉ trình bày ở đây một cách đơn giản, ngắn gọn những sự việc đã xảy ra, và độc giả sẽ thấy bằng cách nào bộ óc tưởng tượng dồi dào phong phú của bà đã biến đổi chúng hoàn toàn khác hẳn, từ một chuyện rất thông thường bà đã tạo thành một chuyện phiêu lưu kỳ diệu đầy tính chất rùng rợn quái đản.
Một buổi chiều nọ, chúng tôi đang ngồi trong nhà thì nghe có tiếng trống nhỏ vang dội bên tai làm cho tôi chú ý. Tiếng trống vẫn tiếp tục kéo dài lặp mãi một kiểu độc âm, buồn tẻ, nhàm chán chứ không theo một nhạc điệu nào. Chúng tôi sai một người giúp việc đi thăm dò, và khi trở về anh ta cho biết rằng đó là tiếng trống ở một nhà láng giềng, báo hiệu rằng một “bà bóng”, vốn là cốt của một vị “nữ thánh”, sắp sửa lên đồng và trả lời những câu hỏi về những vấn đề họa phước của các tín chủ.
Ý muốn chứng kiến một màn lên đồng hấp dẫn lạ kỳ đã thúc đẩy chúng tôi tìm đến nơi để xem việc gì xảy ra. Thế là chúng tôi đến nhà bà bóng. Trong một gian nhà tranh vách đất nhỏ hẹp, chúng tôi thấy độ ba, bốn mươi người bản xứ thuộc giai cấp nghèo hèn đang đứng vòng quanh, có vài ngọn đèn dầu dừa để kê sát vách, và ngồi xếp bằng ngay chính giữa nền đất là một người đàn bà trông có vẻ man dại, đầu bỏ tóc xõa, thân mình lắc lư từ bên nọ qua bên kia, và xoay đầu đảo vòng tròn làm cho bộ tóc dài cũng cuốn xoay vòng quanh mình.
Độ một lát, có một trẻ từ cửa sau bước vào, cầm một cái đĩa bàn tròn trên có vài miếng long não đang cháy, vài nhúm bột son đỏ và mấy lá cây xanh. Đứa trẻ đưa cái đĩa lại gần mặt bà bóng, bà này cúi mặt xuống chất long não bốc khói, vừa hít vào từng hơi dài vừa thốt ra những tiếng rên khoái trá.
Sau đó một lúc, bà nhảy dựng người lên, giật lấy cái đĩa bàn, cầm đưa qua bên mặt, bên trái, đầu lại xoay tròn như trước, và với bàn chân nhúnnhảy theo nhịp trống, bà đi quanh khắp phòng và nhìn thẳng vào gương mặt khiếp sợ của những người chung quanh.
Sau khi đã đi quanh khắp phòng như vậy nhiều lần, thình lình bà bóng lao mình vút đến trước mặt một phụ nữ trong đám đông, phóng cái đĩa bàn về phía người ấy, và nói với cô ta vài câu bằng tiếng thổ ngữ Marathi, mà lẽ tất nhiên là chúng tôi không hiểu, nhưng dường như có liên quan đến việc riêng của bà kia. Dù đó là việc gì, ảnh hưởng của câu nói ấy đã hiển hiện ngay tức khắc, vì người phụ nữ ấy bật ngửa người và thụt lui lại một bước, gương mặt lộ vẻ kinh hoàng, và đưa hai tay nắm chặt về phía bà bóng, dường như trong cơn xúc động sâu xa.
Cũng một sự việc tương tự được tái diễn với nhiều người khác trong số cử tọa. Sau đó nhà nữ linh thị đi xoay vòng vào giữa gian phòng, vẫn tiếp tục xoay vòng sang bên nọ bên kia trong một lúc, thốt lên vài âm thanh nghe dường như một câu thần chú, rồi chạy thoát ra khỏi phòng qua cửa sau.
Sau vài phút bà ấy trở lại, với bộ tóc ướt sũng nhỏ giọt, lại để rơi mình xuống đất, đầu lại đảo quay mòng mòng như trước, lại nhận cái khay đựng long não đốt cháy, và tái diễn cảnh lao vút mình vào người đứng xem để nói với họ những gì họ muốn biết. Nhưng lần này, giọng nói của nhà tiên tri hơi khác một chút và những động tác của bà có vẻ nhẹ nhàng hơn.
Chúng tôi được cho biết rằng đó là vì đã có một nữ thánh khác nhập vào khi bà bóng ngâm đầu vào một chậu nước đặt sẵn ở ngoài cửa.
Tính cách mới lạ của sự việc này không bao lâu đã trở thành nhàm chán đối với chúng tôi, và chúng tôi quay bước trở về nhà.
Câu chuyện chỉ có thế thôi, không hơn không kém. Đó là những sự kiện đơn giản, và không có gì khác lạ hơn nữa. Thế nhưng, nếu độc giả mở cuốn “Động thẳm rừng già của Ấn Độ”, ở chương “Một động phù thủy”, thì sẽ thấy bà Blavatsky làm cho nó biến chất như thế nào. Thay vì câu chuyện xảy ra trong một căn nhà lá tồi tàn ở một xóm bình dân lao động của thành phố Bombay, với một số khán giả gồm toàn những người lao công lam lũ bần hàn, chúng tôi lại được bà mô tả là ngồi trên lưng voi, đi trên con đường mòn dưới ánh đuốc bập bùng mờ ảo, xuyên qua một khu rừng rậm, ở độ cao hơn 600 mét trên dãy núi Vindhya. Bà viết:
“Giữa cơn im lặng thâm trầm, chỉ nghe có tiếng chân voi bước đều đặn và nghiền nát sỏi đá trên đường núi gập ghềnh; thỉnh thoảng, chợt nghe có những tiếng thì thầm quái đản và những âm thanh lạ lùng huyền bí. Đến một chỗ nọ, chúng tôi cho voi quỳ xuống để chúng tôi xuống đất và đi bộ xuyên qua những bụi cây xương rồng rậm rạp, gai đâm đau nhói!
“Chúng tôi gồm một đoàn ba mươi người, kể cả những phu cầm đuốc. Ông Đại tá (tức là tôi) ra lệnh cho tất cả những khẩu súng trường và súng ngắn đều phải lắp đạn sẵn sàng để sửa soạn vượt qua truông núi.
“Sau khi đã bỏ lại phần lớn y phục trên những cành gai nhọn của bụi cây lê rừng, trèo lên một ngọn đồi, và vượt qua một khe núi khác nữa, chúng tôi đến nơi động phủ của một vị nữ phù thủy mệnh danh là “Bà cốt của Ấn Độ”. Bà sống một cuộc đời chân tu thánh thiện và là một nhà tiên tri xuất sắc. Động phủ của bà nằm trong hang núi, trong một ngôi đền cổ hoang tàn xây bằng đá ong đã loang lổ nhiều nơi, nơi cư trú của bà ở trong một đường hầm. Tại đây, người ta tin rằng bà đã sống đến ba trăm tuổi!
“Khoảnh đất vuông vức phía trước mặt ngôi đền được soi sáng bằng một ngọn lửa trại khổng lồ; ở giữa sân có một đám thổ dân miền núi trần truồng nước da đen sậm giống như những thể tinh đang nhảy múa một vũ khúc ếm quỷ theo nhịp trống cổ và trống cơm.
“Lúc đó, một vị lão trượng có chòm râu bạc nhảy ra và xoay tít thân mình đi theo vòng tròn chung quanh sân, hai cánh tay duỗi thẳng như hai cánh và nhe ra hàm răng nhọn như răng chó sói. Thân mình ông cứ xoay tít mãi cho đến khi ngã quị xuống đất, bất tỉnh nhân sự.
“Thình lình, vị nữ phù thủy xuất hiện, từ đâu và bằng cách nào cũng không ai biết. Bà có thân hình cao lêu khêu, gầy đét như bộ xương. Nơi bờ vai xương xẩu của bà có treo lủng lẳng một cái xương sọ nhỏ bé của trẻ con đã chết. Đôi mắt sâu hoắm, phóng ra những tia lửa đỏ từ cái liếc nhìn sắc như dao đâm xuyên vào mắt bạn, làm cho bạn phải sởn ốc cùng mình. Bạn bắt đầu cảm thấy óc mình tê liệt, tinh thần bấn loạn không còn suy tư sáng suốt và máu bạn đông đặc lại trong huyết quản!
“Bà phù thủy đứng yên không cử động trong giây lát, một tay cầm cái đĩa đựng long não đốt cháy, tay kia cầm một nắm gạo. Bà giống như một pho tượng tạc trên đá, cái cổ nhăn nheo đeo ba vòng tiền vàng cổ xưa, đầu quấn một con rắn bằng vàng khoanh tròn. Thân hình dị dạng của bà bao phủ bằng một lớp áo vải mịn màu vàng nghệ...”
Tiếp theo đó là sự mô tả cơn nhập đồng của bà phù thủy, với những cử chỉ giống như người bị chứng động kinh, phong giật; một màn nhảy múa xoay tít thân mình như một chiếc lá vàng trong cơn gió lốc; cái nhìn rùng rợn của đôi mắt sắc như dao; những cơn múa may quay cuồng, những bước nhảy dựng chồm người lên; và những động tác man dại rừng rú khác. Rồi đến những màn thay đổi các “giá đàn”: thần thánh luân phiên xuất nhập xác bà bóng, tất cả là bảy vị; những màn phát ngôn tiên tri họa phước; một vũ điệu kỳ quái với cái bóng của chính bà phù thủy; những màn đập đầu lên những bực đá tam cấp phát ra tiếng động nghe đến rợn người, vân vân và vân vân...
Sự diễn tả cảnh tượng động phù thủy chiếm trọn hai mươi trang giấy với một bút pháp điêu luyện làm cho người đọc say mê thích thú, cơ hồ như chính họ được đưa vào tận chốn rừng thiêng bí ẩn để chứng kiến bao nhiêu sự việc quái đản, dị kỳ.
Một trí óc có thể làm được việc kỳ diệu như vậy, hẳn phải là một khối óc đầy tài năng. Hơn nữa, điều mà bà đã làm trong câu chuyện này, bà cũng đã làm trong toàn bộ cuốn sách: một số sự việc giản dị, tối thiểu trong mỗi trường hợp cũng đủ để cho bà chế biến thành một chuyện ly kỳ huyền bí chứa đựng nhiều chi tiết hấp dẫn đến độ độc đáo, thần tình.
(Những chuyện phiêu lưu du ký của bà Blavatsky viết ở Ấn Độ, trước hết được viết bằng tiếng Nga để gửi đăng từng kỳ hạn hằng tuần trên tạp chí “Russky Vyestnick”, tờ tạp chí lớn nhất ở Moskowa; về sau mới được dịch sang Anh ngữ và sưu tập lại để in thành sách nhan đề “Caves and jungles of Hindustan” (Động thẳm rừng già của Ấn Độ).

III.

Những hy vọng của chúng tôi về một cuộc sống ẩn cư không bao lâu đã tiêu tan như mây khói. Không những chúng tôi luôn luôn bị vây phủ bởi những khách đến viếng, trong số đó có vài người hứng khởi nhiệt thành, dốc lòng tầm đạo, và đáng được chúng tôi giúp đỡ, nhưng chúng tôi cũng bị lôi cuốn vào việc giao dịch thư từ ngày càng nhiều, phần lớn là với người Ấn Độ, về những vấn đề liên quan đến giáo lý Thông thiên học.
Ngày 23 tháng 3 năm ấy, tôi cung hiến một buổi diễn thuyết công cộng đầu tiên ở Ấn Độ tại hội trường Framji Cowasji Hall ở Bombay, với đề tài: “Hội Thông thiên học và những mục đích của Hội”.
Nói về tính cách mới mẻ và lạ mắt, thì cảnh tượng của hội trường hôm ấy thật là ngoạn mục, thích thú đến tuyệt đỉnh: thính đường trông như một biển khăn vấn đầu trăm màu nghìn sắc, những thính giả mặc sắc phục bằng vải hay tơ trắng xóa như tuyết, những bộ “sari” bằng tơ óng ánh, màu mè sặc sỡ của các phụ nữ Ấn, những cặp mắt màu vân thạch chiếu trên những gương mặt màu nâu sậm với những nét thanh tao biểu lộ dân tộc tính với một truyền thống duy linh có sẵn từ muôn đời.
So với những bộ Âu phục màu đen, những gương mặt nhợt nhạt và đầu trần của những thính giả Tây phương, không có một màu sắc nào ngoại trừ những khăn choàng của phái nữ, thì cảnh tượng ấy trình bày một sự tương phản rõ rệt.
Hàng thính giả đông nghẹt đến mức chật ních cả hội trường, choán hết các bao lơn, cầu thang, cho đến khi không còn chứa thêm được một người nào nữa. Tuy vậy, họ vẫn giữ im lặng, trật tự, và chăm chú nghe dường như mỗi người đều có đủ chỗ rộng rãi, thoải mái cho riêng mình.
Nhóm bốn người của chúng tôi ngồi trên diễn đàn, hàng ghế đầu được dành cho những nhân vật trưởng thượng của những cộng đồng bản xứ khác nhau thuộc thành phố Bombay, và bài diễn thuyết của tôi được tất cả mọi người lắng nghe với một sự chú ý dường như muốn nín thở, thỉnh thoảng bị gián đoạn bởi những tràng pháo tay hoan hô.
Đó thật là một diễn biến lịch sử, vì đây là lần đầu tiên một người phương Tây đứng ra đề cao tính chất cao siêu hùng vĩ của nền đạo lý cổ truyền phương Đông và kêu gọi tình thuơng yêu tổ quốc giống nòi của người Ấn Độ, hãy tưởng nhớ đến truyền thống tổ tiên của họ mà giữ vững lấy nền tôn giáo cổ xưa của mình.
Tinh thần buổi giảng như tràn ngập cả tâm hồn của diễn giả cũng như thính giả, và có một lúc tôi không thể chế ngự được xúc cảm, phải tạm ngưng vì cơn xúc động làm cho tôi thấy nghẹn ở cổ họng và trào nước mắt! Tôi có cảm tưởng như một thằng ngốc vì đã mất bình tĩnh và không tự chủ được, nhưng tôi không thể làm khác hơn; tiếng nói của quả tim bị đè nén làm cho tôi không thốt được nên lời, mặc dù tôi cố gắng vượt qua.
Trong buổi thuyết trình, tôi bày tỏ quan niệm rằng sự phục hưng của một quốc gia phải đến từ hành động của những nhà lãnh đạo sáng suốt của quốc gia ấy, chứ không phải đến từ bên ngoài; và nếu muốn ngăn chặn sự suy vong của Ấn Độ thì người có thiên ân sứ mạng phải được tìm kiếm ngay trên lãnh thổ xứ Ấn, chứ không phải ở nước ngoài, cũng không phải trong số những người ngoại chủng.
Về phần chúng tôi, chúng tôi hoàn toàn phủ nhận mọi vai trò lãnh đạo, hay cho rằng mình có đủ điều kiện đóng vai trò ấy.
Về sau, khi đã trải qua một thời gian hai mươi năm kinh nghiệm về xứ Ấn Độ, tôi tin rằng đó là quan niệm chính đáng và là quan niệm duy nhất có thể đứng vững.
Tôi vẫn tin tưởng, cũng như tôi đã thuyết trình ngày hôm ấy, rằng đấng Giáo chủ tâm linh ấy vốn có thật, và sẽ xuất hiện vào đúng lúc, khi thời giờ đã điểm. Thật vậy, những dấu hiệu về sự hạ phàm của Ngài vẫn đến dồn dập hằng ngày, và ai dám nói rằng sự ra đời của Hội Thông thiên học, bà A. Besant, đạo sư Vivekànanda, Dharmapala, và nhiều vị khác nữa, không phải là những dấu hiệu báo trước cái ngày được chờ đợi từ lâu, khi mà sự khát khao tâm linh sẽ sống động trở lại trong lòng tất cả mọi người?
Lẽ tự nhiên, trong hoàn cảnh xã hội và tình trạng tâm lý của thời bấy giờ, sự việc diễn biến nói trên đây đã gây một ấn tượng mạnh mẽ sâu xa. Bình phẩm bài diễn văn của tôi, nhật báo “Indian Spectator” viết:
“Chưa bao giờ có một sứ mạng nào lớn lao hơn thế. Thiết tưởng, người Ấn Độ hãy kết hợp lại với nhau trong một lý tưởng chung. Người Ấn giáo, Bái hỏa Giáo, Hồi giáo, Gia Tô giáo... hãy quên đi những sự khác biệt của họ, rồi cái ngày phục hưng xứ Ấn Độ sẽ không còn bao lâu nữa.”
Nhật báo “Amrita Bazaar Patrika” số ra ngày 8 tháng 5 năm 1879 nhắc lại lời của tôi rằng “mục tiêu của chúng tôi là mục tiêu vĩ đại nhất mà con người đã từng theo đuổi từ trước đến nay”.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét