Anh hùng phi công Từ Đễ kể cuộc chạm mặt với 'cựu thù' sau 50 năm trên đất Mỹ
07:08 | 14/12/2017
Sau 50 năm gặp lại, những phi công Việt - Mỹ ôm
chầm lấy nhau rồi khóc, hồi tưởng lại những phút đối mặt khốc liệt trên
bầu trời Việt Nam.
Một ngày cuối tháng 12, trong tiết trời lất phất mưa, chúng tôi men
theo con hẻm nhỏ trên đường Cửu Long (quận Tân Bình, TP.HCM) tìm về nhà
của Đại tá Từ Đễ - nguyên Phó Cục trưởng Cục Quân huấn Quân đội Nhân dân
Việt Nam.
Ông Đễ là phi công của Phi đội Quyết Thắng, người từng dùng máy bay
thu được của địch, ném bom xuống sân bay Tân Sơn Nhất ngày 28/4/1975.
Hơn 40 năm, sau ngày đất nước thống nhất, Đại tá Từ Đễ vinh dự được
Đảng, Nhà nước trao tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân.
Ở tuổi 68, người phi công cường tráng ngày nào vẫn trẻ trung, vóc dáng
cao lớn, ánh mắt tinh anh, nhanh nhạy như một tráng niên.
Trong lần gặp gỡ này, điều khiến chúng tôi ấn tượng đó là câu nói "Hổ
phụ sinh hổ tử" được tái hiện trong chính gia đình Đại tá Từ Đễ.
Chắc hẳn tới bây giờ, nhiều thế hệ người Việt vẫn còn nhớ cố GS Từ
Giấy, tác giả của những phong lương khô N70, N71 hay mô hình VAC (Vườn
Ao Chuồng) đã “cứu đói, làm giàu” cho bao gia đình người Việt.
Cố GS Từ Giấy trở thành một trong 20 “huyền thoại sống của ngành dinh
dưỡng thế giới”. Ông Từ Giấy là người đầu tiên nhận giải thưởng "nhà
dinh dưỡng xuất sắc nhất Châu Á" và được Ủy ban Dinh dưỡng Liên Hiệp
quốc trao giải thưởng “Nhà khoa học đã suốt đời cống hiến cho sự nghiệp
dinh dưỡng”. Và ông Từ Giấy chính là cha ruột của Đại tá Từ Đễ.
Phi công Từ Đễ (thứ 3 từ trái qua phải) cùng Phi đội Quyết thắng tại
sân bay Thành Sơn trước khi đánh sân bay Tân Sơn Nhất chiều 28/4/1975.
Những người lính nhân văn
Kể về những tháng năm liều mình cầm cần lái bay lượn trên bầu trời,
vượt qua đạn bom của kẻ thù, và mới đây lại gặp chính những người năm
xưa từng đối đầu ấy, Đại tá Từ Đễ không giấu được vẻ bùi ngùi, xúc động.
"Đó là quãng thời gian quý giá và đáng nhớ nhất, chúng tôi là những
người lính nhân văn, chiến đấu nhân văn. Trong lần gặp lại vừa rồi tại
Mỹ, chúng tôi những phi công Việt - Mỹ lại càng trân quý nhau nhiều
hơn", Đại tá Từ Đễ nói.
Cuộc hội ngộ của hơn 50 cựu phi công Việt - Mỹ tại California (Mỹ)
vào ngày 21/9 vừa qua, do ông Nguyễn Sỹ Hưng - Chủ tịch HĐQT Vietnam
Airlines, con trai của Tướng Đồng Sỹ Nguyên (Tư lệnh Binh đoàn Trường
Sơn 559) đứng ra tổ chức, phần nào đó giúp các cựu phi công hai nước
xích lại gần nhau hơn.
Ngoài Đại tá Từ Đễ, cuộc hội ngộ còn có mặt các phi công danh tiếng
của Việt Nam như Trung tướng Phạm Phú Thái, phi công lái MIG-21, anh
hùng lực lượng vũ trang, bắn rơi 4 máy bay Mỹ; Phi công Lê Thanh Đạo lái
MI-21 bắn rơi 6 máy bay Mỹ; Phi công Nguyễn Văn Bảy lái MIG-21 đã 100
lần xuất kích, 13 lần nổ súng và đã bắn rơi 7 máy bay Mỹ; Phi công Mai
Đức Toại bắn rơi 2 máy bay Mỹ; Phi công Nguyễn Tiến Sâm bắn rơi 5 máy
bay Mỹ; Phi công Đồng Văn Song lái MIG-21 bắn 4 máy bay Mỹ. Về phía Mỹ,
những phi công nổi tiếng cũng tham gia như Đại tá Jack Ensch lái F-4B
trận ngày 23/5/1972; Chuẩn đô đốc Kenneth Pete Pettigrew đã tham gia
không chiến trong trận ngày 6/5/1972...
"Đó là cuộc hội ngộ đầy xúc động, bởi suốt một thời gian dài chúng
tôi từng được xem là đối thủ của nhau trên trời. Kết thúc chiến tranh,
chúng tôi chỉ biết tên tuổi của nhau qua sách báo, chưa từng một lần gặp
mặt.
Trong lần gặp mặt này chúng tôi có cảm giác rằng, những cựu phi công
Việt - Mỹ thật giống nhau, chúng tôi cảm nhận được sự nhân văn trong
chiến đấu từ nhau.
Thời gian đã trôi đi, đã hơn 40 năm từ những ngày làm thù địch, những
vết thương quá khứ đã liền sẹo và chúng tôi mong muốn rằng, các cựu phi
công hãy làm cho nhân dân hai nước xích lại gần nhau hơn", Đại tá Từ Đễ
chia sẻ.
Thấy hai cái đầu trắng ngọ nguậy
trong buồng lái nên ông (phi công Nguyễn Văn Bảy) không nhắm vào đó nữa,
vì nếu bắn thì hai phi công Mỹ sẽ chết ngay nên nhắm vào cánh máy bay.
Anh hùng phi công Từ Đễ
Đại tá Từ Đễ cũng bày tỏ tình cảm giữa cựu phi công hai nước chính là
điều khiến ông xúc động nhất sau chuyến đi vừa qua. Ông xúc động khi
những người từng là kẻ thù của nhau, lại có những giây phút thân tình
như thế. Và cả trước đây, khi rượt đuổi nhau trên bầu trời, chính các
ông cũng là những người lính đầy lòng vị tha và nhân văn. "Đánh nhau trên trời thì người ta nghĩ đâu có nhân văn gì, tuy
nhiên tôi kể cho chuyện này. Buổi hội ngộ hôm đó, khi mà ông Bảy (phi
công Nguyễn Văn Bảy - PV) đứng lên, nói chuyện về trận đánh của cụ thì ở
dưới có một ông phi công Mỹ già lắm, đứng lên hỏi cụ Bảy có nhớ trận
đánh ngày 16/9/1966 ở phía Bắc không? Lúc đó ông Bảy mới trả lời: "Tôi nhớ, trận đó tôi bắn rơi một máy
bay F4". Ngay lập tức, ông phi công Mỹ đứng bật dậy nói "Tôi là người
lái máy bay bị ông bắn rơi đây này. Ôi! 50 năm sau tôi mới nhìn thấy
người bắn rơi máy bay mình". Rồi ông ấy oà khóc và đi tới ôm chầm lấy
ông Bảy. Sau đó, phi công Nguyễn Văn Bảy kể rằng, trong trận chiến hôm đó
lúc máy bay của ông chui lên khỏi mây thì thấy máy bay của phi công Mỹ
đang lượn tìm mục tiêu. Lúc đó ông Bảy nhắm vào buồng lái máy bay đối
phương. Tuy nhiên, thấy hai cái đầu trắng ngọ nguậy trong buồng lái nên
ông không nhắm vào đó nữa, vì nếu bắn thì hai phi công Mỹ sẽ chết ngay
nên nhắm vào cánh máy bay. Chiếc máy bay có 2 phi công Mỹ trúng đạn, lộn nhào cắm xuống đất.
Một chiếc dù bung ra. Ông Bảy thắc mắc và hỏi cựu phi công Mỹ rằng
người còn lại đâu vì mục tiêu của cụ Bảy là diệt máy bay chứ không bắn
phi công, nên ông mới cố tránh để bắn vào cánh máy bay cho các ông ấy
nhảy dù thoát thân.
Đối với cựu phi công Từ Đễ, kỷ vật quan trọng và đáng giá nhất thời
đạn bom đối với ông hiện tại là buồng lái máy bay chiến đấu từng sát
cánh với ông.
Nghe vậy, phi công người Mỹ tiếp tục oà khóc kể rằng, vị Thiếu tá
lái máy bay cùng với ông ngồi buồng trước nhưng không biết tại sao
không nhảy dù: "Ông ấy ngồi trước tôi ngồi sau, đáng nhẽ ông ấy sẽ dễ
nhảy hơn, tôi nhảy sẽ dễ chết. Tuy nhiên không hiểu sao ông ấy không
nhảy". Lúc đấy, cả khán phòng hơn 50 phi công hải quân đều im lặng... Sau cuộc nhận diện của hai phi công từng đối đầu nhau, tôi thấy
được sự cảm động trong mỗi người tại khán phòng đang trào dâng. Họ cảm
động vì cuộc hội ngộ sau hơn 40 năm gặp mặt, vì hành động nhân văn của
ông Bảy. Cụ ấy bắn cánh máy bay, để máy bay rơi và phi công nhảy dù chứ
không muốn giết người. Hành động đó nước Mỹ đánh giá rất cao," Đại tá Từ Đễ kể. "Không phải tự nhiên mà tôi nói cả cựu phi công Việt Nam và Mỹ
đều nhân văn, nhân văn ở phi công Việt Nam thì câu chuyện của ông Bảy là
điển hình rồi. Còn về phía Mỹ, chúng tôi nhận ra được sự nhân văn của
họ trong chuyến thăm Việt Nam vào năm ngoái (2016). Ngày xưa, trong đoàn Mỹ, có một ông phi công là trung tá lái máy
bay F4J, từng vào đánh sân bay Kép. Tên lửa máy bay Mỹ bắn xuồng bắn thì
phi đội MiG-21 cất cánh. Một chiếc vừa cất cánh đã bị bắn nổ và đâm rầm
xuống đất. Người phi công tử nạn là Nguyễn Văn Ngãi (quê Hà Tây cũ).
Anh ấy còn rất trẻ. Sau đó, một phi công của ta ghìm máy bay sát đất và tăng tốc lên
trời đánh nhau với biên đội Mỹ. Một máy bay F4J bị bắn rơi. Thế là trận
đó hoà 1-1. Và trong cuộc gặp, một cựu phi công Mỹ thừa nhận đúng như
thế", Đại tá Từ Đễ kể lại.
Lúc đó, ông Đễ mới nói với cựu phi công đó rằng, lần đó họ đánh nhau
với mình như thế là không quân tử vì máy bay không quân Việt Nam chưa
kịp ngoi lên đã bị bắn ngay như vậy thì không công bằng. Cựu phi công Mỹ
gật đầu thừa nhận. "Sau cuộc gặp năm ngoái, tôi đã mời cựu phi công đó về thăm gia
đình phi công Ngãi, người tử nạn trong trận đánh năm đó. Lúc đến nhà phi
công Ngãi thì phi công Mỹ cùng một Đại tá Mỹ nữa nước mắt rưng rưng. Họ nói câu này làm tôi nhớ mãi: "Nhiệm vụ của chúng tôi là bắn
rơi máy bay của đối phương, chứ chúng tôi không có ý giết người, chuyện
này hoàn toàn không may nên thật sự mong gia đình thông cảm cho tôi".
Trong cuộc hội ngộ với các cựu phi công Mỹ, đối với ông, ông trân quý nhất là tính nhân văn giữa những người lính không quân.
Trong buổi hội ngộ, Chuẩn đô đốc Kenneth Pete Pettigrew của Mỹ đã xúc
động cho rằng giữa các phi công đều có một điểm tương đồng, đó là họ
đều có lòng yêu nước. Chỉ có điều, các phi công Việt Nam thể hiện lòng
yêu nước bằng lòng dũng cảm, chiến đấu bảo vệ tổ quốc thân yêu của mình.
Những phi công Mỹ vẫn còn nợ Việt Nam những lời xin lỗi.
Tất cả cựu phi công Mỹ ai cũng công nhận rằng phi công Việt Nam là
những người tài giỏi. Họ từng đối đầu với phi công Trung Quốc, Bắc Triều
Tiên và cả Liên Xô cũ, nhưng với họ, phi công Việt Nam là những người
xuất sắc nhất trong những người xuất sắc.
Thy Huệ
VTC News
Phương Tây viết về chiến thuật của các phi công “Ace” của Việt Nam
VOV.VN xin giới thiệu với độc giả bài viết của tác giả Diego
Zampini trên trang acepilots.com nói về không quân nhân dân Việt Nam và
một số phi công hạng Ace (những phi công đã bắn hạ từ 5 máy bay của đối
phương trở lên) của Việt Nam trong cuộc đối đầu với các lực lượng không
quân hùng hậu của Mỹ thời kỳ chiến tranh Việt Nam:
Ngày 23/8/1967, Mỹ tiến hành ném bom thủ đô Hà Nội của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Phía Mỹ tung vào trận một đội hình hùng hậu gồm tới 40 máy bay, trong
đó có oanh tạc cơ Thunderchief, F-105F chuyên “xử lý” các radar tên lửa
SAM, và máy bay Phantom hộ tống.
Tiêm kích cơ MiG-21 của trung đoàn 921 chuẩn bị vào trận nghênh chiến với máy bay Mỹ. Ảnh tư liệu của Việt Nam.
Tổ lái của một chiếc F-4D, gồm Charles R. Tyler (phi công) và Ronald
M. Sittner (phụ trách hỏa lực), tỏ ra chủ quan. Họ không ngờ sẽ có máy
bay MiG chặn đánh...
Tuy nhiên Tyler được một phi công F-105D (Elmo Baker) thông báo qua
vô tuyến điện rằng anh ta đã bị một chiếc MiG-21 đánh trúng và sắp bung
dù. Trong lúc Tyler quan sát xung quanh xem có đối phương nào không thì
một tiếng nổ lớn làm máy bay của anh ta rung mạnh. Tyler sau đó mất điều
khiển đối với máy bay và buộc phải nhảy dù. Lơ lửng trên không cùng với
dù, Tyler thấy chiếc F-4D của mình bốc cháy như đuốc và rơi xuống rừng
rậm. Tyler không thấy đồng đội Sittner nhảy dù – anh ta đã chết tức thì
do trúng tên lửa. Hai phi công Tyler và Baker đã bị quân đội Việt Nam
bắt giữ ngay khi họ chạm đất.
Cả hai đã bị bắn hạ bằng tên lửa R-3S Atoll phóng đi từ hai chiếc
MiG-21PF của trung đoàn tiêm kích 921 thuộc Quân chủng Không quân Nhân
dân Việt Nam, do hai phi công là Nguyễn Nhật Chiêu và Nguyễn Văn Cốc
điều khiển.
Thêm hai chiếc F-4D khác bị hạ vào hôm đó, mà Việt Nam không mất một
chiếc MiG nào. Đây là một trong những ngày thành công nhất của không
quân Việt Nam.
Trong Chiến tranh Việt Nam, chỉ có hai phi công Mỹ đạt hạng Ace là
Randy "Duke" Cunningham (thuộc hải quân Mỹ) và Steve Ritchie (thuộc
không quân Mỹ) trong khi đó phía Việt Nam có tới 16 phi công đạt danh
hiệu này.
Nguyễn Văn Cốc là phi công đứng đầu trong các phi công Ace của Việt
Nam. Anh tiêu diệt được 9 máy bay của đối phương, trong đó có 2 chiếc
phi cơ không người lái (UAV). Trong 7 máy bay còn lại, phía Mỹ xác nhận 6
chiếc.
Thậm chí nếu không tính 2 chiếc UAV thì với chiến công hạ 7 máy bay
có người lái, Nguyễn Văn Cốc vẫn xứng đáng là phi công hạng Ace số 1 của
toàn cuộc Chiến tranh Việt Nambởi không có phi công Mỹ nào hạ được quá 5 máy bay của đối phương. Vì sao Việt Nam nhiều phi công hạng Ace hơn hẳn Mỹ?
Một nguyên nhân là số lượng đôi bên. Năm 1965 phía Không quân Nhân
dân Việt Nam chỉ có 36 chiếc MiG-17 và một số lượng phi công tương tự.
Con số này tăng lên thành 180 chiếc MiG và 72 phi công vào năm 1968.
72 phi công quả cảm này phải đương đầu với khoảng 200 chiếc F-4,
khoảng 140 chiếc Thunderchief, và ước chừng 100 chiếc F-8/A-4/F-4 của
hải quân Mỹ xuất kích từ hàng không mẫu hạm cùng rất nhiều máy bay hỗ
trợ (gây nhiễu, cứu hộ…)
Trong bối cảnh đó các phi công Việt Nam phải chiến đấu vất vả và bận
rộn hơn rất nhiều.... Trong khi đó các phi công Mỹ được luân chuyển về
nước để huấn luyện, bay thử hoặc tham gia công tác chỉ huy. Có trường
hợp được điều trở lại chiến trường Việt Nam nhưng rất hiếm.
Còn chiến thuật thì sao?
Các phi công Việt Nam nhận được sự dẫn đường tuyệt vời của kiểm soát
mặt đất, giúp họ chiếm lĩnh được vị trí phục kích tối ưu. Tiêm kích MiG
thực hiện tấn công nhanh và hiệu quả từ vài hướng. Thường thì các máy
bay MiG-17 sẽ tấn công trực diện, còn MiG-21 sẽ tấn công vu hồi. Sau khi
bắn hạ một số máy bay Mỹ và buộc một số chiếc F-105 phải ném bom sớm,
máy bay MiG sẽ không nấn ná lâu để bị trả đũa – chúng sẽ lập tức thoát
ly nhanh chóng. Chiến thuật “du kích trên không” này tỏ ra rất hiệu quả.
Đã vậy phía Mỹ lại phạm một số sai lầm tạo điều kiện thuận lợi cho
phía Việt Nam. Chẳng hạn cuối năm 1966 đội hình F-105 của Mỹ thường bay
vào ban ngày vào giờ cố định, theo hành trình cố định và sử dụng những
tín hiệu liên lạc lặp đi lặp lại. Nhờ đó phía Việt Nam phát hiện được
đối phương một cách dễ dàng và tung đòn quyết liệt.
Vào tháng 12/1966, phi công MiG-21 của trung đoàn 921 chặn đánh các
chiếc phi cơ Thunderchief trước khi gặp máy bay hộ tống F-4. Kết quả,
phía Việt Nam hạ được tới 14 chiếc F-105 mà không phải chịu tổn thất
nào.
Thế còn công tác huấn luyện?
Vào giữa thập niên 1960, các phi công Mỹ chủ yếu được huấn luyện kỹ
năng sử dụng tên lửa nhằm giành thắng lợi trên không. Thế nhưng họ quên
mất một điều là một phi công có tài điều khiển phi cơ quan trọng không
kém vũ khí mà anh sử dụng.
Không quân Việt Nam ý thức được điều đó và huấn luyện phi công của
mình tận dụng lợi thế linh hoạt của các máy bay MiG-17, MiG-19 và
MiG-21. Họ chủ trương cận chiến để hạn chế các lợi thế của các máy bay
Phantom và Thunderchief to hơn.
Các phi công Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Ảnh tư liệu của Việt Nam.
Đến năm 1972 phía Mỹ đã phải điều chỉnh nội dung huấn luyện không chiến cho phi công Mỹ và trang bị thêm pháo 20mm cho F-4E.
Cuối cùng bản thân việc phía Mỹ có quá nhiều máy bay tham chiến đã
tạo điều kiện cho các phi công Việt Nam có nhiều mục tiêu để tấn công.
Các phi công hạng Ace của Việt Nam lái tiêm kích MiG-21 và MiG-17, không có ai trong số họ lập chiến công bằng MiG-19. Nguyễn Văn Bảy
Khi trung đoàn tiêm kích 923 được thành lập vào ngày 7/9/1965, anh
Nguyễn Văn Bảy là một trong các học viên được lựa chọn để lái MiG-17.
Khóa huấn luyện kết thúc vào tháng 1/1966. Thiếu úy trẻ Nguyễn Văn Bảy
nhanh chóng được cất cánh đối đầu với máy bay Mỹ.
Ngày 21/6/1966, bốn chiếc MiG-17 của trung đoàn 923 giao chiến với
một chiếc RF-8A và các chiếc F-8 hộ tống... Phi công Nguyễn Văn Bảy đã
bình tĩnh bắn hạ chiếc F-8E của phi công Cole Black buộc người này phải
nhảy dù và bị bắt làm tù binh. Phi công Nguyễn Văn Bảy làm xao nhãng đội
bay hộ tống và điều này tạo điều kiện cho phi công Phan Thanh Trung lái
chiếc MiG dẫn đầu biên đội bắn hạ chiếc RF-8A. Phi công Leonard Eastman
bị bắt làm tù binh.
Một tuần sau, vào ngày 29/6 phi công Nguyễn Văn Bảy và 3 phi công
MiG-17 khác giao chiến với các chiếc F-105D của Mỹ tiến đánh các kho
nhiên liệu ở Hà Nội. Nguyễn Văn Bảy đã bắn hạ một chiếc Thunderchief
được lái bởi phi công Thiếu tá hạng ace của Mỹ từng hạ 6 chiếc MiG trong
Chiến tranh Triều Tiên.
Chiến công lớn nhất của phi công Nguyễn Văn Bảy là vào ngày 24/4/1967. Là chỉ huy biên đội, Nguyễn Văn Bảy
Bảy cất cánh từ sân bay Kiến An và dẫn dắt máy bay MiG-17 khác nghênh
chiến với máy bay Mỹ đang nhằm vào cảng Hải Phòng. Nguyễn Văn Bảy bám
sát đuôi một chiếc F-8C rồi nhả một loạn đạn 37mm khiến máy bay đối
phương vỡ tan. Chiếc F-8C bốc cháy rồi rơi xuống đất, còn viên phi công
Tucker tuy kịp nhảy dù thoát thân nhưng đã bị bắt sống sau đó.
Các chiếc F-4B lập tức lâm chiến và bắn vài trái tên lửa Sidewinders
về phía Nguyễn Văn Bảy nhưng máy bay số 2 trong biên đội đã cảnh báo cho
anh. Nguyễn Văn Bảy thoát ly gấp và tránh được tất cả các quả tên lửa.
Sau đó Nguyễn Văn Bảy lao chiếc MiG-17 về phía một chiếc Phantom và dùng pháo hạ gục chiếc phi cơ này.
Hôm sau, ngày 25/4, biên đội MiG-17 của Nguyễn Văn Bảy lại lập chiến
công, hạ thêm 2 chiếc A-4 mà không chịu tổn thất nào. Hải quân Mỹ xác
nhận chiến công này: Họ mất chiếc A-4C số hiệu 147799 (bị bắn hạ bởi
pháo của máy bay phi công Nguyễn Văn Bảy) và chiếc A-4C số hiệu 151102.
Phi công Nguyễn Văn Bảy đã được tuyên dương Anh hùng Quân đội Nhân
dân Việt Nam nhờ kỹ năng và lòng can đảm trong chiến đấu cũng như năng
lực chỉ huy biên đội. Nguyễn Đức Soát
Một kỳ tích của Không quân Nhân dân Việt Nam là các phi công giỏi đã
truyền thụ kinh nghiệm chiến đấu cho các phi công mới. Một trường hợp
điển hình là phi công Nguyễn Đức Soát.
Học viên phi công MiG-21 này được điều về trung đoàn 921. Các giảng
viên của anh là các phi công dày dạn và nổi tiếng thời đó: Phạm Thanh
Ngân (bắn hạ 8 máy bay đối phương) và phi công Ace số 1 – Nguyễn Văn Cốc
(bắn hạ được 9 máy bay đối phương). Phi công Nguyễn Đức Soát đã thu
được nhiều kinh nghiệm quý báu từ bậc đàn anh.
Được điều về trung đoàn tiêm kích 927 mới thành lập, phi công Nguyễn
Đức Soát nhanh chóng thể hiện tài năng. Anh lập chiến công đầu tiên khi
bắn hạ chiếc A-7B Corsair II (của hải quân Mỹ) bằng pháo 30mm. Phi công
Mỹ Charles Barnett tử trận.
Ngày 24/6/1972 hai chiếc MiG-21 do Nguyen Duc Nhu và Ha Vinh Thanh
lái cất cánh từ sân bay Nội Bài vào lúc 15h12 để chặn đánh một số chiếc
Phantom tấn công một nhà máy ở tỉnh Thái Nguyên. Máy bay Mỹ hộ tống
nhanh chóng xung trận. Nhưng 2 chiếc MiG đó chỉ là mồi nhử. Bất thình
lình hai chiếc MiG-21PFM của trung đoàn 927 xuất hiện, với máy bay số 1
là của Nguyễn Đức Soát và máy bay yểm trợ là của phi công Ngo Duc Thu.
Phi công Nguyễn Đức Soát phóng một quả tên lửa tầm nhiệt R-3S Atoll
hạ gục chiếc F-4E của David Grant và William Beekman – hai phi công này
sau đó bị bắt làm tù binh. Phi công số 2 (Thu) cũng bắn rơi một chiếc
Phantom khác.
Ba ngày sau các anh Soát và Thu xuất kích từ Nội Bài vào lúc 11h53 và
lao về phía 4 chiếc F-4. Tuy nhiên hai người phát hiện có thêm 8 chiếc
Phantom đang lao tới nên họ không liều lĩnh đẩy mình vào thế “kẹp bánh
mì” giữa các máy bay tiêm kích Mỹ.
Hai phi công Việt Nam quyết định quay lại, leo lên độ cao 5.000m và
chờ đợi. Sự kiên nhẫn của họ được đền đáp. Đối phương bị bất ngờ, các
anh Soát và Thu mỗi người hạ một chiếc Phantom đều bằng tên lửa R-3./.
Theo Trung Hiếu/VOV.VN/Zampini/acepilots.com
Cánh én bạc MiG-21 và những phi công huyền thoại Việt Nam khiến Mỹ ngưỡng mộ
ANTD.VN - Người Nga chế tạo nên máy bay tiêm kích MiG-21 nổi tiếng,
nhưng chính phi công Việt Nam mới làm cho nó trở thành huyền thoại.
Có lẽ trong lịch sử chiến tranh hiện đại, không quân Mỹ cảm phục nhất
là khi họ giao chiến với không quân Việt Nam. Những phi công điêu luyện
cùng với Cánh én bạc MiG-21 huyền thoại đã bao lần làm các phi công dày
dạn của Mỹ phải kinh sợ. Người Nga chế tạo nên máy bay tiêm kích MiG-21
nổi tiếng, nhưng chính phi công Việt Nam mới làm cho nó trở thành huyền
thoại.
Tiêm kích đánh chặn MiG-21
Việt Nam đã được Liên Xô viện trợ MiG-21 vào năm 1965. Bằng chiến
thuật tài tình và sự quả cảm, những phi công Việt Nam cùng với chiến đấu
cơ MiG-21 đã lập lên hàng trăm chiến công, bắn rơi các loại tiêm kích
hiện đại nhất của Mỹ lúc bấy giờ như F-4, F-105 và đặc biệt là bắn cháy
cả pháo đài bay B-52.
Phi công Việt-Mỹ: 'Kẻ thù xưa, anh em nay'
23 tháng 9 2017
Không biết là vô
tình hay hữu ý nhưng gần như cùng thời điểm khi bộ phim tư liệu 'The
Vietnam War' (Chiến tranh Việt Nam) ra mắt, những người lính phi công
Bắc Việt và Hoa Kỳ cũng đã có một buổi giao lưu gặp gỡ hiếm hoi.
Trong
khán phòng khoảng một trăm người, tại bảo tàng tàu sân bay USS Midway,
những người tham gia hầu hết đều ở độ tuổi thất thập cổ lai hy. Một số
còn nhận ra nhau, reo lên "Anh này bắn hạ tôi năm xưa!" như thể gặp lại
một bạn lâu năm.
Quả thực, buổi gặp gỡ "From Dogfights to Dente"
(Từ Không chiến đến Hòa giải) tối 21/9/2017 tại bảo tàng tàu sân bay USS
Midway, ở San Diego, California, không phải là buổi gặp mặt đầu tiên
giữa các cựu lính phi công Bắc Việt - Hoa Kỳ. Tường thuật trực tiếp buổi giao lưu From Dogfight to Detente Chính phủ VN nói gì về phim 'The Vietnam War'? Bàn tròn thứ Năm: Hội luận về bộ phim 'The Vietnam War' Vietnam War: 'Cuộc chiến day dứt tất cả chúng tôi'
Tháng
4/2016, 11 cựu lính phí công Hoa Kỳ đã sang Hà nội gặp gỡ địch thủ Cộng
Sản năm xưa. Và có vẻ buổi gặp gỡ cá nhân đầu tiên, vốn là đứa con tinh
thần giữa Trung tướng Nguyễn Đức Soát và Đại tá Charlie "Shark" Tutt,
đã mở đường cho cuộc gặp gỡ thứ hai vào tối 21/9 vừa qua.
Hay như cách Đại tá Lê Thanh Đạo nói tại buổi giao lưu: "Chỉ mới một năm không gặp thôi mà đã thấy nhớ rồi."
Đoàn
cựu phi công chiến đấu của Không quân nhân dân Việt Nam (Bắc Việt), gồm
11 người, dẫn đầu đoàn là Trung tướng Nguyễn Đức Soát, người đã có một
bài phát biểu mở đầu buổi giao lưu.
"Cách đây hơn 40 năm, chúng ta, các phi công trẻ đều
thực hiện nhiệm vụ mà đất nước giao cho mình. Ngày nay khi quan hệ hai
nước tốt lên... chúng ta nhìn lại trận đánh ngày xưa để hiểu thêm về
nhau, chia sẻ nỗi đau mất mát mà cuộc chiến nào cũng để lại cho mỗi
phía."
"Mục đích của buổi gặp gỡ là hiểu thêm về các trận không
chiến. Nhưng mục đích cao cả hơn là góp phần xây dựng mối quan hệ Việt
Nam-Hoa Kỳ đúng như quyết tâm của hai nước, gác lại quá khứ, hướng đến
tương lai."
Một cựu phi công Mỹ khác phát biểu tại buổi gặp mặt
thì nói: "40 năm trước, năm 1965, Bắc Việt có 40 phi công. Và 40 phi
công này đã chiến đấu lại Hải quân Mỹ, Không quân Mỹ, Thủy quân lục
chiến Mỹ và cả các lực lượng chiến đấu từ các nước đồng minh của Mỹ.
Chúng ta, khác họ, chúng ta có thể trở về nhà sau 10 tháng chiến đấu.
Còn họ, họ đã ở quê nhà rồi. Nhưng họ vẫn luôn phải trở lại chiến
trường."
"Cuộc gặp năm ngoái giữa chúng tôi, họ đã khiến tôi thực
sự cảm phục. Tôi hi vọng họ cũng sẽ dành được sự cảm phục từ quý vị," vị
cựu sĩ quan Mỹ cũng từng tham gia buổi gặp gỡ năm ngoái tại Hà Nội nói
thêm.
'Ông có căm thù Mỹ không?'
Buổi
giao lưu đầu tiên diễn ra với sự tham gia của Trung tướng Đức Soát, Đại
tá Nguyễn Thanh Quý và Đại úy John Cerak của Không quân Hoa Kỳ. Miền Bắc Việt Nam cũng có phong trào chống chiến tranh Thấy gì từ tập đầu phim The Vietnam War? Cựu Đại sứ VNCH Bùi Diễm nói về bộ sách 'Lịch sử Việt Nam'
"Chúng
tôi đang bay qua không phận Lào, sau đó quay trở lại về phía Đông, liên
tục dùng radar rà soát, thì đột nhiên, ông Nguyễn Đức Soát đây đã phá
hỏng một ngày đẹp trời," Đại úy John Cerak nói chỉ tay về ông Soát trong
khi khán phòng rộ lên tiếng cười.
"Ông Nguyễn Đức Soát, ông đã
bắn hạ sáu máy bay Mỹ, đây là có phải là vì lòng hận thù không?" Người
điều phối buổi giao lưu Scott McGaugh hỏi.
Vị Trung tướng 72 tuổi trả lời:
"Riêng
đặc thù của không quân, chúng tôi chỉ thấy máy bay thôi. Khi vào không
chiến, máy bay này theo máy bay kia. Các phi công là những người lính mà
cảm giác về chết chóc ít xảy ra vì người ta không nhìn thấy. Không ai
mong bắn chết người khác, chỉ mong bắn hạ máy bay của đối phương thôi.
"Cách
đây bảy năm tôi gặp Đại tá Charlie Tutt, Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ.
Tôi bàn với ông ấy tổ chức cho các cựu phi công từng tham chiến ở Việt
Nam gặp nhau. Cho nên tình cảm của tôi đối với nhân dân Mỹ như thế, các
bạn hiểu cả..."
Có phi công Nga và Trung Quốc tham chiến?
Tọa đàm về Bộ sách Lịch sử Việt Nam: Vấn đề và ý kiến Phó Chủ tịch Hội sử học VN nói về bộ sách Lịch sử Việt Nam
Một người trong khán đài hỏi "Có phi công Nga và Trung Quốc tham chiến hay không?"
Đại
tá Nguyễn Thanh Quý phân trần: "Trong cuộc chiến, phi công giai đoạn đó
được Liên Xô cũ và Trung Quốc đào tạo. Trong chiến tranh không có phi
công Nga, Trung Quốc nào tham gia. Chúng tôi có bí mật quân sự riêng. Ở
Nga chúng tôi chỉ học kỹ thuật. Còn chiến thuật là chúng tôi tự tìm tòi.
Các sĩ quan Nga không được vào sở chỉ huy, điều hành, không được dự
buổi rút kinh nghiệm.
"Có nhóm ba phi công chuyên gia, một mặt là
giúp bay hồi phục khi các giáo viên bận đi đánh nhau. Có một lần là
tháng 9/1972, một phi công học bay được một thiếu tá người Nga bay kèm
giúp bay hồi phục kỹ thuật thì bị bốn chiếc F4 tấn công. Máy bay tập thì
không đeo tên lửa. Bốn chiếc F4 quần cho đến khi gần hết dầu thì các
phi công nhảy dù, nên mới có chuyện một phi công người Nga nhảy dù.
Nhưng là trong trường hợp bay hồi phục, chứ không phải chiến đấu."
Sự xuất hiện của một sĩ quan Việt Nam Cộng Hòa tại
buổi giao lưu cũng gây chút bất ngờ. Ông Nguyễn Hưng, tự giới thiệu là
lính biệt động quân của lực lượng Việt Nam Cộng Hòa và chỉ tay về phía
cựu phi công Bắc Việt, cười lớn nói "They shot me down! (Họ bắn hạ tôi
đấy!)"
"Tôi muốn hỏi các cựu phi công Hoa Kỳ ở đây, ai là người đã
ném quả bom xuống bệnh viện Bạch Mai, xuống Khâm Thiên," ông Hưng hỏi.
Câu
hỏi khó gây ra một sự lúng túng cho cả khán phòng, nhưng người điều
phối Scott Gaugh khéo léo tránh né bằng cách thay thế với câu hỏi "Các
ông nghĩ sao về độ chính xác của bom Mỹ?"
Nhưng sĩ quan Hải quân
Hoa Kỳ, Clint Johnson lại không tránh né, trả lời "Họ đã làm hết sức có
thể để tránh thương vong cho thường dân. Chúng tôi đã rất cẩn thận để
không đánh bom sai nơi... nhưng tai nạn xảy ra. Một số người đã không
cẩn thận nhưng chúng tôi có quy định rất nghiêm ngặt. Nếu anh không tuân
theo, anh có thể mất sự nghiệp phi công vĩnh viễn hoặc đi tù."
Về phía Cộng Sản Bắc Việt, Đại tá Lê Thanh Đạo trả lời:
"Tôi
không biện minh cho những quả bom của máy bay Mỹ ném vào khu nhà dân
nhiều dân thường. Nhiều trẻ em đã bị chết, tuy nhiên tôi cũng hiểu kỷ
luật quân đội Mỹ là rất rõ ràng. Nhưng bệnh viện Bạch Mai thì rất sát
khu chỉ huy không quân của chúng tôi. Quả bom không trúng hầm chỉ huy mà
'lạc' sang bệnh viện.
"Điều đó tôi thấy người ném bom không có lỗi, nhưng để gây ra chiến tranh mới có lỗi"
Buổi
giao lưu chuyển hướng sang cuộc sống cá nhân giữa thời chiến. Đại tá Lê
Thanh Đạo thì tự hào giới thiệu người vợ cùng theo ông đến buổi giao
lưu.
"Đây là bà vợ tôi, trong chiến tranh là tuần cũng lên thăm
chồng xem còn sống hay không, đến nỗi có tay chỉ huy nói là cô cứ lên
như thế này là làm mất sức chiến đấu của chúng tôi."
"Ngược lại chúng tôi có vợ con lên nên càng hăng hái
hơn, may quá lúc đó tôi đã bắn được bốn chiếc máy bay rồi cho nên tôi
vẫn được động viên khen thưởng. Công bắn hạ tên lửa là do vợ tôi cả.
'Chiến tranh là thứ ngu xuẩn nhất loài người từng làm'
Trả lời phóng viên tờ San Diego Union-Tribune, Đại úy Hải quân Jack "Fingers" Ensch nói:
"Nhà
tù nhỏ nhất thế giới là giữa hai tai anh. Nếu anh cứ tiếp tục căm thù,
thì họ cũng vẫn cách xa nửa thế giới. Họ không biết anh đang nghĩ về họ,
hận thù họ hay những thứ như thế. Họ tiếp tục với cuộc sống của mình.
Nếu anh vẫn hận thù, thì anh vẫn bị giam cầm."
Trước khi kết thúc buổi tọa đàm, khi được mời chia sẻ những lời cuối, Đại úy Clint Johnson nói:
"Tôi
không bao giờ ghét kẻ thù. Cả hai đều làm những điều mà chúng tôi nghĩ
là tốt nhất. Người Mỹ muốn ngăn cản sự lan rộng của chủ nghĩa cộng sản,
còn người Việt Nam chỉ muốn thống nhất đất nước, không thể tranh cãi gì
được với một một sứ mệnh như thế.
"Rất tiếc là quốc gia chúng ta
phải giao chiến như thế. Tôi không nghĩ bên nào thực sự căm ghét bên
nào. Họ có thể thù ghét một số hành động, nhưng tôi không tin họ căm
ghét đối thủ của mình trên chiến trường," ông Johnson nói.
Còn Đại tá Lê Thanh Đạo thì nhắc lại thông điệp mà Trung tướng Đức Soát đã nói trong phát biểu mở đầu:
"Chúng
ta đã ngồi đây như những người bạn. Chúng ta hãy khép lại quá khứ,
hướng tới tương lai, tình hữu nghị Việt-Mỹ của chúng ta."
Phi công Át chủ bài xuất sắc nhất mọi thời đại
17:33 11/11/2014
352 lần diệt máy bay đối phương và chưa một lần bị bắn hạ, lịch sử quân
sự vinh danh Erich Alfred Hartmann là phi công Át chủ bài xuất sắc nhất
mọi thời đại.
Kỷ lục 352 lần chiến thắng không chiến mà phi công Erich Alfred Hartmann lập nên có thể sẽ không bao giờ bị vượt qua. Ảnh: Wikipedia
Chiến tranh thế giới II ghi nhận những trận không chiến lớn nhất lịch
sử. Trong những trận không chiến đẫm máu đó, hàng ngàn phi công đã được
vinh danh là những phi công Át chủ bài xuất sắc nhất, tức các phi công
có số lần bắn hạ máy bay đối phương từ 5 chiếc trở lên.
Trong số đó, phi công Erich Alfred Hartmann, phi đoàn tiêm kích JG
52, Không quân Đức là người đạt thành tích cao nhất. Trong những năm Thế
chiến II, ông đã thực hiện 1.404 phi vụ chiến đấu trong đó có 850 phi
vụ không chiến.
Trong các phi vụ không chiến, Hartmann đã bắn hạ 352 máy bay đối
phương, bao gồm 345 máy bay Liên Xô và 7 máy bay Mỹ. Suốt sự nghiệp, 14
lần máy bay của ông bị thiệt hại do các mảnh vỡ từ máy bay mà ông bắn hạ
hay trục trặc kỹ thuật.
Ông chưa bao giờ phải hạ cánh do trúng hỏa lực của đối phương, một thành tích mà không phải phi công nào cũng đạt được. Các đồng đội trong Không quân Đức gọi ông với biệt danh "Bubi" còn các phi công Liên Xô gọi ông là "con Quỷ đen".
Các phi công Liên Xô thừa nhận Hartmann là
một bậc thầy trong kỹ thuật không chiến phục kích. Không quân Liên Xô
từng treo giải thưởng 10.000 Rúp cho ai bắn hạ ông. Ảnh: Wikipedia
Hartmann sinh ngày 19/4/1922 trong một gia đình có mẹ là nữ phi công
đầu tiên của Đức và cha là một bác sĩ tại Weissach, Württemberg, Đức.
Ông bắt đầu sự nghiệp bay của mình với vai trò phi công tàu lượn trong
chương trình đào tạo của Không quân Đức.
Người thầy dạy bay đầu tiên của ông không ai khác chính là mẹ của
ông, bà Elisabeth Wilhelmine Machtholf. Năm 1936, chính quyền hỗ trợ bà
Machtholf thành lập một trường dạy bay tại Weil im Schönbuch. Tại đây,
Hartmann trở thành một giảng viên khi mới 14 tuổi.
Hartmann bắt đầu chương trình huấn luyện bay quân sự vào ngày
1/10/1940 tại trung đoàn không quân số 10 ở Neukuhren. Ngày 3/1/1941 ông
bắt đầu thực hành bay với giáo viên dẫn trong 4 ngày, sau đó, trong 3
tuần ông thực hành bay chỉ một mình. Hartmann hoàn thành chương trình
huấn luyện bay cơ bản vào ngày 1/11/1941, sau đó ông tiếp tục được đào
tạo chiến đấu nâng cao.
Từ ngày 1/3-22/8/1942 các giáo viên huấn luyện ông để bay tiêm kích
Messerschmitt Bf 109, loại máy bay sau này đã gắn liền với tên tuổi và
sự thành công của ông. Tháng 10/1942, ông được điều động đến nhận nhiệm
vụ tại phi đoàn tiêm kích JG 52 hoạt động chiến đấu trên mặt trận phía
Đông.
Con đường trở thành phi công Át chủ bài xuất sắc nhất mọi thời đại
của Hartmann không hề đơn giản. Nhiệm vụ không chiến đầu tiên của ông
kết thúc trong thất bại, máy bay phải hạ cánh khẩn cấp do hết nhiên
liệu.
Hartmann bị cấm bay 3 ngày do vi phạm hầu hết các quy tắc không
chiến. 12 ngày sau, ông lập chiến công đầu tiên khi hạ một chiếc IL-2
của Liên Xô, đến cuối năm 1942 ông chỉ lập thêm một chiến công. Hartmann
mất khá nhiều thời gian để khẳng định mình là một phi công xuất sắc.
Trong trận không chiến lớn tại Vòng cung Kursk, ông bắn hạ 7 máy bay
đối phương. Đầu tháng 8/1943, con số chiến thắng của ông đã lên đến 50.
Tháng 9/1943, ông được bổ nhiệm làm phi đội trưởng phi đội 9, phi đoàn
JG 52.
Các phi công Liên Xô từng thừa nhận, Hartmann là một bậc thầy trong
kỹ thuật không chiến phục kích. Ông thường sử dụng chiến thuật "từ Mặt
trời", tức kỹ thuật bay không chiến theo hướng ánh sáng mặt trời khiến
đối phương bị lóa mắt và không nhận ra mình đang bị tấn công.
Chiếc tiêm kích Bf 109 sơn màu hoa Tulip đen đặc trưng của Hartmann tại bảo tàng hàng không vũ trụ Evergreen. Ảnh: Wikipedia
Hartmann chỉ nhấn nút khai hỏa khi cách đối phương 20 mét, kỹ thuật
này cho phép ông giấu vị trí đến phút chót và đối phương không kịp trở
tay. 80% số lần chiến thắng của ông dựa trên kỹ thuật không chiến này.
Điểm hạn chế là khi tấn công ở cự ly gần, các mãnh vỡ của máy bay đối
phương có thể gây nguy hiểm cho máy bay của ông.
14 lần ông phải hạ cánh khẩn cấp do dính phải mãnh vỡ từ máy bay đối
phương đã nói lên điều đó. Kỹ thuật không chiến của Hartmann ngày càng
trở nên điêu luyện. Ngày 24/8/1944 ông nâng con số chiến thắng của mình
lên 301.
Chiến thắng không chiến thứ 352 và cuối cùng của ông diễn ra vào ngày
8/5/1945. Sau đó ông bị bắt bởi sư đoàn bộ binh 90 quân đội Mỹ và giao
cho Hồng quân Liên Xô. Hartmann bị kết án tội ác chiến tranh do đã giết
chết 780 thường dân trong vụ không kích vào nhà máy bánh mì ở Briansk và
phải chịu mức án 25 năm lao động khổ sai.
Năm 1955, ông được phóng thích sau một thỏa thuận giữa chính phủ Tây
Đức và Liên Xô. Trở lại Tây Đức ông nhận nhiệm vụ chỉ huy phi đoàn tiêm
kích JG 71 cho đến khi nghỉ hưu vào năm 1970. Hartmann qua đời vào ngày
29/9/1993 ở tuổi 71. Tháng 1/1997, chính phủ Nga đã ra thông báo minh
oan cho ông không phải là tội phạm chiến tranh.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét