BÍ ẨN ĐƯỜNG ĐỜI 147
(ĐC sưu tầm trên NET)
Tại Sao Mỹ Chọn Lấy Mạng LÊ QUANG TUNG Đầu Tiên Sau Sự Ra Đi Của NGÔ
ĐÌNH DIỆM
Ngay khi soạn thảo kịch bản đảo chánh, CIA đã chốt danh sách những người
cần phải xóa sổ. Trong đó có 2 nhân vật quyền lực: Lê Quang Tung và Hồ
Tấn Quyền
Hồ Tấn Quyền sinh ngày 1-01-1927 tại Đà Nẵng, là 1 trong những người Việt Nam được quân đội Pháp đào tạo sỹ quan hải quân bài bản đầu tiên tại miền Nam Việt Nam. Theo hồ sơ lưu trữ thì ông ta học khóa I sỹ quan chỉ huy hải quân tại Nha Trang. Khóa này chỉ đào tạo 9 sinh viên sĩ quan gồm: 6 sỹ quan ngành chỉ huy và 3 sỹ quan ngành cơ khí. Sau khi kết thúc đợt thực tập trên các chiến hạm và hải đoàn Pháp, ngày 01-10-1952, ông ta tốt nghiệp với cấp bậc thiếu úy hải quân. 7 năm sau, ngày 06-08-1959 ông ta đã leo lên vị trí tư lệnh hải quân. Xem ra con đường thăng tiến của ông ta nhanh như vũ bão.
Trước khi cuốn cờ rút quân về nước, theo sự thỏa thuận với Mỹ, ngày 20-08-1955, quân Pháp đã để lại lực lượng hải quân cho chính quyền bù nhìn Bảo Đại. Hồ Tấn Quyền - Sỹ quan hải quân Pháp trở thành Hồ Tấn Quyền - Sỹ quan "Quốc Gia Việt Nam". Khi Diệm hất Bảo Đại văng khỏi chính trường miền Nam Việt Nam, Hồ Tấn Quyền trở thành Phó Tư lệnh Hải quân Việt Nam Cộng hòa (VNCH).
2 năm sau, Hồ Tấn Quyền được Diệm giao chức Tư lệnh Hải quân. Mặc dù thể chế chính trị được thay đổi từ "Quốc Gia Việt Nam" sang "Việt Nam Cộng Hòa" nhưng "quân sử VNCH" vẫn công nhận tiền thân Hải Quân VNCH là Hải Quân "Quốc Gia Việt Nam". Vì vậy Đại tá Lê Quang Mỹ được xem là tư lệnh Hải quân đầu tiên của hải quân VNCH và Hồ Tấn Quyền là viên tư lệnh thứ ba của lực lượng này vào năm 1959.
Kể từ khi được Ngô Đình Diệm trao quyền chỉ huy lực lượng hải quân, ông ta đã cải tổ và thành lập nhiều đơn vị mới cho VNCH. Ông ta được Diệm ca ngợi như một hiện tượng sáng chói của chế độ. Thật ra, để có con đường thăng tiến nhanh, không ít lần ông ta đã phải mọp đầu, gập cổ trước bạo chúa miền Trung Ngô Đình Cẩn để gia nhập đảng "Cần lao".
Nhờ biết "nâng bi" cậu Út Cẩn nên Hồ Tấn Quyền được xem là đảng viên trung kiên của "Cần lao" và là tôi tớ trung thành của gia đình họ Ngô Đình. Sau khi bội ước, tráo trở hất Bảo Đại để leo lên ghế tổng thống, Diệm đã liên tục thăng cấp để trao quyền chỉ huy hải quân cho Hồ Tấn Quyền.
Đặc biệt, Hồ Tấn Quyền còn được Diệm trao quyền chỉ huy trực tiếp 1
lực lượng hải quân hoạt động bí mật. Đó là biệt đội người nhái.
Vào tháng 7-1960, Hồ Tấn Quyền đích thân tuyển chọn 8 thuộc hạ đưa sang Đài Loan để thụ huấn nghiệp vụ "thợ lặn" do lực lượng Hải quân Đài Loan huấn luyện. 5 tháng sau, 8 "thợ lặn" này trở thành huấn luyện viên đặc biệt tại Bộ Tham mưu Hải quân Việt Nam Cộng hòa. Nhiệm vụ đầu tiên của toán người này là đi khắp các đơn vị Hải quân tuyển chọn nhân sự để thành lập 1 biệt đội có cái tên rất dân dã: "người nhái".
Biệt đội người nhái này được đưa ra vùng biển Vũng Tàu huấn luyện những kỹ năng đột nhập, ám sát và phá hoại. Kẻ duy nhất nắm rõ mọi hoạt động của biệt đội người nhái là Ngô Đình Nhu và Hồ Tấn Quyền. CIA rất bực bội vì không nắm được hoạt động của toán người nhái này.
Trong thời điểm các lực lượng biệt kích do Lê Quang Tung và Mỹ đưa ra miền Bắc phá hoại, một toán biệt đội người nhái cũng được Ngô Đình Nhu bí mật đưa ra phía Bắc để thử nghiệm. Toán này do Lê Văn Kinh chỉ huy. Nhiệm vụ của nhóm này là đặt mìn phá hủy một số tàu thuyền đánh cá của ngư dân. Xui cho chúng, khi ra đến nơi, chưa kịp hành động gì thì đã bị dân quân của ta bắt gọn.
Nằm ngoài sự kiểm soát của Mỹ nên biệt đội người nhái này sẽ trở thành mối hiểm họa nếu chế độ Ngô Đình Diệm không tồn tại nữa. Đó là lý do cố vấn CIA, đã liệt Hồ Tấn Quyền vào danh sách ưu tiên… chết trong cuộc đảo chính đẫm máu.
Sau khi Diệm bị giết, Mỹ mới cho phép Việt Nam Cộng hòa thành lập chính thức và huấn luyện lực lượng người nhái (biệt đội Hải Kích SEAL - Sea, Air and Land) đầu tiên với 41 người tại Nha Trang vào cuối năm 1963.
Phi vụ ám sát một tư lệnh
Từ trước đến nay, nhiều người truyền tai nhau câu chuyện cái chết của Hồ Tấn Quyền trong cuộc đảo chính 01-11-1963 rất oanh liệt. Theo đó thì, khi cuộc đảo chính nổ ra, đại úy Nguyễn Kim Hương Giang cùng với vài sỹ quan đi xe đến tận tư dinh của đại tá Quyền để bắt sống.
Đại úy Giang vừa đến nơi thì thấy Quyền lái xe Traction ra khỏi cổng. Đại úy Giang đã cho xe jeep rượt đuổi theo. Mặc dù bị truy sát gắt gao nhưng ông Quyền vẫn điềm tĩnh lái xe về hướng một đơn vị quân sự ở Biên Hòa để tập họp lực lượng chống đảo chính. Khi đến Thủ Đức, ông bị Giang đuổi kịp, bắn chết.
Sự thật không đúng như vậy. Khi bị giết, Hồ Tấn Quyền hoàn toàn không hay biết gì về cuộc đảo chính sắp xảy ra. Thậm chí không biết lý do mình bị giết.
Theo tài liệu giải mật của CIA, nhóm sỹ quan đảo chính đã soạn thảo
riêng 1 kế hoạch dành cho số phận Hồ Tấn Quyền từ những ngày giữa tháng
10-1963, tức trước khi khởi sự đảo chính 1 tháng. Họ giao cho trung tá
Chung Tấn Cang - Chỉ huy trưởng lực lượng Giang thuyền đảm nhận nhiệm vụ
tiêu diệt Hồ Tấn Quyền.
Khi được giao nhiệm vụ, Chung Tấn Cang móc nối với thiếu tá Trương Ngọc Lực - Chỉ huy lực lượng Hải quân Vùng III Sông Ngòi và đại úy Nguyễn Kim Hương Giang - Chỉ huy trưởng Giang đoàn 24. Cả hai đều được Hồ Tấn Quyền xem là thuộc hạ thân tín.
Lực và Giang là kẻ nợ ân nghĩa với Hồ Tấn Quyền rất nhiều. Trương Ngọc Lực vừa được Hồ Tấn Quyền thăng từ hàm đại úy lên thiếu tá trước đó 5 ngày. Còn Nguyễn Kim Hương Giang trước kia là sỹ quan thuộc lực lượng Thủy quân Lục chiến - Vốn là 1 đơn vị "máu lửa" dễ chết - thuộc quyền của Hồ Tấn Quyền.
Vốn sợ chết, Hương Giang luôn tìm cách xin về đơn vị "an toàn". Thời may, vợ của Giang tình cờ quen vợ của Hồ Tấn Quyền trong 1 chuyến làm công tác từ thiện. Vợ của Giang tận dụng cơ hội đút lót một mớ tiền và năn nỉ vợ Hồ Tấn Quyền xin Giang về Hải quân. Nghe lời vợ, Hồ Tấn Quyền "rút" Giang từ Thủy quân Lục chiến về Hải quân.
Nhóm đảo chính tận dụng sự thân tình của Lực và Giang để thực hiện kế "điệu hổ ly sơn", mời Hồ Tấn Quyền ra khỏi Bộ Tư lệnh Hải quân rồi hạ sát.
Sáng sớm ngày 1-11-1963, khi lực lượng đảo chính chưa khai hỏa, thiếu tá Trương Ngọc Lực và đại úy Nguyễn Kim Hương Giang mặc thường phục đến tận sân tenis mời Hồ Tấn Quyền đi Biên Hòa với lý do họ đã tổ chức tiệc mừng sinh nhật lần thứ 36 cho Hồ Tấn Quyền tại đó để trả ơn.
Lúc đầu, Hồ Tấn Quyền từ chối nhưng do có chủ đích nên Lực và Giang cứ cày cục năn nỉ. Thấy đệ tử quá sốt sắng, Hồ Tấn Quyền không đành lòng từ chối. Ông ta lấy chiếc xe du lịch Citroen (không phải Traction như đồn đoán), đích thân cầm lái chở hai kẻ đồ tể đi mà không hề biết đang đi vào tử lộ. Trương Ngọc Lực ngồi cạnh Hồ Tấn Quyền ở ghế trước và Nguyễn Kim Hương Giang ngồi ghế sau.
Xe vừa đến khu vực vắng ở Thủ Đức, Trương Ngọc Lực bất ngờ rút dao đâm thẳng vào ngực đại tá Quyền. Do nhát gan, run tay, con dao đâm sượt cánh tay của Hồ Tấn Quyền. Vốn là con nhà võ, Hồ Tấn Quyền nhanh như cắt đánh mạnh tay lái đồng thời khóa tay thiếu tá Lực đoạt được con dao. Cả hai giằng co nhau ở ghế trước. Ngồi phía sau, đại úy Giang ung dung rút súng ngắn dí sát đầu ông Quyền siết cò. Viên đại tá đầy quyền lực đổ gục xuống, chết ngay tại chỗ. Để chắc ăn, Giang còn bồi thêm 1 phát vào sau lưng nơi vùng tim nạn nhân. Đúng lúc đó, một chiếc xe jeep xuất hiện. Hai sát thủ vất bừa xác đại tá Quyền vào cốp xe Citroen rồi nhanh chóng lên chiếc xe jeep trở về Sài Gòn.
Sau đó, một nhóm quân nhân được lệnh đến hiện trường đưa thi thể Hồ Tấn Quyền về nhà chứa xác Tổng Y viện Cộng hòa (Nay là bệnh viện 175) ở Gò Vấp. Khi Quyền bị giết, người vợ đang đi học giải phẫu thẩm mỹ ở nước ngoài. Người ta chỉ thông báo cho bà biết Quyền "bị thương nặng".
Cuộc “đảo chính” bên trong Bộ tư lệnh Hải quân
Về đến Sài Gòn, Lực và Giang ném bỏ bộ thường phục vấy máu, thay quân phục Hải quân vào rồi đi đón đoàn xe vận tải GMC chở 2 đại đội tân binh do đại tá Đỗ Kiến Nhiễu chỉ huy đang từ trung tâm huấn luyện Quang Trung tiến chiếm Bộ Tư Lệnh Hải quân. Nhờ 2 bộ quân phục sỹ quan Hải quân của Lực và Giang mà đoàn tân binh dễ dàng xâm nhập Bộ Tư lệnh Hải Quân.
Ngay khi xâm nhập thành công, Giang chỉ huy đám tân binh bất ngờ và
êm thấm chiếm lĩnh các vị trí trọng yếu trong khu vực, chong súng ra
lệnh binh sĩ Hải quân hạ súng đầu hàng. Trong khi đó, Lực đến Phòng Tham
mưu Tư lệnh Hải quân khống chế trung tá Đặng Cao Thăng - Tham mưu
trưởng Hải quân để lục tìm hồ sơ biệt đội người nhái. Tuy nhiên, hồ sơ
biệt đội này luôn nằm trong cặp của Ngô Đình Nhu. Và Nhu đã tiêu hủy hồ
sơ trước khi rời khỏi phủ tổng thống vào khuya ngày 2-11-1963.
Cuộc đảo chính tại Bộ tư lệnh Hải quân thành công. Lúc 13 giờ 30 phút, Trung tá Chung Tấn Cang đến tiếp nhận vai trò chỉ huy lực lượng Hải quân.
Kết thúc đảo chính, trung tá Cang được thăng đại tá, thiếu tá Lực được thăng trung tá và đại úy Giang được thăng thiếu tá.
Biệt đội người nhái của Hồ Tấn Quyền trở thành bóng ma không hồ sơ.
Ngày đám ma Hồ Tấn Quyền, đám người nhái đến trước quan tài đốt nhang khấn sẽ trả thù cho Hồ Tấn Quyền. Nghe tin, Lực và Giang nháo nhào đến gặp Dương Văn Minh xin được "xử lý" nhóm người nhái này. Tuy nhiên, khi Lực kéo quân đến nơi, nhóm người nhái đã kịp biến mất.
Lo sợ bị tàn quân người nhái trả thù, Lực xin Dương Văn Minh đi làm tùy viên quân sự Đại sứ quán ở Thái Lan. Sau khi cướp quyền lực từ tay Dương Văn Minh, "quốc trưởng" Nguyễn Khánh triệu hồi Lực về Sài Gòn. Sợ bị trả thù, Lực cởi bỏ quân phục, trốn ra ngoài làm Việt kiều lậu. Vẫn lo sợ bị ám hại, Lực trốn qua Campuchia cư trú một thời gian rồi sang Pháp định cư. Nỗi sợ hãi bị ám sát đeo đẳng mãi khiến ông ta bị điên. Ông ta chết đau đớn trong một viện tâm thần ở Pháp.
Còn Hương Giang thì xin ra Duyên Khu Hải quân ở đảo Phú Quốc làm cố vấn. Sau năm 1975 ông ta định cư một cách âm thầm ở Califonia.
Cuộc đảo chính "quân Quốc gia chiến thắng quân Việt Nam Cộng hòa" đã khiến 20 người chết và 145 người bị thương (kể cả số thường dân bị vạ lây).
Việc đưa Lê Quang Tung và Hồ Tấn Quyền vào kịch bản đảo chính đã chứng minh rằng, CIA đã quyết tâm xóa sạch tất cả những gì thuộc về Ngô Đình Diệm - Một chính quyền do chính CIA dựng lên.
Nông Huyền SơN
CÁI CHẾT CỦA HQ ĐẠI TÁ HỒ TẤN QUYỀN,Tư Lệnh Hải Quân
TRONG CUỘC BINH BIẾN 1 THÁNG 11 NĂM 1963
ĐÍNH CHÍNH CỦA ÔNG NGUYỄN BÁ CẨN
về cái chết của Đại Tá Hồ Tấn Quyền trong Hồi Ký ĐẤT NƯỚC TÔI
Trong quyển hồi ký “ĐẤT NƯỚC TÔI” ấn hành năm 2003, tại trang 308 có
đoạn nói về vụ sát hại sĩ quan cao cấp Quân Lực VNCH trong ngày đầu
của cuộc binh biến 1/11/1963. Khi đề cập đến trường hợp của Cố Hải
Quân Đại Tá Hồ Tấn Quyền, Tư Lệnh Hải Quân, tôi đã dựa trên một tài
liệu tường thuật sai lầm nguyên do và hoàn cảnh dẫn dắt đến cái chết
của Cố Đại Tá, tại Thủ Đức. Với thời gian lắng dịu và tài liệu đầy đủ
từ rất đông nhân chứng liên hệ đến biến cố kể trên, trường hợp sát hại
Cố Hải Quân Đại Tá Hồ Tấn Quyền đã được tường thuật một cách chính xác
trong quyển Hải Sử Tuyển Tập được ấn hành năm 2004. Đưọc sự chấp thuận
của nhà văn Phan Lạc Tiếp, Trưởng Ban Biên Tập Hải Sử Tuyển Tập, tôi
xin trích đăng một đoạn trong Tuyển Tập để cho sự thật được sáng tỏ
đồng thời vinh danh lòng dũng cảm của Cố HQ Đại Tá Hồ Tấn Quyền. Với
lời chân thành xin lổi gia đình của Cố HQ Đại Tá về một sơ xuất đáng
tiếc và thành thật cám ơn nhà văn Phan Lạc Tiếp, tôi xin trích đăng
một đoạn trong quyển Hải Sử Tuyển Tập, nguyên văn như sau. (Tác Giả
hồi ký “Đất Nước Tôi”, Nguyễn Bá Cẩn, cựu Thủ Tướng Chính Phủ VNCH).
“Vài hàng về HQ Đại Tá Hồ Tấn Quyền.
Đại Tá Quyền gốc người Huế, sinh năm 1927 tại Đà Nẵng, xuất thân Khóa
1 Sĩ Quan Hải Quân (SQHQ) Nha Trang. Khóa này có 6 sĩ quan ngành Chỉ
Huy và 3 sĩ quan ngành Cơ Khí. Người đỗ đầu khi ra trường ngành Chỉ
Huy là ông Trần Văn Chơn. Người đứng thứ sáu là ông Hồ Tấn Quyền. Như
tất cả những người cùng khoá, trước khi theo học Khóa 1 SQHQ Nha
Trang, ông Quyền cũng đã theo học ngành Hàng Hải. Tất cả 6 sĩ quan
ngành Chỉ Huy khoá này, đều lần lượt thay nhau làm Tư Lệnh Hải Quân từ
khi người Pháp trao quyền chỉ huy cho sĩ quan Việt Nam vào ngày 20
tháng 8 năm 1955, cho đến khi Hạm Đội Việt Nam Cộng Hoà làm lễ hạ kỳ
trên Biển Đông, hồi 12 giờ trưa ngày 7 tháng 5 năm 1975. Ông Quyền là
vị Tư Lệnh thứ ba, từ ngày 6 tháng 8 năm 1959, đến ngày 1 tháng 11 năm
1963, là ngày ông bị hạ sát. Đại Tá Lê Quang Mỹ là vị Tư Lệnh đầu
tiên. Kế đến là Trung Tá Trần Văn Chơn ở nhiệm kỳ đầu. Trước khi được
chỉ định làm Tư Lệnh, ông Quyền làm Tham Mưu Trưởng Hải Quân cho ông
Chơn.
Trong chức vụ Tư Lệnh Hải Quân, ông Quyền đã chứng tỏ là người có khả
năng và tuyệt đối trung thành với Tổng Thống Ngô Đình Diê.m. Đồng thời
ông cũng là người có nhiệt tâm và viễn kiến sắc bén trong việc xây
dựng Hải Quân.
Trong lần đảo chánh ngày 11 tháng 11 năm 1960, do Đại Tá Nguyễn Chánh
Thi cầm đầu, Đại Tá Quyền là người đã đích thân đem 2 đại đội của Tiểu
Đoàn 2 Thủy Quân Lục Chiến (TQLC) vào dinh Độc Lập, hợp sức cùng với
lực lượng phòng thủ trong dinh, ngăn chận được phe đảo chánh. Đó là
một chiến công rất cụ thể của ông Quyền với Tổng Thống Diê.m. (Hai đại
đội trước của tiểu đoàn này đã do Đại Úy Nguyễn Kiên Hùng, Tiểu Đoàn
Trưởng dẫn đi theo phe đảo chánh. Vì không đủ xe, nên mới còn 2 đại
đội đợi xe ở trại Cửu Long. Lúc ấy Đại Tá Quyền leo qua cầu Avalanche
điều động 2 đại đội còn lại này vào dinh chống lại phe đảo chánh).
Và ngày 27 tháng 2 năm 1962, phi công Nguyễn Văn Cử và Phạm Phú Quốc
dùng máy bay oanh tạc dinh Độc Lập, chính các chiến hạm Hải Quân, do
ông Quyền làm Tư Lệnh, đã bắn lên, đạn bay đan kín vùng trời, bảo vệ
an toàn dinh Tổng Thống. Một máy bay đã bị Hải Quân bắn hạ.
Trong việc xây dựng Hải Quân, ngay từ ngày cuộc chiến bột phát, năm
1960, Đại Tá Quyền là người đã nhìn thấy sự quan trọng trong việc bảo
vệ lãnh hải Việt Nam bằng chính những phương tiện đơn giản của Việt
Nam. Ông là người đã có sáng kiến thành lập Lực Lượng Hải Thuyền, dùng
những ghe xuồng chúng ta có thể đóng lấy được và tuyển dụng những dân
chài địa phương, trà trộn với ngư dân để phát giác và ngăn chận từ
trong trứng nước sự xâm nhập ngưới và vũ khí từ Bắc vào Nam bằng đường
biển. Các đơn vị Hải Thuyền, sau được biến cải thành các Duyên Đoàn,
đã chứng tỏ rất hữu hiệu, tạo được nhiều chiến công trong việc đối đầu
với những ghe tàu xâm nhập từ Bắc vào Nam. (Xin xem thêm bài phỏng vấn
Đại Tá Nguyễn Văn Thông về Lực Lượng Hải Thuyền).
Cái chết của Đại Tá Quyền.
Năm 1963, Miền Nam mỗi lúc mỗi có những khó khăn. Ngoài thì Cộng sản
mở rộng những trận đánh. Người Mỹ vì nhiều lý do không muốn ủng hộ
chính quyền của Tổng Thống Diệm nữa. Trong thì có những mâu thuẫn đảng
phái, tôn giáo, do đó quân đội cũng có nhiều phân hoá. Tổng Thống Diệm
chỉ còn tin tưởng vào một số rất ít đơn vị trung thành với ông, như
Thiếu Tướng Huỳnh Văn Cao, Tư Lệnh Vùng 4 Chiến Thuật; Đại Tá Lê Quang
Tung, Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Biệt; và Hải quân Đại Tá Hồ Tấn Quyền, Tư
Lệnh Hải Quân. Vì thế trước khi khởi sự, cấp chỉ huy đảo chánh phải
làm sao hóa giải được những trở ngại nói trên. Để làm việc này trong
Hải Quân, cấp chỉ huy đảo chánh, đứng đầu là Trung Tướng Văn Minh, đã
“xây dựng” (móc nối) với bốn người là HQ Trung Tá Chung Tấn Cang, Chỉ
Huy Trưởng Giang Lực; HQ Thiếu Tá Khương Hữu Bá, Chỉ Huy Trưởng Duyên
Lực; HQ Thiếu Tá Trương Ngọc Lực, Chỉ Huy Trưởng Vùng III Sông Ngòi;
và một sĩ quan gốc Thủy Quân Lục Chiến, Đại Úy Nguyễn Kim Hương Giang,
Chỉ Huy Trưởng Giang Đoàn 24 Xung Phong, kiêm Chỉ Huy Trưởng Đoàn
Giang Vận. Riêng về ông Trương Ngọc Lực, xuất thân khóa 2 sĩ quan Nha
Trang, với nhiều thời gian hoạt động trong sông và khét tiếng là một
tay hiếu sát.
Thi Hành.
Công tác này diễn tiến như sau:
Trước hết là trung hoà các người có thể làm trở ngại việc đảo chánh
trong Hải Quân. Do sự chỉ định của cấp chỉ huy đảo chánh, Thiếu Tá
Trương Ngọc Lực và Đại Úy Nguyễn Kim Hương Giang, hai người phải làm
sao loại trừ cho được sự hiện diện của Đại Tá Quyền trong vai trò Tư
Lệnh Hải Quân, ưu tiên là bắt giử ông Quyền đem nộp cho họ. Ông Giang
nhớ lại lời ông Lực nói rằng:
-“Ông Quyền trung thành với ông Diệm lắm, không cách nào thuyết phục
ông ta theo phe cách mạng được đâu, mà có khi còn nguy cho tính mạng
và đại cuộc. Ông Lực được ông Minh (Dương Văn Minh) cho biết là giữa
Tổng Thống Diệm và ông Quyền có một kế hoạch di tản bí mật bằng tàu
Hải Quân khi có biến, lánh nạn khi có đảo chánh. Chi tiết thế nào thì
không được biết, chỉ nghe ông Lực nói lại mà thôi”.
Để thi hành công tác này, khoảng 10 giờ sáng hôm 1 tháng 11 năm 1963,
buổi sáng được nghỉ lễ, ông Quyền đang đánh tennis với ông Thăng (xin
xem thêm bài phỏng vấn Phó Đề Đốc Đặng Cao Thăng), thì ông Lực đến năn
nỉ ông Quyền rất lâu, mời đi Thủ Đức ăn trưa, lấy cớ hôm ấy là ngày
sinh nhật thứ 36 của ông Quyền. Ông Quyền không muốn đi, vì “buổi trưa
còn phải lên Bộ Tổng Tham Mưu họp”. Sau ông Lực năn nỉ mãi, ông Quyền
về nhà thay quần áo, lái xe citroen đen đi. Ông Quyền cầm tay lái. Ông
Lực ngồi ở ghế trên, ông Giang ngồi ghế sau. Khi từ xa lộ Biên Hoà rẽ
vào đường đi Thủ Đức, xe nghiêng, ông Lực ngã vào ông Quyền, cũng là
lúc ông Lực rút dao găm ra đâm ông Quyền. Ông Quyền nhanh tay đỡ và
dằng được dao găm, đâm vào tay ông Lực. Máu bắn tung toé. Hai người
vật nhau, xe ủi xuống lề đường. Trong phút nguy nan đó, ông Giang ngồi
ở ghế sau chồm lên dí súng vào vai phải ông Quyền, nổ súng, “đâu một
hai phát gì đó”. Ông Quyền buông lơi con dao dính đầy máu xuống trước
mặt, gục ngã trên bánh lái. Sự việc xảy ra trong chớp mắt, tự nhiên
như một phản xạ, không suy nghĩ, ông Giang đứng bất động, kinh hoàng.
Vừa lúc ấy, một chiếc xe dân sự do tài xế của ông Lực chạy sau, trờ
tới. Ông Lực và anh tài xế bê xác ông Quyền bỏ vào thùng xe dân sự
này. Cả ba lên xe này chạy về Sài Gòn.”
Chiếm Bộ Tư Lệnh Hải Quân.
Ông Lực và ông Giang cấp tốc trở lại Sài Gòn, thay quần áo tác chiến
Hải Quân, có mặt tại ngã ba Bạch Đằng-Nguyễn Huệ, lúc 1 giờ trưa, để
đón 2 đại đội khoá sinh từ Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung lên, do
Đại Tá Đỗ Kiến Nhiễu đích thân trao la.i. Đúng như dự trù, ông Lực và
ông Giang hướng dẫn đoàn xe chở 2 đại đội này chạy ào vào chiếm Bộ Tư
Lệnh Hải Quân. Quân nhân Hải Quân thấy sĩ quan Hải Quân hướng dẫn đoàn
xe, nên không chống cự, vì thế việc chiếm Bộ Tư Lệnh Hải Quân không
gặp trở ngại nào. Trong khi ông Giang phân chia lính bộ binh tước khí
giới và canh gác Bộ Tư Lệnh, thì ông Lực chạy thẳng lên Văn Phòng Tư
Lệnh Hải Quân, nói với Trung Tá Đặng Cao Thăng, Tham Mưu Trưởng Hải
Quân, rằng:
“Cách Mạng đem quân tới chiếm Bộ Tư Lệnh Hải Quân”.
Theo sự nhớ lại của ông Thăng, thì:
“Tôi thấy ông Lực mặt mày xanh ngắt, tay bị băng, thì tôi biết là có
chuyện chẳng lành cho Đại Tá Quyền rồi. Ông Lực lùa tôi và các sĩ quan
tham mưu vào văn phòng Đại Tá Quyền. Khi đó có 2 máy bay của Không
Quân bay rất thấp quanh Bộ Tư Lệnh Hải Quân, có lẽ để uy hiếp Hải
Quân. Các chiến hạm liền nổ súng dày đặc bầu trời. Đặc biệt chiến hạm
HQ 06 đậu tại cầu A, vị trí 1, do Đại Úy Đỗ Kiểm làm Hạm Trưởng, bắn
lên rất dữ dội. Ông Lực yêu cầu tôi ra cột cờ trước Bộ Tư Lệnh ra lệnh
cho các chiến hạm ngưng bắn. Người trực tiếp áp tải tôi ra sân cờ là
Trung Úy Thái Quang Chức.” (Ông Chức là em Trung Tướng Thái Quang
Hoàng, một sĩ quan thuộc đơn vị của ông Giang).
Trước đó, theo kế hoạch đã định, Trung Tá Cang ra lệnh cho một số
chiến đĩnh của Giang Đoàn 24 Xung Phong ỉm quân ở bên kia cầu Sài Gòn.
Vì nếu ở bên này cầu, quá 1 giờ trưa nước lớn, tàu không chui qua gầm
cầu được. Đúng giờ ấn định, 1 giờ 30, Trung Tá Cang đem đoàn chiến
đĩnh sang chiếm Bộ Tư Lệnh Hải Quân. Trên chiếc Monitor Combat (Tiền
Phong Đĩnh) do Trung Sĩ Thạch Sơn, người Việt lai Miên làm Thuyền
Trưởng, ông Cang đứng trên chiếc Monitor này, cặp vào cầu tàu Tư Lệnh.
Ông Cang lên Văn phòng Tư Lệnh đảm nhiệm vai trò Tư Lệnh Hải Quân. Nhớ
lại biến cố này, Phó Đô Đốc Chung Tấn Cang cười và nói rằng:
-“May mà tôi đã đến kịp, tránh được những điều đáng tiếc xảy ra cho
Hải Quân.”
Trật tự tại Bộ Tư Lệnh Hải Quân được vãn hồi. Hôm sau, 2 tháng 11 năm
1963, ông Cang được thăng Đại Tá, ông Lực thăng Trung Tá và ông Nguyễn
Kim Hương Giang thăng Thiếu Tá.
Vào khoảng 1 giờ 15 chiều ngày 1 tháng 11 năm 1963, khi biến cố đảo
chánh đã xảy ra rồi, ông Thăng nhớ laị, nói rằng:
-“Tổng Thống Diệm có gọi tôi, hết sức bình tĩnh, ông hỏi Hải Quân ra
sao, anh Quyền đâu. Ông chỉ thị cho tôi phải đẩy quân của ông Lực ra.
Lúc đó Bộ Tư Lệnh Hải Quân đã bị tước khí giới rồi, tôi không làm
nổi”.
Nhìn lại biến cố này, ông Thăng có nhận xét rằng:
-“Tôi thấy vụ giết ông Quyền có thể có dự mưu, vì tại sao phải mời ông
Quyền lên Thủ Đức, và công việc này lại giao cho một sĩ quan nổi tiếng
hiếu sát trong Hải Quân. Vả chăng ông Đại Tá Lê Quang Tung, Tư Lệnh
Lực Lượng Đặc Biệt và em ông, Thiếu Tá Triệu bị bắt và bị bắn chết
trong Bộ Tổng Tham Mưu. Chắc họ cũng dành cho ông Quyền cùng một số
phận. Ông Giang, theo tôi, chỉ là người phụ thuộc, không có mưu đồ
nào. Ông bắn ông Quyền chỉ vì trong hốt hoảng, quá sợ hãi.”
Sau đó, theo lời kể lại của anh Trần Văn Hoa Em, khi ấy còn là Thiếu
Úy, thì:
-“Sau ngày đảo chánh, ông Lực có lúc xuống nấn ná ở tàu tôi (HQ 501)
đậu ở cầu C, do Đại Úy Bùi Cửu Viên làm Hạm Trưởng. Ông Lực tỏ ra dè
dặt và sợ hãi, rồi lặng lẽ đi đâu không biết”.
Còn ông Giang thì cho hay:
-“Trung Tá Lâm Ngươn Tánh, lúc ấy là Tham Mưu Trưởng, một hôm kéo tôi
ra kè xi măng ở bờ sông trước cầu C, nói với tôi rằng, ‘tụi bây liệu
đường đi đâu thì đi xa đi. Tụi nó dự trù giết mày và thằng Lực đó’.
Nên không bao lâu Trung Tá Lực được đổi đi làm Tùy Viên Quân Lực tại
Hán Thành. Còn tôi (Giang) được đổi ra Phú Quốc, làm cố vấn cho vị chỉ
huy Hải Quân tại đâỵ”
Nhìn xa hơn chút nữa, trong cuốn “Việt Nam Nhân Chứng”, Trung Tướng
Trần Văn Đôn đã kể lại nhiều chi tiết cho thấy rằng người Mỹ đã chủ
động, theo dỏi ráát sát biến cố ngày 1 tháng 11 năm 1963. Trong trang
227 và 228 sách đã dẫn, ông Đôn đã đưa ra những chi tiết về việc ngườì
Mỹ muốn bắt và giết cho được Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông Ngô Đình
Nhu. Khi đón tiếp các vị tướng lãnh của nhóm đảo chánh tới thăm Toà
Đại Sứ Mỹ, hồi 4 giờ chiều ngày 2 tháng 11 năm 1963, khi anh em Tổng
Thống Diệm đã bị giết rồi, ông Cabot Lodge, Đại Sứ Hoa Kỳ ra tận lề
đường đón các vị tướng đại diện phe đảo chánh, ông Lodge đã vui vẻ
thốt lên bằng tiếng Pháp:”C’est formidable! C’est formidable!” (Thật
là tuyệt diệu. Tuyệt diệu).
Thái độ ấy, lời nói ấy tưởng đã quá đủ để thấy thân phận của những ai
mà người Mỹ muốn loại trừ trong biến cố 1 tháng 11 năm 1963.”
http://ngothelinh.tripod.com/Colonel_HoTanQuyen.html
Hồ Tấn Quyền VNCH - Giải Mã Nguyên Nhân Mỹ Buộc Phải Cho HỒ TẤN QUYỀN "Xanh Cỏ" Theo Ngô Đình Diệm
HQ Đại tá Hồ Tấn Quyền với chiến dịch sóng tình thương
Bảo Bình Nguyễn Văn Ơn

Kể từ ngày 20/08/1955, Pháp trao quyền chỉ huy Hải quân VNCH lại cho Tư lệnh Hải quân đầu tiên HQ/Đại tá Lê-Quang-Mỹ, thì HQ/Đại tá Hồ-Tấn-Quyền là vị Tư lệnh thứ ba nhậm chức ngày 06/08/1959 và bị hạ sát ngày 01/11/1963.
Trong quyển Hải-sử tuyển tập 2004, Ban biên tập ghi nhận ông Hồ-Tấn-Quyền là một sĩ quan hải quân đầy nhiệt tình và giàu khả năng khi phục vụ mọi đơn vị từ Giang đoàn đến Hải lực. Lúc nắm chức vụ cao nhất, HQ/Đại tá Quyền đã phát huy vượt bực viễn kiến sắc bén của mình để xây dựng sự vững mạnh cho Quân chủng như thành lập Lực lượng Hải-Thuyền, tổ chức Chiến dịch Sóng-Tình-Thương… và trở thành một hiện tượng đặc thù trong các vị Tư lệnh Hải quân (1). Theo lời kể lại của Sĩ quan thuyết trình viên về danh xưng và bảng cấp số 1958 cho các Hải đoàn Xung-Phong bị Bộ Tổng tham mưu (TTTM) bác bỏ, Tham mưu trưởng Hồ-Tấn-Quyền rất bực bội về việc Hải quân bị thượng cấp chèn ép không cho phát triển lên. Có lẽ vì lý do này mà Ông Quyền quyết tâm dùng con đường tắt “Cần-Lao”, vượt hệ thống quân giai để bành trướng quân chủng. Tưởng cũng nên nhắc lại, Tư lệnh Hải quân Quyền – thành viên trung kiên của đảng Cần-Lao thuộc nền Đệ I Cộng-Hòa – tuyệt đối ủng hộ Tổng thống Ngô-Đình-Diệm, chống lại bất kỳ cuộc đảo chánh nào xảy ra trong thời kỳ này; cho nên Ông bị hai sát thủ là HQ/Thiếu tá Trương-Ngọc-Lực và Đại úy TQLC Nguyễn-Kim-Hương-Giang bức hại.
Trong hơn bốn năm giữ chức Tư lệnh, Đại tá Quyền đã thực hiện hai đại công tác có tầm vóc chiến lược là thành lập Lực lượng Hải-thuyền và tổ chức Chiến dịch Sóng-Tình-Thương ở Năm-Căn (Cà-Mau).

CHIẾN DỊCH SÓNG-TÌNH-THƯƠNG.
Theo Nghị quyết khởi nghĩa tháng 11/1940 của Xứ ủy Nam-Kỳ, ngày 14/12/1940 nhà giáo kiêm đảng viên CSVN Phan-Ngọc-Hiển xung phong cầm đầu một tiểu đội địa phương đánh chiếm hòn đảo Hòn-Khoai (Poulo Obi, mũi Cà-Mau), giết chết đảo trưởng Oliver và tịch thu một số vũ khí. Một tuần lễ sau, Quân đội Pháp phản kích chiếm lại đảo, bắt được ông Hiển cùng đồng bọn tại Xóm-Rạch-Gốc (Năm-Căn). Ông giáo Hiển với 9 người trực tiếp tổ chức cướp đảo bị Pháp xử bắn tại sân vận động Cà-Mau vào ngày 12/07/1941, còn lại một số tòng phạm bị lưu đài biệt xứ, trong đó có đảng viên Cộng-Sản trung thành Bông-Văn-Dĩa. Gặp dịp may hiếm có, Văn-Dĩa thả bè vượt thoát khỏi Côn-Đảo, trở về với bí danh Tư-Hoa, lập Làng-Rừng đầu tiên tại quê nhà Tân-An (Cửa Bồ-Đề), giữ chức Đoàn phó vận tải đường biển 962 của quân khu 9, đồng thời biến Năm-Căn thành khu giải phóng của Việt-cộng (2).
Giữa tháng 12/1962, Bộ TTM nhanh chóng chấp thuận kế hoạch hành quân Sóng-Tình-Thương tại An-Xuyên do Bộ Tư Lệnh Hải quân đệ trình (có thể Đại tá Quyền đã thuyết trình trước bên Tổng thống phủ rồi), nhưng sửa lại là Chiến dịch Sóng-Tình-Thương, với lý do là diễn tiến hành quân kéo dài đến 2 tháng và Chính quyền diện địa thống thuộc Bộ Nội vụ cũng có phần hành trong đó. Nhất là phụ bản tình báo của BTL/HQ/Phòng 2 đính kèm cho biết đích xác nguồn tin lấy từ các đội Hải-Thuyền thì vào tháng 10/1962, tàu vỏ gỗ trọng tải 30 tấn Đông-Phương thuộc Đoàn 759 xuất phát từ cảng Đồ-Sơn (bến cảng chánh của Đoàn 125, trawler sau này), dưới sự điều động của cán bộ Dĩa đổ thành công 30 tấn vũ khí đạn dược tại Vàm-Lũng (Cà-Mau); theo tài liệu của đảng thì Thiếu tá CSBV Bông-Văn-Dĩa còn tiếp tục chỉ đạo đổ nhiều chuyến hàng thành công như vậy cho Quân khu 9 sau này (3). Đơn vị Việt-Cộng có mặt tại Năm-Căn là Đại đội Quyết-Thắng thuộc Tiểu đoàn 306 U-Minh và Đại đội du kích địa phương.
Vị sĩ quan thiết kế Chiến dịch là HQ/Trung tá Đinh-Mạnh-Hùng (khóa 2 SQHQ/Nha-Trang), đang giữ chức vụ Chỉ huy trưởng Hải lực.

1- Quan Niệm
Vùng Năm-Căn thuộc tỉnh An-Xuyên (tên cũ là Cà-Mau) bị bỏ hoang phế gần một thập niên (1953-1963), không có chính quyền quận huyện và mất an ninh. Ngoại trừ cuộc hành quân của Tiểu đoàn 2 TQLC Trâu-Điên do Đại úy Nguyễn-Thành-Yên chỉ huy nhằm bảo vệ Biệt khu Hải-Yến của Linh mục Nguyễn-Lạc-Hóa tại dinh điền Cái-Đôi-Ngọn, quận Cái-Nước vào năm 1961, không có cuộc hành quân nào của QLVNCH để ổn định tình hình địa phương Năm-Căn cả. Vào thời điểm đó tại đây, Việt-Cộng ra lệnh cho mọi người dân muốn an ổn mưu sinh, tự do đi lại hành nghề đốn củi hầm than, đánh cá làm mắm, bắt ong lấy mật đều phải gia nhập Làng Rừng – làng kháng chiến trong rừng đước rậm do đảng CSVN lập ra từ thời kỳ 1958-1959) – và tuyệt đối cấm định cư trong các ấp chiến lược của VNCH. Hơn nữa, áp dụng chiến lược lấy nông thôn bao vây thành thị của Mao-Trạch-Đông, Việt-Cộng cũng ráo riết ngăn chận cư dân bán thổ sản lên tỉnh để An-Xuyên và Bạc-Liêu đều phải lâm vào tình trạng khan hiếm, không đủ hàng hóa tập trung sang Ba-Xuyên (Sóc-Trăng), nơi có Giang đoàn 81 Hộ-Tống chuyển vận nhu yếu phẩm về thủ đô Sài-Gòn mỗi tháng 2 lần.
Như vậy, ngoài mục tiêu an ninh quân sự thuần túy là hành quân tìm diệt và tái chiếm, Chiến dịch Sóng-Tình-Thương còn phải thể hiện thêm những mặt khác như kiêm soát tài nguyên lưu thông, thu phục nhân tâm về với chính nghĩa Quốc-Gia, tạo luồng sinh khí mới … ngõ hầu qui tụ được số lưu dân đáng kể cho quận tân lập Năm-Căn.

2- Phân Nhiệm
(Tham khảo văn thư lưu trử trong văn khố Hải quân VNCH/1970, V/v Chiến dịch STT/1963 và Hải sử tuyển tập 2004, trang 78).
– Tư lệnh chiến dịch: HQ/Đại tá Hồ-Tấn-Quyền.
– Tham mưu trương: HQ/Trung tá Đinh-Mạnh-Hùng
– Chỉ huy trưởng Lực lượng đổ bộ: Trung tá TQLC Lê-Nguyên-Khang, Liên đoàn trưởng hai Tiểu đoàn Quái-Điểu và Trâu-Điên.
– Bộ Tư lệnh Chiến dịch đặt trên soái hạm: Dương vận hạm HQ500 Cam-Ranh do HQ/Thiếu tá Nguyễn-Ngọc-Quỳnh (khóa 2 SQHQ/Brest) làm Hạm trưởng.
a)- Thành phần tham dự:
– Dương vận hạm HQ.500 Cam-Ranh, neo tại xóm Mới trên sông Cửa-Lớn làm Tổng hành dinh và trạm tiếp vận chính cho Chiến dịch.
– Hải vận hạm HQ.402 Lam-Giang làm trạm tiếp liệu lưu động và nơi tạm trú cho thành phần đổ bộ.
– Hải vận hạm HQ.404 Hương-Giang được phân nhiệm giống như HQ.402.
– Hộ tống hạm HQ.04 Tụy-Động yểm trợ hải pháo khi được yêu cầu và chuyên chở phái đoàn thanh tra giám sát Chiến dịch.
– Giang pháo hạm HQ.330 Lôi-Công yểm trợ hải pháo, dọn bãi đổ quân và làm nơi tạm trú cho toán xung kích đổ bộ.
– Trợ chiến hạm HQ.225 Nỏ-Thần có nhiệm vụ giống như HQ.330.
– Giang đoàn 22 Xung-Phong với 18 chiến đĩnh do HQ/Thiếu tá Huỳnh-Duy-Thiệp chỉ huy có nhiệm vụ khai thông thủy lộ, đổ bộ lục soát và tuần tiểu giữ an ninh.
– Tiểu đoàn 2 TQLC Trâu-Điên do Thiếu tá Nguyễn-Thành-Yên làm Tiểu đoàn trưởng (nhiệm kỳ thứ 2: 1961-1963) là lực lượng đổ bộ chánh trong kế hoạch tìm diệt (4).
– Đội 41 Hải-Thuyền (Hòn-Khoai) tăng phái thường trực 10 ghe Kiên-Giang để chuyển quân đổ bộ và tuần tiểu an ninh.
– 1 Trung đội Người-Nhái để thành lập 4 toán xung kích đổ bộ.
– 1 Trung đội Quân y Dân sự vụ do BTL/HQ/Phòng tâm lý chiến phối hợp với Bộ TL/HQ/Phòng quân y điều hành.

b)- Thành phần trừ bị:
– Trợ chiến hạm HQ.226 Linh-Kiếm
– Tiểu đoàn 1 TQLC Quái-Điểu đóng quân trong thị xã An-Xuyên.
– Đội 43 Hải-Thuyền (Hòn-Tre).
3- Diễn Tiến
Chiến dịch Sóng-Tình-Thương khai diễn ngày 03/01/1963 (ngẫu nhiên trùng hợp với ngày sinh nhhật của Tổng thống Đệ I VNCH Ngô-Đình-Diệm) và chấm dứt vào ngày 28/02/1963. Trong thời gian này, diễn tiến Chiến dịch chia làm 2 giai đoạn:
a)- Giai đoạn 1: từ 03/01/1963 đến 31/01/1963.
HQ/Trung tá Đinh-Mạnh-Hùng chỉ huy toàn bộ những cuộc hành quân tìm diệt Việt-Cộng đồng thời khuyến khích người dân về lập nghiệp tại quận mới Hàm-Rồng với kế hoạch Quân y Dân sự vụ; lần lượt thực hiện tại những vị trí trên bờ Nam sông Cửa-Lớn như Xóm-Mới, Xóm-Tắc-Biển, Xóm-Cây-Me, Xóm-Ông-Trang, Xóm-Cái-Chồn. Còn trên bờ Bắc sông Cửa-Lớn, vùng đất giữa rạch Năm-Căn và kinh Ngang dự trù lập quận, nên được toán Quân y Dân sự vụ đóng ống lấy nước ngọt tại Cái-Nai, Hàm-Rồng và Ông-Do để người dân khỏi phải vất vả ra tận đảo Hòn-Khoai chở nước ngọt về trong mùa nắng. Trong khi đó, chính quyền địa phương tỉnh An-Xuyên cũng ra thông cáo cung cấp tôn và gỗ cất nhà, nếu người dân chịu về định cư tại Hàm-Rồng.
b)- Giai đoại 2: từ 01/02/1963 đến 28/02/1963.
HQ/Trung tá Nghiêm-Văn-Phú thay thế HQ/Trung tá Hùng, nổ lực xây dựng quận mới và hành quân mở rộng vùng bình định về phía ngã ba Tam-Giang (cửa Bồ-Đề). Khoảng thượng tuần tháng hai, trong công tác khai thông kinh Cái-Nháp đến Cái-Keo, Giang đoàn 22 Xung-Phong áp dụng chiến thuật cặp FOM song xa, đánh bại cuộc phục kích tại đây của Đại đội 1 Quyết-Thắng thuộc Tiểu đoàn Việt-Cộng 306 U-Minh-Hạ, thu được một số vũ khí (5). Những ngày sau đó, Giang đoàn 22 Xung-Phong dùng tất cả 18 chiến đĩnh cơ hữu vào việc rà mìn, phá rào, triệt cản để khai thông thủy đạo sông Đầm-Dơi, từ ngã ba Tam-Giang lên tận Tân-Duyệt mà không bị một tổn thất nào. Ngoài ra, Giang đoàn 22 Xung-Phong còn bảo vệ toán Quân y Dân sự vụ hoàn tất công tác tại những xã ấp xa xôi như Tam-Giang, An-Hải và Đầm-Chim.

Tính đến ngày 28/02/1963, Lực lượng hành quân bình định đã gom được hơn 3 ngàn dân cho 15 xã ấp mà trước đây họ đã bị Việt-Cộng khống chế đời sống nên phải ra đi tản mát. Trong buổi lễ chấm dứt Chiến dịch Sóng-Tình-Thương được tổ chức trên soái hạm HQ.500 Cam-Rang hôm đó, để tưởng thưởng những chiến sĩ có công và bàn giao quận tân lập lại cho chính quyền An-Xuyên, Đại tá Tư lệnh Chiến dịch ca ngợi sự làm việc đầy nhiệt tình của mọi người trong suốt 57 ngày qua đã đem lại cuộc sống mới tại vùng đất Năm-Căn và ông hy vọng là chính quyền địa phương sẽ trân trọng kết quả này mà tiếp tục giúp đở cư dân ổn định đời sống trong xã ấp để tạo trù phú cho vùng đất vừa tái chiếm.
Chú Thích
(1) Mặc dù Hải Quy không ấn định, nhưng truyền thống mặc nhiên công nhận của HQVN từ năm 1955 đến 1963 là vị sĩ quan nào làm Tham mưu trưởng rồi sẽ được Bộ TTM đề bạt làm Tư lệnh Hải quân. Hai vị Tư lệnh Trần-Văn-Chơn và Hồ-Tấn-Quyền đều được hưởng truyền thống đặc biệt này. Vì vậy, nhiều người cho rằng Đại tá Quyền không cần phải gia nhập đảng Cần-Lao cũng đương nhiên lên làm Tư lệnh, và ông ta cũng không bị ám sát trong ngày đảo chính 01/11/1963.
(2) Theo quyển tự điển Bách khoa Quân sự Hà-Nội 2004. Để làm cuộc thử nghiệm, đầu năm 1961 Trung ương đảng ra lệnh cho các quân khu 7,8 và 9 cử các đội thuyền địa phương ra Bắc nhận vũ khí đạn dược. Nhưng sau 6 tháng, thử nghiệm này thất bại, nên đảng vội vàng khai sanh thêm Đoàn vận tải biển trong Nam 962 (tháng 9/1962) và chỉ định Thiếu tá Bông-Văn-Dĩa – con sói biển cửa Bồ-Đề – làm Đoàn phó.
Còn theo nhà văn CSBV Nguyễn-Tư-Đương (tác giả quyển Đường Mòn Trên Biển, Hà- Nội 2002), đồng chí kiên cường Bông-Văn-Dĩa đi lại trên vùng biển Cà-Mau như đi chợ, đã kể lại cuộc vượt ngục kỳ thú của mình cho nhà văn Phùng-Quán có đủ chất liệu sống viết thành quyển tiểu thuyết nổi tiếng Vượt Côn-Đảo, xuất bản 1963.
(3) (Chú thích kèm theo chút riêng tư, nhưng nhiều cực nhục khởi đầu cho giai đoạn bị hành hạ, trả thù trong lao tù cải tạo dài hạn, đồng thời cũng để nhớ lại tấm lòng vị tha thương mến chiến hữu của HQ/Đại tá Nguyễn-Văn-May, vị Tư lệnh khả kính vào cuối đời binh nghiệp của người sưu tập này. Xin tham khảo thêm bài Vùng 5 Duyên hải trong Hải sử tuyển tập 2004, trang 236)
Khi còn làm việc trong ban Nghiên cứu và Hải sử BTL/HQ/Phòng 5, vốn bản chất hiếu kỳ, tôi để tâm theo dõi hoạt động ngang dọc nổi tiếng trên vùng biển Cà-Mau của Thiếu tá Bông-Văn-Dĩa bằng những tin tình báo. Đến năm 1974, tôi có dịp trở lại mũi đất cực Nam này thì Ông Dĩa – người chỉ đạo những chuyến đổ hàng tiếp tế cho Quân khu 9 – đã được Đại tá CSBV Phan-Văn-Nhờ, Chỉ huy trưởng Đoàn 962 cất nhắc lên chức vụ cao hơn tại Miệt-Thứ (U-Minh) từ năm 1972, làm cho cơ hội đối đầu giữa đôi bên coi như khó có thể xảy ra.
Vào những ngày cuối tháng 4 năm 1975, sau khi duyệt lại toàn bộ kế hoạch phòng thủ và di tản chiến thuật của BTL/Vùng 5 Duyên-Hải, Đại tá May thổ lộ là trong hoàn cảnh một mất một còn của đơn vị như hiện nay, ông không đành lòng cùng với gia đình xé lẻ ra đi, bỏ anh em và gia đình họ (hơn 250 đàn bà và trẻ con) ở lại nơi chạm súng hàng ngày đầy nguy hiểm này.
Về phần tôi, với tinh thần kỷ luật của người lính tác chiến, tôi luôn luôn nghiêm chỉnh chấp hành mệnh lệnh của vị Tư lệnh mình. Chiều ngày 01 tháng 05 năm 1975, từ Hòn-Khoai qua một phút mật điện ngắn gọn, Tư lệnh chỉ thị cho tôi là bằng mọi giá phải đưa toàn bộ Vùng 5 cùng gia đình ra cửa Bảy-Hạp. Để rồi sau đó, đoàn tàu di chuyển an toàn ủi bãi Kiên-Giang cho mọi người tự do về nguyên quán.
Hết thực phẩm và cạn dầu, sáng ngày 04 tháng 5 năm 1975, Đại tá May và tôi cặp PCF vào Hòn-Tre (hậu cứ Duyên đoàn 43) để tìm tiếp tế, nhưng thất vọng vì đảo đã bị Việt-Cộng chiếm giữ từ chiều 30 tháng 4. Hai chúng tôi bị Trung đoàn trưởng Bảy-Hổ bắt giữ, kế đến gửi mỗi người riêng vào một nhà dân quản thúc tại quân An-Biên (Thứ 3 biển) còn thủy thủ đoàn được cho về nhà. Nhờ chút may mắn còn sót lại, tôi gặp gia chủ hiền lành và đối xử tốt với người lính VNCH. Bị cách ly, cấm liên hệ triệt để, tôi chỉ mong sao cho Tư lệnh mình cũng được an bình như vậy. Bỗng một hôm, gia chủ báo cho tôi biết là Trung tá Quận trưởng Bông-Văn-Dĩa cần hỏi cung lúc giữa trưa. Trước đây, tôi nghĩ rồi có một ngày nào đó, tôi và ông Tư-Hoa (Bông-Văn-Dĩa) sẽ chạm mặt nhau trên biển, một cuộc tao ngộ chiến mà đôi bên có hỏa lực tương đồng. Nhưng hiện tại, người thắng kẻ bại đã quá rõ ràng, giờ lại đối diện nhau trong hoàn cảnh này quả là một sự phủ phàng cho kẻ không còn tấc sắt trong tay.
Xế trưa hôm đó, tôi gặp ông quân Dĩa cùng anh du kích bảo vệ trước sân nhà, còn gia chủ lánh mặt vào bên trong. Mặc quần áo nylon bộ đội, mũ lưởi trai phù hiệu giải phóng, dép Nhật, không mang kính lão, ông quận Dĩa đã ngụy trang được phần nào làn da ngăm trổ đồi mồi và mái tóc bạc thất tuần của mình, bằng tướng đi khá mau lẹ. Sau khi đối chiếu cẩn thận lý lịch trính ngang của tôi với danh sách những đại gia phải truy bắt trong sổ tay, ông quân lạnh lẽo ra lệnh: “Phải nghe lệnh chủ nhà, không được gời khỏi cửa, gồi tôi gút anh ga tỉnh.”
Bóng cả hai khuất đã lâu mà tôi vẫn còn đứng tần ngần ngoài cửa. Cổ nhân có câu Văn kỳ thanh, bất kiến kỳ hình (Nghe tiếng nhưng không bằng gặp mặt), nay thấy được Tư-Hoa rồi, cuống họng tôi dường như bị bóp nghẹt, uất nghẹn vì sự hết sức nghịch lý của cuộc chiến là một Quân lực có quá trình 21 năm chiến đấu can trường vừa bị tan rã mà kẻ chiến thắng lại là những người về từ làng Rừng như Bông-Văn-Dĩa chẳng hạn. Đột nhiên tôi thấy đầu óc tỉnh táo lại, mặc cảm tự ti thua trận không còn nữa, dẫu cho vài ngày trước đó, mấy dòng thơ thật não lòng của thi sĩ Thanh-Nam an ủi người chiến bại cứ lởn vởn hoài trước mắt mình:
Tôi là người lính vừa thua trận,
Nằm giữa sa trường, nát gió mưa.
Khép mắt cố quên đời thủy thủ*,
Làm thân cây cỏ gục ven bờ.
* (Để hợp với hoàn cảnh, xin phép Thanh-Nam cho tôi được đổi hai chữ chiến sĩ thành thủy thủ).
(4) Năm 1961, Đại úy Nguyễn-Thành-Yên, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 2 Trâu-Điên có nhiệm vụ đưa đơn vị mình về quận Cái-Nước (An-Xuyên) để bảo vệ Biệt khu Hải-Yến (Cái-Đôi-Ngọn) của Linh mục Nguyễn-Lạc-Hóa đang bị áp lực nặng nề của Tiểu đoàn 306 U-Minh. Đại úy Yên khinh địch, nên bị Đại đội Quyết-Thắng của Tiểu đoàn Việt-cộng này phục kích bắn trọng thương trên sông Cả-Bát. Sau khi bình phục, Thiếu tá Yên lại đưa Tiểu đoàn mình xuống tìm diệt địch tại vùng Năm-Căn đầu năm 1963.
(5) Theo lời thật lại của ông chủ quán chạp phô ở Tam-Giang (Năm-Căn) vào đầu năm 1975, thì khoảng đầu Tết âm lịch 1963, hai Trung đội của Đại đôi Quyết Thắng phục kích đoàn tàu trong kinh Cái-Nháp, bị súng máy trên tàu bắn lên làm tổn thất nặng, mất cả chục khẩu súng. Gần 30 Bộ đội tử thương, trong đó có Liên Trung đội trưởng Nguyễn-Viết-Khải (Nguyễn-Văn-Huôi), người quận Cái-Nước.
Bảo Bình Nguyễn Văn Ơn
http://hqvnch.net/

Kể từ ngày 20/08/1955, Pháp trao quyền chỉ huy Hải quân VNCH lại cho Tư lệnh Hải quân đầu tiên HQ/Đại tá Lê-Quang-Mỹ, thì HQ/Đại tá Hồ-Tấn-Quyền là vị Tư lệnh thứ ba nhậm chức ngày 06/08/1959 và bị hạ sát ngày 01/11/1963.
Trong quyển Hải-sử tuyển tập 2004, Ban biên tập ghi nhận ông Hồ-Tấn-Quyền là một sĩ quan hải quân đầy nhiệt tình và giàu khả năng khi phục vụ mọi đơn vị từ Giang đoàn đến Hải lực. Lúc nắm chức vụ cao nhất, HQ/Đại tá Quyền đã phát huy vượt bực viễn kiến sắc bén của mình để xây dựng sự vững mạnh cho Quân chủng như thành lập Lực lượng Hải-Thuyền, tổ chức Chiến dịch Sóng-Tình-Thương… và trở thành một hiện tượng đặc thù trong các vị Tư lệnh Hải quân (1). Theo lời kể lại của Sĩ quan thuyết trình viên về danh xưng và bảng cấp số 1958 cho các Hải đoàn Xung-Phong bị Bộ Tổng tham mưu (TTTM) bác bỏ, Tham mưu trưởng Hồ-Tấn-Quyền rất bực bội về việc Hải quân bị thượng cấp chèn ép không cho phát triển lên. Có lẽ vì lý do này mà Ông Quyền quyết tâm dùng con đường tắt “Cần-Lao”, vượt hệ thống quân giai để bành trướng quân chủng. Tưởng cũng nên nhắc lại, Tư lệnh Hải quân Quyền – thành viên trung kiên của đảng Cần-Lao thuộc nền Đệ I Cộng-Hòa – tuyệt đối ủng hộ Tổng thống Ngô-Đình-Diệm, chống lại bất kỳ cuộc đảo chánh nào xảy ra trong thời kỳ này; cho nên Ông bị hai sát thủ là HQ/Thiếu tá Trương-Ngọc-Lực và Đại úy TQLC Nguyễn-Kim-Hương-Giang bức hại.
Trong hơn bốn năm giữ chức Tư lệnh, Đại tá Quyền đã thực hiện hai đại công tác có tầm vóc chiến lược là thành lập Lực lượng Hải-thuyền và tổ chức Chiến dịch Sóng-Tình-Thương ở Năm-Căn (Cà-Mau).

CHIẾN DỊCH SÓNG-TÌNH-THƯƠNG.
Theo Nghị quyết khởi nghĩa tháng 11/1940 của Xứ ủy Nam-Kỳ, ngày 14/12/1940 nhà giáo kiêm đảng viên CSVN Phan-Ngọc-Hiển xung phong cầm đầu một tiểu đội địa phương đánh chiếm hòn đảo Hòn-Khoai (Poulo Obi, mũi Cà-Mau), giết chết đảo trưởng Oliver và tịch thu một số vũ khí. Một tuần lễ sau, Quân đội Pháp phản kích chiếm lại đảo, bắt được ông Hiển cùng đồng bọn tại Xóm-Rạch-Gốc (Năm-Căn). Ông giáo Hiển với 9 người trực tiếp tổ chức cướp đảo bị Pháp xử bắn tại sân vận động Cà-Mau vào ngày 12/07/1941, còn lại một số tòng phạm bị lưu đài biệt xứ, trong đó có đảng viên Cộng-Sản trung thành Bông-Văn-Dĩa. Gặp dịp may hiếm có, Văn-Dĩa thả bè vượt thoát khỏi Côn-Đảo, trở về với bí danh Tư-Hoa, lập Làng-Rừng đầu tiên tại quê nhà Tân-An (Cửa Bồ-Đề), giữ chức Đoàn phó vận tải đường biển 962 của quân khu 9, đồng thời biến Năm-Căn thành khu giải phóng của Việt-cộng (2).
Giữa tháng 12/1962, Bộ TTM nhanh chóng chấp thuận kế hoạch hành quân Sóng-Tình-Thương tại An-Xuyên do Bộ Tư Lệnh Hải quân đệ trình (có thể Đại tá Quyền đã thuyết trình trước bên Tổng thống phủ rồi), nhưng sửa lại là Chiến dịch Sóng-Tình-Thương, với lý do là diễn tiến hành quân kéo dài đến 2 tháng và Chính quyền diện địa thống thuộc Bộ Nội vụ cũng có phần hành trong đó. Nhất là phụ bản tình báo của BTL/HQ/Phòng 2 đính kèm cho biết đích xác nguồn tin lấy từ các đội Hải-Thuyền thì vào tháng 10/1962, tàu vỏ gỗ trọng tải 30 tấn Đông-Phương thuộc Đoàn 759 xuất phát từ cảng Đồ-Sơn (bến cảng chánh của Đoàn 125, trawler sau này), dưới sự điều động của cán bộ Dĩa đổ thành công 30 tấn vũ khí đạn dược tại Vàm-Lũng (Cà-Mau); theo tài liệu của đảng thì Thiếu tá CSBV Bông-Văn-Dĩa còn tiếp tục chỉ đạo đổ nhiều chuyến hàng thành công như vậy cho Quân khu 9 sau này (3). Đơn vị Việt-Cộng có mặt tại Năm-Căn là Đại đội Quyết-Thắng thuộc Tiểu đoàn 306 U-Minh và Đại đội du kích địa phương.
Vị sĩ quan thiết kế Chiến dịch là HQ/Trung tá Đinh-Mạnh-Hùng (khóa 2 SQHQ/Nha-Trang), đang giữ chức vụ Chỉ huy trưởng Hải lực.

1- Quan Niệm
Vùng Năm-Căn thuộc tỉnh An-Xuyên (tên cũ là Cà-Mau) bị bỏ hoang phế gần một thập niên (1953-1963), không có chính quyền quận huyện và mất an ninh. Ngoại trừ cuộc hành quân của Tiểu đoàn 2 TQLC Trâu-Điên do Đại úy Nguyễn-Thành-Yên chỉ huy nhằm bảo vệ Biệt khu Hải-Yến của Linh mục Nguyễn-Lạc-Hóa tại dinh điền Cái-Đôi-Ngọn, quận Cái-Nước vào năm 1961, không có cuộc hành quân nào của QLVNCH để ổn định tình hình địa phương Năm-Căn cả. Vào thời điểm đó tại đây, Việt-Cộng ra lệnh cho mọi người dân muốn an ổn mưu sinh, tự do đi lại hành nghề đốn củi hầm than, đánh cá làm mắm, bắt ong lấy mật đều phải gia nhập Làng Rừng – làng kháng chiến trong rừng đước rậm do đảng CSVN lập ra từ thời kỳ 1958-1959) – và tuyệt đối cấm định cư trong các ấp chiến lược của VNCH. Hơn nữa, áp dụng chiến lược lấy nông thôn bao vây thành thị của Mao-Trạch-Đông, Việt-Cộng cũng ráo riết ngăn chận cư dân bán thổ sản lên tỉnh để An-Xuyên và Bạc-Liêu đều phải lâm vào tình trạng khan hiếm, không đủ hàng hóa tập trung sang Ba-Xuyên (Sóc-Trăng), nơi có Giang đoàn 81 Hộ-Tống chuyển vận nhu yếu phẩm về thủ đô Sài-Gòn mỗi tháng 2 lần.
Như vậy, ngoài mục tiêu an ninh quân sự thuần túy là hành quân tìm diệt và tái chiếm, Chiến dịch Sóng-Tình-Thương còn phải thể hiện thêm những mặt khác như kiêm soát tài nguyên lưu thông, thu phục nhân tâm về với chính nghĩa Quốc-Gia, tạo luồng sinh khí mới … ngõ hầu qui tụ được số lưu dân đáng kể cho quận tân lập Năm-Căn.
2- Phân Nhiệm
(Tham khảo văn thư lưu trử trong văn khố Hải quân VNCH/1970, V/v Chiến dịch STT/1963 và Hải sử tuyển tập 2004, trang 78).
– Tư lệnh chiến dịch: HQ/Đại tá Hồ-Tấn-Quyền.
– Tham mưu trương: HQ/Trung tá Đinh-Mạnh-Hùng
– Chỉ huy trưởng Lực lượng đổ bộ: Trung tá TQLC Lê-Nguyên-Khang, Liên đoàn trưởng hai Tiểu đoàn Quái-Điểu và Trâu-Điên.
– Bộ Tư lệnh Chiến dịch đặt trên soái hạm: Dương vận hạm HQ500 Cam-Ranh do HQ/Thiếu tá Nguyễn-Ngọc-Quỳnh (khóa 2 SQHQ/Brest) làm Hạm trưởng.
a)- Thành phần tham dự:
– Dương vận hạm HQ.500 Cam-Ranh, neo tại xóm Mới trên sông Cửa-Lớn làm Tổng hành dinh và trạm tiếp vận chính cho Chiến dịch.
– Hải vận hạm HQ.402 Lam-Giang làm trạm tiếp liệu lưu động và nơi tạm trú cho thành phần đổ bộ.
– Hải vận hạm HQ.404 Hương-Giang được phân nhiệm giống như HQ.402.
– Hộ tống hạm HQ.04 Tụy-Động yểm trợ hải pháo khi được yêu cầu và chuyên chở phái đoàn thanh tra giám sát Chiến dịch.
– Giang pháo hạm HQ.330 Lôi-Công yểm trợ hải pháo, dọn bãi đổ quân và làm nơi tạm trú cho toán xung kích đổ bộ.
– Trợ chiến hạm HQ.225 Nỏ-Thần có nhiệm vụ giống như HQ.330.
– Giang đoàn 22 Xung-Phong với 18 chiến đĩnh do HQ/Thiếu tá Huỳnh-Duy-Thiệp chỉ huy có nhiệm vụ khai thông thủy lộ, đổ bộ lục soát và tuần tiểu giữ an ninh.
– Tiểu đoàn 2 TQLC Trâu-Điên do Thiếu tá Nguyễn-Thành-Yên làm Tiểu đoàn trưởng (nhiệm kỳ thứ 2: 1961-1963) là lực lượng đổ bộ chánh trong kế hoạch tìm diệt (4).
– Đội 41 Hải-Thuyền (Hòn-Khoai) tăng phái thường trực 10 ghe Kiên-Giang để chuyển quân đổ bộ và tuần tiểu an ninh.
– 1 Trung đội Người-Nhái để thành lập 4 toán xung kích đổ bộ.
– 1 Trung đội Quân y Dân sự vụ do BTL/HQ/Phòng tâm lý chiến phối hợp với Bộ TL/HQ/Phòng quân y điều hành.

b)- Thành phần trừ bị:
– Trợ chiến hạm HQ.226 Linh-Kiếm
– Tiểu đoàn 1 TQLC Quái-Điểu đóng quân trong thị xã An-Xuyên.
– Đội 43 Hải-Thuyền (Hòn-Tre).
3- Diễn Tiến
Chiến dịch Sóng-Tình-Thương khai diễn ngày 03/01/1963 (ngẫu nhiên trùng hợp với ngày sinh nhhật của Tổng thống Đệ I VNCH Ngô-Đình-Diệm) và chấm dứt vào ngày 28/02/1963. Trong thời gian này, diễn tiến Chiến dịch chia làm 2 giai đoạn:
a)- Giai đoạn 1: từ 03/01/1963 đến 31/01/1963.
HQ/Trung tá Đinh-Mạnh-Hùng chỉ huy toàn bộ những cuộc hành quân tìm diệt Việt-Cộng đồng thời khuyến khích người dân về lập nghiệp tại quận mới Hàm-Rồng với kế hoạch Quân y Dân sự vụ; lần lượt thực hiện tại những vị trí trên bờ Nam sông Cửa-Lớn như Xóm-Mới, Xóm-Tắc-Biển, Xóm-Cây-Me, Xóm-Ông-Trang, Xóm-Cái-Chồn. Còn trên bờ Bắc sông Cửa-Lớn, vùng đất giữa rạch Năm-Căn và kinh Ngang dự trù lập quận, nên được toán Quân y Dân sự vụ đóng ống lấy nước ngọt tại Cái-Nai, Hàm-Rồng và Ông-Do để người dân khỏi phải vất vả ra tận đảo Hòn-Khoai chở nước ngọt về trong mùa nắng. Trong khi đó, chính quyền địa phương tỉnh An-Xuyên cũng ra thông cáo cung cấp tôn và gỗ cất nhà, nếu người dân chịu về định cư tại Hàm-Rồng.
b)- Giai đoại 2: từ 01/02/1963 đến 28/02/1963.
HQ/Trung tá Nghiêm-Văn-Phú thay thế HQ/Trung tá Hùng, nổ lực xây dựng quận mới và hành quân mở rộng vùng bình định về phía ngã ba Tam-Giang (cửa Bồ-Đề). Khoảng thượng tuần tháng hai, trong công tác khai thông kinh Cái-Nháp đến Cái-Keo, Giang đoàn 22 Xung-Phong áp dụng chiến thuật cặp FOM song xa, đánh bại cuộc phục kích tại đây của Đại đội 1 Quyết-Thắng thuộc Tiểu đoàn Việt-Cộng 306 U-Minh-Hạ, thu được một số vũ khí (5). Những ngày sau đó, Giang đoàn 22 Xung-Phong dùng tất cả 18 chiến đĩnh cơ hữu vào việc rà mìn, phá rào, triệt cản để khai thông thủy đạo sông Đầm-Dơi, từ ngã ba Tam-Giang lên tận Tân-Duyệt mà không bị một tổn thất nào. Ngoài ra, Giang đoàn 22 Xung-Phong còn bảo vệ toán Quân y Dân sự vụ hoàn tất công tác tại những xã ấp xa xôi như Tam-Giang, An-Hải và Đầm-Chim.

Tính đến ngày 28/02/1963, Lực lượng hành quân bình định đã gom được hơn 3 ngàn dân cho 15 xã ấp mà trước đây họ đã bị Việt-Cộng khống chế đời sống nên phải ra đi tản mát. Trong buổi lễ chấm dứt Chiến dịch Sóng-Tình-Thương được tổ chức trên soái hạm HQ.500 Cam-Rang hôm đó, để tưởng thưởng những chiến sĩ có công và bàn giao quận tân lập lại cho chính quyền An-Xuyên, Đại tá Tư lệnh Chiến dịch ca ngợi sự làm việc đầy nhiệt tình của mọi người trong suốt 57 ngày qua đã đem lại cuộc sống mới tại vùng đất Năm-Căn và ông hy vọng là chính quyền địa phương sẽ trân trọng kết quả này mà tiếp tục giúp đở cư dân ổn định đời sống trong xã ấp để tạo trù phú cho vùng đất vừa tái chiếm.
Chú Thích
(1) Mặc dù Hải Quy không ấn định, nhưng truyền thống mặc nhiên công nhận của HQVN từ năm 1955 đến 1963 là vị sĩ quan nào làm Tham mưu trưởng rồi sẽ được Bộ TTM đề bạt làm Tư lệnh Hải quân. Hai vị Tư lệnh Trần-Văn-Chơn và Hồ-Tấn-Quyền đều được hưởng truyền thống đặc biệt này. Vì vậy, nhiều người cho rằng Đại tá Quyền không cần phải gia nhập đảng Cần-Lao cũng đương nhiên lên làm Tư lệnh, và ông ta cũng không bị ám sát trong ngày đảo chính 01/11/1963.
(2) Theo quyển tự điển Bách khoa Quân sự Hà-Nội 2004. Để làm cuộc thử nghiệm, đầu năm 1961 Trung ương đảng ra lệnh cho các quân khu 7,8 và 9 cử các đội thuyền địa phương ra Bắc nhận vũ khí đạn dược. Nhưng sau 6 tháng, thử nghiệm này thất bại, nên đảng vội vàng khai sanh thêm Đoàn vận tải biển trong Nam 962 (tháng 9/1962) và chỉ định Thiếu tá Bông-Văn-Dĩa – con sói biển cửa Bồ-Đề – làm Đoàn phó.
Còn theo nhà văn CSBV Nguyễn-Tư-Đương (tác giả quyển Đường Mòn Trên Biển, Hà- Nội 2002), đồng chí kiên cường Bông-Văn-Dĩa đi lại trên vùng biển Cà-Mau như đi chợ, đã kể lại cuộc vượt ngục kỳ thú của mình cho nhà văn Phùng-Quán có đủ chất liệu sống viết thành quyển tiểu thuyết nổi tiếng Vượt Côn-Đảo, xuất bản 1963.
(3) (Chú thích kèm theo chút riêng tư, nhưng nhiều cực nhục khởi đầu cho giai đoạn bị hành hạ, trả thù trong lao tù cải tạo dài hạn, đồng thời cũng để nhớ lại tấm lòng vị tha thương mến chiến hữu của HQ/Đại tá Nguyễn-Văn-May, vị Tư lệnh khả kính vào cuối đời binh nghiệp của người sưu tập này. Xin tham khảo thêm bài Vùng 5 Duyên hải trong Hải sử tuyển tập 2004, trang 236)
Khi còn làm việc trong ban Nghiên cứu và Hải sử BTL/HQ/Phòng 5, vốn bản chất hiếu kỳ, tôi để tâm theo dõi hoạt động ngang dọc nổi tiếng trên vùng biển Cà-Mau của Thiếu tá Bông-Văn-Dĩa bằng những tin tình báo. Đến năm 1974, tôi có dịp trở lại mũi đất cực Nam này thì Ông Dĩa – người chỉ đạo những chuyến đổ hàng tiếp tế cho Quân khu 9 – đã được Đại tá CSBV Phan-Văn-Nhờ, Chỉ huy trưởng Đoàn 962 cất nhắc lên chức vụ cao hơn tại Miệt-Thứ (U-Minh) từ năm 1972, làm cho cơ hội đối đầu giữa đôi bên coi như khó có thể xảy ra.
Vào những ngày cuối tháng 4 năm 1975, sau khi duyệt lại toàn bộ kế hoạch phòng thủ và di tản chiến thuật của BTL/Vùng 5 Duyên-Hải, Đại tá May thổ lộ là trong hoàn cảnh một mất một còn của đơn vị như hiện nay, ông không đành lòng cùng với gia đình xé lẻ ra đi, bỏ anh em và gia đình họ (hơn 250 đàn bà và trẻ con) ở lại nơi chạm súng hàng ngày đầy nguy hiểm này.
Về phần tôi, với tinh thần kỷ luật của người lính tác chiến, tôi luôn luôn nghiêm chỉnh chấp hành mệnh lệnh của vị Tư lệnh mình. Chiều ngày 01 tháng 05 năm 1975, từ Hòn-Khoai qua một phút mật điện ngắn gọn, Tư lệnh chỉ thị cho tôi là bằng mọi giá phải đưa toàn bộ Vùng 5 cùng gia đình ra cửa Bảy-Hạp. Để rồi sau đó, đoàn tàu di chuyển an toàn ủi bãi Kiên-Giang cho mọi người tự do về nguyên quán.
Hết thực phẩm và cạn dầu, sáng ngày 04 tháng 5 năm 1975, Đại tá May và tôi cặp PCF vào Hòn-Tre (hậu cứ Duyên đoàn 43) để tìm tiếp tế, nhưng thất vọng vì đảo đã bị Việt-Cộng chiếm giữ từ chiều 30 tháng 4. Hai chúng tôi bị Trung đoàn trưởng Bảy-Hổ bắt giữ, kế đến gửi mỗi người riêng vào một nhà dân quản thúc tại quân An-Biên (Thứ 3 biển) còn thủy thủ đoàn được cho về nhà. Nhờ chút may mắn còn sót lại, tôi gặp gia chủ hiền lành và đối xử tốt với người lính VNCH. Bị cách ly, cấm liên hệ triệt để, tôi chỉ mong sao cho Tư lệnh mình cũng được an bình như vậy. Bỗng một hôm, gia chủ báo cho tôi biết là Trung tá Quận trưởng Bông-Văn-Dĩa cần hỏi cung lúc giữa trưa. Trước đây, tôi nghĩ rồi có một ngày nào đó, tôi và ông Tư-Hoa (Bông-Văn-Dĩa) sẽ chạm mặt nhau trên biển, một cuộc tao ngộ chiến mà đôi bên có hỏa lực tương đồng. Nhưng hiện tại, người thắng kẻ bại đã quá rõ ràng, giờ lại đối diện nhau trong hoàn cảnh này quả là một sự phủ phàng cho kẻ không còn tấc sắt trong tay.
Xế trưa hôm đó, tôi gặp ông quân Dĩa cùng anh du kích bảo vệ trước sân nhà, còn gia chủ lánh mặt vào bên trong. Mặc quần áo nylon bộ đội, mũ lưởi trai phù hiệu giải phóng, dép Nhật, không mang kính lão, ông quận Dĩa đã ngụy trang được phần nào làn da ngăm trổ đồi mồi và mái tóc bạc thất tuần của mình, bằng tướng đi khá mau lẹ. Sau khi đối chiếu cẩn thận lý lịch trính ngang của tôi với danh sách những đại gia phải truy bắt trong sổ tay, ông quân lạnh lẽo ra lệnh: “Phải nghe lệnh chủ nhà, không được gời khỏi cửa, gồi tôi gút anh ga tỉnh.”
Bóng cả hai khuất đã lâu mà tôi vẫn còn đứng tần ngần ngoài cửa. Cổ nhân có câu Văn kỳ thanh, bất kiến kỳ hình (Nghe tiếng nhưng không bằng gặp mặt), nay thấy được Tư-Hoa rồi, cuống họng tôi dường như bị bóp nghẹt, uất nghẹn vì sự hết sức nghịch lý của cuộc chiến là một Quân lực có quá trình 21 năm chiến đấu can trường vừa bị tan rã mà kẻ chiến thắng lại là những người về từ làng Rừng như Bông-Văn-Dĩa chẳng hạn. Đột nhiên tôi thấy đầu óc tỉnh táo lại, mặc cảm tự ti thua trận không còn nữa, dẫu cho vài ngày trước đó, mấy dòng thơ thật não lòng của thi sĩ Thanh-Nam an ủi người chiến bại cứ lởn vởn hoài trước mắt mình:
Tôi là người lính vừa thua trận,
Nằm giữa sa trường, nát gió mưa.
Khép mắt cố quên đời thủy thủ*,
Làm thân cây cỏ gục ven bờ.
* (Để hợp với hoàn cảnh, xin phép Thanh-Nam cho tôi được đổi hai chữ chiến sĩ thành thủy thủ).
(4) Năm 1961, Đại úy Nguyễn-Thành-Yên, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 2 Trâu-Điên có nhiệm vụ đưa đơn vị mình về quận Cái-Nước (An-Xuyên) để bảo vệ Biệt khu Hải-Yến (Cái-Đôi-Ngọn) của Linh mục Nguyễn-Lạc-Hóa đang bị áp lực nặng nề của Tiểu đoàn 306 U-Minh. Đại úy Yên khinh địch, nên bị Đại đội Quyết-Thắng của Tiểu đoàn Việt-cộng này phục kích bắn trọng thương trên sông Cả-Bát. Sau khi bình phục, Thiếu tá Yên lại đưa Tiểu đoàn mình xuống tìm diệt địch tại vùng Năm-Căn đầu năm 1963.
(5) Theo lời thật lại của ông chủ quán chạp phô ở Tam-Giang (Năm-Căn) vào đầu năm 1975, thì khoảng đầu Tết âm lịch 1963, hai Trung đội của Đại đôi Quyết Thắng phục kích đoàn tàu trong kinh Cái-Nháp, bị súng máy trên tàu bắn lên làm tổn thất nặng, mất cả chục khẩu súng. Gần 30 Bộ đội tử thương, trong đó có Liên Trung đội trưởng Nguyễn-Viết-Khải (Nguyễn-Văn-Huôi), người quận Cái-Nước.
Bảo Bình Nguyễn Văn Ơn
http://hqvnch.net/
Giải mã cái chết của Lê Quang Tung và Hồ Tấn Quyền trong vụ đảo chính Ngô Đình Diệm (kỳ cuối)
18:05 23/03/2017Với CIA, người thứ hai nằm trong danh sách phải chết của kế hoạch đảo chính Ngô Đình Diệm là Hồ Tấn Quyền - Tư lệnh Hải Quân, một binh chủng hoạt động dưới nước, không liên quan đến vụ đảo chính xảy ra trên bộ. Tuy nhiên, ông ta trực tiếp chỉ huy một lực lượng đặc biệt mà CIA không có cách nào quản lý. Vì vậy, ông ta phải chết.
- Giải mã cái chết của Lê Quang Tung và Hồ Tấn Quyền trong vụ đảo chính Ngô Đình Diệm (kỳ 2)
- Giải mã cái chết của Lê Quang Tung và Hồ Tấn Quyền trong vụ đảo chính Ngô Đình Diệm
Kỳ cuối: Cái chết của Hồ Tấn Quyền
Con đường hoạn lộ của viên tư lệnhHồ Tấn Quyền sinh ngày 1-01-1927 tại Đà Nẵng, là 1 trong những người Việt Nam được quân đội Pháp đào tạo sỹ quan hải quân bài bản đầu tiên tại miền Nam Việt Nam. Theo hồ sơ lưu trữ thì ông ta học khóa I sỹ quan chỉ huy hải quân tại Nha Trang. Khóa này chỉ đào tạo 9 sinh viên sĩ quan gồm: 6 sỹ quan ngành chỉ huy và 3 sỹ quan ngành cơ khí. Sau khi kết thúc đợt thực tập trên các chiến hạm và hải đoàn Pháp, ngày 01-10-1952, ông ta tốt nghiệp với cấp bậc thiếu úy hải quân. 7 năm sau, ngày 06-08-1959 ông ta đã leo lên vị trí tư lệnh hải quân. Xem ra con đường thăng tiến của ông ta nhanh như vũ bão.
Trước khi cuốn cờ rút quân về nước, theo sự thỏa thuận với Mỹ, ngày 20-08-1955, quân Pháp đã để lại lực lượng hải quân cho chính quyền bù nhìn Bảo Đại. Hồ Tấn Quyền - Sỹ quan hải quân Pháp trở thành Hồ Tấn Quyền - Sỹ quan "Quốc Gia Việt Nam". Khi Diệm hất Bảo Đại văng khỏi chính trường miền Nam Việt Nam, Hồ Tấn Quyền trở thành Phó Tư lệnh Hải quân Việt Nam Cộng hòa (VNCH).
2 năm sau, Hồ Tấn Quyền được Diệm giao chức Tư lệnh Hải quân. Mặc dù thể chế chính trị được thay đổi từ "Quốc Gia Việt Nam" sang "Việt Nam Cộng Hòa" nhưng "quân sử VNCH" vẫn công nhận tiền thân Hải Quân VNCH là Hải Quân "Quốc Gia Việt Nam". Vì vậy Đại tá Lê Quang Mỹ được xem là tư lệnh Hải quân đầu tiên của hải quân VNCH và Hồ Tấn Quyền là viên tư lệnh thứ ba của lực lượng này vào năm 1959.
Kể từ khi được Ngô Đình Diệm trao quyền chỉ huy lực lượng hải quân, ông ta đã cải tổ và thành lập nhiều đơn vị mới cho VNCH. Ông ta được Diệm ca ngợi như một hiện tượng sáng chói của chế độ. Thật ra, để có con đường thăng tiến nhanh, không ít lần ông ta đã phải mọp đầu, gập cổ trước bạo chúa miền Trung Ngô Đình Cẩn để gia nhập đảng "Cần lao".
Nhờ biết "nâng bi" cậu Út Cẩn nên Hồ Tấn Quyền được xem là đảng viên trung kiên của "Cần lao" và là tôi tớ trung thành của gia đình họ Ngô Đình. Sau khi bội ước, tráo trở hất Bảo Đại để leo lên ghế tổng thống, Diệm đã liên tục thăng cấp để trao quyền chỉ huy hải quân cho Hồ Tấn Quyền.
Hồ Tấn Quyền. |
Vào tháng 7-1960, Hồ Tấn Quyền đích thân tuyển chọn 8 thuộc hạ đưa sang Đài Loan để thụ huấn nghiệp vụ "thợ lặn" do lực lượng Hải quân Đài Loan huấn luyện. 5 tháng sau, 8 "thợ lặn" này trở thành huấn luyện viên đặc biệt tại Bộ Tham mưu Hải quân Việt Nam Cộng hòa. Nhiệm vụ đầu tiên của toán người này là đi khắp các đơn vị Hải quân tuyển chọn nhân sự để thành lập 1 biệt đội có cái tên rất dân dã: "người nhái".
Biệt đội người nhái này được đưa ra vùng biển Vũng Tàu huấn luyện những kỹ năng đột nhập, ám sát và phá hoại. Kẻ duy nhất nắm rõ mọi hoạt động của biệt đội người nhái là Ngô Đình Nhu và Hồ Tấn Quyền. CIA rất bực bội vì không nắm được hoạt động của toán người nhái này.
Trong thời điểm các lực lượng biệt kích do Lê Quang Tung và Mỹ đưa ra miền Bắc phá hoại, một toán biệt đội người nhái cũng được Ngô Đình Nhu bí mật đưa ra phía Bắc để thử nghiệm. Toán này do Lê Văn Kinh chỉ huy. Nhiệm vụ của nhóm này là đặt mìn phá hủy một số tàu thuyền đánh cá của ngư dân. Xui cho chúng, khi ra đến nơi, chưa kịp hành động gì thì đã bị dân quân của ta bắt gọn.
Nằm ngoài sự kiểm soát của Mỹ nên biệt đội người nhái này sẽ trở thành mối hiểm họa nếu chế độ Ngô Đình Diệm không tồn tại nữa. Đó là lý do cố vấn CIA, đã liệt Hồ Tấn Quyền vào danh sách ưu tiên… chết trong cuộc đảo chính đẫm máu.
Sau khi Diệm bị giết, Mỹ mới cho phép Việt Nam Cộng hòa thành lập chính thức và huấn luyện lực lượng người nhái (biệt đội Hải Kích SEAL - Sea, Air and Land) đầu tiên với 41 người tại Nha Trang vào cuối năm 1963.
Phi vụ ám sát một tư lệnh
Từ trước đến nay, nhiều người truyền tai nhau câu chuyện cái chết của Hồ Tấn Quyền trong cuộc đảo chính 01-11-1963 rất oanh liệt. Theo đó thì, khi cuộc đảo chính nổ ra, đại úy Nguyễn Kim Hương Giang cùng với vài sỹ quan đi xe đến tận tư dinh của đại tá Quyền để bắt sống.
Đại úy Giang vừa đến nơi thì thấy Quyền lái xe Traction ra khỏi cổng. Đại úy Giang đã cho xe jeep rượt đuổi theo. Mặc dù bị truy sát gắt gao nhưng ông Quyền vẫn điềm tĩnh lái xe về hướng một đơn vị quân sự ở Biên Hòa để tập họp lực lượng chống đảo chính. Khi đến Thủ Đức, ông bị Giang đuổi kịp, bắn chết.
Sự thật không đúng như vậy. Khi bị giết, Hồ Tấn Quyền hoàn toàn không hay biết gì về cuộc đảo chính sắp xảy ra. Thậm chí không biết lý do mình bị giết.
Biệt đội người nhái. |
Khi được giao nhiệm vụ, Chung Tấn Cang móc nối với thiếu tá Trương Ngọc Lực - Chỉ huy lực lượng Hải quân Vùng III Sông Ngòi và đại úy Nguyễn Kim Hương Giang - Chỉ huy trưởng Giang đoàn 24. Cả hai đều được Hồ Tấn Quyền xem là thuộc hạ thân tín.
Lực và Giang là kẻ nợ ân nghĩa với Hồ Tấn Quyền rất nhiều. Trương Ngọc Lực vừa được Hồ Tấn Quyền thăng từ hàm đại úy lên thiếu tá trước đó 5 ngày. Còn Nguyễn Kim Hương Giang trước kia là sỹ quan thuộc lực lượng Thủy quân Lục chiến - Vốn là 1 đơn vị "máu lửa" dễ chết - thuộc quyền của Hồ Tấn Quyền.
Vốn sợ chết, Hương Giang luôn tìm cách xin về đơn vị "an toàn". Thời may, vợ của Giang tình cờ quen vợ của Hồ Tấn Quyền trong 1 chuyến làm công tác từ thiện. Vợ của Giang tận dụng cơ hội đút lót một mớ tiền và năn nỉ vợ Hồ Tấn Quyền xin Giang về Hải quân. Nghe lời vợ, Hồ Tấn Quyền "rút" Giang từ Thủy quân Lục chiến về Hải quân.
Nhóm đảo chính tận dụng sự thân tình của Lực và Giang để thực hiện kế "điệu hổ ly sơn", mời Hồ Tấn Quyền ra khỏi Bộ Tư lệnh Hải quân rồi hạ sát.
Sáng sớm ngày 1-11-1963, khi lực lượng đảo chính chưa khai hỏa, thiếu tá Trương Ngọc Lực và đại úy Nguyễn Kim Hương Giang mặc thường phục đến tận sân tenis mời Hồ Tấn Quyền đi Biên Hòa với lý do họ đã tổ chức tiệc mừng sinh nhật lần thứ 36 cho Hồ Tấn Quyền tại đó để trả ơn.
Lúc đầu, Hồ Tấn Quyền từ chối nhưng do có chủ đích nên Lực và Giang cứ cày cục năn nỉ. Thấy đệ tử quá sốt sắng, Hồ Tấn Quyền không đành lòng từ chối. Ông ta lấy chiếc xe du lịch Citroen (không phải Traction như đồn đoán), đích thân cầm lái chở hai kẻ đồ tể đi mà không hề biết đang đi vào tử lộ. Trương Ngọc Lực ngồi cạnh Hồ Tấn Quyền ở ghế trước và Nguyễn Kim Hương Giang ngồi ghế sau.
Xe vừa đến khu vực vắng ở Thủ Đức, Trương Ngọc Lực bất ngờ rút dao đâm thẳng vào ngực đại tá Quyền. Do nhát gan, run tay, con dao đâm sượt cánh tay của Hồ Tấn Quyền. Vốn là con nhà võ, Hồ Tấn Quyền nhanh như cắt đánh mạnh tay lái đồng thời khóa tay thiếu tá Lực đoạt được con dao. Cả hai giằng co nhau ở ghế trước. Ngồi phía sau, đại úy Giang ung dung rút súng ngắn dí sát đầu ông Quyền siết cò. Viên đại tá đầy quyền lực đổ gục xuống, chết ngay tại chỗ. Để chắc ăn, Giang còn bồi thêm 1 phát vào sau lưng nơi vùng tim nạn nhân. Đúng lúc đó, một chiếc xe jeep xuất hiện. Hai sát thủ vất bừa xác đại tá Quyền vào cốp xe Citroen rồi nhanh chóng lên chiếc xe jeep trở về Sài Gòn.
Sau đó, một nhóm quân nhân được lệnh đến hiện trường đưa thi thể Hồ Tấn Quyền về nhà chứa xác Tổng Y viện Cộng hòa (Nay là bệnh viện 175) ở Gò Vấp. Khi Quyền bị giết, người vợ đang đi học giải phẫu thẩm mỹ ở nước ngoài. Người ta chỉ thông báo cho bà biết Quyền "bị thương nặng".
Cuộc “đảo chính” bên trong Bộ tư lệnh Hải quân
Về đến Sài Gòn, Lực và Giang ném bỏ bộ thường phục vấy máu, thay quân phục Hải quân vào rồi đi đón đoàn xe vận tải GMC chở 2 đại đội tân binh do đại tá Đỗ Kiến Nhiễu chỉ huy đang từ trung tâm huấn luyện Quang Trung tiến chiếm Bộ Tư Lệnh Hải quân. Nhờ 2 bộ quân phục sỹ quan Hải quân của Lực và Giang mà đoàn tân binh dễ dàng xâm nhập Bộ Tư lệnh Hải Quân.
Nguyễn Kim Hương Giang (người thứ ba tính từ bên phải). |
Cuộc đảo chính tại Bộ tư lệnh Hải quân thành công. Lúc 13 giờ 30 phút, Trung tá Chung Tấn Cang đến tiếp nhận vai trò chỉ huy lực lượng Hải quân.
Kết thúc đảo chính, trung tá Cang được thăng đại tá, thiếu tá Lực được thăng trung tá và đại úy Giang được thăng thiếu tá.
Biệt đội người nhái của Hồ Tấn Quyền trở thành bóng ma không hồ sơ.
Ngày đám ma Hồ Tấn Quyền, đám người nhái đến trước quan tài đốt nhang khấn sẽ trả thù cho Hồ Tấn Quyền. Nghe tin, Lực và Giang nháo nhào đến gặp Dương Văn Minh xin được "xử lý" nhóm người nhái này. Tuy nhiên, khi Lực kéo quân đến nơi, nhóm người nhái đã kịp biến mất.
Lo sợ bị tàn quân người nhái trả thù, Lực xin Dương Văn Minh đi làm tùy viên quân sự Đại sứ quán ở Thái Lan. Sau khi cướp quyền lực từ tay Dương Văn Minh, "quốc trưởng" Nguyễn Khánh triệu hồi Lực về Sài Gòn. Sợ bị trả thù, Lực cởi bỏ quân phục, trốn ra ngoài làm Việt kiều lậu. Vẫn lo sợ bị ám hại, Lực trốn qua Campuchia cư trú một thời gian rồi sang Pháp định cư. Nỗi sợ hãi bị ám sát đeo đẳng mãi khiến ông ta bị điên. Ông ta chết đau đớn trong một viện tâm thần ở Pháp.
Còn Hương Giang thì xin ra Duyên Khu Hải quân ở đảo Phú Quốc làm cố vấn. Sau năm 1975 ông ta định cư một cách âm thầm ở Califonia.
Cuộc đảo chính "quân Quốc gia chiến thắng quân Việt Nam Cộng hòa" đã khiến 20 người chết và 145 người bị thương (kể cả số thường dân bị vạ lây).
Việc đưa Lê Quang Tung và Hồ Tấn Quyền vào kịch bản đảo chính đã chứng minh rằng, CIA đã quyết tâm xóa sạch tất cả những gì thuộc về Ngô Đình Diệm - Một chính quyền do chính CIA dựng lên.
Nông Huyền SơN
Đã từng có người gặp và tiếp xúc với 1 nhân vật tự nhận mình là Lê Quang
Tung tướng VNCH, người này đã đi tìm hiểu sự thật việc Lê Quang Tung có
thực sự còn sống và làm gián điệp tại VN hay đây là âm mưu của Mỹ, mời
các bạn cùng tìm hiểu
Cái chết bí ẩn của vị Tư Lệnh LLĐB đầu tiên của QLVNCH
Ai đã giết anh em Đại Tá Lê Quang Tung? Những câu hỏi và trả lời 47 năm sau
Cho đến năm 2010, cái chết của những sĩ quan đứng về phía
Tổng Thống Ngô Đình Diệm thường ít được nói tới. Tên tuổi của họ hầu như
bị đi vào quên lãng. Nhưng đột nhiên chuyện cũ được nhắc lại, tranh cãi
trên các diễn đàn mạng, đặc biệt là về cái chết của hai anh em ruột Lê
Quang Tung và Lê Quang Triệu, những người được coi là rất trung thành
với Tổng Thống Diệm. Lý do: qua bài viết với tiêu đề “ Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm: người anh hùng vị quốc vong thân”, bà Lệ Tuyền
đã cho rằng Đại Tá Lê Quang Tung và Thiếu Tá Lê Quang Triệu bị Đại Úy
(sau này là Thiếu Tướng) Lê Minh Đảo giết chết. Bà Lệ Tuyền cáo buộc
Tướng Lê Minh Đảo giết anh em Đại Tá Tung do căn cứ vào cuốn sách “Nam Việt Nam 1954 – 1975 những sự thật chưa hề nhắc tới”
(tr. 266 – 267) được xuất bản vào năm 1990. Cuốn sách này được viết bởi
Thiếu Tướng Hoàng Lạc, Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung –
Tư Lệnh Phó Quân Đoàn 1, Quân Khu 1 và Đại Tá Hà Mai Việt, Tỉnh Trưởng
Tỉnh Quảng Trị – Tham Mưu Trưởng Sư Đoàn 25 Bộ Binh. Cả hai vị thiếu
tướng và đại tá hiện định cư ở Mỹ. Bài viết của bà Lệ Tuyền đề ngày
30.10.2010. Ngay sau đó, Tướng Lê Minh Đảo đã viết một lá thư ngỏ cho các “chiến hữu, thân hữu và đồng hương” với nội dung như sau: “Trong
mấy tuần vừa qua, tôi nhận được nhiều điện thư và điện thoại từ khắp
nơi bày tỏ sự lo lắng, thắc mắc và bất bình trước vài bài viết gửi ra
trên các Diễn Đàn Internet vu khống tôi giết chết cố Đại Tá Lê Quang
Tung và Thiếu Tá Lê Quang Triệu. Trước nỗi quan tâm và sự ưu ái của quí
vị, tôi thấy cần minh xác để quí vị an tâm. Kính thưa quí vị, Với
danh dự của một cựu chiến sĩ VNCH, tôi, Lê Minh Đảo, long trọng xác
định rằng trong suốt cuộc đời binh nghiệp, tôi không bao giờ có một hành
động nào vi phạm đến tài sản hoặc sinh mệnh của các chiến hữu của tôi
trong QLVNCH. Đặc biệt là tôi không có một liên hệ gì đến cái chết của
cố Đại Tá Lê Quang Tung và Thiếu Tá Lê Quang Triệu. Từ năm 1963
đến 1975, trong tất cả các cuộc điều tra của chính phủ Việt Nam Cộng Hòa
về cái chết của hai sĩ quan kể trên, không có ai đề cập đến tên tôi bỡi
vì đã có những bằng chứng rõ ràng là tôi không thể có bất cứ một liên
hệ nào đến vụ sát nhân nầy. Trong thời gian gần đây, cộng sản
Việt Nam đang nổ lực thực hiện chiến dịch vu cáo và bôi nhọ các viên
chức cao cấp trong Chính Phủ và Quân Lực VNCH nhằm chính nghĩa hoá hành
động của cộng sản Bắc Viêt đánh chiếm Miền Nam và toàn trị đất nước Việt
Nam. Xin quý vị lưu ý và đề cao cảnh giác trước kế hoạch thâm độc nầy
của cộng sản. Đây là lời minh xác chân thành và duy nhất của tôi.
Tôi sẽ không quan tâm đến những vu cáo tiếp tục sau nầy (nếu có) của
cộng sản và tay sai. Trân trọng kính chào đoàn kết. Lê Minh Đảo
” Cùng với bà Lệ Tuyền, có một số người tham gia cuộc tranh luận ai đã
giết anh em Đại Tá Lê Quang Tung như cựu Trung Tá Paul Vân, nhà báo Lữ
Giang, cựu Đại Tá Lê Doãn Thường. Đại Tá Lê Doãn Thường gởi lên mạng “bài trần thuật” có đoạn như sau: “Đối
với những ai chưa biết, tôi xin thưa rằng tôi là cựu Đại Tá Trần Doãn
Thường, thuộc Binh chủng Lực Lượng Đặc Biệt. Vào thời điểm đảo chánh
Tổng Thống Ngô Đình Diệm, tôi là Chánh Văn Phòng của Thiếu Tướng Lê Văn
Nghiêm mà Th/Tg LVN là một thành viên trong hàng ngũ sĩ quan đảo chánh,
như vậy những điều cố Thiếu Tướng LVN thuật với tôi là Chánh Văn Phòng
ắt phải là những điều khả tín và có giá trị A1. Tại sao tôi đã không lên tiếng khi biết sự thật Ai đã giết Đại Tá Lê Quang Tung từ 47 năm trước mà nay lại viết ra? Lý do là: a/
vào thời điểm đó, không khí “cách mạng” sục xôi, nói những điều mà
không khí cách mạng và tình thế chưa ổn định thì kẻ “hớt lẻo” đương
nhiên là sẽ và phải chịu hậu quả khó lường b/ Vào thời điểm khi
Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn văn Khiêm cầm quyền thì mọi sự coi
như đã ổn cố, nếu tiết lộ bí mật ra chắc sẽ gây xáo trộn và hậu quả chắc
không mấy tốt đẹp. c/ Sau 1975 nếu tiết lộ bí mật này ra thì để làm gì khi nước đã mất, nhà đã tan? Tại sao nay tôi lại lên tiếng sau khi đã im lặng 47 năm từ 1963 tới nay? Lý do là tôi đã thấy a/ những sự buộc tội gây hàm oan cho người khác là Th/ Tg Lê Minh Đảo b/
Những sự vu khống, bịa đặt cho người đã chết là đại úy Nguyễn văn
Nhung. Vu khống để buộc tội cho người đã chết, đã có thành tích giết cố
TT NĐD và CV NĐN là chuyện quá dễ và thông thường vì người chết không
đội mồ lên mà cải chính hàm oan được. c/ Những vị viết hồi ký có
thể là đã có thoả thuận qui kết cho đại úy Nhung giết Đại Tá LQT, một là
để chạy tội hai là để kết tội, ba là như ngạn ngữ “Chúng khẩu đồng từ,
ông sư cũng chết”, chuyện này chỉ những ai ngây thơ mù quáng tin tưởng
vào các hồi ký để chạy tội và buộc tội hoặc là các vị trong trường phái
viết sử PHỊA có thể làm được. Đại Tá Lê Quang Tung đã bị giết như thế nào?
Theo lời Thiếu Tướng Lê Văn Nghiêm thuật lại cho tôi và hai sĩ quan cấp
úy thường chầu chực tại tư dinh th/tg LVN vào chiếu tối 2/11/1963 thì:
Do lệnh của Tướng Dương Văn Minh, Trung Tướng Trần văn Đôn đã điện thoại
kêu Đại Tá LQT tới bộ TTM họp vì có tin có kẻ định ám sát và đảo chánh
TT NĐD. Đại Tá Tung liền qua họp, (không phải là để qua dự Lunch Party)
Tr/tg Trần văn Đôn đã ra lệnh cho Quân Cảnh canh gác trước phòng hội Toà
Nhà Chính Bộ TTM là “BẤT CỨ AI BƯỚC RA KHỎI PHÒNG HỌP NÀY LÀ PHẢI BẮN
CHẾT NGAY” Trong khi họp đã có tuyên bố là sẽ đảo chánh TT NĐD và nếu ai
không đồng ý thì cứ việc ra về. Đại Tá Tung liền bỏ ra và bị bắn chết
ngay tại hành lang của toà nhà chính nơi có phòng họp. Không có chuyện
cố Đại Tá LQT chửi bới, mắng nhiếc, không có chuyện ép cố Đại Tá Tung
gọi điện thoại vì ông đã bị giết ngay khi bước ra khỏi phòng họp. Không
có chuyện đại úy Nhung lôi anh em LQT và LQTr lên sân thượng toà nhà
chính Bộ TTM để bắn chết ngay vì Th/Tá LQTr chỉ tới Bộ TTM vào buổi tối
khi đi kiếm cố Đại Tá LQT. Chi tiết những lời trung thực của Tướng Lê
Văn Nghiêm có thể không đúng 100% nhưng đại ý là như vậy. Cùng lúc tòa
soạn nhận được bài viết sau đây của Lữ Giang, một cây bút
đã có nhiều bài đăng trên TVTS. Bài viết khá dài nhưng để cho độc giả
biết đôi chút về tiểu sử của anh em nhà họ Lê-Quang, TVTS cho đăng
nguyên văn như là một hình thức thông tin. Nhận xét thuộc về bạn đọc.Trở lại vụ án Lê Quang Tung
Trong những tuần qua, trên báo chí cũng như trên các diễn đàn Internet,
đã diễn ra một cuộc tranh luận khá sôi nỗi, đó là: Ai đã giết Đại Tá Lê
Quang Tung và Thiếu Tá Lê Quang Triệu? Qua cuộc tranh luận này, chúng
tôi thấy hầu hết đều căn cứ vào “hearsay” (nghe nói), sự suy đoán, cảm
tính hay thành kiến để tranh luận và kết luận. Những người bị “chạm nọc”
thường ngăn cản cuộc tranh luận bằng cách đặt ra câu hỏi: “Tại sao
trước 30.4.1975, không ai nêu lên vấn đề này, nay nêu lên để làm gì? Tốt
hơn cả là bỏ qua chuyện cũ và lo chống cộng!” Như chúng ta đã biết, sau
cuộc đảo chánh ngày 1.11.1963, người Mỹ đã đưa những tay sai của họ
thực hiện cuộc đảo chánh đó thay nhau lên nắm chính quyền tại miền Nam
cho đến ngày 30.4.1975. Hai nhân vật chủ chốt của cuộc đảo chánh là
Nguyễn Văn Thiệu và Trần Thiện Khiêm đã được Mỹ giao cho làm Tổng Thống
và Thủ Tướng! Ngày 1 tháng 11 được quy định là “Ngày Quốc Khánh”… Với
tình hình như thế, ai dám đưa ra những bí ẩn của cuộc đảo chánh ngày
1.11.1963? Đụng vào “các nhà cách mạng 63” nếu không bị ăn kẹo đồng hay
mãng cầu cũng bị đi mò tôm. Vã lại, lúc đó sử liệu chưa được Mỹ tiết lộ
nhiều, nên rất khó xác định được ai đã ra lệnh giết Đại Tá Lê Quang
Tung. Lúc này tại sao phải viết lại một cách chính xác biến bố lịch sử
1.11.1963? Câu trả lời rất đơn giản: Để làm sáng tỏ lịch sử và rút kinh
nghiệm cho các thế hệ theo sau. Với bài học này, các thế hệ tới sẽ không
ai dám làm tay sai cho Mỹ để làm mất nước và bị Tổng Tống Mỹ chửi là
“bọn ác ôn côn đồ đáng nguyền rủa” nữa. Vụ Lê Quang Tung còn là một bài
học lớn đối với những người hợp tác với Mỹ trong các hoạt động tình báo.
Trong vụ giết Đại Tá Lê Quang Tung, với sự giúp đỡ của nhiều người,
chúng tôi đã tốn khá nhiều công sức và thời gian để tìm hiểu xem nội vụ
đã diễn tiến như thế nào. Thỉnh thoảng chúng tôi tung ra một vài chi
tiết để những người hiểu biết có thể giúp làm sáng tỏ vấn đề. Đến đây
chúng tôi thấy kết quả nghiên cứu đã tạm đủ vì điều quan trọng nhất đã
được xác định, đó là lệnh giết Đại Tá Lê Quang Tung. Những chi tiết khác
chỉ giúp hiểu rõ thêm thực chất và diễn biến của biến cố lịch sử ngày
1.11,1963 mà thôi. – Vài nét nề Đại Tá Lê Quang Tung
Đại tá Lê Quang Tung, Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Biệt đầu tiên của QLVNCH từ ngày binh chủng được thành lập vào tháng 4/1963. Đại tá Tung bị thảm sát ngày 1/11/1963 khi nền Đệ Nhất Cộng Hoà Việt Nam sụp đổ.
Đại Tá Lê Quang Tung sinh tại giáo xứ An Vân (sau chùa Thiên Mụ) thuộc làng An Vân Thượng, xã Hương An, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên. Một vài tài liệu nói Đại Tá Tung sinh năm 1923 hoặc 1926, nhưng theo Sổ Rửa Tội tại giáo xứ An Vân, Huế, ông Lê Quang Tung sinh ngày 13.6.1919, rửa tội ngày 15.6.1919, tên thánh là André. Ông là người con thứ 5 trong một gia đình có 9 con gồm 6 trai 3 gái. Lê Quang Triệu là người con út. Ngày 7.2.1947, Pháp tái chiếm Huế, gia đình ông Tung cũng như đa số dân chúng Huế đã hồi cư, sau đó ông đi làm việc cho cơ quan an ninh tại Huế do Thủ Hiến Trần Văn Lý thành lập và được cử đi làm Trưởng Ty An Ninh ở Quảng Trị (đến tháng 4 năm 1950, các Ty An Ninh ở miền Trung mới được đổi thành Ty Công An). Tháng 6 Năm 1948, ông Phan Văn Giáo lên làm Quốc Vụ Khanh kiêm Tổng Trấn Trung Phần (Sắc lệnh số 3 ngày 2.6.1948). Ít lâu sau, ông Lê Quang Tung được thuyên chuyển về làm việc tại Nha Công An Trung Phần do ông Trần Trọng Sanh làm Giám Đốc. Năm 1952, ông được gọi đi học Khóa 2 Sinh Viên Sĩ Quan Nam Định, nhưng sau đó trường này đóng cửa nên ông được chuyển vào Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức. Vì trường Thủ Đức chưa xây cất xong, nên năm 1953 ông được cho vào Khoá 3 phụ và được đưa đến thụ huấn tại Trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt. Ông tốt nghiệp năm 1954 với cấp bậc Thiếu Úy và được chuyển đến Tiểu Đoàn 53 Bộ Binh đóng tại Duy Xuyên, Quảng Nam. Vốn là một nhân viên an ninh chuyên nghiệp, ông được chỉ định làm sĩ quan tình báo của tiểu đoàn và được thăng lên Trung Úy. Năm 1955 ông được đưa về làm Trưởng Ty An Ninh Quân Đội Huế rồi được thăng lên Đại Úy và làm Chánh Sở 2 An Ninh Quân Đội ở Huế. Cuối năm 1956, theo khuyến cáo của cơ quan tình báo Hoa Kỳ, Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã giải tán Nha Tổng Nghiên Huấn, một cơ quan tình báo phản gián của Bộ Quốc Phòng, và thành lập một tổ chức mới lấy tên là Sở Liên Lạc, đặt trực thuộc Phủ Tổng Thống, ngân sách do Hoa Kỳ đài thọ. Đại tá Rogers là ngươi đầu tiên được cử đến làm cố vấn cho sở này, sau đó Đại Tá Floyld Parker đến thay thế. Đại Úy Lê Quang Tung đang làm Chánh Sở 2 An Ninh Quân Đội ở Huế được gọi vào Dinh Độc Lập. Ông được chính Tổng Thống Ngô Đình Diệm phỏng vấn trong nhiều giờ, rồi phong cho làm Trung Tá giả định và cử làm Giám Đốc Sở Liên Lạc. Đại Úy Trần Khắc Kính làm Phó Giám Đốc. Ngay sau đó Mỹ làm thủ tục và đưa Trung Tá Tung qua Honolulu học một khoá đặc biệt về hoạt động bí mật và xâm nhập. Đại Úy Trần Khắc Kính và Trung Úy Lê Quang Triệu, em của Trung Tá Lê Quang Tung, cũng được đưa qua Saipan – một hòn đảo lớn ở phía Bắc đảo Guam – huấn luyện về tình báo. Khi trở về, Trung Úy Triệu được giao cho tuyển dụng các điệp viên. Năm 1958, Trung Tá Tung trở về và bắt đầu thực hiện kế hoạch xâm nhập ra miền Bắc dưới sự điều khiển của các chuyên viên Mỹ. Đến tháng 4, 1960, Sở Liên Lạc được đổi thành Sở Khai Thác Địa Hình, nhưng tổ chức và hoạt động vẫn như cũ. Ngày 15.3.1963, Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã quyết định biến Sở Khai Thác Địa Hình thành Lực Lượng Đặc Biệt, thăng Trung Tá Tung lên Đại Tá và cử làm Tư Lệnh LLĐB, còn Thiếu Tá Trần Cửu Thiên làm Tham Mưu Trưởng. Một chuyến công tác của LLĐB/QLVNCH Thật ra, Đại Tá Tung chỉ lo về hoạt động tình báo ở miền Bắc, còn việc tổ chức và huấn luyện LLĐB đều giao cho Thiếu Tá Trần Khắc Kính, Phó Tư Lệnh phụ trách. Sau này vì Thiếu Tá Kính không ngăn cản được Đại Tá Tung trong một điệp vụ thả tiếp tế cho một toán ở miền Bắc đã bị bại lộ, nên một chiếc C-47 bị bắn rơi, Thiếu Tá Kính đã xin rời khỏi Bộ Tư Lệnh. Vì sợ chính phủ Ngô Đình Diệm dùng Lực Lượng Đặc Biệt để chống đảo chánh, ngày 19.10.1963, Tướng Harkins thông báo cho Tổng Thống Diệm biết ngân khoản Hoa Kỳ dành cho lực lượng này đã bị cắt. Sở dĩ chúng tôi phải trình bày lý lịch của Đại Tá Tung với nhiều chi tiết như thế để độc giả có thể dựa vào đó tìm ra lý do tại sao Mỹ phải ra lệnh giết Đại Tá Tung. – Lệnh giết Lê Quang Tung Công điện đề ngày 27.8.1963 của Trạm CIA Sài Gòn gởi CIA trung ương, đã nói về bản tường trình của Lucien Conein về cuộc họp của Ủy Ban các Tướng Lãnh (Committee of Generals) như sau: “Ủy ban quyết định rằng Đại Tá Lê Quang Tung được coi là mục tiêu đầu tiên của ủy ban đảo chánh và sẽ bị tiêu diệt cùng với toàn trại của ông ta như là một trong những hành động đầu tiên của cuộc đảo chánh. “Cùng với việc tiêu diệt Đại Tá Tung và Lực Lượng Đặc Biệt của ông ta, Tướng Khiêm yêu cầu và được nói ông ta có thể nhận được một bản kê khai toàn bộ các vũ khí đạn dược hiện đang lưu trữ tại trại Long Thành.” (FRUS, 1961 – 1963, Volume III, tr. 653 – 654, Document 299). Công điện đề ngày 5.10.1963 cũng do Trạm CIA ở Sài Gòn gởi cho cơ quan CIA trung ương cho biết Lucien Conein báo cáo rằng hôm 5.10.1963, ông ta đã họp với Tướng Dương Văn Minh trong 1 tiếng 10 phút tại bản doanh của Tướng Minh ở đường Lê Văn Duyệt. Tướng Minh có giải thích rằng những người nguy hiểm nhất ở miền Nam Việt Nam là Ngô Đình Nhu, Ngô Đình Cẩn và Ngô Trọng Hiếu (có lẽ Lucien Conein lộn với Dương Văn Hiếu). Khi Lucien Conein lưu ý rằng ông ta coi Đại Tá Lê Quang Tung là một trong những người nguy hiểm hơn, Tướng Minh bảo rằng “nếu loại bỏ được Nhu, Cẩn và Hiếu, Đại Tá Tung sẽ quỳ trước tôi.” [When Col. Conein remarked that he had considered Col. Tung as one of the more dangerous individuals. Gen. Minh stated “If I get rid of Nhu, Can and Hieu, Col. Tung will be on his knees before me”] (FRUS 1961 – 1963. Volume IV, tr. 365 – 367. Document 177). Khi Lucien Conein coi Đại Tá Lê Quang Tung là “một trong những người nguy hiểm hơn”, số mạng của Đại Tá Lê Quang Tung đã được người Mỹ quyết định và “bọn ác ôn côn đồ đáng nguyền rủa” chỉ việc thi hành. Tại sao người Mỹ quyết định phải giết Đại Tá Tung? Lúc đó, Đại Tá Tung đang nắm trong tay kế hoạch xâm nhập và mạng lưới tình báo của Mỹ ở miền Bắc. Nếu sau đảo chánh, Đại Tá Tung bị sa thải, những tin tức này có thể bị bại lộ, phương hại đến hoạt động tình báo của Mỹ. Vì thế, Lucien Conein đã lưu ý Lê Quang Tung là “một trong những người nguy hiểm hơn”, (one of the more dangerous individuals) và phải bị giết. Thiếu Tá Lê Quang Triệu là người phụ trách công tác tuyển mộ điệp viên, sau làm Trưởng Phòng 85/Tài Chánh, biết khá nhiều các kế hoạch tình báo của Mỹ, giết đi là tốt hơn. Khi Mỹ quyết định chấm dứt chương trình thả các điệp viên xuống miền Bắc, số điệp viên còn lại ở Long Thành cũng đã bị Mỹ đem thả xuống các làng mạc ở miền Bắc cho Việt Cộng bắt. Đó là thân phận của những người làm điệp viên. Bị Trần Thiện Khiêm gài bẩy Đại Úy Phạm Bá Hoa, Chánh Văn Phòng của Tướng Trần Thiện Khiêm, cho biết lúc 7 giờ sáng ngày 1.11.1963, Tướng Khiêm đã giao cho ông 2 danh sách bảo mời đến họp tại Bộ Tổng Tham Mưu: (1) Danh sách một số người (thuộc phe đảo chánh) được mời đến dùng cơm trưa tại Câu Lạc Bộ Bộ Tổng Tham Mưu lúc 12 giờ trưa. (2) Danh sách những người (cần lưu giữ) được mời họp tại phòng số 1 trong tòa nhà chánh, chậm nhất là 1 giờ trưa. Riêng Tướng Trần Văn Đôn, quyền Tổng Tham Mưu Trưởng, đã đích thân gọi một số cấp chỉ huy trong đô thành và vùng phụ cận mời đến Bộ Tổng Tham Mưu họp để bàn về vấn đề an ninh. Một nhân chứng ngồi ở phòng của Đại Tá Tung hôm đó cho biết từ sáng sớm Tướng Tôn Thất Đính đã gọi cho Đại Tá Tung và nói chuyện rất vui vẻ, có lẽ để thăm dò xem Đại Tá Tung có mặt ở Bộ Tư Lệnh LLĐB hay không, Sau đó, Đại Tá Tung đi họp Thanh Niên Cộng Hoà. Khoảng 11 giờ, khi Đại Tá Tung trở về, còn mặc đồng phục TNCH, thì Đại Úy Phạm Bá Hoa, chánh văn phòng của Tướng Khiêm, gọi đến và nói Tướng Khiêm muốn nói chuyện với ông. Khi Đại Tá Tung cầm điện thoại lên, hai người đã cười nói rất vui vẻ. Đại Tá Tung rất thân và tin tưởng Tướng Khiêm. Trong cuộc đảo chánh ngày 1.11.1960, ông Ngô Đình Nhu đã bảo Đại Tá Tung gọi Tướng Khiêm đem quân về. Vì rất thân với nhau nên khi được Tướng Khiêm mời đi họp, Đại Tá Tung thay đồng phục TNCH, mặc quân phục vào rồi bảo tài xế lái chiếc xe Traction chở ông đi ngay, không có nghi ngờ gì và không có ai hộ tống cả! Bây giờ Tướng Khiêm đang sống ở bắc Cali và nhân chứng cũng đang còn sống, ông có thể xác nhận hay phủ nhận lời chúng tôi tường thuật nói trên. – Diễn biến của vụ án Trong cuốn “Lực Lượng Đặc Biệt giữa những tổ chức chiến tranh không quy ước” xuất bản năm 2008, Trung Tá Phan Bá Kỳ, một nhân chứng của vụ án Lê Quang Tung đã cho biết như sau: Vào khoảng 1 giờ trưa, khi mọi người có mặt đông đủ tại phòng họp, Tướng Dương Văn Minh và Trướng Trần Văn Đôn vào phòng họp và tuyên bố Hội Đồng Tướng Lãnh quyết định lật đổ chính phủ hiện hữu. Yêu cầu mọi người đoàn kết và hợp tác với Hội Đồng Tướng Lãnh. Nếu người nào không hợp tác thì yêu cầu đứng dậy. Những người đứng dậy gồm có: 1.- Đại Tá Lê Quang Tung, Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Biệt. 2.- Trung Tá Nguyễn Ngọc Khôi, Tư Lệnh Liên Binh Phòng Vệ Phủ Tổng Thống. 3.- Thiếu Tá Nguyễn Đức Xích, Tỉnh Trưởng Gia Định. 4.- Ông Lê Văn Văn Tư, Giám Đốc Nha Cảnh Sát Đô Thành. 5.- Đại Tá Cao Văn Viên, Tư Lệnh Lữ Đoàn Dù. Tuy nhiên, khi đứng lên Đại Tá Viên đã tuyên bố ông không chống đối Hội Đồng Tướng Lãnh, nhưng là một quân nhân, ông không tham gia chính trị. Tướng Dương Văn Minh liền ra lệnh cho quân cảnh dẫn 4 người đầu ra khỏi phòng họp và đưa đến một phòng có nhiều ghế và bàn dài nằm ở tầng trệt của ngôi nhà chính mà trên cùng là văn phòng của Tổng Tham Mưu Trưởng. Riêng Đại Tá Cao Văn Viên được đưa đến giam ở phòng bên cạnh Tướng Trần Thiện Khiêm. Ít lâu sau, Trung Tá Nguyễn Ngọc Khôi xin gặp Tướng Dương Văn Minh và cũng được dẫn đến giam với Đại Tá Viên. Đại Tá Huỳnh Hữu Hiền, Tư Lệnh Không Quân, cũng được mời họp, nhưng lúc đó đang ở Đà Lạt. Buổi chiều lúc 3 giờ, khi ông đến trình diện cũng bị giữ lại ở phòng Đại Tá Tung. Riêng Đại Tá Hồ Tấn Quyền, tuy cũng được mời họp, nhưng đã bị Tướng Dương Văn Minh ra lệnh cho Thiếu Tá Trương Ngọc Lực và Đại Úy Nguyễn Kim Hương Giang giết vào khoảng 9 giờ sáng. Sau đây là một số người, tuy không được mời đến họp, nhưng đã đến đó và bị bắt giữ luôn cùng phòng với Đại Tá Tung: 1.- Thiếu Tá Trần Cửu Thiên, nguyên Tham Mưu Trưởng LLĐB, đã được bổ nhiệm đi làm tỉnh trưởng, đến Bộ Tổng Tham Mưu nhận sự vụ lệnh, đã bị giữ lại. 2.- Thiếu Tá Lê Quang Triệu, em của Đại Tá Tung, Phó Tham Mưu Hành Quân và Tiếp Vận, khi nghe Đại Tá Tung bị bắt, đã cùng với Trung Úy Lê Văn Hành, chánh văn phòng của Đại Tá Tung, đi vào Bộ Tổng Tham Mưu để hỏi tin, cũng bị giữ lại. Trong bài “Tướng Trần Thiện Khiêm, Cơn lốc rối loạn Đệ Nhất, Đệ Nhị Cộng Hòa Việt Nam”, Thiếu Tá Trần Ngọc Giang, Trưởng Phòng An Ninh Quân Đội Bộ Tổng Tham Mưu lúc đó, nói rằng khoảng 2 giờ trưa Đại úy Triệu dẫn 1 đại đội LLĐB cùng với 4 chiến xa đến cổng Bộ Tổng Tham mưu để hỏi tin và bị chết thảm. LLĐB là lực lượng cơ động, không có chiến xa. Trong ngày 31.10.1963, các đơn vị thuộc LLĐB đã bị Tướng Đôn lừa, đem thả vào trong rừng hết rồi, Thiếu Tá Triệu lấy quân và xe thiết giáp ở đâu mà dẫn đi? 3.- Trung Tá Phạm Bá Kỳ, Trưởng Phòng 3 của Liên Đoàn 77 LLĐB, được Thiếu Tá Phạm Văn Phú ra lệnh lấy một tiểu đội vào Bộ Tổng Tham Mưu tìm cách gặp Đại Tá Tung để xin chỉ thị, cũng bị đưa vào phòng giam. Trung Úy Kỳ gặp Thiếu Tá Triệu đang ngồi trong phòng và nói lệnh của Thiếu Tá Phú. Thiếu Tá Triệu cười nhẹ và nói: “Toa vào đây là kẹt rồi”. Đại Tá Tung từ xa nhìn lại rồi cúi đầu xuống. (Phan Bá Kỳ, tr. 71 – 74). Giờ định mệnh Trong cuốn “Nam Việt Nam 1954 – 1975, Những sự thật chưa hề nhắc tới”, hai tác giả Hoàng Lạc và Hà Mai Việt có ghi lại như sau: “Cũng tại phòng họp, khi Đại Tá Lê Quang Tung, Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Biệt, chửi lớn trước Hội Đồng “Chúng bây đeo lon, mặc áo, thụ hưởng phú qúy, lạy lục để được Tổng Thống Diệm ban ơn, mà nay lại dở trò bất nhơn bất nghĩa…” liền bị dẫn ra khỏi phòng và bị Đại Úy Lê Minh Đảo, Sĩ quan Tùy viên của Tướng Lê Văn Kim, đưa lên chòi canh trên sân thượng toà nhà chánh Bộ Tham Mưu hạ sát ngay đêm đó (Ngày lễ Mồ). “Em của Đại Tá Tung là Thiếu Tá Lê Quang Triệu, Tham Mưu Trưởng Lực Lượng Đặc Biệt, khi nhận được tin liền chạy tới Bộ Tổng Tham Mưu, để xem hư thực cùng chịu chung số phận…” Cuốn sách này được viết khi các tài liệu mật của Hoa Kỳ chưa được tiết lộ nhiều và các nhân chứng từ Việt Nam chưa qua đủ, lại viết không đúng phương pháp sử học, chỉ dựa trên “hearsay” nên cả phần sự kiện lẫn phần nhận định đều có nhiều sai lầm. Trường hợp của Đại Tá Lê Quang Tung là một thí dụ điển hình. May mắn là hai nhân chứng cùng bị giam chung với Đại Tá Lê Quang Tung ngày 1.11.1963 là Đại Tá Trần Cửu Thiên và Trung Tá Phan Bá Kỳ, đều sống tại Nam Cali. Nhờ sự giới thiệu của Đại Tá Trần Khắc Kính, chúng tôi đã có dịp phỏng vấn Trung Tá Phạm Bá Kỳ ở Irvine. Còn Đại Tá Trần Cửu Thiên hiện sống ở Canoga Park, chỉ nói chuyện với Đại Tá Trần Khắc Kính. Cả hai đều tường thuật vụ Lê Quang Tung hoàn toàn giống nhau. Nhân chứng quả quyết Đại Tá Tung không hề chửi lớn trước Hội Đồng Tướng Lãnh như Hoàng Lạc và Hà Mai Việt đã ghi. Họ cũng không thấy Đại Tá Tung được Dương Văn Minh gọi đến thuyết phục ông Nhu đầu hàng lúc 4 giờ chiều như Tướng Đôn tường thuật lại trong “Việt Nam Nhân Chứng” (tr. 271 – 272). Nhân chứng kể lại rằng khoảng 9 giờ tối, quân cảnh bảo những người bị giam ra trước cửa để nghe thượng cấp nói chuyện. Tướng Minh nói: “Tụi moa quyết định đánh chiếm Dinh Gia Long. Đến giờ phút này, các toa có theo không?” Sau vài giây im lặng, bỗng Đại Tá Tung hỏi: “Tổng Thống ở đâu?” Dương Văn Minh trả lời: “Tổng Thống đang ở trong dinh. Moa sẽ cho kêu gọi ông đầu hàng, nếu ông không đầu hàng, quân đội sẽ tấn công bắt ông.” Mọi người im lặng. Tướng Minh và Tướng Đôn đi về phiá cầu thang. Mọi người vào phòng trở lại. Khoảng 10 giờ tối, quân cảnh đem đến một chiếc xe GMC và một chiếc xe hồng thập tự bịt bùng. Quân cảnh còng tay những người bị giam lại. Trung Úy Đẩu, chánh văn phòng của Tướng Minh, yêu cầu mọi người, trừ Đại Tá Tung và Thiếu Tá Triệu, lên xe GMC. Sau đó, hai quân cảnh đến bắt Đại Tá Tung và Thiếu Tá Triệu nhốt vào trong xe hồng thập tự. Viên sĩ quan ngồi cạnh tài xế của xe hồng thập tự bảo tài xế lái xe đi ra cổng số 4 (cổng sau) của Bộ Tổng Tham Mưu. Còn Trung Úy Đẩu lên xe GMC ngồi với tài xế và bảo chạy vào khám Chí Hoà. (Phan Bá Kỳ, tr. 74 – 75) Những điều Đại Tá Trần Cửu Thiên và Trung Tá Phan Bá Kỳ chứng kiến chỉ đến đó. Phần sau không tìm được nhân chứng, chỉ được nghe kể lại. Một sĩ quan có mặt ở Bộ Tổng Tham Mưu lúc đó cho chúng tôi biết tối hôm đó ông thấy Tướng Minh đã gọi Trung Úy Đẩu, chánh văn phòng, và Đại Úy Nguyễn Văn Nhung, tuỳ viên quân sự của ông, ra lệnh gì đó và sau đó hai người đã ra đi. Đại Tá Trần Khắc Kính khi còn sống là người đã giúp tôi rất nhiều trong việc tìm gặp và nói chuyện với các nhân chứng lịch sử. Chính ông đã đi hỏi thăm và tìm ra hai quân cảnh được lệnh giết Đại Tá Tung và Thiếu Tá Triệu. Nhưng hai quân cảnh này chỉ đồng ý kể lại cho ông trong riêng tư những gì đã xẩy ra với điều kiện ông không được công bố tên tuổi của họ và chuyện họ đã kể. Ông đồng ý và nói với tôi mình phải tôn trọng lời hứa. Thiếu Tá Trần Ngọc Giang, Trưởng Phòng An Ninh Quân Đội Bộ Tổng Tham Mưu lúc đó, có lẽ là người đã ra lệnh cho hai quân cảnh bắt Đại Tá Tung và Thiếu Tá Triệu đưa lên xe hồng thập tự. Ông có thể làm sáng tỏ chuyện này. Vì cuốn sách của Hoàng Lạc và Hà Mai Việt, chúng tôi phải phỏng vấn Tướng Lê Minh Đảo nhiều lần về chuyện giết Lê Quang Tung và Lê Quang Triệu. Tướng Đảo cho biết sau khi lật đổ ông Diệm xong, khi ngồi nói chuyện với anh em, Nguyễn Văn Nhung có kể lại như sau: Khi xe ra khỏi cổng sau của Bộ Tổng Tham Mưu, qua một sân Goft, có một con mương sình lầy ở bên con đường nhỏ đi từ Nghĩa Trang Bắc Việt Tương Tế ra đường Võ Di Nguy ở Phú Nhuận, ông ra lệnh xe ngừng lại. Hai quân cảnh bảo Đại Tá Tung xuống xe và đánh ngang hông bằng báng súng. Đại Tá Tung kêu lên: “Các anh định làm gì tôi?”. Hai quân cảnh liền tiến tới đâm chết. Sau đó, hai quân cảnh kéo Thiếu Tá Triệu xuống. Thiếu Tá Triệu to con nên vùng vẫy rất dữ, nhưng cũng bị đánh bằng báng súng và đâm chết. Xác của hai người đã bị ném xuống mương sình lầy. Khi nói chuyện Tướng Đảo có vẽ trên tờ giấy khu Đại Tá Tung bị giết cho tôi xem. Ông nói ông thường đi qua lại khu này nên biết rất rõ. Ông có thể giúp gia đình Đại Tá Tung đến tìm xác ở khu này. Tôi tin rằng xác Đại Tá Tung và Thiếu Tá Triệu đã bị vùi lấp, nếu không khi xác sình lên sẽ bị phát hiện. Theo gia đình, Đại Tá Tung chỉ mang cái Thánh Giá, không có thẻ bài. Đại Tá Triệu có thể có mang thẻ bài. Bây giờ khu này có thể đã bị vùi lấp và làm nhà lên trên rồi. Trong tương lai chúng ta còn có thể phát hiện thêm nhiều chi tiết của vụ án nữa. Nhưng điều căn bản là ai đã ra lệnh giết Đại Tá Lê Quang Tung, chúng ta đã xác định được. Đây là điều quan trọng nhất. Trong cuốn “Việt Nam Nhân Chứng” (tr. 274), Tướng Đôn còn xác quyết: “Tất cả những sự việc xẩy ra đều có sự tiếp tay của Đại Sứ Hoa Kỳ Cabot Lodge.” Ông còn kể lại, lúc 4 giờ chiều ngày 3.11.1963, khi ông và Tướng Kim đến Toà Đại Sứ Mỹ, Đại Sứ Lodge ra đón từ ngoài đường và nói bằng tiếng Pháp khi hai ông vừa bước xuống xe: “C’est formidable! C’est magnifique!” [Thật phi thường! Thật tuyệt với!] (Việt Nam nhân chứng, tr. 288)
Đại tá Lê Quang Tung (1923 hoặc 1919-1963) là một sĩ quan cao cấp của Việt Nam Cộng hòa. Ông từng giữ chức Tư lệnh Lực lượng Đặc biệt Việt Nam Cộng hòa, kiêm Chỉ huy trưởng Lữ đoàn Liên binh phòng vệ Phủ Tổng thống, từ năm 1960 cho đến khi bị giết chết trong Cuộc đảo chính tại Việt Nam Cộng hòa năm 1963 lật đổ Tổng thống Ngô Đình Diệm. CIA từng xếp ông là người có quyền lực nhất ở Nam Việt Nam sau anh em Diệm và Nhu.[2]
Sinh ra và lớn lên trong một gia đình Công giáo mộ đạo miền Trung, ông sớm hình thành đức tin cuồng tín và chống Cộng mãnh liệt. Vì vậy, sau khi Pháp tái chiếm Huế trong cuộc chiến tranh Đông Dương, ông bắt đầu làm việc cho Sở An ninh Trung Kỳ[7] từ năm 1947 và từng được bổ làm Trưởng Ty An ninh ở Quảng Trị.
Với sự ra đời của Giải pháp Bảo Đại và chuẩn bị tiến tới thành lập Quốc gia Việt Nam, chính quyền Pháp đã tiến hành cải tổ nhẹ cơ sở cai trị Đông Dương. Tuy bộ máy hành chính vẫn giữ nguyên, nhưng tên gọi các cơ quan và các chức vụ hành chính được đổi tên để tránh gợi nhớ lại thời thuộc địa trước đây. Cấp Kỳ được đổi sang cấp Phần. Các chức vụ Chủ tịch Ủy ban Lâm thời Hành chánh và Xã hội Bắc Kỳ, Hội trưởng Hội đồng Chấp chánh Lâm thời Trung Kỳ, Thủ tướng Nam Kỳ, được đổi thành chức vụ Thủ hiến Bắc phần, Trung phần, Nam phần. Các Sở An ninh cũng được đổi thành Nha Công an. Năm 1950, Lê Quang Tung được rút về làm việc tại Nha Công an Trung phần tại Huế.
Năm 1952, ông được cử đi học khóa đào tạo 6 tháng để bổ sung các sĩ quan quân đội người Việt, tuy nhiên vì nhiều lý do, nên mãi đến năm 1954 ông mới tốt nghiệp với cấp bậc Thiếu úy và trở thành đảng viên đảng Cần Lao chính thức. Ông được phân bổ làm sĩ quan tình báo tại Tiểu đoàn 53 Bộ binh đóng tại Duy Xuyên, Quảng Nam.
Năm 1955, ông được thăng Trung úy và được bổ nhiệm làm Trưởng Ty An ninh Quân đội Huế. Vì là một tín đồ Công giáo, đảng viên Cần Lao, lại là một sĩ quan quân đội, ông sớm được sự tín cẩn của Ngô Đình Cẩn. Vì vậy, cùng trong năm này, ông cùng với trung úy Nguyễn Văn Châu được Ngô Đình Nhu giao nhiệm vụ tham gia thành lập Quân ủy Trung ương đảng Cần Lao[8]. Không lâu sau ông được thăng Đại úy, chuyển sang làm Chánh Sở 2 An ninh Quân đội ở Huế.
Tháng 4 năm 1960, Sở Liên lạc được đổi tên thành Sở Khai thác Địa hình, nhưng tổ chức và hoạt động vẫn như cũ. Ngày 1 tháng 1 năm 1961, ông được thăng Đại tá, kiêm luôn Chỉ huy trưởng Lữ đoàn Liên binh phòng vệ Phủ Tổng thống vừa được thành lập. Ngày 15 tháng 3 năm 1963, Tổng thống Diệm chính thức đổi tên Sở Khai thác Địa hình thành Lực lượng Đặc biệt, vẫn giao quyền chỉ huy trưởng cho Lê Quang Tung.[14]
Uy tín của Tổng thống Diệm ngày càng xuống thấp. Đỉnh điểm với Sự kiện Phật Đản, 1963 đã làm dấy lên cuộc khủng hoảng chính trị trầm trọng tại miền Nam Việt Nam. Để nhanh chóng trấn áp phong trào Phật giáo và các nhóm đối lập, Ngô Đình Nhu đã lên kế hoạch tấn công các cơ sở Phật giáo, quan trọng nhất là vụ tấn công chùa Xá Lợi. Trong sự việc này, lực lượng quân đội bị cấm trại và các đơn vị dưới quyền chỉ huy của Lê Quang Tung đã tấn công vào chùa Xá Lợi vào ngày 21 tháng 8 1963 dưới bộ quân phục của Quân đội Việt Nam Cộng hòa[16]
Một kế hoạch khác cũng được giao cho Lê Quang Tung nhưng chưa kịp thực hiện. Theo đó, các binh sĩ thuộc Lực lượng Đặc biệt sẽ cải trang và ám sát đại sứ Henry Cabot Lodge, Jr. và một số quan chức chủ chốt của Tòa Đại sứ Hoa Kỳ. Tòa Đại sứ cũng sẽ bị người của Lực lượng Đặc biệt đốt cháy[17]. Tuy nhiên, có lẽ giờ chót, kế hoạch này đã bị hoãn lại.
Các quan chức Mỹ rất phẫn nộ trước vụ việc, đe dọa sẽ rút lại viện trợ cho Lực lượng Đặc biệt, trừ khi họ được sử dụng trong cuộc chiến chống Cộng. Vụ tấn công tuy tạm thời làm lắng xuống sự chống đối, nhưng đó chỉ là sự ngấm ngầm để bùng phát dữ dội hơn. Vì là một người trung thành với họ Ngô, đồng thời phải là người chịu trách nhiệm trực tiếp trong vụ tấn công chùa Xá Lợi, Lê Quang Tung tự nhiên trở thành người đầu tiên phải diệt trừ nếu có đảo chính xảy ra.
Chính vì vậy, ngày 19 tháng 10 năm 1963, tướng Paul D. Harkins, chỉ huy trưởng Bộ chỉ huy Viện trợ Quân sự Mỹ tại Việt Nam đã thông báo cho Tổng thống Diệm biết ngân khoản Hoa Kỳ dành cho Lực lượng Đặc biệt đã bị cắt[1]. Trước khi đảo chính nổ ra, các tướng lĩnh đảo chính đã khéo léo tạo ra một tin giả, làm Tổng thống Diệm ra lệnh điều Lực lượng Đặc biệt ra vùng Hố Bò, Củ Chi, đồng thời điều Sư đoàn 5 Bộ binh về bảo vệ Sài Gòn. Tổng thống Diệm không thể ngờ đây lại là kế "Rút củi đáy nồi" và "Giấu trời qua biển" trong binh pháp, đưa bớt lực lượng bảo vệ ông ra ngoài và điều lực lượng đảo chính vào nội ô.
Cẩn thận hơn, các tướng lĩnh đảo chính còn dẫn dụ bắt giữ Đại tá Tung và em ông là Thiếu tá Lê Quốc Triệu. Cả hai người đều không thể ngờ lệnh triệu tập này là lệnh tử hình của mình.
Thân xác của Lê Quang Tung và Lê Quang Triệu bị thất lạc cho đến tận ngày nay.
Trong cuốn “Nam Việt Nam 1954 – 1975, Những sự thật chưa hề nhắc tới”, hai tác giả Hoàng Lạc và Hà Mai Việt có ghi lại như sau: "Cũng
tại phòng họp, khi Đại Tá Lê Quang Tung, Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Biệt,
chửi lớn trước Hội Đồng “Chúng bây đeo lon, mặc áo, thụ hưởng phú qúy,
lạy lục để được Tổng Thống Diệm ban ơn, mà nay lại dở trò bất nhơn bất
nghĩa...” liền bị dẫn ra khỏi phòng và bị Đại Úy Lê Minh Đảo, Sĩ quan
Tùy viên của Tướng Lê Văn Kim, đưa lên chòi canh trên sân thượng toà
nhà chánh Bộ Tham Mưu hạ sát ngay đêm đó (Ngày lễ Mồ).
Đại tá Lê Quang Tung
“Em của Đại Tá Tung là Thiếu Tá Lê Quang Triệu, Tham Mưu Trưởng Lực Lượng Đặc Biệt, khi nhận được tin liền chạy tới Bộ Tổng Tham Mưu, để xem hư thực cùng chịu chung số phận...”
Lê Minh Đảo

Đại tá Lê Quang Tung, Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Biệt đầu tiên của QLVNCH từ ngày binh chủng được thành lập vào tháng 4/1963. Đại tá Tung bị thảm sát ngày 1/11/1963 khi nền Đệ Nhất Cộng Hoà Việt Nam sụp đổ.
Đại Tá Lê Quang Tung sinh tại giáo xứ An Vân (sau chùa Thiên Mụ) thuộc làng An Vân Thượng, xã Hương An, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên. Một vài tài liệu nói Đại Tá Tung sinh năm 1923 hoặc 1926, nhưng theo Sổ Rửa Tội tại giáo xứ An Vân, Huế, ông Lê Quang Tung sinh ngày 13.6.1919, rửa tội ngày 15.6.1919, tên thánh là André. Ông là người con thứ 5 trong một gia đình có 9 con gồm 6 trai 3 gái. Lê Quang Triệu là người con út. Ngày 7.2.1947, Pháp tái chiếm Huế, gia đình ông Tung cũng như đa số dân chúng Huế đã hồi cư, sau đó ông đi làm việc cho cơ quan an ninh tại Huế do Thủ Hiến Trần Văn Lý thành lập và được cử đi làm Trưởng Ty An Ninh ở Quảng Trị (đến tháng 4 năm 1950, các Ty An Ninh ở miền Trung mới được đổi thành Ty Công An). Tháng 6 Năm 1948, ông Phan Văn Giáo lên làm Quốc Vụ Khanh kiêm Tổng Trấn Trung Phần (Sắc lệnh số 3 ngày 2.6.1948). Ít lâu sau, ông Lê Quang Tung được thuyên chuyển về làm việc tại Nha Công An Trung Phần do ông Trần Trọng Sanh làm Giám Đốc. Năm 1952, ông được gọi đi học Khóa 2 Sinh Viên Sĩ Quan Nam Định, nhưng sau đó trường này đóng cửa nên ông được chuyển vào Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức. Vì trường Thủ Đức chưa xây cất xong, nên năm 1953 ông được cho vào Khoá 3 phụ và được đưa đến thụ huấn tại Trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt. Ông tốt nghiệp năm 1954 với cấp bậc Thiếu Úy và được chuyển đến Tiểu Đoàn 53 Bộ Binh đóng tại Duy Xuyên, Quảng Nam. Vốn là một nhân viên an ninh chuyên nghiệp, ông được chỉ định làm sĩ quan tình báo của tiểu đoàn và được thăng lên Trung Úy. Năm 1955 ông được đưa về làm Trưởng Ty An Ninh Quân Đội Huế rồi được thăng lên Đại Úy và làm Chánh Sở 2 An Ninh Quân Đội ở Huế. Cuối năm 1956, theo khuyến cáo của cơ quan tình báo Hoa Kỳ, Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã giải tán Nha Tổng Nghiên Huấn, một cơ quan tình báo phản gián của Bộ Quốc Phòng, và thành lập một tổ chức mới lấy tên là Sở Liên Lạc, đặt trực thuộc Phủ Tổng Thống, ngân sách do Hoa Kỳ đài thọ. Đại tá Rogers là ngươi đầu tiên được cử đến làm cố vấn cho sở này, sau đó Đại Tá Floyld Parker đến thay thế. Đại Úy Lê Quang Tung đang làm Chánh Sở 2 An Ninh Quân Đội ở Huế được gọi vào Dinh Độc Lập. Ông được chính Tổng Thống Ngô Đình Diệm phỏng vấn trong nhiều giờ, rồi phong cho làm Trung Tá giả định và cử làm Giám Đốc Sở Liên Lạc. Đại Úy Trần Khắc Kính làm Phó Giám Đốc. Ngay sau đó Mỹ làm thủ tục và đưa Trung Tá Tung qua Honolulu học một khoá đặc biệt về hoạt động bí mật và xâm nhập. Đại Úy Trần Khắc Kính và Trung Úy Lê Quang Triệu, em của Trung Tá Lê Quang Tung, cũng được đưa qua Saipan – một hòn đảo lớn ở phía Bắc đảo Guam – huấn luyện về tình báo. Khi trở về, Trung Úy Triệu được giao cho tuyển dụng các điệp viên. Năm 1958, Trung Tá Tung trở về và bắt đầu thực hiện kế hoạch xâm nhập ra miền Bắc dưới sự điều khiển của các chuyên viên Mỹ. Đến tháng 4, 1960, Sở Liên Lạc được đổi thành Sở Khai Thác Địa Hình, nhưng tổ chức và hoạt động vẫn như cũ. Ngày 15.3.1963, Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã quyết định biến Sở Khai Thác Địa Hình thành Lực Lượng Đặc Biệt, thăng Trung Tá Tung lên Đại Tá và cử làm Tư Lệnh LLĐB, còn Thiếu Tá Trần Cửu Thiên làm Tham Mưu Trưởng. Một chuyến công tác của LLĐB/QLVNCH Thật ra, Đại Tá Tung chỉ lo về hoạt động tình báo ở miền Bắc, còn việc tổ chức và huấn luyện LLĐB đều giao cho Thiếu Tá Trần Khắc Kính, Phó Tư Lệnh phụ trách. Sau này vì Thiếu Tá Kính không ngăn cản được Đại Tá Tung trong một điệp vụ thả tiếp tế cho một toán ở miền Bắc đã bị bại lộ, nên một chiếc C-47 bị bắn rơi, Thiếu Tá Kính đã xin rời khỏi Bộ Tư Lệnh. Vì sợ chính phủ Ngô Đình Diệm dùng Lực Lượng Đặc Biệt để chống đảo chánh, ngày 19.10.1963, Tướng Harkins thông báo cho Tổng Thống Diệm biết ngân khoản Hoa Kỳ dành cho lực lượng này đã bị cắt. Sở dĩ chúng tôi phải trình bày lý lịch của Đại Tá Tung với nhiều chi tiết như thế để độc giả có thể dựa vào đó tìm ra lý do tại sao Mỹ phải ra lệnh giết Đại Tá Tung. – Lệnh giết Lê Quang Tung Công điện đề ngày 27.8.1963 của Trạm CIA Sài Gòn gởi CIA trung ương, đã nói về bản tường trình của Lucien Conein về cuộc họp của Ủy Ban các Tướng Lãnh (Committee of Generals) như sau: “Ủy ban quyết định rằng Đại Tá Lê Quang Tung được coi là mục tiêu đầu tiên của ủy ban đảo chánh và sẽ bị tiêu diệt cùng với toàn trại của ông ta như là một trong những hành động đầu tiên của cuộc đảo chánh. “Cùng với việc tiêu diệt Đại Tá Tung và Lực Lượng Đặc Biệt của ông ta, Tướng Khiêm yêu cầu và được nói ông ta có thể nhận được một bản kê khai toàn bộ các vũ khí đạn dược hiện đang lưu trữ tại trại Long Thành.” (FRUS, 1961 – 1963, Volume III, tr. 653 – 654, Document 299). Công điện đề ngày 5.10.1963 cũng do Trạm CIA ở Sài Gòn gởi cho cơ quan CIA trung ương cho biết Lucien Conein báo cáo rằng hôm 5.10.1963, ông ta đã họp với Tướng Dương Văn Minh trong 1 tiếng 10 phút tại bản doanh của Tướng Minh ở đường Lê Văn Duyệt. Tướng Minh có giải thích rằng những người nguy hiểm nhất ở miền Nam Việt Nam là Ngô Đình Nhu, Ngô Đình Cẩn và Ngô Trọng Hiếu (có lẽ Lucien Conein lộn với Dương Văn Hiếu). Khi Lucien Conein lưu ý rằng ông ta coi Đại Tá Lê Quang Tung là một trong những người nguy hiểm hơn, Tướng Minh bảo rằng “nếu loại bỏ được Nhu, Cẩn và Hiếu, Đại Tá Tung sẽ quỳ trước tôi.” [When Col. Conein remarked that he had considered Col. Tung as one of the more dangerous individuals. Gen. Minh stated “If I get rid of Nhu, Can and Hieu, Col. Tung will be on his knees before me”] (FRUS 1961 – 1963. Volume IV, tr. 365 – 367. Document 177). Khi Lucien Conein coi Đại Tá Lê Quang Tung là “một trong những người nguy hiểm hơn”, số mạng của Đại Tá Lê Quang Tung đã được người Mỹ quyết định và “bọn ác ôn côn đồ đáng nguyền rủa” chỉ việc thi hành. Tại sao người Mỹ quyết định phải giết Đại Tá Tung? Lúc đó, Đại Tá Tung đang nắm trong tay kế hoạch xâm nhập và mạng lưới tình báo của Mỹ ở miền Bắc. Nếu sau đảo chánh, Đại Tá Tung bị sa thải, những tin tức này có thể bị bại lộ, phương hại đến hoạt động tình báo của Mỹ. Vì thế, Lucien Conein đã lưu ý Lê Quang Tung là “một trong những người nguy hiểm hơn”, (one of the more dangerous individuals) và phải bị giết. Thiếu Tá Lê Quang Triệu là người phụ trách công tác tuyển mộ điệp viên, sau làm Trưởng Phòng 85/Tài Chánh, biết khá nhiều các kế hoạch tình báo của Mỹ, giết đi là tốt hơn. Khi Mỹ quyết định chấm dứt chương trình thả các điệp viên xuống miền Bắc, số điệp viên còn lại ở Long Thành cũng đã bị Mỹ đem thả xuống các làng mạc ở miền Bắc cho Việt Cộng bắt. Đó là thân phận của những người làm điệp viên. Bị Trần Thiện Khiêm gài bẩy Đại Úy Phạm Bá Hoa, Chánh Văn Phòng của Tướng Trần Thiện Khiêm, cho biết lúc 7 giờ sáng ngày 1.11.1963, Tướng Khiêm đã giao cho ông 2 danh sách bảo mời đến họp tại Bộ Tổng Tham Mưu: (1) Danh sách một số người (thuộc phe đảo chánh) được mời đến dùng cơm trưa tại Câu Lạc Bộ Bộ Tổng Tham Mưu lúc 12 giờ trưa. (2) Danh sách những người (cần lưu giữ) được mời họp tại phòng số 1 trong tòa nhà chánh, chậm nhất là 1 giờ trưa. Riêng Tướng Trần Văn Đôn, quyền Tổng Tham Mưu Trưởng, đã đích thân gọi một số cấp chỉ huy trong đô thành và vùng phụ cận mời đến Bộ Tổng Tham Mưu họp để bàn về vấn đề an ninh. Một nhân chứng ngồi ở phòng của Đại Tá Tung hôm đó cho biết từ sáng sớm Tướng Tôn Thất Đính đã gọi cho Đại Tá Tung và nói chuyện rất vui vẻ, có lẽ để thăm dò xem Đại Tá Tung có mặt ở Bộ Tư Lệnh LLĐB hay không, Sau đó, Đại Tá Tung đi họp Thanh Niên Cộng Hoà. Khoảng 11 giờ, khi Đại Tá Tung trở về, còn mặc đồng phục TNCH, thì Đại Úy Phạm Bá Hoa, chánh văn phòng của Tướng Khiêm, gọi đến và nói Tướng Khiêm muốn nói chuyện với ông. Khi Đại Tá Tung cầm điện thoại lên, hai người đã cười nói rất vui vẻ. Đại Tá Tung rất thân và tin tưởng Tướng Khiêm. Trong cuộc đảo chánh ngày 1.11.1960, ông Ngô Đình Nhu đã bảo Đại Tá Tung gọi Tướng Khiêm đem quân về. Vì rất thân với nhau nên khi được Tướng Khiêm mời đi họp, Đại Tá Tung thay đồng phục TNCH, mặc quân phục vào rồi bảo tài xế lái chiếc xe Traction chở ông đi ngay, không có nghi ngờ gì và không có ai hộ tống cả! Bây giờ Tướng Khiêm đang sống ở bắc Cali và nhân chứng cũng đang còn sống, ông có thể xác nhận hay phủ nhận lời chúng tôi tường thuật nói trên. – Diễn biến của vụ án Trong cuốn “Lực Lượng Đặc Biệt giữa những tổ chức chiến tranh không quy ước” xuất bản năm 2008, Trung Tá Phan Bá Kỳ, một nhân chứng của vụ án Lê Quang Tung đã cho biết như sau: Vào khoảng 1 giờ trưa, khi mọi người có mặt đông đủ tại phòng họp, Tướng Dương Văn Minh và Trướng Trần Văn Đôn vào phòng họp và tuyên bố Hội Đồng Tướng Lãnh quyết định lật đổ chính phủ hiện hữu. Yêu cầu mọi người đoàn kết và hợp tác với Hội Đồng Tướng Lãnh. Nếu người nào không hợp tác thì yêu cầu đứng dậy. Những người đứng dậy gồm có: 1.- Đại Tá Lê Quang Tung, Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Biệt. 2.- Trung Tá Nguyễn Ngọc Khôi, Tư Lệnh Liên Binh Phòng Vệ Phủ Tổng Thống. 3.- Thiếu Tá Nguyễn Đức Xích, Tỉnh Trưởng Gia Định. 4.- Ông Lê Văn Văn Tư, Giám Đốc Nha Cảnh Sát Đô Thành. 5.- Đại Tá Cao Văn Viên, Tư Lệnh Lữ Đoàn Dù. Tuy nhiên, khi đứng lên Đại Tá Viên đã tuyên bố ông không chống đối Hội Đồng Tướng Lãnh, nhưng là một quân nhân, ông không tham gia chính trị. Tướng Dương Văn Minh liền ra lệnh cho quân cảnh dẫn 4 người đầu ra khỏi phòng họp và đưa đến một phòng có nhiều ghế và bàn dài nằm ở tầng trệt của ngôi nhà chính mà trên cùng là văn phòng của Tổng Tham Mưu Trưởng. Riêng Đại Tá Cao Văn Viên được đưa đến giam ở phòng bên cạnh Tướng Trần Thiện Khiêm. Ít lâu sau, Trung Tá Nguyễn Ngọc Khôi xin gặp Tướng Dương Văn Minh và cũng được dẫn đến giam với Đại Tá Viên. Đại Tá Huỳnh Hữu Hiền, Tư Lệnh Không Quân, cũng được mời họp, nhưng lúc đó đang ở Đà Lạt. Buổi chiều lúc 3 giờ, khi ông đến trình diện cũng bị giữ lại ở phòng Đại Tá Tung. Riêng Đại Tá Hồ Tấn Quyền, tuy cũng được mời họp, nhưng đã bị Tướng Dương Văn Minh ra lệnh cho Thiếu Tá Trương Ngọc Lực và Đại Úy Nguyễn Kim Hương Giang giết vào khoảng 9 giờ sáng. Sau đây là một số người, tuy không được mời đến họp, nhưng đã đến đó và bị bắt giữ luôn cùng phòng với Đại Tá Tung: 1.- Thiếu Tá Trần Cửu Thiên, nguyên Tham Mưu Trưởng LLĐB, đã được bổ nhiệm đi làm tỉnh trưởng, đến Bộ Tổng Tham Mưu nhận sự vụ lệnh, đã bị giữ lại. 2.- Thiếu Tá Lê Quang Triệu, em của Đại Tá Tung, Phó Tham Mưu Hành Quân và Tiếp Vận, khi nghe Đại Tá Tung bị bắt, đã cùng với Trung Úy Lê Văn Hành, chánh văn phòng của Đại Tá Tung, đi vào Bộ Tổng Tham Mưu để hỏi tin, cũng bị giữ lại. Trong bài “Tướng Trần Thiện Khiêm, Cơn lốc rối loạn Đệ Nhất, Đệ Nhị Cộng Hòa Việt Nam”, Thiếu Tá Trần Ngọc Giang, Trưởng Phòng An Ninh Quân Đội Bộ Tổng Tham Mưu lúc đó, nói rằng khoảng 2 giờ trưa Đại úy Triệu dẫn 1 đại đội LLĐB cùng với 4 chiến xa đến cổng Bộ Tổng Tham mưu để hỏi tin và bị chết thảm. LLĐB là lực lượng cơ động, không có chiến xa. Trong ngày 31.10.1963, các đơn vị thuộc LLĐB đã bị Tướng Đôn lừa, đem thả vào trong rừng hết rồi, Thiếu Tá Triệu lấy quân và xe thiết giáp ở đâu mà dẫn đi? 3.- Trung Tá Phạm Bá Kỳ, Trưởng Phòng 3 của Liên Đoàn 77 LLĐB, được Thiếu Tá Phạm Văn Phú ra lệnh lấy một tiểu đội vào Bộ Tổng Tham Mưu tìm cách gặp Đại Tá Tung để xin chỉ thị, cũng bị đưa vào phòng giam. Trung Úy Kỳ gặp Thiếu Tá Triệu đang ngồi trong phòng và nói lệnh của Thiếu Tá Phú. Thiếu Tá Triệu cười nhẹ và nói: “Toa vào đây là kẹt rồi”. Đại Tá Tung từ xa nhìn lại rồi cúi đầu xuống. (Phan Bá Kỳ, tr. 71 – 74). Giờ định mệnh Trong cuốn “Nam Việt Nam 1954 – 1975, Những sự thật chưa hề nhắc tới”, hai tác giả Hoàng Lạc và Hà Mai Việt có ghi lại như sau: “Cũng tại phòng họp, khi Đại Tá Lê Quang Tung, Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Biệt, chửi lớn trước Hội Đồng “Chúng bây đeo lon, mặc áo, thụ hưởng phú qúy, lạy lục để được Tổng Thống Diệm ban ơn, mà nay lại dở trò bất nhơn bất nghĩa…” liền bị dẫn ra khỏi phòng và bị Đại Úy Lê Minh Đảo, Sĩ quan Tùy viên của Tướng Lê Văn Kim, đưa lên chòi canh trên sân thượng toà nhà chánh Bộ Tham Mưu hạ sát ngay đêm đó (Ngày lễ Mồ). “Em của Đại Tá Tung là Thiếu Tá Lê Quang Triệu, Tham Mưu Trưởng Lực Lượng Đặc Biệt, khi nhận được tin liền chạy tới Bộ Tổng Tham Mưu, để xem hư thực cùng chịu chung số phận…” Cuốn sách này được viết khi các tài liệu mật của Hoa Kỳ chưa được tiết lộ nhiều và các nhân chứng từ Việt Nam chưa qua đủ, lại viết không đúng phương pháp sử học, chỉ dựa trên “hearsay” nên cả phần sự kiện lẫn phần nhận định đều có nhiều sai lầm. Trường hợp của Đại Tá Lê Quang Tung là một thí dụ điển hình. May mắn là hai nhân chứng cùng bị giam chung với Đại Tá Lê Quang Tung ngày 1.11.1963 là Đại Tá Trần Cửu Thiên và Trung Tá Phan Bá Kỳ, đều sống tại Nam Cali. Nhờ sự giới thiệu của Đại Tá Trần Khắc Kính, chúng tôi đã có dịp phỏng vấn Trung Tá Phạm Bá Kỳ ở Irvine. Còn Đại Tá Trần Cửu Thiên hiện sống ở Canoga Park, chỉ nói chuyện với Đại Tá Trần Khắc Kính. Cả hai đều tường thuật vụ Lê Quang Tung hoàn toàn giống nhau. Nhân chứng quả quyết Đại Tá Tung không hề chửi lớn trước Hội Đồng Tướng Lãnh như Hoàng Lạc và Hà Mai Việt đã ghi. Họ cũng không thấy Đại Tá Tung được Dương Văn Minh gọi đến thuyết phục ông Nhu đầu hàng lúc 4 giờ chiều như Tướng Đôn tường thuật lại trong “Việt Nam Nhân Chứng” (tr. 271 – 272). Nhân chứng kể lại rằng khoảng 9 giờ tối, quân cảnh bảo những người bị giam ra trước cửa để nghe thượng cấp nói chuyện. Tướng Minh nói: “Tụi moa quyết định đánh chiếm Dinh Gia Long. Đến giờ phút này, các toa có theo không?” Sau vài giây im lặng, bỗng Đại Tá Tung hỏi: “Tổng Thống ở đâu?” Dương Văn Minh trả lời: “Tổng Thống đang ở trong dinh. Moa sẽ cho kêu gọi ông đầu hàng, nếu ông không đầu hàng, quân đội sẽ tấn công bắt ông.” Mọi người im lặng. Tướng Minh và Tướng Đôn đi về phiá cầu thang. Mọi người vào phòng trở lại. Khoảng 10 giờ tối, quân cảnh đem đến một chiếc xe GMC và một chiếc xe hồng thập tự bịt bùng. Quân cảnh còng tay những người bị giam lại. Trung Úy Đẩu, chánh văn phòng của Tướng Minh, yêu cầu mọi người, trừ Đại Tá Tung và Thiếu Tá Triệu, lên xe GMC. Sau đó, hai quân cảnh đến bắt Đại Tá Tung và Thiếu Tá Triệu nhốt vào trong xe hồng thập tự. Viên sĩ quan ngồi cạnh tài xế của xe hồng thập tự bảo tài xế lái xe đi ra cổng số 4 (cổng sau) của Bộ Tổng Tham Mưu. Còn Trung Úy Đẩu lên xe GMC ngồi với tài xế và bảo chạy vào khám Chí Hoà. (Phan Bá Kỳ, tr. 74 – 75) Những điều Đại Tá Trần Cửu Thiên và Trung Tá Phan Bá Kỳ chứng kiến chỉ đến đó. Phần sau không tìm được nhân chứng, chỉ được nghe kể lại. Một sĩ quan có mặt ở Bộ Tổng Tham Mưu lúc đó cho chúng tôi biết tối hôm đó ông thấy Tướng Minh đã gọi Trung Úy Đẩu, chánh văn phòng, và Đại Úy Nguyễn Văn Nhung, tuỳ viên quân sự của ông, ra lệnh gì đó và sau đó hai người đã ra đi. Đại Tá Trần Khắc Kính khi còn sống là người đã giúp tôi rất nhiều trong việc tìm gặp và nói chuyện với các nhân chứng lịch sử. Chính ông đã đi hỏi thăm và tìm ra hai quân cảnh được lệnh giết Đại Tá Tung và Thiếu Tá Triệu. Nhưng hai quân cảnh này chỉ đồng ý kể lại cho ông trong riêng tư những gì đã xẩy ra với điều kiện ông không được công bố tên tuổi của họ và chuyện họ đã kể. Ông đồng ý và nói với tôi mình phải tôn trọng lời hứa. Thiếu Tá Trần Ngọc Giang, Trưởng Phòng An Ninh Quân Đội Bộ Tổng Tham Mưu lúc đó, có lẽ là người đã ra lệnh cho hai quân cảnh bắt Đại Tá Tung và Thiếu Tá Triệu đưa lên xe hồng thập tự. Ông có thể làm sáng tỏ chuyện này. Vì cuốn sách của Hoàng Lạc và Hà Mai Việt, chúng tôi phải phỏng vấn Tướng Lê Minh Đảo nhiều lần về chuyện giết Lê Quang Tung và Lê Quang Triệu. Tướng Đảo cho biết sau khi lật đổ ông Diệm xong, khi ngồi nói chuyện với anh em, Nguyễn Văn Nhung có kể lại như sau: Khi xe ra khỏi cổng sau của Bộ Tổng Tham Mưu, qua một sân Goft, có một con mương sình lầy ở bên con đường nhỏ đi từ Nghĩa Trang Bắc Việt Tương Tế ra đường Võ Di Nguy ở Phú Nhuận, ông ra lệnh xe ngừng lại. Hai quân cảnh bảo Đại Tá Tung xuống xe và đánh ngang hông bằng báng súng. Đại Tá Tung kêu lên: “Các anh định làm gì tôi?”. Hai quân cảnh liền tiến tới đâm chết. Sau đó, hai quân cảnh kéo Thiếu Tá Triệu xuống. Thiếu Tá Triệu to con nên vùng vẫy rất dữ, nhưng cũng bị đánh bằng báng súng và đâm chết. Xác của hai người đã bị ném xuống mương sình lầy. Khi nói chuyện Tướng Đảo có vẽ trên tờ giấy khu Đại Tá Tung bị giết cho tôi xem. Ông nói ông thường đi qua lại khu này nên biết rất rõ. Ông có thể giúp gia đình Đại Tá Tung đến tìm xác ở khu này. Tôi tin rằng xác Đại Tá Tung và Thiếu Tá Triệu đã bị vùi lấp, nếu không khi xác sình lên sẽ bị phát hiện. Theo gia đình, Đại Tá Tung chỉ mang cái Thánh Giá, không có thẻ bài. Đại Tá Triệu có thể có mang thẻ bài. Bây giờ khu này có thể đã bị vùi lấp và làm nhà lên trên rồi. Trong tương lai chúng ta còn có thể phát hiện thêm nhiều chi tiết của vụ án nữa. Nhưng điều căn bản là ai đã ra lệnh giết Đại Tá Lê Quang Tung, chúng ta đã xác định được. Đây là điều quan trọng nhất. Trong cuốn “Việt Nam Nhân Chứng” (tr. 274), Tướng Đôn còn xác quyết: “Tất cả những sự việc xẩy ra đều có sự tiếp tay của Đại Sứ Hoa Kỳ Cabot Lodge.” Ông còn kể lại, lúc 4 giờ chiều ngày 3.11.1963, khi ông và Tướng Kim đến Toà Đại Sứ Mỹ, Đại Sứ Lodge ra đón từ ngoài đường và nói bằng tiếng Pháp khi hai ông vừa bước xuống xe: “C’est formidable! C’est magnifique!” [Thật phi thường! Thật tuyệt với!] (Việt Nam nhân chứng, tr. 288)
Ngày 30.11.2010
Thursday, June 4, 2015
Đại Tá Lê Quang Tung
Mục lục
Thân thế
Hầu hết các tài liệu đều ghi ông sinh năm 1923 hoặc 1926. Tuy nhiên, nhà nghiên cứu Lữ Giang xác nhận theo sổ Rửa tội tại giáo xứ An Vân, Huế thì ông sinh ngày 13 tháng 6 năm 1919, rửa tội ngày 15 tháng 6 năm 1919, với tên thánh là André. Ông là người con thứ 5 trong một gia đình có 9 con gồm 6 trai 3 gái. Em út ông là Lê Quang Triệu, về sau trở thành Thiếu tá, Tham mưu phó Lực lượng Đặc biệt[3], và bị giết cùng ngày với ông.[1]Khởi đầu trong ngành an ninh
Khi Pháp tái chiếm Việt Nam, để tránh các bất lợi về chính trị, họ đã thành lập những cơ quan hành chính địa phương, đứng đầu bởi các nhân sĩ người Việt trung thành với việc tái lập thuộc địa nước Pháp. Ngày 1 tháng 6 năm 1946, họ thành lập Chính phủ Nam Kỳ quốc tại Nam Bộ, do bác sĩ Nguyễn Văn Thinh làm Thủ tướng; ngày 15 tháng 4 năm 1947, thành lập Hội đồng Chấp chánh Lâm thời Trung Kỳ, do cựu Tổng đốc Trần Văn Lý[4] là Hội trưởng; ngày 19 tháng 5 năm 1947, lập Ủy ban Lâm thời Hành chánh và Xã hội Bắc Kỳ[5], do Y sĩ Trương Ðình Tri[6] làm Chủ tịch.Sinh ra và lớn lên trong một gia đình Công giáo mộ đạo miền Trung, ông sớm hình thành đức tin cuồng tín và chống Cộng mãnh liệt. Vì vậy, sau khi Pháp tái chiếm Huế trong cuộc chiến tranh Đông Dương, ông bắt đầu làm việc cho Sở An ninh Trung Kỳ[7] từ năm 1947 và từng được bổ làm Trưởng Ty An ninh ở Quảng Trị.
Với sự ra đời của Giải pháp Bảo Đại và chuẩn bị tiến tới thành lập Quốc gia Việt Nam, chính quyền Pháp đã tiến hành cải tổ nhẹ cơ sở cai trị Đông Dương. Tuy bộ máy hành chính vẫn giữ nguyên, nhưng tên gọi các cơ quan và các chức vụ hành chính được đổi tên để tránh gợi nhớ lại thời thuộc địa trước đây. Cấp Kỳ được đổi sang cấp Phần. Các chức vụ Chủ tịch Ủy ban Lâm thời Hành chánh và Xã hội Bắc Kỳ, Hội trưởng Hội đồng Chấp chánh Lâm thời Trung Kỳ, Thủ tướng Nam Kỳ, được đổi thành chức vụ Thủ hiến Bắc phần, Trung phần, Nam phần. Các Sở An ninh cũng được đổi thành Nha Công an. Năm 1950, Lê Quang Tung được rút về làm việc tại Nha Công an Trung phần tại Huế.
Trở thành nhân vật Cần Lao quan trọng
Theo nhiều tài liệu, ông bắt đầu gia nhập đảng Cần Lao vào khoảng năm 1950. Có lẽ trong thời gian tùng sự tại Huế, ông tham gia phong trào thanh niên Công giáo tại miền Trung, chịu ảnh hưởng chủ thuyết Cần lao Nhân vị do Ngô Đình Cẩn lãnh đạo. Ông được cho là hoạt động tích cực trong việc tạo quỹ cho phong trào bằng cách tống tiền các thương gia giàu có tại Huế.Năm 1952, ông được cử đi học khóa đào tạo 6 tháng để bổ sung các sĩ quan quân đội người Việt, tuy nhiên vì nhiều lý do, nên mãi đến năm 1954 ông mới tốt nghiệp với cấp bậc Thiếu úy và trở thành đảng viên đảng Cần Lao chính thức. Ông được phân bổ làm sĩ quan tình báo tại Tiểu đoàn 53 Bộ binh đóng tại Duy Xuyên, Quảng Nam.
Năm 1955, ông được thăng Trung úy và được bổ nhiệm làm Trưởng Ty An ninh Quân đội Huế. Vì là một tín đồ Công giáo, đảng viên Cần Lao, lại là một sĩ quan quân đội, ông sớm được sự tín cẩn của Ngô Đình Cẩn. Vì vậy, cùng trong năm này, ông cùng với trung úy Nguyễn Văn Châu được Ngô Đình Nhu giao nhiệm vụ tham gia thành lập Quân ủy Trung ương đảng Cần Lao[8]. Không lâu sau ông được thăng Đại úy, chuyển sang làm Chánh Sở 2 An ninh Quân đội ở Huế.
Người thân tín của Tổng thống Diệm
Cuối năm 1956, Ngô Đình Diệm chính thức trở thành Tổng thống Việt Nam Cộng hòa, Lê Quang Tung được rút về Sài Gòn giữ chức Giám đốc Nha Tổng Nghiên Huấn Bộ Quốc phòng, cấp bậc Thiếu tá. Tuy nhiên, không lâu sau thì Nha Tổng Nghiên Huấn bị giải thể, ông được điều làm Giám đốc Sở Liên lạc Phủ Tổng thống, được mang quân hàm Trung tá giả định. Trên thực tế, đây là một đơn vị nghiên cứu phương án huấn luyện và tung biệt kích ra phá hoại miền Bắc. Chính vì vậy, ông được cử sang Honolulu, Hoa Kỳ, tham gia một khóa huấn luyện đặc biệt của CIA về hoạt động bí mật và xâm nhập.[9]. Khi về nước, năm 1958, ông chỉ huy một trung tâm huấn luyện biệt kích với quân số 1.840 người[10] đặt dưới sự chỉ huy trực của Cố vấn Tổng thống Ngô Đình Nhu, mà không phải thông qua quyền lãnh đạo của các chỉ huy quân đội[11]. Tuy nhiên, các hoạt động tung biệt kích này rất kém hiệu quả. Các toán xâm nhập đều bị tóm cổ khi đặt chân lên đất miền Bắc không bao lâu. Chính vì điều này, ông đã bị chỉ trích mãnh liệt do yếu kém trong điều hành chỉ huy[12][13]. Trên thực tế, ngoài yếu tố bị tình báo miền Bắc phát hiện, ông chỉ là người thực hiện dưới sự chỉ đạo trực tiếp của cố vấn Nhu và các cố vấn Mỹ.Tháng 4 năm 1960, Sở Liên lạc được đổi tên thành Sở Khai thác Địa hình, nhưng tổ chức và hoạt động vẫn như cũ. Ngày 1 tháng 1 năm 1961, ông được thăng Đại tá, kiêm luôn Chỉ huy trưởng Lữ đoàn Liên binh phòng vệ Phủ Tổng thống vừa được thành lập. Ngày 15 tháng 3 năm 1963, Tổng thống Diệm chính thức đổi tên Sở Khai thác Địa hình thành Lực lượng Đặc biệt, vẫn giao quyền chỉ huy trưởng cho Lê Quang Tung.[14]
Cái chết bi thảm
Dáng vẻ thấp đậm và đeo kính, một tín đồ ngoan đạo, từng là một gia nhân cũ của gia đình họ Ngô Đình, trong chế độ Đệ nhất Cộng hòa, Lê Quang Tung đã được xem như là một trong số sĩ quan quân đội nhiều quyền lực nhất. Hết mực trung thành với họ Ngô, vì vậy ông bị các tướng như Nguyễn Khánh và Tôn Thất Đính ghét[15]. Trong hồi ký của mình, tướng Đỗ Mậu cũng nhận xét ông rất nổi tiếng trong quân đội về tinh thần địa phương quá khích, về thái độ mộ đạo cuồng tín và về quyết tâm phục tùng vô điều kiện mệnh lệnh đối với tổng thống Ngô Đình Diệm[8]. Chính vì vậy, sau khi CIA từ bỏ những điệp vụ tốn kém và không hiệu quả, Cố vấn Ngô Đình Nhu vẫn tiếp tục phát triển Lực lượng Đặc biệt trở thành một đơn vị tinh nhuệ cơ động nhằm để đàn áp các đối thủ đối lập. Với mục đích đó, Lê Quang Tung đã trở thành một nhân vật quan trọng, được giao chỉ huy các nhiệm vụ an ninh và phản gián, công khai lẫn bí mật bảo vệ quyền lực của gia đình Ngô Đình.Uy tín của Tổng thống Diệm ngày càng xuống thấp. Đỉnh điểm với Sự kiện Phật Đản, 1963 đã làm dấy lên cuộc khủng hoảng chính trị trầm trọng tại miền Nam Việt Nam. Để nhanh chóng trấn áp phong trào Phật giáo và các nhóm đối lập, Ngô Đình Nhu đã lên kế hoạch tấn công các cơ sở Phật giáo, quan trọng nhất là vụ tấn công chùa Xá Lợi. Trong sự việc này, lực lượng quân đội bị cấm trại và các đơn vị dưới quyền chỉ huy của Lê Quang Tung đã tấn công vào chùa Xá Lợi vào ngày 21 tháng 8 1963 dưới bộ quân phục của Quân đội Việt Nam Cộng hòa[16]
Một kế hoạch khác cũng được giao cho Lê Quang Tung nhưng chưa kịp thực hiện. Theo đó, các binh sĩ thuộc Lực lượng Đặc biệt sẽ cải trang và ám sát đại sứ Henry Cabot Lodge, Jr. và một số quan chức chủ chốt của Tòa Đại sứ Hoa Kỳ. Tòa Đại sứ cũng sẽ bị người của Lực lượng Đặc biệt đốt cháy[17]. Tuy nhiên, có lẽ giờ chót, kế hoạch này đã bị hoãn lại.
Các quan chức Mỹ rất phẫn nộ trước vụ việc, đe dọa sẽ rút lại viện trợ cho Lực lượng Đặc biệt, trừ khi họ được sử dụng trong cuộc chiến chống Cộng. Vụ tấn công tuy tạm thời làm lắng xuống sự chống đối, nhưng đó chỉ là sự ngấm ngầm để bùng phát dữ dội hơn. Vì là một người trung thành với họ Ngô, đồng thời phải là người chịu trách nhiệm trực tiếp trong vụ tấn công chùa Xá Lợi, Lê Quang Tung tự nhiên trở thành người đầu tiên phải diệt trừ nếu có đảo chính xảy ra.
Chính vì vậy, ngày 19 tháng 10 năm 1963, tướng Paul D. Harkins, chỉ huy trưởng Bộ chỉ huy Viện trợ Quân sự Mỹ tại Việt Nam đã thông báo cho Tổng thống Diệm biết ngân khoản Hoa Kỳ dành cho Lực lượng Đặc biệt đã bị cắt[1]. Trước khi đảo chính nổ ra, các tướng lĩnh đảo chính đã khéo léo tạo ra một tin giả, làm Tổng thống Diệm ra lệnh điều Lực lượng Đặc biệt ra vùng Hố Bò, Củ Chi, đồng thời điều Sư đoàn 5 Bộ binh về bảo vệ Sài Gòn. Tổng thống Diệm không thể ngờ đây lại là kế "Rút củi đáy nồi" và "Giấu trời qua biển" trong binh pháp, đưa bớt lực lượng bảo vệ ông ra ngoài và điều lực lượng đảo chính vào nội ô.
Cẩn thận hơn, các tướng lĩnh đảo chính còn dẫn dụ bắt giữ Đại tá Tung và em ông là Thiếu tá Lê Quốc Triệu. Cả hai người đều không thể ngờ lệnh triệu tập này là lệnh tử hình của mình.
Thân xác của Lê Quang Tung và Lê Quang Triệu bị thất lạc cho đến tận ngày nay.
Chú thích
- ^ a ă â b Lữ Giang, "Trở lại vụ án Lê Quang Tung", 30/11/2010.
- ^ Prochnau, tr.368
- ^ Nhiều tài liệu ghi là Tham mưu trưởng.
- ^ Ông Trần Văn Lý (1901-?) là một nhân sĩ quê gốc Quảng Trị. Tốt nghiệp Cao đẳng Hành chánh Hà Nội, làm Tham tá tại Quy Nhơn trong ngạch quan lại Pháp. Sau đó, trở lại ngạch quan lại Nam triều với chức Thương tá Trung Phước (Bình Định), rồi Tri huyện Thọ Xuân (Thanh Hóa). Giữ chức Quản đạo Đà Lạt từ năm 1926 đến 1935. Sau được điều ra Huế làm Ngự Tiền văn phòng cho Hoàng đế Bảo Đại. Trước năm 1945, ông là Tổng đốc Ninh Thuận-Bình Thuận-Lâm Viên và Đồng Nai Thượng.
- ^ còn gọi là Hội đồng An dân Bắc Kỳ
- ^ Đảng viên Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội, Cựu Bộ trưởng Y tế trong Chính phủ Liên hiệp Lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
- ^ Về danh nghĩa, Sở An ninh Trung Kỳ trực thuộc Hội đồng Chấp chánh Lâm thời Trung Kỳ, do người Việt lãnh đạo. Trên tế, Sở An ninh Trung Kỳ chịu quyền điều hành trực tiếp của Sở An ninh Liên bang (Sûreté Fédérale, còn gọi là Sở Mật thám Liên bang hay Sở Liêm phóng Liên bang.) thuộc Phủ Cao ủy Đông Dương do người Pháp nắm quyền.
- ^ a ă Đỗ Mậu, "Việt Nam máu lửa quê hương tôi", chương 5.
- ^ Karnow, tr. 307
- ^ Langguth, tr. 248
- ^ Jones, tr. 390
- ^ Karnow, tr. 378
- ^ Tucker, tr.227
- ^ Shaplen, tr. 190
- ^ Jones, tr. 301
- ^ Hammer, tr. 166-167.
- ^ Jones, tr. 393.
Tham khảo
- Hammer, Ellen J. (1987). A Death in November: America in Vietnam, 1963. New York City, New York: E. P. Dutton. ISBN 0-525-24210-4.
- Prochnau, William (1995). Once upon a distant war. Times Books.
- Karnow, Stanley (1997). Vietnam: A history. New York City, New York: Penguin Books. ISBN 0-670-84218-4.
- Langguth, A. J. (2000). Our Vietnam: the war, 1954–1975. New York City, New York: Simon & Schuster. ISBN 0-684-81202-9.
- Jones, Howard (2003). Death of a Generation: how the assassinations of Diem and JFK prolonged the Vietnam War. New York City, New York: Oxford University Press. ISBN 0-19-505286-2.
- Tucker, Spencer C. (2000). Encyclopedia of the Vietnam War: A Political, Social and Military History. Santa Barbara, California: ABC-CLIO. ISBN 1-57607-040-9.
- Shaplen, Robert (1965). The lost revolution: Vietnam 1945-1965. Andre Deutsch.
- Đỗ Mậu, "Việt Nam máu lửa quê hương tôi".
Vụ giết Đại Tá Tung và Thiếu Tá Triệu

“Em của Đại Tá Tung là Thiếu Tá Lê Quang Triệu, Tham Mưu Trưởng Lực Lượng Đặc Biệt, khi nhận được tin liền chạy tới Bộ Tổng Tham Mưu, để xem hư thực cùng chịu chung số phận...”
Sự thật như thế nào?
Tướng Lê Minh Đảo phủ nhận lời tường thuật nói trên có liên hệ đến ông.
Các
cuộc phỏng vấn các nhân chứng cho biết người giết Đại Tá Lê Quang Tung
và Thiếu Tá Lê Quang Triệu là Đại Úy Nguyễn Văn Nhung và lính của Đại
Úy Nhung. Các nhân chứng có mặt tại Bộ Tổng Tham Mưu hôm 2.11.1963 cho
biết họ thấy Dương Văn Minh kêu Nguyễn Văn Nhung dẫn Lê Quang Trung,
sau đó Lê Quang Triệu đi,
Sau
khi giết Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông Ngô Đình Nhu xong, Nguyễn Văn
Nhung có kể lại chuyện giết Đại Tá Lê Quang Tung và Thiếu Tá Lê Quang
Triệu với một số người quen. Câu chuyện đó được tường thuật lại như
sau:
Khi
Đại Tá Lê Quang Tung chống lại cuộc đảo chánh, Dương Văn Minh đã ra
lệnh cho Đại Úy Nguyễn Văn Nhung, người cận vệ của ông ta đưa đi giết.
Nguyễn Văn Nhung và hai binh sĩ phụ tá đã dẫn Đại Tá Lê Quang Tung ra
Nghĩa Trang Bắc Việt Tương Tế ở sau Bộ Tổng Tham Mưu, đâm chết rồi vùi
xác ngay trên đường bên hông nghĩa trang.
Thiếu
Tá Lê Quang Triệu nghe tin anh mình bị bắt, chạy vào Bộ Tổng Tham Mưu
hỏi thăm tin tức, cũng bị Tướng Dương Văn Minh ra lệnh cho Nguyễn Văn
Nhung đưa đi thanh toán luôn. Nguyễn Văn Nhung và hai binh sĩ phụ tá
cũng đưa Thiếu Tá Triệu vào Nghĩa Trang Bắc Việt Tương Tế và đâm chết
tại đó rồi chôn gần chỗ chôn Lê Quang Tung. Nguyễn Văn Nhung cho biết
Lê Quang Triệu rất khẻo, vùng vẩy rất dữ nên phải khó khăn lắm mới đâm
chết được.
Bây
giờ Nghĩa Trang Bắc Việt Tương Tế đã bị giải tỏa, nhưng nếu có bản đồ
Nghĩa Trang Bắc Việt Tương Tế, vẫn có thể định được nơi chôn Đại Tá Lê
Quang Tung và Thiếu Tá Lê Quang Triệu.
Các
nhân chứng cho biết, Nguyễn Văn Nhung nói cả hai người đều bị giết
trên đường từ Nghĩa Trang Bắc Việt đi ra đường Võ Di Nguy, Phú Nhuận,
cách xa gốc từ đường trong Tổng Tham Mưu đi ra và quẹo phải một khúc
ngắn. Hai binh sĩ đã đào lổ và chôn Đại Tá Tung rồi Thiếu Tá Triệu tại
đó. Bây giờ nếu nhà cầm quyền cho phép, vẫn có thể đào tìm được, vì hai
người khi chết đều có đeo thể bài.
Thủ tiêu nhân chứng
Trong cuốn “Les Guerres du Vietnam”
(Chiến tranh Việt Nam) xuất bản năm 1965, Tướng Trần Văn Đôn không hề
mô tả gì đến cách giết ông Diệm và ông Nhu, mà chỉ mô tả về tên sát thủ
Nguyễn Văn Nhung mà thôi. Tướng Đôn cho biết sở dĩ Nhung được Tướng
Dương Văn Minh chú ý vì mỗi ngày hắn chặt vài ba cái đầu Việt Minh mang
về. Tướng Minh sợ bị ám sát nên đã chọn một tên hung dữ như vậy làm cận
vệ. Sau khi Tướng Ba Cutï bị xử tử và chôn tại nghĩa trang Cần Thơ,
Dương Văn Minh đã ra lệnh cho Nhung đào mã lên, lấy xác chặt làm nhiều
khúc và phân tán ra vì sợ người của Ba Cụt lấy xác ông ta đem về chôn ở
chiến khu. Có người cho biết Nhung thích ăn gan nạn nhân vừa bị bắn
chết.
Trong cuốn “Việt Nam nhân chứng” Tướng Trần Văn Đôn viết thêm về Nguyễn Văn Nhung:
“Tối
ngày 2 tháng 11, Thanh, con trai nhỏ của tôi đang ở nhà ông Kim, có
mặt ông Minh thì thấy Đại Úy Nhung đưa con dao găm ra khoe với mấy đứa
nhỏ trong nhà:
- Đây là con dao găm lịch sử!
Tướng Đôn cho biết Tướng Minh đã nói với ông:
“Xưa
kia Đại Uùy Nhung ở trong đơn vị Commando Pháp, là đơn vị chuyên đi
khủng bố giết người. Lúc Ba Cụt, tướng Hoà Hảo là Lê Quang Vinh bị án
tử hình xử chém ở Cần Thơ, Đại Uùy Nhung lấy xác Ba Cụt chặt từ khúc,
thả cùng mọi nơi để không toàn thây cho khỏi ai tìm xác xây mộ thờ
cúng.”
Tướng Đôn nói thêm:
“Người
ta cho rằng thủ phạm giết anh em Diệm Nhu chính là sĩ quan cận vệ của
của Tướng Dương Văn Minh tên là Nguyễn Văn Nhung. Tướng Khánh sau này
đã nói rằng Nguyễn Văn Nhung là kẻ giết người chuyên nghiệp, đã giết
khoảng 40 người. Mỗi lần giết xong một người là Nhung lại khắc một dấu
hiệu vào báng súng lục...”
Đại
Tá Dương Hiếu Nghĩa cho biết: Ba tháng sau, ngày 30.1.64, xảy ra biến
cố chỉnh lý do Tướng Nguyễn Khánh cầm đầu, Thiếu Tá Nhung bị lực lượng
của Tướng Khánh bắt và giao qua cho Lữ Đoàn Nhảy Dù ngay sáng hôm đó.
Và ngày hôm sau, thi hài Thiếu Tá Nhung được giao trả về cho gia đình
với vỏn vẹn một câu khám nghiệm “chết vì treo cổ tự tử” của một bác sĩ quân y Lữ Đoàn Dù.
Năm 1968, khi còn ở Washington DC, có lần Tướng Nguyễn Chánh Thi đã buột miệng nói với tôi: “Chính tôi ra lệnh giết thằng Nhung”.
Nếu Tướng Lê Minh Đảo có dính líu đến vụ này, chắc cũng đã bị giết rồi.
........................................................
Trả Lời Cựu Tướng Lê Minh Đảo
Lệ Tuyền
Tôi, Lệ Tuyền, người đã viết bài: Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm: Người Anh Hùng Vị Quốc Vong Thân.
Qua bài này, tôi đã viết về cái chết
của Cố Đại Tá Lê Quang Tung và Cố Thiếu Tá Lê Quang Triệu, là do ông Lê
Minh Đảo giết chết. Nhưng tôi không nêu rõ phương danh của nhị vị đã
tường thuật lại những điều này: Đó là Thiếu tướng Hoàng Lạc, Chỉ Huy
Trưởng Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung Tư Lệnh Phó Quân Đoàn 1, Quân
Khu 1; và Đại tá Hà Mai Việt, Tỉnh Trưởng Tỉnh Quảng Trị - Tham Mưu
Trưởng Sư Đoàn 25 Bộ Binh, đã viết trong cuốn sách: Nam Việt Nam 1954
1975 Những Sự Thật Chưa Hề Nhắc Tới, nơi trang 266 - 267. Cuốn sách này
đã được xuất bản từ tháng 4 năm 1990.
Và, cuối cùng ông Lê Minh Đảo đã mở mồm, há miệng.
Ở đây, tôi muốn nói thẳng với ông Lê
Minh Đảo rằng: Ông muốn chụp cái mũ « cộng sản và tay sai » cho Thiếu
tướng Hoàng Lạc - Đại tá Hà Mai Việt, cho tôi hay cho quý vị khác, đều
không sao cả. Tuần tự rồi mọi chuyện đều sẽ được phơi bày ra dưới ánh
sáng của mặt trời, ông Lê Minh Đảo cứ yên tâm.
Riêng tôi, tôi không hề sợ, vì tôi đã
từng bị nhiều kẻ, mà đứng đầu là Võ Văn Ái, y đã từng liên thủ với
Thích Nhất Hạnh với chức « Tổng thư ký Ban chấp hành Trung ương hội
Phật tử -Việt kiều Hải ngoại », bằng cách viết lời « Tựa » cho cuốn ngụy
thư « Hoa Sen Trong Biển Lửa » vào ngày 26 tháng 01 năm 1967, như thế
nào, thì mọi người đã biết. Võ Văn Ái cũng từng đứng chung với lũ phản
chiến ở ngoại quốc để chống chính phủ Việt Nam Cộng Hòa, đòi Mỹ rút
quân. Và, chính y cũng đã dùng cả hai cơ quan lớn đến hàng Quốc Tế:
« Thông Cáo báo chí Văn phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế - Cơ quan
Phát ngôn Viện Hóa Đạo, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất Ấn
Quang»; để đánh tôi, và để vu chụp cho tôi cái mũ cộng sản từ lâu lắm
rồi. Bởi chỉ những kẻ đã từng dây dính với bọn việt-gian-cộng-sản; hoặc
những kẻ khi vào trong các nhà tù « cải tạo » của bọn
việt-gian-cộng-sản đã bị bọn chúng cấy « sinh tử phù » nên khi ra hải
ngoại đã phải làm tay sai cho chúng, thì mới sợ. Còn bản thân tôi, cũng
như gia đình tôi không hề có một tì vết nào dính dáng với cộng sản
hết. Vì thế, tôi không hề nao núng trước những lời vu chụp của ông.
Chẳng những vậy, mà tất cả những người
đồng hương của tôi, hiện đang sống tại hải ngoại đều đã biết bọn
việt-gian-cộng-sản đã giết chết Cha ruột và Bác ruột của tôi vào năm
1964. Ngoài ra, tôi chỉ có hai đứa em trai, đều là nạn nhân của bọn
việt-gian-cộng-sản. Một đứa đã chết vào mùa hè 1972, đứa còn lại cũng đã
chết vào ngày mất nước: 30-4-1975.
Vậy, cũng như ông, tôi chỉ trả lời cho ông Lê Minh Đảo một lần đầu và cũng là lần cuối.
Chào ông Lê Minh Đảo
Lệ Tuyền
-----------------------------------------------------------
Thư Ngỏ của tướng Lê Minh Đảo
Kính thưa quí Chiến Hữu, Thân Hữu và Đồng Hương,
Trong mấy tuần vừa qua, tôi nhận được
nhiều điện thư và điện thoại từ khắp nơi bày tỏ sự lo lắng, thắc mắc và
bất bình trước vài bài viết gửi ra trên các Diễn Đàn Internet vu khống
tôi giết chết cố Đại Tá Lê Quang Tung và Thiếu Tá Lê Quang Triệu. Trước
nỗi quan tâm và sự ưu ái của quí vị, tôi thấy cần minh xác để quí vị
an tâm.
Kính thưa quí vị,
Với danh dự của một cựu chiến sĩ VNCH,
tôi, Lê Minh Đảo, long trọng xác định rằng trong suốt cuộc đời binh
nghiệp, tôi không bao giờ có một hành động nào vi phạm đến tài sản hoặc
sinh mệnh của các chiến hữu của tôi trong QLVNCH. Đặc biệt là tôi không
có một liên hệ gì đến cái chết của cố Đại Tá Lê Quang Tung và Thiếu
Tá Lê Quang Triệu.
Từ năm 1963 đến 1975, trong tất cả các
cuộc điều tra của chính phủ Việt Nam Cộng Hòa về cái chết của hai sĩ
quan kể trên, không có ai đề cập đến tên tôi bỡi vì đã có những bằng
chứng rõ ràng là tôi không thể có bất cứ một liên hệ nào đến vụ sát nhân
nầy.
Trong thời gian gần đây, cộng sản Việt
Nam đang nổ lực thực hiện chiến dịch vu cáo và bôi nhọ các viên chức
cao cấp trong Chính Phủ và Quân Lực VNCH nhằm chính nghĩa hoá hành động
của cộng sản Bắc Viêt đánh chiếm Miền Nam và toàn trị đất nước Việt
Nam. Xin quý vị lưu ý và đề cao cảnh giác trước kế hoạch thâm độc nầy
của cộng sản.
Đây là lời minh xác chân thành và duy
nhất của tôi. Tôi sẽ không quan tâm đến những vu cáo tiếp tục sau nầy
(nếu có) của cộng sản và tay sai.
Trân trọng kính chào đoàn kết.
Ai sát hại HQ Đại tá Hồ Tấn Quyền tư lệnh HQ/VNCH năm 1963...?
Bà quả phụ Tư Lệnh Hải Quân Việt Nam thời Đệ Nhất Cộng Hoà, Đại Tá Hồ
Tấn Quyền sau hơn 45 năm im tiếng, lần đầu tiên trả lời radiovncr.com về
vụ hãm hại Đại Tá Hồ Tấn Quyền trong cuộc binh biến ngày 1/11/1963,
đúng vào ngày sinh của ông.
Cuộc binh biến 1/11/1963 dẫn đến cái chết của Tổng Thống Ngô Đình
Diệm và chấm dứt nền Đệ Nhứt Cộng Hòa.
Một số tướng lãnh, sĩ quan trung thành với chế độ đã bị thanh trừng
và thủ tiêu trong đó có Tư Lệnh Hải Quân VNCH, HQ/Đại tá Hồ Tấn Quyền.
Ông đã bị một sĩ quan dưới quyền hạ sát trong những giờ phút đầu tiên.
CÁI CHẾT CỦA HQ ĐẠI TÁ HỒ TẤN QUYỀN
7 bài đăng của 5 tác giả
| Ho Tac |
25/10/2010
|
TRONG CUỘC BINH BIẾN 1 THÁNG 11 NĂM 1963
ĐÍNH CHÍNH CỦA ÔNG NGUYỄN BÁ CẨN
về cái chết của Đại Tá Hồ Tấn Quyền trong Hồi Ký ĐẤT NƯỚC TÔI
Trong quyển hồi ký “ĐẤT NƯỚC TÔI” ấn hành năm 2003, tại trang 308 có
đoạn nói về vụ sát hại sĩ quan cao cấp Quân Lực VNCH trong ngày đầu
của cuộc binh biến 1/11/1963. Khi đề cập đến trường hợp của Cố Hải
Quân Đại Tá Hồ Tấn Quyền, Tư Lệnh Hải Quân, tôi đã dựa trên một tài
liệu tường thuật sai lầm nguyên do và hoàn cảnh dẫn dắt đến cái chết
của Cố Đại Tá, tại Thủ Đức. Với thời gian lắng dịu và tài liệu đầy đủ
từ rất đông nhân chứng liên hệ đến biến cố kể trên, trường hợp sát hại
Cố Hải Quân Đại Tá Hồ Tấn Quyền đã được tường thuật một cách chính xác
trong quyển Hải Sử Tuyển Tập được ấn hành năm 2004. Đưọc sự chấp thuận
của nhà văn Phan Lạc Tiếp, Trưởng Ban Biên Tập Hải Sử Tuyển Tập, tôi
xin trích đăng một đoạn trong Tuyển Tập để cho sự thật được sáng tỏ
đồng thời vinh danh lòng dũng cảm của Cố HQ Đại Tá Hồ Tấn Quyền. Với
lời chân thành xin lổi gia đình của Cố HQ Đại Tá về một sơ xuất đáng
tiếc và thành thật cám ơn nhà văn Phan Lạc Tiếp, tôi xin trích đăng
một đoạn trong quyển Hải Sử Tuyển Tập, nguyên văn như sau. (Tác Giả
hồi ký “Đất Nước Tôi”, Nguyễn Bá Cẩn, cựu Thủ Tướng Chính Phủ VNCH).
“Vài hàng về HQ Đại Tá Hồ Tấn Quyền.
Đại Tá Quyền gốc người Huế, sinh năm 1927 tại Đà Nẵng, xuất thân Khóa
1 Sĩ Quan Hải Quân (SQHQ) Nha Trang. Khóa này có 6 sĩ quan ngành Chỉ
Huy và 3 sĩ quan ngành Cơ Khí. Người đỗ đầu khi ra trường ngành Chỉ
Huy là ông Trần Văn Chơn. Người đứng thứ sáu là ông Hồ Tấn Quyền. Như
tất cả những người cùng khoá, trước khi theo học Khóa 1 SQHQ Nha
Trang, ông Quyền cũng đã theo học ngành Hàng Hải. Tất cả 6 sĩ quan
ngành Chỉ Huy khoá này, đều lần lượt thay nhau làm Tư Lệnh Hải Quân từ
khi người Pháp trao quyền chỉ huy cho sĩ quan Việt Nam vào ngày 20
tháng 8 năm 1955, cho đến khi Hạm Đội Việt Nam Cộng Hoà làm lễ hạ kỳ
trên Biển Đông, hồi 12 giờ trưa ngày 7 tháng 5 năm 1975. Ông Quyền là
vị Tư Lệnh thứ ba, từ ngày 6 tháng 8 năm 1959, đến ngày 1 tháng 11 năm
1963, là ngày ông bị hạ sát. Đại Tá Lê Quang Mỹ là vị Tư Lệnh đầu
tiên. Kế đến là Trung Tá Trần Văn Chơn ở nhiệm kỳ đầu. Trước khi được
chỉ định làm Tư Lệnh, ông Quyền làm Tham Mưu Trưởng Hải Quân cho ông
Chơn.
Trong chức vụ Tư Lệnh Hải Quân, ông Quyền đã chứng tỏ là người có khả
năng và tuyệt đối trung thành với Tổng Thống Ngô Đình Diê.m. Đồng thời
ông cũng là người có nhiệt tâm và viễn kiến sắc bén trong việc xây
dựng Hải Quân.
Trong lần đảo chánh ngày 11 tháng 11 năm 1960, do Đại Tá Nguyễn Chánh
Thi cầm đầu, Đại Tá Quyền là người đã đích thân đem 2 đại đội của Tiểu
Đoàn 2 Thủy Quân Lục Chiến (TQLC) vào dinh Độc Lập, hợp sức cùng với
lực lượng phòng thủ trong dinh, ngăn chận được phe đảo chánh. Đó là
một chiến công rất cụ thể của ông Quyền với Tổng Thống Diê.m. (Hai đại
đội trước của tiểu đoàn này đã do Đại Úy Nguyễn Kiên Hùng, Tiểu Đoàn
Trưởng dẫn đi theo phe đảo chánh. Vì không đủ xe, nên mới còn 2 đại
đội đợi xe ở trại Cửu Long. Lúc ấy Đại Tá Quyền leo qua cầu Avalanche
điều động 2 đại đội còn lại này vào dinh chống lại phe đảo chánh).
Và ngày 27 tháng 2 năm 1962, phi công Nguyễn Văn Cử và Phạm Phú Quốc
dùng máy bay oanh tạc dinh Độc Lập, chính các chiến hạm Hải Quân, do
ông Quyền làm Tư Lệnh, đã bắn lên, đạn bay đan kín vùng trời, bảo vệ
an toàn dinh Tổng Thống. Một máy bay đã bị Hải Quân bắn hạ.
Trong việc xây dựng Hải Quân, ngay từ ngày cuộc chiến bột phát, năm
1960, Đại Tá Quyền là người đã nhìn thấy sự quan trọng trong việc bảo
vệ lãnh hải Việt Nam bằng chính những phương tiện đơn giản của Việt
Nam. Ông là người đã có sáng kiến thành lập Lực Lượng Hải Thuyền, dùng
những ghe xuồng chúng ta có thể đóng lấy được và tuyển dụng những dân
chài địa phương, trà trộn với ngư dân để phát giác và ngăn chận từ
trong trứng nước sự xâm nhập ngưới và vũ khí từ Bắc vào Nam bằng đường
biển. Các đơn vị Hải Thuyền, sau được biến cải thành các Duyên Đoàn,
đã chứng tỏ rất hữu hiệu, tạo được nhiều chiến công trong việc đối đầu
với những ghe tàu xâm nhập từ Bắc vào Nam. (Xin xem thêm bài phỏng vấn
Đại Tá Nguyễn Văn Thông về Lực Lượng Hải Thuyền).
Cái chết của Đại Tá Quyền.
Năm 1963, Miền Nam mỗi lúc mỗi có những khó khăn. Ngoài thì Cộng sản
mở rộng những trận đánh. Người Mỹ vì nhiều lý do không muốn ủng hộ
chính quyền của Tổng Thống Diệm nữa. Trong thì có những mâu thuẫn đảng
phái, tôn giáo, do đó quân đội cũng có nhiều phân hoá. Tổng Thống Diệm
chỉ còn tin tưởng vào một số rất ít đơn vị trung thành với ông, như
Thiếu Tướng Huỳnh Văn Cao, Tư Lệnh Vùng 4 Chiến Thuật; Đại Tá Lê Quang
Tung, Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Biệt; và Hải quân Đại Tá Hồ Tấn Quyền, Tư
Lệnh Hải Quân. Vì thế trước khi khởi sự, cấp chỉ huy đảo chánh phải
làm sao hóa giải được những trở ngại nói trên. Để làm việc này trong
Hải Quân, cấp chỉ huy đảo chánh, đứng đầu là Trung Tướng Văn Minh, đã
“xây dựng” (móc nối) với bốn người là HQ Trung Tá Chung Tấn Cang, Chỉ
Huy Trưởng Giang Lực; HQ Thiếu Tá Khương Hữu Bá, Chỉ Huy Trưởng Duyên
Lực; HQ Thiếu Tá Trương Ngọc Lực, Chỉ Huy Trưởng Vùng III Sông Ngòi;
và một sĩ quan gốc Thủy Quân Lục Chiến, Đại Úy Nguyễn Kim Hương Giang,
Chỉ Huy Trưởng Giang Đoàn 24 Xung Phong, kiêm Chỉ Huy Trưởng Đoàn
Giang Vận. Riêng về ông Trương Ngọc Lực, xuất thân khóa 2 sĩ quan Nha
Trang, với nhiều thời gian hoạt động trong sông và khét tiếng là một
tay hiếu sát.
Thi Hành.
Công tác này diễn tiến như sau:
Trước hết là trung hoà các người có thể làm trở ngại việc đảo chánh
trong Hải Quân. Do sự chỉ định của cấp chỉ huy đảo chánh, Thiếu Tá
Trương Ngọc Lực và Đại Úy Nguyễn Kim Hương Giang, hai người phải làm
sao loại trừ cho được sự hiện diện của Đại Tá Quyền trong vai trò Tư
Lệnh Hải Quân, ưu tiên là bắt giử ông Quyền đem nộp cho họ. Ông Giang
nhớ lại lời ông Lực nói rằng:
-“Ông Quyền trung thành với ông Diệm lắm, không cách nào thuyết phục
ông ta theo phe cách mạng được đâu, mà có khi còn nguy cho tính mạng
và đại cuộc. Ông Lực được ông Minh (Dương Văn Minh) cho biết là giữa
Tổng Thống Diệm và ông Quyền có một kế hoạch di tản bí mật bằng tàu
Hải Quân khi có biến, lánh nạn khi có đảo chánh. Chi tiết thế nào thì
không được biết, chỉ nghe ông Lực nói lại mà thôi”.
Để thi hành công tác này, khoảng 10 giờ sáng hôm 1 tháng 11 năm 1963,
buổi sáng được nghỉ lễ, ông Quyền đang đánh tennis với ông Thăng (xin
xem thêm bài phỏng vấn Phó Đề Đốc Đặng Cao Thăng), thì ông Lực đến năn
nỉ ông Quyền rất lâu, mời đi Thủ Đức ăn trưa, lấy cớ hôm ấy là ngày
sinh nhật thứ 36 của ông Quyền. Ông Quyền không muốn đi, vì “buổi trưa
còn phải lên Bộ Tổng Tham Mưu họp”. Sau ông Lực năn nỉ mãi, ông Quyền
về nhà thay quần áo, lái xe citroen đen đi. Ông Quyền cầm tay lái. Ông
Lực ngồi ở ghế trên, ông Giang ngồi ghế sau. Khi từ xa lộ Biên Hoà rẽ
vào đường đi Thủ Đức, xe nghiêng, ông Lực ngã vào ông Quyền, cũng là
lúc ông Lực rút dao găm ra đâm ông Quyền. Ông Quyền nhanh tay đỡ và
dằng được dao găm, đâm vào tay ông Lực. Máu bắn tung toé. Hai người
vật nhau, xe ủi xuống lề đường. Trong phút nguy nan đó, ông Giang ngồi
ở ghế sau chồm lên dí súng vào vai phải ông Quyền, nổ súng, “đâu một
hai phát gì đó”. Ông Quyền buông lơi con dao dính đầy máu xuống trước
mặt, gục ngã trên bánh lái. Sự việc xảy ra trong chớp mắt, tự nhiên
như một phản xạ, không suy nghĩ, ông Giang đứng bất động, kinh hoàng.
Vừa lúc ấy, một chiếc xe dân sự do tài xế của ông Lực chạy sau, trờ
tới. Ông Lực và anh tài xế bê xác ông Quyền bỏ vào thùng xe dân sự
này. Cả ba lên xe này chạy về Sài Gòn.”
Chiếm Bộ Tư Lệnh Hải Quân.
Ông Lực và ông Giang cấp tốc trở lại Sài Gòn, thay quần áo tác chiến
Hải Quân, có mặt tại ngã ba Bạch Đằng-Nguyễn Huệ, lúc 1 giờ trưa, để
đón 2 đại đội khoá sinh từ Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung lên, do
Đại Tá Đỗ Kiến Nhiễu đích thân trao la.i. Đúng như dự trù, ông Lực và
ông Giang hướng dẫn đoàn xe chở 2 đại đội này chạy ào vào chiếm Bộ Tư
Lệnh Hải Quân. Quân nhân Hải Quân thấy sĩ quan Hải Quân hướng dẫn đoàn
xe, nên không chống cự, vì thế việc chiếm Bộ Tư Lệnh Hải Quân không
gặp trở ngại nào. Trong khi ông Giang phân chia lính bộ binh tước khí
giới và canh gác Bộ Tư Lệnh, thì ông Lực chạy thẳng lên Văn Phòng Tư
Lệnh Hải Quân, nói với Trung Tá Đặng Cao Thăng, Tham Mưu Trưởng Hải
Quân, rằng:
“Cách Mạng đem quân tới chiếm Bộ Tư Lệnh Hải Quân”.
Theo sự nhớ lại của ông Thăng, thì:
“Tôi thấy ông Lực mặt mày xanh ngắt, tay bị băng, thì tôi biết là có
chuyện chẳng lành cho Đại Tá Quyền rồi. Ông Lực lùa tôi và các sĩ quan
tham mưu vào văn phòng Đại Tá Quyền. Khi đó có 2 máy bay của Không
Quân bay rất thấp quanh Bộ Tư Lệnh Hải Quân, có lẽ để uy hiếp Hải
Quân. Các chiến hạm liền nổ súng dày đặc bầu trời. Đặc biệt chiến hạm
HQ 06 đậu tại cầu A, vị trí 1, do Đại Úy Đỗ Kiểm làm Hạm Trưởng, bắn
lên rất dữ dội. Ông Lực yêu cầu tôi ra cột cờ trước Bộ Tư Lệnh ra lệnh
cho các chiến hạm ngưng bắn. Người trực tiếp áp tải tôi ra sân cờ là
Trung Úy Thái Quang Chức.” (Ông Chức là em Trung Tướng Thái Quang
Hoàng, một sĩ quan thuộc đơn vị của ông Giang).
Trước đó, theo kế hoạch đã định, Trung Tá Cang ra lệnh cho một số
chiến đĩnh của Giang Đoàn 24 Xung Phong ỉm quân ở bên kia cầu Sài Gòn.
Vì nếu ở bên này cầu, quá 1 giờ trưa nước lớn, tàu không chui qua gầm
cầu được. Đúng giờ ấn định, 1 giờ 30, Trung Tá Cang đem đoàn chiến
đĩnh sang chiếm Bộ Tư Lệnh Hải Quân. Trên chiếc Monitor Combat (Tiền
Phong Đĩnh) do Trung Sĩ Thạch Sơn, người Việt lai Miên làm Thuyền
Trưởng, ông Cang đứng trên chiếc Monitor này, cặp vào cầu tàu Tư Lệnh.
Ông Cang lên Văn phòng Tư Lệnh đảm nhiệm vai trò Tư Lệnh Hải Quân. Nhớ
lại biến cố này, Phó Đô Đốc Chung Tấn Cang cười và nói rằng:
-“May mà tôi đã đến kịp, tránh được những điều đáng tiếc xảy ra cho
Hải Quân.”
Trật tự tại Bộ Tư Lệnh Hải Quân được vãn hồi. Hôm sau, 2 tháng 11 năm
1963, ông Cang được thăng Đại Tá, ông Lực thăng Trung Tá và ông Nguyễn
Kim Hương Giang thăng Thiếu Tá.
Vào khoảng 1 giờ 15 chiều ngày 1 tháng 11 năm 1963, khi biến cố đảo
chánh đã xảy ra rồi, ông Thăng nhớ laị, nói rằng:
-“Tổng Thống Diệm có gọi tôi, hết sức bình tĩnh, ông hỏi Hải Quân ra
sao, anh Quyền đâu. Ông chỉ thị cho tôi phải đẩy quân của ông Lực ra.
Lúc đó Bộ Tư Lệnh Hải Quân đã bị tước khí giới rồi, tôi không làm
nổi”.
Nhìn lại biến cố này, ông Thăng có nhận xét rằng:
-“Tôi thấy vụ giết ông Quyền có thể có dự mưu, vì tại sao phải mời ông
Quyền lên Thủ Đức, và công việc này lại giao cho một sĩ quan nổi tiếng
hiếu sát trong Hải Quân. Vả chăng ông Đại Tá Lê Quang Tung, Tư Lệnh
Lực Lượng Đặc Biệt và em ông, Thiếu Tá Triệu bị bắt và bị bắn chết
trong Bộ Tổng Tham Mưu. Chắc họ cũng dành cho ông Quyền cùng một số
phận. Ông Giang, theo tôi, chỉ là người phụ thuộc, không có mưu đồ
nào. Ông bắn ông Quyền chỉ vì trong hốt hoảng, quá sợ hãi.”
Sau đó, theo lời kể lại của anh Trần Văn Hoa Em, khi ấy còn là Thiếu
Úy, thì:
-“Sau ngày đảo chánh, ông Lực có lúc xuống nấn ná ở tàu tôi (HQ 501)
đậu ở cầu C, do Đại Úy Bùi Cửu Viên làm Hạm Trưởng. Ông Lực tỏ ra dè
dặt và sợ hãi, rồi lặng lẽ đi đâu không biết”.
Còn ông Giang thì cho hay:
-“Trung Tá Lâm Ngươn Tánh, lúc ấy là Tham Mưu Trưởng, một hôm kéo tôi
ra kè xi măng ở bờ sông trước cầu C, nói với tôi rằng, ‘tụi bây liệu
đường đi đâu thì đi xa đi. Tụi nó dự trù giết mày và thằng Lực đó’.
Nên không bao lâu Trung Tá Lực được đổi đi làm Tùy Viên Quân Lực tại
Hán Thành. Còn tôi (Giang) được đổi ra Phú Quốc, làm cố vấn cho vị chỉ
huy Hải Quân tại đâỵ”
Nhìn xa hơn chút nữa, trong cuốn “Việt Nam Nhân Chứng”, Trung Tướng
Trần Văn Đôn đã kể lại nhiều chi tiết cho thấy rằng người Mỹ đã chủ
động, theo dỏi ráát sát biến cố ngày 1 tháng 11 năm 1963. Trong trang
227 và 228 sách đã dẫn, ông Đôn đã đưa ra những chi tiết về việc ngườì
Mỹ muốn bắt và giết cho được Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông Ngô Đình
Nhu. Khi đón tiếp các vị tướng lãnh của nhóm đảo chánh tới thăm Toà
Đại Sứ Mỹ, hồi 4 giờ chiều ngày 2 tháng 11 năm 1963, khi anh em Tổng
Thống Diệm đã bị giết rồi, ông Cabot Lodge, Đại Sứ Hoa Kỳ ra tận lề
đường đón các vị tướng đại diện phe đảo chánh, ông Lodge đã vui vẻ
thốt lên bằng tiếng Pháp:”C’est formidable! C’est formidable!” (Thật
là tuyệt diệu. Tuyệt diệu).
Thái độ ấy, lời nói ấy tưởng đã quá đủ để thấy thân phận của những ai
mà người Mỹ muốn loại trừ trong biến cố 1 tháng 11 năm 1963.”
http://ngothelinh.tripod.com/
Nhận xét
Đăng nhận xét