Nhà ảo thuật Igor Kio.
“Tất nhiên là tôi rất thích David Cooperfield, nhưng hiềm một nỗi tôi chưa nhìn thấy anh ấy bằng xương bằng thịt mà mới chỉ thấy trên băng hình video. Và điều đó không cho phép tôi đánh giá hết được và thật khách quan công việc của anh ấy, hơn nữa vô tuyến phương Tây lại biết cách quay một cách rất có lợi và gây ấn tượng mạnh mẽ. Và anh ấy được quay chính là như vậy.
Nhưng cái chủ yếu ở David Cooperfield đối với tôi ở chỗ anh ấy là một nghệ sĩ tuyệt vời. Anh ấy có phong cách ứng xử rất hiện đại, rất hấp dẫn, rất điệu nghệ – anh ấy đi đứng thật duyên dáng, lại còn biết hát nữa. Nói chung là biết cách thu hút khán giả. Những tiết mục có yếu tố thần bí được thực hiện với vẻ khôi hài. Nếu như trong những tiết mục ấy không có tiếng cười, không có sự giao lưu giữa nghệ sĩ và công chúng thì thật là buồn tẻ và đáng lo ngại. Không có một chuyến bay nào gây được ấn tượng nếu Cooperfield không phải là một nghệ sĩ. Tôi rất thích sự trau chuốt, tính quy mô, sự chính xác trong các tiết mục của anh ấy. Mọi cái đều được phối hợp nhịp nhàng, ăn ý, không có sự lên gân, không có động tác nào thừa, không ai chi phối được anh ấy. Thế mà có tới 70 người phục vụ David, lại còn kỹ thuật phức tạp. Song chỉ có một mình anh ấy trên sân khấu. Và vài cô bạn diễn. Không ai gây phiền hà cả. Tất cả guồng máy giúp việc khổng lồ được giấu kín. Theo tôi, đó là nhà ảo thuật xuất sắc nhất biểu diễn trên sân khấu. Có sự khác biệt giữa việc biểu diễn của nhà ảo thuật trên sân khấu tại nhà hát và trên sàn diễn trong rạp xiếc. Và đương nhiên biểu diễn trong rạp xiếc khó hơn. Thậm chí không nên so sánh những gì Cooperfield làm trên sân khấu và tôi làm trong rạp xiếc. Đó là những thứ khác nhau. Tôi nghĩ rằng trong rạp xiếc, Cooperfield không thể trình diễn được 80% số tiết mục của mình. Còn trên sân khấu thì những khả năng của nhà ảo thuật không bị hạn chế bởi vì khán giả chỉ ngồi ở một phía. Trong rạp xiếc, người nghệ sĩ như đứng trong lòng bàn tay, anh ta bị quan sát từ mọi phía. Và anh ta sẽ phải khó khăn hơn, rắc rối hơn để “đánh lừa” khán giả.
Trước khi cha tôi, Emil Kio, xuất hiện trên sân khấu xiếc vào những năm 20, thì xiếc nói chung được coi là một khu vực không thích hợp đối với nhà ảo thuật. Và các diễn viên thuộc thể loại của chúng tôi không bao giờ làm ở rạp xiếc cả. Cha tôi là người đầu tiên đưa các tiết mục ảo thuật lên sàn diễn hình tròn. Và giờ đây, đối với nhiều người, khái niệm “nhà ảo thuật” được liên tưởng với xiếc. Phàm là xiếc thì phải có các tay hề, người dạy thú và dứt khoát là phải có những nhà ảo thuật.
Những tiết mục mà David Cooperfield trình diễn như làm biến mất pho tượng nữ thần Tự Do hoặc toa tàu hỏa nặng 70 tấn… không phải là phép màu hay trò chơi thôi miên tập thể mà là kỹ xảo được dàn dựng một cách khéo léo theo những nguyên tắc nghề nghiệp mà chúng tôi gọi là “công thức thần kỳ”. Nói chung, tất cả những tiết mục của chúng tôi rất giống nhau và được xây dựng theo công thức tam đoạn luận gồm 3 điều kiện tất yếu: biến mất, xuất hiện, biến hóa. Không có cái thứ tư. Tất cả phép màu đều nằm trong cái công thức đơn giản ấy đối với nhà nghề. Có kỹ xảo, có kinh nghiệm, có kỹ thuật (như một nhân tố phụ trợ) song phép màu thì không tồn tại trong nghề của chúng tôi. Nói ra điều này là một người có mấy chục năm biểu diễn những chuyện thần kỳ.
Hơn nữa, tất cả những cái mới là những cái cũ bị lãng quên. Cách đây 6 năm, tôi đã tham gia chương trình “Trước và sau nửa đêm” của Vladimir Monchanok với một tiết mục như vậy. Hơn 50 nghìn người tụ tập trên bờ hồ Ostankino. Các khán giả tự tay mình nhét tôi vào bao tải buộc chặt lại rồi đặt trong một chiếc hòm. Sau đó người ta dùng máy bay trực thăng nâng chiếc hòm lên không trung rồi thả xuống hồ. Trong lúc mọi người kinh ngạc thốt lên thì tôi xuất hiện giữa đám đông trên một chiếc xe hơi. Đó là một tiết mục dàn dựng. Nguyên tắc của nó đã được Cooperfield áp dụng trong tiết mục “Chui ra khỏi két sắt”. Không thể nào thực hiện được tiết mục này trên sân khấu của nhà hát hoặc trên sàn diễn của rạp xiếc. Bởi vì trước hết nó đòi hỏi rất nhiều phương tiện, việc chuẩn bị lâu dài, phức tạp, nhiều người và kỹ thuật. Hồi đó ở Ostankino có gần 50 người phục vụ tiết mục này gồm các phụ tá, phi công, công nhân, nhân viên cứu hỏa, nhân viên quay vô tuyến…
Tiết mục này dàn dựng không thể có được nếu thiếu quảng cáo, chính bản thân nó mang tính chất quảng cáo, nó thôi miên, gây nên sự náo động, nỗi kinh ngạc, cảm giác thích thú. Còn quảng cáo thì từ trước đã lôi cuốn khán giả vào không khí của sự thần kỳ. Không một thể loại nào khác lại rất cần đến quảng cáo như thể loại của chúng tôi. Quảng cáo là khí trời đối với nhà ảo thuật. David rất chú ý đến quảng cáo. Hiện nay cách quảng cáo tương tự tốn kém hàng triệu đô la cũng như chính các tiết mục dàn dựng. Nếu tôi có 2 triệu đô la thì tôi cũng sẽ bay lên như chiếc trực thăng.
Tất nhiên là tôi hiểu rõ, David làm chuyện đó như thế nào, có chăng là trừ một vài chi tiết nào đó. Cũng như Cooperfield am hiểu các ngón nghề của tôi vậy. Tôi đã từng nói rằng những bí quyết của chúng tôi đều giống nhau. Nhưng đó là bí quyết nhà nghề và bộc lộ chúng ra thì chẳng hay ho chút nào. Hơn nữa, một trò ảo thuật bị khám phá ra thì sẽ mất hết vẻ quyến rũ của nó. Và vị tất các bạn có thể hiểu được một điều gì đó nếu như tôi kê khai ra những kỹ xảo của mình. Công việc của chúng tôi là nghệ thuật diễn xuất, lao động, phát minh, tài năng, là tất cả, ngoại trừ ma quỷ và Cục tình báo Trung ương. Và không có một chút thần bí nào hết. Nói chung, tất cả sự thần kỳ và chuyện hoang đường là do chính khán giả nghĩ ra. Và điều đáng chú ý là trình độ văn hóa của khán giả càng cao bao nhiêu thì họ càng muốn tin vào phép màu bấy nhiêu.
Theo tôi, việc áp dụng một cách lý thú nhất nguyên tắc cũ dưới hình thức mới – đó là trò “người bay” của David Cooperfield do anh ấy dựng trong năm 1992 và quả thật không có bất cứ một sự lý giải nào đối với khán giả bình thường. Tất nhiên, những trò ảo thuật này người ta đã làm cách đây 100 năm, có điều trên nền phông đen hoặc nói như các “nhà nghề” – trong phòng tối. Khi mà có tấm màn màu đen, còn nghệ sĩ thì bận đồ trắng. Cũng từng có các tiết mục “Những người phụ nữ bay lượn” và “Icar và Đeđan”, song hồi đó chưa có vô tuyến, chưa có video, và người ta đã quên mất chúng. Ý đồ của tiết mục đó mặc dầu chẳng mới mẻ gì nhưng được cái ăn chắc. Và khác với các nghệ sĩ Nga, Cooperfield không bị gò bó trong các phương tiện và kiếm được hàng triệu đô la không chỉ qua những buổi biểu diễn mà còn bằng việc bán những băng hình thu các tiết mục của anh ấy và được in ra số bản rất lớn trên khắp thế giới. Cooperfield có thể cho phép mình sử dụng thứ ánh sáng đặc biệt, sân khấu đặc biệt, mọi thành tựu kỹ thuật mới nhất: điện tử, máy tính. Những thứ này, tất nhiên, không quyết định hoàn toàn tiết mục của anh ấy, các trò của anh ấy, nhưng chúng làm tăng thêm ấn tượng của cảnh quan và vẻ bí ẩn ly kỳ.
Cooperfield có các nhà khoa học, các kỹ sư giúp việc. Người ta đồn có cả các nhà máy của Bộ Quốc phòng. Tôi nghe nói chương trình gần đây nhất của Cooperfield trị giá gần 20 triệu đô la.
Khó mà nói được rằng tiết mục nào của Cooperfield là phức tạp nhất. Mỗi một trò đều có cái phức tạp riêng của nó, nhất là tiết mục lớn mà trong đó có nhiều người tham gia, có kỹ thuật phức tạp. Ở đây người nghệ sĩ không chỉ phụ thuộc vào bản thân mình, vào cô bạn diễn và đôi ba người khác giúp việc anh ta. Đó là tiết mục thuộc loại biến mất – xuất hiện, chẳng hạn tiết mục “Bức tượng thần Tự do biến mất”, “Toa tàu hỏa biến mất”, “Thác Niaga biến mất”…
Còn nói chung, mỗi một trò mới là một cuộc thể nghiệm đòi hỏi nhiều công sức. Để chuẩn bị cho một tiết mục phải mất từ mấy tháng cho đến mấy năm. Thoạt tiên, người ta đề xuất ý đồ rồi làm market cho một cái máy nào đấy. Đó là một công việc tập thể, trong đó, ở tất cả các giai đoạn, có rất nhiều người tham gia – các nhà thiết kế, các kỹ sư, rồi đến các họa sĩ, các nhạc sĩ, các đạo diễn. Nó giống như một vở diễn trong nhà hát, tiết mục trên hồ Ostankino được chuẩn bị 5 tháng.
Lần đầu tiên tôi nghe nói đến Cooperfield vào năm 1985 trong thời gian ở Phần Lan. Sau đó tôi mua được những băng hình video về những cuộc trình diễn của David. Tôi đã thấy được quy mô của những tiết mục lộng lẫy đó, mỹ học của chúng, cách bố cục, thị hiếu, sự trang bị kỹ thuật. Tôi không ngạc nhiên về những “phép màu” đó, nhưng tôi hiểu rằng tôi đã bở lỡ mất cái gì đó…
Nhu cầu của nhân loại đối với những chuyện thần kỳ, những sự hoang đường, những phép lạ là không bao giờ hết. Tôi lại tin vào điều đó khi mới đây tôi đã trình diễn những tiết mục ảo thuật tại Nhà hát tạp kỹ, tham gia những buổi biểu diễn này toàn là các nhà ảo thuật! Những buổi dạ hội như vậy, khán giả đông nghịt. Tôi mơ ước xây dựng một “tòa lâu đài ảo thuật” ở Mátxcơva. Những nhà ảo thuật chúng tôi có thể làm được tất cả mọi thứ, có thể lập những chương trình ảo thuật cổ tích cho trẻ em và có thể sáng tác những tiết mục trinh thám giải trí dành cho người lớn. Nghệ thuật tiếp tục sống và đó quả thật là điều kỳ diệu!”.
Lê Sơn
(Theo Trud – 7)
Tuần Báo Văn Nghệ TP.HCM số 462
(Theo Trud – 7)
Tuần Báo Văn Nghệ TP.HCM số 462
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét