Thứ Hai, 21 tháng 5, 2018

KÝ ỨC CHÓI LỌI 96/a

(ĐC sưu tầm trên NET)
 
2 Phi công ACE huyền thoại Việt Nam khiến Không quân Mỹ kinh hoàng 

Đại Tá Toon - Anh Hùng Phi Công VN Bí Ẩn Khiến Mỹ Cứ Nhìn Thấy Là Chạy Mất Dép
Đại Tá Toon - Anh Hùng Phi Công VN Bí Ẩn Khiến Mỹ Cứ Nhìn Thấy Là Chạy Mất Dép Trong những năm CT, các phi công Hoa Kỳ thường truyền tai nhau về một phi công bí ẩn của Quân đội Việt Nam mang tên “Đại tá Toon” - một phi công VN đạt đẳng cấp Ace (chiến thắng 5 trận không chiến trở lên) như là nỗi khiếp sợ trong những phi vụ bay ra miền Bắc 

Phi công Việt Nam huyền thoại khiến không quân Mỹ khiếp vía là ai?

Đặng Phương Thảo |
Phi công Việt Nam huyền thoại khiến không quân Mỹ khiếp vía là ai?
Phi công Nguyễn Đức Soát (bên phải)

Theo National Interest, Nguyễn Tomb (hay còn gọi là Toon) là một trong những viên phi công lái máy bay tiêm kích nổi tiếng nhất của Việt Nam trong cuộc chiến tranh chống Mỹ của Việt Nam. Người anh hùng này đã trở thành huyền thoại với 13 lần bắn rơi máy bay địch và là phi công Việt Nam duy nhất xuất hiện trong trò chơi Chuck Yeager’s Air Combat của Mỹ.


Cuộc chiến tranh Việt- Mỹ ban đầu được xem là cuộc tấn công đơn phương của Mỹ vào Việt Nam vì chênh lệch lực lượng quá lớn. Hải quân và không quân Mỹ là lực lượng vũ trang mạnh nhất trên thế giới, trong khi đó Quân đội Nhân dân Việt Nam non trẻ lúc bấy giờ chỉ có vẻn vẹn 70 chiếc máy bay, tính đến gần cuối chiến tranh mới có 200 chiếc.
Tuy nhiên sự chênh lệch lực lượng này vẫn không đảm bảo cho Mỹ có một chiến thắng. Việt Nam đã nhận được nguồn trợ giúp về kỹ thuật, huấn luyện và máy bay thay thế to lớn từ phía Liên Xô và Trung Quốc.
Các phi công lái máy bay MiG của Việt Nam đã tấn công dữ dội vào lực lượng Mỹ, gây ra thiệt hại nặng nề, ngay cả với máy bay ném bom siêu âm F-105 Thunderchief.
Trong cuộc chiến kéo dài hơn hai thập kỷ đó, các đơn vị tình báo NSA của Mỹ đã phát hiện ra Nguyễn Tomb - một viên phi công xuất sắc, và đã dùng từ “ace” để nói về anh. (Trong tiếng Anh, “ace” là để chỉ phi công đã từng bắn hạ ít nhất 5 máy bay địch.)
Theo hồ sơ của NSA, Nguyễn Tomb được coi là một mối đe dọa nghiêm trọng khiến các chỉ huy cửa Lực lượng không quân số 7 Mỹ ám ảnh và quyết tâm phải bắn hạ được. Mỗi khi Nguyễn Tomb có kế hoạch bay là NSA lại cảnh báo với toàn quân.
Không quân Mỹ cũng truyền tay nhau hình ảnh chiếc MiG-17 mang số hiệu 3020 với 6 ngôi sao trên mũi, mỗi ngôi sao đại diện cho một chiếc máy bay Mỹ bị bắn hạ. Đó chỉ có thể là máy bay chiến đấu của anh hùng Nguyễn Tomb.
National Interest cho biết chiếc MiG-17 Fresco là phiên bản nâng cấp từ máy bay chiến đấu MiG-15 được sử dụng rất nhiều trong cuộc chiến tranh Triều Tiên. Đó là thế hệ sau của máy bay F-4 Phantom, máy bay chiến đấu hàng đầu mọi thời đại của Mỹ.
Trong khi máy bay F-4 bay nhanh hơn cả tốc độ Mach 2 thì MiG-17 thậm chí còn không đạt được tốc độ Mach 1. Không giống như máy bay chiến đấu MiG-21, MiG-17 không thể mang tên lửa không đối không, thay vào đó phải phụ thuộc vào hai khẩu pháo 37 mm và 23 mm. Máy bay này cũng không có bộ điều khiển thủy lực, khiến nó khó xử lý ở tốc độ cao.
Bất chấp những nhược điểm thì MiG -17 vẫn hoạt động cực kỳ tốt ở tốc độ chậm và không chiến cự ly gần. Vào những ngày đầu của cuộc chiến, F-4 bị bắt bài và tên lửa không đối không thiếu độ tin cậy. Nếu MiG-17 ở trong phạm vi chiến đấu, máy bay này sẽ dễ dàng hạ F-4, trừ khi phi công của F-4 chạy trốn.
Một tấm ảnh khác chụp được hình ảnh máy bay MiG-21 mang số hiệu 4326 và có 13 ngôi sao chiến thắng cũng được cho là máy bay của anh hùng Nguyễn Tomb vì phía Mỹ cho rằng khó có ai khác bắn hạ được nhiều máy bay như vậy.
Trận chiến cuối cùng của người anh hùng
Vào năm 1972, Mỹ mở Chiến dịch Linebacker ném bom đánh phá miền bắc kéo dài 6 tháng. Theo phía Mỹ, vào ngày 10/5, 11 máy bay chiến đấu của miền bắc Việt Nam cùng 4 máy bay F-4 Phantoms đã bị bắn hạ trong một cuộc giao chiến lớn.
Hai phi công may mắn của phía Mỹ hôm đó là Thiếu tướng Hải quân Randy "Duke" Cunningham và sĩ quan đánh chặn ngồi ở ghế sau, Thiếu tướng Junior Grade William “Irish” Driscoll.
Cả hai đều tốt nghiệp trường Top Gun, trường chuyên dạy kỹ thuật chiến đấu trên không. Khi hai viên phi công này lái chiếc F-4J trong cuộc tấn công vào thì họ cũng bị các máy bay MiG-17 của Việt Nam tấn công.
Cunningham đã ngay lập tức bắn hạ một chiếc MiG-17 bằng tên lửa Sidewinder. Sau đó ông ta nhìn thấy chiến hữu đang ở trong tầm bắn của tám chiếc MiG-17.
Một vài chiếc MiG-17 đang ở phía đuôi chiếc F-4 của Timm. Cunningham không thể bắn tên lửa vì tên lửa Sidewinder có thể đã bị khóa vào hai động cơ nhiệt của chiếc Phantom. Và những chiếc F-4 của Mỹ đã phải bỏ chạy và quay trở lại căn cứ.
Trong lúc đó, Cunningham chú ý có một chiếc MiG-17 đơn độc đang hướng về phía mình và quyết định tiếp cận, đó là một sai lầm chết người vì MiG-17 đã bắn pháo vào đầu chiếc Phantom khi bay ngang qua. Vì thiếu súng nên Cunningham lại điều khiển máy bay bay lên.
Chiếc MiG-17 đã bám theo chiếc F-4 của Mỹ với khoảng cách rất gần, và Cunningham đã nhận ra số hiệu 3020 trên chiếc MiG. Dù cố để cắt đuôi nhưng nhất cử nhất động của ông đều không qua được viên phi công đang lái chiếc MiG-17. Hai chiếc máy bay vờn nhau đến mức chiếc Phantom đã gần như chao đảo.
Cuộc chiến tốc độ chậm bay quần vòng như thế chính là thế mạnh của MiG-17. Tuy nhiên Cunningham vẫn nhất quyết không chịu từ bỏ cuộc đuổi bắt này.
Thay vào đó, Cunningham lại bay nhanh về phía trước hai dặm trước khi quay đầu và bay ngang qua MiG ở góc mà MiG không thể bắn lại được. Nhưng bằng một cách ngoạn mục, viên phi công điều khiển MiG đã lại nhanh chóng quay lại theo đuôi chiếc F-4.
Cunningham lại quay lại lần hai, nhưng lần này, khi chiếc MiG bắt đầu theo đuôi trở lại thì Cunningham đã phanh lại và rơi lại phía sau MiG. Nhưng chiếc F-4 vẫn ở vị trí quá gần để có thể tấn công tên lửa vào chiếc MiG.
Viên phi công điều khiển chiếc MiG đã hạ độ cao đột ngột và sức nóng mà nó tạo ra giúp che mắt tên lửa. Khi MiG cách xa chiếc F-4, Cunningham đã phóng tên lửa Sidewinder. Tên lửa này đã tấn công trúng mục tiêu, chiếc MiG đã rơi xuống và nổ tung.
Người ta không nhìn thấy chiếc dù nào phóng ra. Và viên phi công điều khiển, được cho là người anh hùng Nguyễn Tomb đã tử nạn, theo phía Mỹ.
Ngay sau đó, tên lửa đất đối không SA-2 cũng đã đánh trúng chiếc Phantom của Cunningham. Hai viên phi công may mắn đã hướng máy bay ra phía biển và đã được cứu hộ trên biển. Hai viên phi công này đã được được phong làm những phi công xuất sắc (ace) đầu tiên của Mỹ tại chiến trường Việt Nam.
Sau cuộc chiến ở Việt Nam, khi trở về nước, Driscoll làm giảng viên tại trường Top Gun còn Cunningham đã phục vụ 15 năm trong vai trò đại biểu đảng Cộng hòa tại California trước khi bị tống giam vì tội tham nhũng năm 2005.
Huyền thoại và điều bí ẩn
Khi quan hệ Việt- Mỹ đã bình thường hóa, nhiều nhà sử học của Mỹ bắt đầu hỏi thăm và tìm hiểu sâu hơn về viên phi công huyền thoại mà Mỹ thường gọi là Nguyễn Tomb (hay Toon).
Tuy nhiên khi được hỏi, không phi công nào của Việt Nam cho rằng mình đã từng nghe qua cái tên này, và cái tên này cũng không có mặt trong bất kỳ hồ sơ nào.
Cái tên mà các nhà sử học Mỹ đưa ra là Tomb hay Toon đều không phải là tên Việt Nam. Có thể tình báo Mỹ đã nghe nhầm là Tuân hoặc Tống. Và hầu hết các anh hùng phi công của Việt Nam đều lái MiG-21 chứ không phải MiG-17 và cũng không chuyển đổi máy bay qua lại cho nhau.
Thực tế cho thấy không có lý do nào để Không quân Việt Nam giấu giếm về người anh hùng như vậy, vì nếu có cá nhân xuất sắc như vậy chắc chắn sẽ được biểu dương. Và các phi công khác chắc chắn cũng phải nhớ đến huyền thoại này, anh không thể biến mất hoàn toàn khỏi lịch sử như vậy.
Đối với các nhà sử học Mỹ, Nguyễn Tomb không phải là huyền thoại mà là một ẩn số. Phía Mỹ cũng không chấp nhận sự bác bỏ của phía Việt Nam mà tìm các giả thuyết khác nhau để minh chứng.
Có giả thuyết cho rằng Tomb là phi công của Nga. Trong chiến tranh Triều Tiên, các phi công Nga đã đổ về các đơn vị không quân của Trung Quốc và Triều Tiên. Hàng nghìn cố vấn Nga đã đến miền bắc Việt Nam, tuy nhiên sau khi chiến tranh kết thúc, thực tế không người Nga nào nhận đã tham gia vào các cuộc không chiến ở Việt Nam.
Một giả thuyết khác lại cho rằng Tomb thực chất là hai viên phi công Đinh Tôn và Đặng Ngọc Ngự. Phi công Đặng Ngọc Ngự đã từng lập nhiều chiến thắng trên không, còn phi công Đinh Tôn nổi tiếng với xu thế tấn công đơn độc.
Giả thuyết cho rằng Đinh Tôn đã lẻn vào đội hình cùng các máy bay chiến đấu Mỹ và chờ xem mất bao lâu họ mới phát hiện ra. Nhưng cả hai phi công này đều lái máy bay MiG-21 chứ không phải MiG-17, và không chiếc nào tham gia vào cuộc không chiến hôm 10/5/1972.
Một giả thuyết khác do nhà sử học Tom Cooper đưa ra, đó là Nguyễn Tomb thực ra là Lê Thanh Đạo, người anh hùng từng bắn hạ 6 máy bay Mỹ và cũng tham gia vào cuộc chiến hôm đó. Nhưng Lê Thanh Đạo cũng lái máy bay MiG-21 và không bị bắn hạ hôm đó.
Vậy ai mới thực sự là đối thủ của Cunningham vào hôm 10/5 đó? Có giả thuyết cho rằng đó là anh Nguyễn Văn Thọ, tuy nhiên phi công này vẫn sống sót sau vụ rơi máy bay, và điều này lại không phù hợp với vụ nổ mà phi công Cunningham chứng kiến.
Anh hùng Tomb thực sự là ai?
Theo một cách nói nổi tiếng của phương Tây thì: Mỹ không cần tạo ra Nguyễn Tomb vì anh hoàn toàn có thật trên đời.
Một phi công nổi tiếng của Việt Nam là Nguyễn Văn Cốc, phi công hàng đầu của quân đội Việt Nam lúc bấy giờ. Ông đã từng bắn hạ 9 máy bay địch trên không bằng máy bay tiêm kích MiG-21. Và nó mang số hiệu 4326.
Phi công Việt Nam huyền thoại khiến không quân Mỹ khiếp vía là ai? - Ảnh 1.
Anh hùng Nguyễn Văn Bảy (A)
13 ngôi sao tượng trưng cho 13 chiến thắng bao gồm cả chiến thắng của các viên phi công khác điều khiển chiếc máy bay này. Anh hùng Nguyễn Văn Cốc tham gia huấn luyện ở Nga để sử dụng MiG-21 khi tròn 26 tuổi. Cha và bác của ông đều tham gia kháng chiến chống Pháp và đã hy sinh.
Nguyễn Văn Cốc đã bị bắn trước khi thực hiện pha bắn hạ máy bay Mỹ đầu tiên vào ngày 2/1/1967 trong Chiến dịch Bolo, một chiến dịch phục kích trên không của Mỹ. Hôm 30/4, anh lại tiêu diệt được chiếc F-105 và sau đó lại tiêu diệt thêm 8 máy bay nữa trong tháng 12/1969 với tên lửa R-3 Atoll.
Trong số 9 vụ bắn rơi máy bay đó thì có hai chiếc là máy bay không người lái, và 6 trong số 7 chiếc còn lại đã được xác nhận trong hồ sơ của Mỹ. Điều này khiến Nguyễn Văn Cốc thành phi công hàng đầu trong cuộc chiến.
Sau đó Nguyễn Văn Cốc được rút khỏi tuyến tiền tuyến để tập trung đào tạo các phi công thế hệ sau, những người đã tham gia vào các cuộc không chiến năm 1972.
Và chiến sĩ Nguyễn Đức Soát, học trò xuất sắc của Nguyễn Văn Cốc đã giành được 6 chiến thắng.
Một phi công anh hùng khác của Việt Nam, ông Nguyễn Văn Bảy (A), cũng bắn hạ được 7 máy bay Mỹ chỉ với chiếc MiG-17 cổ lỗ (còn phi công Nguyễn Văn Bảy (B) là một trong số ít phi công tấn công được tàu Mỹ kể từ sau Thế chiến II.
Ông cùng phi công Lê Xuân Dị đã thực hiện nhiệm vụ tấn công tàu USS Oklahoma City và USS Highbee của Mỹ và đã anh dũng hy sinh trong một trận không chiến thời gian sau đó).
Và cả ba anh hùng kể trên đều sống sót sau cuộc chiến.
Phi công Nguyễn Văn Cốc nghỉ hưu năm 2002. Ông Nguyễn Đức Soát là Trung tướng - Phó Tổng Tham mưu trưởng Quân đội Nhân dân Việt Nam mới nghỉ hưu năm 2008. Ông Nguyễn Văn Bảy (A) giờ thì trồng xoài ở trang trại ngoại ô TP HCM.
Không giống như nhiều phi công Mỹ khác, nhiều phi công Việt Nam tiếp tục hoạt động cho đến khi cuộc chiến kết thúc. Những phi công giỏi nhất vẫn tiếp tục phục vụ và giành được nhiều chiến thắng trên không. Tổng cộng có 16 phi công được nhận danh hiệu phi công xuất sắc (ace).
Tóm lại đến nay Nguyễn Tomb vẫn là một bí ẩn về một huyền thoại được đối phương tôn vinh trong cuộc chiến tranh Việt – Mỹ. Trong công cuộc tìm kiếm một người anh hùng thật sự, các nhà sử gia Mỹ mới ngỡ ngàng nhận ra rằng Việt Nam thực tế có quá nhiều anh hùng tạo nên những huyền thoại như vậy.
theo Viettimes

Điểm mặt 16 phi công ‘Át chủ bài’ của Không quân Nhân dân Việt Nam (kỳ 1)

Chiến tranh Việt Nam ghi nhận những chiến công đặc biệt của các phi công tiêm kích. Có đến 16 phi công Việt Nam được công nhận danh hiệu Át (Aces).
* Át (Aces) là một danh hiệu công nhận cho các phi công lái máy bay quân sự có số lần bắn hạ máy bay đối phương đạt con số 5 trở lên. Danh hiệu Át có từ Chiến tranh thế giới thứ nhất.

Chiến tranh Việt Nam ghi nhận cuộc chạm trán không cân sức giữa lực lượng không quân hùng hậu nhất thế giới của Mỹ với lực lượng không quân còn non trẻ của Việt Nam. Tuy mới thành lập, thiếu kinh nghiệm, trang thiết bị kém hiện đại hơn nhưng với sự nỗ lực phi thường công với tinh thần sáng tạo, dũng cảm các phi công Việt Nam đã lập được những chiến công hiển hách.

Có đến 16 phi công Việt Nam được công nhận danh hiệu Át trong khi đó con số phi công Át của Mỹ trong chiến tranh Việt Nam chỉ có 5 người.

Dưới đây là danh sách 16 phi công Việt Nam được công nhận danh hiệu Át:
"Chim cắt số 2" Nguyễn Văn Cốc.

Phi công Nguyễn Văn Cốc

Đứng đầu trong danh sách các “Át” của Không quân Nhân dân Việt Nam là phi công Nguyễn Văn Cốc với 9 lần bắn rơi máy bay Mỹ trong đó có 7 lần được phía Mỹ công nhận.

Phi công Nguyễn Văn Cốc sinh năm 1943 tại huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang. Ông được tuyển chọn đi học lái máy bay MiG-17 vào năm 1961. Sau đó, ông lại sang Liên Xô học chuyển loại MiG-21. Ông bắt đầu các hoạt động bay chiến đấu với MiG-21 trong biên chế Trung đoàn 921, đoàn Sao Đỏ từ tháng 12/1965.

Chỉ trong vòng 2 năm (1967-1968), ông đã bắn rơi 9 máy bay Mỹ (gồm 3 F-4, 3 F-5, 1 F-102, 2 UAV tầng cao AQM-34A).

Một trong những trận đánh đáng nhớ nhất của ông, được tuyển chọn vào tập sách những trận đánh hay của không quân là trận ngày 30/4/1967.

Khi đó, biên đội của ông gồm phi công Nguyễn Ngọc Độ bay số 1, ông bay số 2 cất cánh đánh chặn một tốp F-105  của địch.Trong trận đánh, sau khi phi công Nguyễn Ngọc Độ phóng tên lửa diệt một máy bay, tranh thủ lúc lúc địch chưa phát hiện ra ta, ông đã nhanh chóng công kích bắn hạ thêm một máy bay F-105.

Đây có thể nói là bước “cải tiến chiến thuật”, vì theo nguyên tắc chiến thuật bài bản, trong biên đội 2 MiG-21 thì số 2 chỉ có nhiệm vụ yểm trợ, quan sát đối phương giúp số 1 công kích. Tuy vậy, Nguyễn Văn Cốc đã sáng tạo cải tiến chiến thuật, khi thời cơ đến, ở thế có lợi cùng tham gia tiêu diệt máy bay địch, vừa bảo vệ đồng đội nhưng vừa tăng hiệu suất chiến đấu.

Việc sáng tạo ra chiến thuật cải tiến số 2 cùng công kích, ông đã được đồng đội đặt cho biệt danh “chim cắt số 2”. Với những chiến công xuất sắc trong 2 năm chiến đấu, năm 1969, ông được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân.
Phi công Nguyễn Hồng Nhị.

Phi công Nguyễn Hồng Nhị

Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân, Thiếu tướng Nguyễn Hồng Nhị là một trong những phi công xuất sắc của Không quân Nhân dân Việt Nam.

Chỉ trong vòng 3 năm từ 1966-1968, phi công Nguyễn Hồng Nhị đã lập chiến công bắn hạ 8 máy bay địch. Trong đó, riêng năm 1967, ông bắn hạ tới 6 chiếc F-4 và F-8 của địch.

Một trong những trận đánh đáng lưu ý của ông là vào ngày 4/4/1966, khi đó ông đã dùng một chiếc MiG-21 bắn hạ máy bay không người lái tầng cao ở độ cao 18.000m. Điều đặc biệt ở đây, ông là người đầu tiên bay trên MiG-21 chiến và cũng là lần đầu tiên MiG-21 của ta lập công diệt địch.

Trong quá trình học tập trở thành phi công của ông. Ban đầu, ông được chọn đi học lái tiêm kích – bom. Nhưng khi về nước lại được giao lái máy bay tiêm kích đánh chặn MiG-21. Đây là một trở ngại lớn vì những khoa mục, bài tập tiêm kích ông học rất ít, không thuần thục.

Bằng, lòng dũng cảm, sáng tạo, ông đã lập được những chiến công xuất sắc bảo vệ bầu trời miền Bắc Việt Nam. Thậm chí, những người phe đối phương cũng phải “ngả mũ kính phục” ông.

Năm 2005, một sĩ quan cao cấp Hải quân Mỹ (sau này trở thành Đô đốc Hải quân) đã tới Hà Nội du lịch với mong muốn được gặp Thiếu tướng Nguyễn Hồng Nhị để bày tỏ lòng ngưỡng mộ. Rất tiếc, khi đó ông không có mặt ở Hà Nội. 
Phi công Phạm Thanh Ngân.

Phi công Phạm Thanh Ngân

Phạm Thanh Ngân sinh ngày 18/4/1939 tại xã Lương Phú, huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên. Tháng 3/1959, ông nhập ngũ Quân đội Nhân dân Việt Nam.

Tháng 4/1961, ông được cử sang Liên Xô học lái tiêm kích MiG-17. Tháng 10/1964, ông về nước và tham gia chiến đấu trong Trung đoàn 921 Sao đỏ.

Tháng 8/1965, ông đi học chuyển loại tiêm kích MiG-21. Tháng 6/1966, ông về nước và bắt đầu trực tiếp tham gia chiến đấu bảo vệ bầu trời miền Bắc.

Trong thời gian từ 1966-1968, ông cùng đồng đội tham gia chiến đấu và trực tiếp bắn rơi 8 máy bay địch. Có hai trận đánh ngày 18 và 20/11/1967, ông và phi công Nguyễn Văn Cốc đã bắn rơi tới 4 máy bay địch.

Đặc biệt, 2 trong số máy bay MiG-21 mà ông từng điều khiển mang số hiệu 4324 và 4326 đều là những chiếc có số lần bắn hạ đối phương cao nhất (4324 với 14 lần và 4326 với 13 lần).

Phi công Mai Văn Cương

Anh hùng phi công Thiếu tướng Mai Văn Cương sinh năm 1941 tại xã Hoàng Đạo, huyện Hoàng Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Ông nhập ngũ ngày 28/3/1959 và được kết nạp vào Đảng ngày 23/8/1964.

Tháng 7/1961, ông được cử đi học lái máy bay tiêm kích MiG-17 tại Liên Xô. Năm 10/1964, ông là sĩ quan lái máy bay của Trung đoàn 921. Tháng 9/1965, ông tiếp tục cử đi học chuyển loại MiG-21 tại Liên Xô.

Trong quá trình chiến đấu, phi công Mai Văn Cương đã bắn hạ 8 máy bay Mỹ các loại.

Phi công Đặng Ngọc Ngự

Phi công Đặng Ngọc Ngự với 7 lần bắn hạ máy bay Mỹ, phi công lái Mig-21 thuộc Trung đoàn 921, đoàn Sao Đỏ. Ngày 22/5/1967 bắn rơi chiếc F-4C, ngày 10/5/1972 bắn rơi chiếc F-4E, ngày 8/7/1972 bắn rơi chiếc F-4E.
Phi công Nguyễn Văn Bảy.

>> Ông Bảy phi công

Phi công Nguyễn Văn Bảy

Anh hùng phi công Đại tá Nguyễn Văn Bảy A (*) sinh năm 1936 tại xã Hòa Thành, Lai Vung. Năm 1953, do không chịu lấy vợ theo ý gia đình ông bỏ trốn vào bộ đội. Sau hiệp định Geneva 1954, ông tập kết ra miền Bắc.

Năm 1960, ông được chọn đi học lái máy bay tiêm kích MiG ở Liên Xô. Tháng 4/1965, ông về nước tham gia chiến đấu trong đội hình Trung đoàn tiêm kích 921 Sao Đỏ.

Trong suốt những năm chiến đấu (1966-1968), phi công Nguyễn Văn Bảy đã tham gia đánh 13 trận bắn rơi 7 máy bay Mỹ và chưa lần nào phải nhảy dù.

Đặc biệt có những trận đánh hiếm có mà có lẽ khi nghe tới nhiều phi công Mỹ cũng phải “thán phục”. Trận ngày 7/10/1965, khi chiến đấu trên bầu trời Yên Thế, máy bay của ông bị trúng đạn thủng kính buồng lái. Dù vậy, ông vẫn bình tĩnh bịt lỗ thủng to nhất và đưa máy bay hạ cánh an toàn. Sau trận đó, ông đếm tất cả có 82 lỗ thủng nắp buồng lái. Có thể nói, đây là kỳ tích hiếm có phi công nào trên thế giới làm được.

Với những thành tích xuất sắc trong chiến đấu, năm 1967, ông được Đảng và Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân.

Có một điều lạ, cuộc đời ông dường như gắn chặt với con số “7”. “Tao toàn gặp số bảy: Tên Bảy, con thứ 7, đi bộ đội lúc 17 tuổi, học văn hóa 7 ngày lên 7 lớp, 7 lần bắn rơi 7 máy bay Mỹ bằng máy bay MiG-17, được phong Anh hùng năm 1967…”, ông kể.
Phi công Nguyễn Đức Soát.

Phi công Nguyễn Đức Soát

Anh hùng phi công Trung tướng Nguyễn Đức Soát sinh năm 1946 tại xã Nam Phong, huyện Phú Xuyên, Hà Nội.

Năm 1965, ông nhập ngũ Quân đội Nhân dân Việt Nam, cũng trong năm này ông được cử đi học lái tiêm kích MiG-21 tại Liên Xô.

Năm 1968, ông về nước và được cử vào Trung đoàn Không quân 921 Sao Đỏ. Chỉ trong năm 1972, ông đã lần lượt bắn rơi 6 máy bay Mỹ.

Một trong những trận đánh đáng nhớ của ông và đồng đội là trận ngày 27/6/1972. Trong trận đánh đó, hai biên đội MiG-21 Nguyễn Đức Soát – Ngô Duy Thư (trung đoàn 921) và Phạm Phú Thái – Bùi Thanh Liêm (trung đoàn 927) đã phối hợp tiêu diệt 4 chiếc F-4.

Đây là trận thắng oanh liệt khi chỉ trong ít phút bốn phi công của ta đã bắn rơi bốn máy bay phản lực hiện đại được những phi công sừng sỏ Không quân Mỹ điều khiển.

Với những chiến công xuất sắc trong chiến đấu, năm 1973, phi công Nguyễn Đức Soát được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân khi mới 27 tuổi.

Chiếc Mig-21 FM94 số hiệu 5020 do phi công Nguyễn Đức Soát điều khiển bắn rơi 5 máy bay Mỹ tại Bảo tàng Phòng không-Không quân Việt Nam.


Phi công Nguyễn Ngọc Độ

Anh hùng phi công Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Độ sinh năm 1934 tại xã Phong Thịnh, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An. Tháng 6/1953 ông nhập ngũ Quân đội Nhân dân Việt Nam.

Tháng 10/1956 ông được cử đi học lái máy bay chiến đấu tại Trung Quốc. Năm 1964, ông về nước tham gia chiến đấu trong Trung đoàn 921.

Trong quá trình chiến đấu, ông trực tiếp cầm lái chiếc MiG-21 F13 số hiệu 4420 bắn rơi 6 máy bay chiến đấu Mỹ.
(còn nữa)

Chiếc MiG-17 số hiệu 2047 do phi công Nguyễn Văn Bảy điều khiển đánh bom gây thiệt hại tàu khu trục USS-Oklahoma City của Mỹ năm 1972.

(*) Không quân Nhân dân Việt Nam còn có một phi công nữa tên là Nguyễn Văn Bảy (biệt danh Bảy B). Ông nổi tiếng với chiến công dùng MiG-17 không kích tàu khu trục Mỹ USS Higbee (DD-806) vào ngày 19/4/1972.

Đây là chiến công đầu tiên của không quân Việt Nam đánh vào lực lượng Hải quân Mỹ. Rất tiếc, trong trận đánh vào ngày 6/5/1972, ông đã bị bắn rơi và anh dũng hi sinh. Năm 1994, phi công Nguyễn Văn Bảy B được truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân.

Theo Đất Việt

Chuyện ít biết của vị tướng không quân huyền thoại

23:49 27/12/2012

10 lần xuất kích bắn hạ 9 máy bay nhưng phải mất hơn 8 năm mới chinh phục được trái tim một người con gái.

Một vị tướng không quân Việt Nam từng nói: “Ở Việt Nam ra ngõ là gặp anh hùng, trong một đại đội không quân cũng có đến gần chục anh hùng”. Tuy nhiên, với tướng Cốc, có lẽ không quá khi nói rằng ông xứng đáng là “anh hùng của những anh hùng”. Vừa tròn 27 tuổi, ông được phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Ông cũng đang giữ kỷ lục Việt Nam là người bắn rơi nhiều máy bay nhất trong kháng chiến chống Mỹ. Hơn 10 lần xuất kích, riêng “Chim cắt số 2” đã hạ 9 máy bay địch đồng thời hỗ trợ đồng đội bắn hạ thêm 9 chiếc nữa. Chiến tích của ông từng là nỗi khiếp đảm của các đối thủ trên bầu trời. Bản thân các cựu binh Mỹ sau này cũng phải dùng từ “thán phục” khi nói về tài năng của tướng Cốc
.
Tuổi thơ dữ dội và giấc mơ “người giời”
Theo chân đoàn công tác của Quỹ “Mãi mãi tuổi hai mươi”, chúng tôi đến thăm Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, Trung tướng Nguyễn Văn Cốc khi ông đang được điều trị tích cực tại tư gia của thầy thuốc. Căn phòng ông nằm ở sâu phía trong ngôi nhà, được trang bị những dụng cụ chẳng khác gì trong bệnh viện. Bác sĩ trị liệu luôn túc trực và sẵn sàng can thiệp lúc cần thiết. Cú ngã “thập tử nhất sinh” (ngã từ cầu thang xuống) vào năm 2004, đã khiến ông bị chấn thương dây thần kinh sọ não, bị liệt toàn thân phải nằm một chỗ. Nhưng người anh hùng năm xưa vẫn chưa bao giờ tuyệt vọng. Ngày ngày ông vẫn luyện tập và lặng lẽ vượt lên dốc đứng của số phận...
Nếu không được giới thiệu từ đầu, có lẽ khách đến chơi không thể hình dung được rằng người bệnh đang ngồi xe lăn, tuổi ngoại lục tuần, phong cách bình dị, điệu cười đôn hậu này là Anh hùng, Trung tướng Nguyễn Văn Cốc, nguyên Tư lệnh quân chủng Không quân, nguyên Tổng Thanh tra Quân đội nhân dân Việt Nam.
Có lẽ đã rất lâu, từ sau khi bị tai nạn, tướng Cốc mới có dịp bộc bạch nhiều về mình như vậy. Ông kể, sinh ra phải thời loạn lạc, mới 4 tuổi đã phải đón nhận tin “sốc”, cả hai người thân là bố và chú ruột đều hi sinh một lúc. Khi địch đưa quân về càn tại Bích Sơn (Việt Yên, Bắc Giang) quê ông, bố và chú đã tổ chức nghi binh để đồng đội rút lui. Hai người đã cùng anh em chiến đấu ngoan cường chặn bước tiến của địch nhưng chẳng may bị bắt. Không hớt được cả mẻ lưới, địch điên cuồng đốt phá xóm làng, xâu dây thép gai vào tay 20 người rồi dong đi khắp nơi thị uy, bắt chỉ chỗ Việt Minh ẩn náu. Mọi người thà chết không chịu khai. Giặc Pháp đã thẳng tay ném 20 người xuống giếng làng, biến nơi đây thành mồ chôn tập thể.

Phi công Nguyễn Văn Cốc báo công với Bác Hồ
Nhắc đến chuyện xưa tướng Cốc như lặng đi, khuôn mặt trùng xuống, ẩn sâu nơi đáy mắt, hai giọt lệ rưng rưng như trực trào ra. Có lẽ đó là những ký ức đau buồn mà vị tướng lão thành này không muốn nhắc lại. “Sau khi ba và chú tôi ngã xuống, bà nội khóc thương đến mù cả hai mắt. Một năm sau bà cũng bỏ chúng tôi mà đi. Quê hương bị giặc Pháp tàn phá, nhiều lúc mẹ phải gánh hai anh em tôi chạy lên tận vùng Thái Nguyên sơ tán, rồi lại trở về xóm làng. Hồi đó tôi còn nhỏ nên chưa hiểu chuyện. Hàng đêm, nằm trong vòng tay mẹ, hai anh em lại hỏi: “Bố đi đâu sao không về hả mẹ”. Mẹ tôi bảo: “Các con cứ đếm sao trên trời, khi nào đếm hết sao thì bố sẽ trở về”. Nói xong, mẹ tôi khóc nức nở. Hai anh em nhìn lên bầu trời đêm thăm thẳm có những vì sao lấp lánh, mỏi mắt đếm từng ngôi, đếm mãi đêm này qua đêm khác mà tin bố vẫn bặt tăm. Sau này lớn lên, tôi mới hiểu được nỗi mất mát của mình”.
Theo lời kể của trung tướng Nguyễn Văn Cốc, giấc mơ chinh phục bầu trời, làm chủ những con “chim sắt” khổng lồ được nhen nhóm ngay từ khi ông còn nhỏ. Ở gần quê ông có sân bay Chũ. Ông thường say mê ngắm những chú “chim sắt” bay lượn trên bầu trời mà không biết chán. Nhìn những người lính dù, ông thầm nghĩ, không biết cảm giác được lơ lửng, làm chủ bầu trời sẽ thế nào?.
Khi ông đang là học sinh cấp 3, có đoàn bác sĩ về khám sức khỏe và tuyển chọn phi công. Chẳng do dự, biết cơ hội đã đến, ông lập tức đăng ký khám tuyển. Thật bất ngờ, ông nằm trong tốp đầu, xuất sắc vượt qua hàng trăm học sinh khác để trúng tuyển cùng với hai người nữa. Ông cười nói: “Tôi đến với phi công như một mối nhân duyên tiền định vậy!”.

Phi công Nguyễn Văn Cốc (ở giữa) cùng đồng đội
“Chim cắt số hai”
Theo một thống kê mới đây, trong chiến tranh Việt Nam, phía Mỹ chỉ có hai phi công trở thành “Át”, là Randy “Duke” Cunningham (Hải quân Hoa Kỳ) và Steve Ritchie (Không lực Hoa Kỳ) thì Việt Nam có đến 16 phi công đạt được danh hiệu tự hào đó. Trung tướng Nguyễn Văn Cốc là “Át chủ bài” dẫn đầu, với thành tích hạ 9 máy bay Mỹ (7 máy bay và 2 chiếc “xe trên trời không người lái” Firebees). Trong số 7 chiếc của ông, có 6 chiếc được chính thức xác nhận bởi Không lực Hoa Kỳ. Còn chiếc thứ 7 nữa, F-102A của phi công Mỹ Wallace Wiggins (chết) bị hạ ngày 3/2/1968, sau này được kiểm tra chính xác bởi Không quân Việt Nam.
Theo hồi tưởng của tướng Cốc, ngày 9/6/1961, ông chính thức được nhận giấy gọi nhập ngũ. Ông được điều về huấn luyện tại Trường Dự khóa bay ở sân bay Cát Bi (Hải Phòng). Cuối năm đó, ông sang Liên Xô học lái máy bay. “Tôi vẫn còn nhớ, lúc đầu, đoàn có 120 người. Sau khi học xong lý thuyết tại nước bạn còn đỗ lại 60 người. Tuy nhiên khi về nước chỉ còn có 23 người đủ tiêu chuẩn trở thành phi công. Tôi là một trong 17 người học lái máy bay MiG – 17”, tướng Cốc nhớ lại.
Sau khi về nước, tướng Cốc được phân công về Đại đội 1, Trung đoàn 921 (Đoàn Không quân Sao Đỏ) đóng tại sân bay Nội Bài. Không lâu sau, ông lại được chọn để đi học chuyển loại máy bay MiG-21 ở Liên Xô một năm, rồi lại về đơn vị cũ chiến đấu vào đầu năm 1967. Trong đội hình biên đội MIG-21, số 2 chỉ có nhiệm vụ yểm trợ, quan sát đối phương giúp cho số 1 vào công kích. Tướng Cốc được phân công bay ở vị trí số 2 với mục đích bảo vệ cho số 1 tiêu diệt đối phương.
Sau này, Trung tướng Nguyễn Văn Cốc đã cải tiến chiến thuật, cùng tham gia tiêu diệt máy bay đối phương. Do đó, hiệu suất phi đội tăng lên. Theo lời kể của ông, trước kia, do chỉ có số 1 công kích nên tối đa phi đội chỉ bắn hạ được 2 máy bay đối phương. Theo chiến thuật cải tiến, phi đội của ông có lúc bắn hạ được 3 máy bay đối phương. Để đạt được điều này, số 2 phải phán đoán và hành động chớp thời cơ rất nhanh. Do chiến thuật cải tiến này, ông được đồng đội đặt cho biệt danh “Chim cắt số 2”. Trong thành tích bắn rơi 9 máy bay Mỹ có tới 6 chiếc được ông bắn hạ ở vị trí số hai.

Đại diện của quỹ “mãi mãi tuổi hai mươi” đến tặng quà và động viên trung tướng Nguyễn Văn Cốc
Tướng Cốc nhớ lại, ông bắt đầu tham gia chiến đấu từ giữa năm 1966 nhưng do còn “non kinh nghiệm” nên chưa bắn rơi được máy bay địch. Bước sang năm 1967, những trận xuất quân của ông đã trở thành cơn ác mộng của kẻ thù. Sáu “pháo đài bay” từng làm mưa làm gió trên bầu trời đã bị ông tiêu diệt trong năm này. Gần 9h sáng ngày 30/4/1967, có tin địch từ hướng Sầm Nưa – Tuyên Quang - Tam Đảo vào, biên đội của ông được lệnh vào cấp 1 cất cánh chiến đấu. Hai chiếc MiG-21 xuất kích bay vút lên vùng trời Hòa Bình, Sơn La bám đuôi địch. Nguyễn Ngọc Độ ở vị trí số 1, còn ông ở vị trí số 2 bay lên độ cao khoảng 4.000m, cao hơn máy bay địch trên dưới 1.000m. Vừa nhập cuộc ông đã lập tức phát hiện 4 chiếc F105 màu đen bay theo hình thang cách nhau từ 1,5 đến 2km phía dưới, phía sau là các tốp cường kích có nhiệm vụ oanh tạc các mục tiêu. Khi cự ly còn khoảng 2km, phi công Nguyễn Ngọc Độ hô “Tốt rồi đấy, bắn đi”. Đúng lúc đó thì tên lửa ở máy bay ông cũng cho tín hiệu bắt nhiệt. Ông nhanh chóng nhấn cò, quả tên lửa phụt đi, trong tích tắc, chiếc F105 bùng cháy cùng tiếng reo của biên đội trưởng “Cháy rồi”. Cả hai nhanh chóng thoát ly, tập hợp đội hình và trở về sân bay. Đó là trận đầu tiên mở màn cho những trận đánh lập công của ông trong năm đó.
Trong hành trình làm chủ bầu trời, kỷ niệm “nhớ đời” nhất có lẽ là lần ông bị địch bắn rơi. Tướng Cốc cười hóm hỉnh: “Một lần, tôi cùng anh Phạm Thanh Ngân, cất cánh khỏi sân bay Nội Bài, vòng về phía núi Tam Đảo chiến đấu. Vừa lên được khoảng trên 1000m, ra khỏi mây, đã bị vài con F4 bám đuôi. Lúc đó, anh Ngân tỉnh táo phát hiện ra, đuổi theo bắn rơi một chiếc. Do mây mù che khuất, chưa kịp nhận diện mục tiêu tôi đã nghe thấy tiếng “uỳnh”..., một chiếc F4 của địch bắn tên lửa trúng chúng tôi. Trúng đạn quá bất ngờ, tôi bị mất điều khiển. Tuy nhiên, máy bay may mắn không bị cháy. Tôi lái vòng về phía thị trấn Kim Anh (thị xã Mê Linh, Vĩnh Phúc) thoát khỏi sự đeo bám của địch. Được một lúc thì máy bay rơi, tôi phải nhảy dù hoát thân. Đang loay hoay cuốn dù, bỗng bà con khắp vùng kéo đến hò hét “Bắt giặc lái”. Nhìn thấy tôi, một cụ già nhận ra người mình bèn chào: “Ô! Anh đấy à”. Lúc đó, tôi ngượng chín mặt. Tôi đành quay sang hối thúc: “Thôi bà con về đi, trên trời vẫn còn máy bay địch đó!”. Một lúc sau, ô tô của quân y đến đưa tôi trở về doanh trại và chuyển đến bệnh viện quân y 108. Sau này, anh Phạm Thanh Ngân gặp lại tôi có cười nói: “Tớ bắn rơi một chiếc, cậu phải nhảy dù, coi như ta với địch hòa một đều”.
“Mong có nhiều Cốc hơn nữa”
Một kỷ niệm không thể quên trong cuộc đời của tướng Cốc là lần được gặp Bác Hồ. Bác đến dự Đại hội Anh hùng, chiến sĩ thi đua của Quân chủng Phòng không-Không quân. Tướng Cốc nhớ lại, dáng Bác cao gầy, sức khỏe có vẻ không được tốt. Cả hội trường đứng dậy vỗ tay và hô vang tên Bác. Bác bước vào, ra hiệu cho mọi người ngồi xuống. Bác ngồi nghe Tư lệnh Phùng Thế Tài báo cáo. Sau khi nói chuyện với cán bộ, chiến sĩ đại hội, Bác hướng xuống hội trường bảo: “Chú Cốc đâu, lên Bác gặp”. Ông ngượng nghịu bước lên, Bác bắt tay ông và hỏi: “Chú đã bắn được mấy máy bay rồi?”. Ông trả lời: “Dạ thưa Bác, cháu bắn được 9 cái ạ”. Bác lại hỏi: “Thế chú được tặng mấy huy hiệu của Bác rồi?”. “Dạ thưa Bác, 9 chiếc ạ”.
Bác cầm tay ông giơ cao và hướng xuống hội trường nói: “Năm mới, Bác chúc cho Quân chủng Phòng không – Không quân có nhiều Cốc hơn nữa”. Khoảnh khắc đáng nhớ ấy đã được phóng viên ảnh ghi lại. Bức ảnh đó đã trở thành vật kỷ niệm đáng quý nhất trong cuộc đời ông với vị lãnh tụ kính yêu, vì cuối năm đó Người ra đi mãi mãi.
Anh Đức

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét