Thứ Sáu, 25 tháng 5, 2018

NHỮNG GIAI THOẠI HUYỀN BÍ 8 / Đọc truyện

(ĐC sưu tầm trên NET)

Sách là ngọn đuốc soi rọi chân lý, là chiếc khăn thấm đẫm máu, nước mắt và lòng nhân ái của loài người!
--------------------------------------------------------------------
 NGUYN HU KIT dịch
TSÁCH HUYN MÔN
NHNG GIAI THOI HUYN BÍ
(LCH SHI THÔNG THIÊN HC - PHN 2)
HI KÝ CA ĐẠI TÁ H. S. OLCOTT
CHI TRƯỞNG HI THÔNG THIÊN HC THGII

CHƯƠNG MƯỜI BỐN
CÁI GIẾNG THẦN

I.

Tôi trở lại Tích Lan sau nửa năm vắng mặt, để tiếp tục công việc Hội và cũng để trợ giúp công cuộc chấn hưng Phật giáo tại xứ này.
Ngày 29 tháng 8, có xảy ra một việc tại khu hoa viên của thành phố Galle, nay đã trở thành một diễn biến lịch sử. Sau buổi diễn thuyết của tôi hôm ấy, có một cuộc quyên góp để gây quỹ cho công việc hoằng truyền Phật giáo tại xứ này. Một người tên Cornelis Appu được ông Jayasekera, Chi hội trưởng Chi hội Thông thiên học tại Galle giới thiệu cho tôi. Người ấy đã góp số tiền nửa ru-pi, và xin lỗi về số tiền quá nhỏ vì ông ta bị bệnh tê liệt một cánh tay và một chân từ tám năm nay, không thể làm gì được để kiếm sống.
Khi tôi từ Bombay vừa đến Colombo, vị Sư trưởng Phật giáo có cho tôi biết rằng Giáo hội Gia Tô đã chuẩn bị mọi việc để sử dụng cái giếng trong nhà một giáo dân, gần thị trấn Kelanie, như một cái “giếng thần” để chữa bệnh cho dân chúng, theo kiểu giếng Đức Mẹ tại Lộ Đức (Lourdes). Có tin cho biết một người đã được chữa khỏi bệnh một cách mầu nhiệm, nhưng khi hỏi kỹ ra mới biết đó chỉ là một chuyện bịa đặt.
Tôi liền nói với vị Sư trưởng rằng đây là một vấn đề nghiêm trọng cần lưu ý. Một khi sự gợi ý đó đã bắt đầu thấm nhuần vào tư tưởng người dân, thì nó sẽ trở thành một sự thôi miên tập thể. Không bao lâu sẽ có những trường hợp khỏi bệnh thật sự, và chừng đó những Phật tử kém hiểu biết và tin tưởng mù quáng sẽ bỏ đạo mình để hùa nhau theo đạo khác.
Vị Sư trưởng nói: “Tôi biết làm sao bây giờ?”
Tôi nói: “Đại đức phải ra tay hành động, hoặc phải có một vị sư danh tiếng nào khác hãy nhân danh Đức Phật để chữa bệnh cho mọi người.”
Sư trưởng đáp: “Nhưng chúng tôi không thể làm được; chúng tôi không biết gì về những việc đó.”
Tôi nói quả quyết: “Nhưng dù sao thì việc ấy vẫn phải được thực hiện.”
Khi người bệnh nói trên diễn tả căn bệnh bại liệt của ông ta, tôi cảm thấy trong thâm tâm có một cái gì hình như muốn nói với tôi: “Đây là cơ hội cho anh sử dụng cái giếng thần!”
Tôi đã khảo cứu về khoa nhân điện và chữa bệnh bằng nhân điện (Mesmérisme) trong ba mươi năm, nhưng chưa bao giờ thực tập, mà chỉ có làm vài cuộc thí nghiệm cần thiết lúc ban đầu. Nhưng bây giờ, do sự thúc đẩy của tình thương (vốn là cái động cơ căn bản cho việc chữa bệnh có kết quả), tôi đưa hai bàn tay truyền điện lên cánh tay bại liệt của người bệnh một vài lần, và nói với ông ta rằng tôi hy vọng ông sẽ cảm thấy khá hơn đôi chút. Kế đó, ông ta trở về nhà.
Chiều hôm đó, tôi đang ngồi nói chuyện với các bạn đạo tại nhà thì thấy người bệnh bại liệt ngày hôm qua, tay chống nạng, chân đi khập khiễng bước vào. Ông ta xin lỗi đã đến làm rộn, và nói rằng ông cảm thấy khá nhiều nên đến để cảm ơn tôi.
Tin lành bất ngờ này khích lệ tôi tiếp tục chữa bệnh cho ông ta. Sau độ một khắc đồng hồ truyền điện cho cánh tay bại liệt, tôi dặn ông ta hãy trở lại vào sáng hôm sau.
Tôi phải nói thêm rằng, không một ai ở Tích Lan biết tôi có quyền năng chữa bệnh, và có lẽ họ cũng không hề biết gì về quyền năng này. Như vậy không thể có giả thuyết được nêu ra về sự ám thị hay ảo giác tập thể trong trường hợp này.
Sáng hôm sau người kia lại đến và tỏ vẻ tôn sùng tôi như một siêu nhân vì y cảm thấy bớt hẳn. Tôi lại tiếp tục chữa cho y luôn ba ngày liên tiếp, và qua ngày thứ tư y đã có thể vung cánh tay bại liệt của y lên vòng quanh đầu, mở và khép bàn tay, và sử dụng bàn tay để làm các động tác thông thường một cách dễ dàng.
Trong vòng bốn ngày kế đó, ông ta đã có thể sử dụng bàn tay được chữa khỏi để ký tên vào một chứng thư kể rõ trường hợp của ông và cho công bố. Đó là lần đầu tiên ông ta có thể cầm đến một cây viết kể từ chín năm nay.
Tôi cũng đã chữa khỏi luôn cái chân bại liệt của ông ta, và độ một hai ngày sau, ông ta đã có thể nhảy với cả hai bàn chân, nhảy lò cò bằng cái chân bại liệt, đá lên vách với một chiều cao đồng đều nhau bằng cả hai chân, và chạy một cách tự do theo ý muốn.
Giống như rơm khô bắt lửa, tin ấy loan truyền rất nhanh khắp cả mọi nơi trong tỉnh. Cornelis đưa đến một người bạn bại liệt giống như ông ta, cũng được tôi chữa khỏi. Kế đó, những người khác đến. Lúc đầu còn đến từng nhóm nhỏ đôi ba người, kế đến hàng chục người, và trong vòng độ một tuần lễ sau, ngôi nhà tôi ở bị bệnh nhân vây phủ suốt ngày từ sáng sớm cho đến khuya, để nhờ tôi truyền điện chữa bệnh cho họ.
Sau cùng, họ trở nên quấy rầy, phiền nhiễu đến nỗi tôi cũng không còn biết phải làm sao để thoát khỏi vòng vây. Lẽ tất nhiên, với sự tăng gia đức tin nơi khả năng của mình, sức mạnh nhân điện của tôi tăng vọt lên gấp bội, và những chứng bệnh mà lúc đầu tôi phải mất đến nhiều ngày mới chữa khỏi, nay tôi có thể chữa trong vòng nửa tiếng đồng hồ.
Một điều bực bội, khó chịu nhất trong việc này là thái độ ích kỷ, thấp hèn của đám đông. Họ bao vây tôi trong buồng ngủ khi tôi còn chưa thay quần áo, theo sát tôi từng bước một, không cho tôi có thời giờ ăn cơm, và làm áp lực ráo riết đối với tôi, bất luận rằng tôi bị mệt mỏi và kiệt sức đến độ nào! Tôi chữa bệnh cho họ suốt bốn, năm giờ liên tiếp, cho đến khi tôi cảm thấy kiệt quệ, không còn chút sinh lực nào. Khi đó tôi mới nghỉ độ nửa giờ đi xuống biển để tắm nước mặn, và khi trở lên nhà, tôi lại cảm thấy tràn đầy sinh lực, thể xác được tăng cường. Tôi bèn tiếp tục công việc chữa bệnh cho đến khi hoàn toàn xế trưa, tôi đã mệt lả và phải yêu cầu bệnh nhân hãy trở về nhà.
Lúc ấy tôi ở trên tầng lầu thứ nhất của ngôi nhà trọ, nên phần nhiều những người bệnh nặng phải được thân nhân bạn bè khiêng lên lầu và đặt họ nằm dưới chân tôi. Có những người hoàn toàn bại liệt, với những tay chân co quắp làm cho họ có một hình thù dị dạng giống như những rễ cây có bướu trông rất dễ sợ. Sau một hay hai lần truyền điện, mỗi lần độ nửa giờ, tôi đã làm cho họ duỗi thẳng tay chân và đi đứng được như thường.
Tôi dùng cái hàng ba rộng lớn của ngôi nhà làm một sân vận động, chọn lấy hai ba người trong số những người bệnh nặng nhất vừa được chữa khỏi, và bắt họ chạy đua theo chiều dài hàng ba. Họ và những người đứng xem đều cười lớn về sự đùa giỡn khôi hài đó, và ngạc nhiên tự hỏi sao lạ vậy, nhưng tôi làm vậy là có mục đích truyền cho họ một đức tin nơi hiệu lực của phép chữa bệnh, giống như đức tin của tôi, để cho sự bình phục của họ được hoàn toàn chắc chắn.
Tôi cũng cảm thấy rất sung sướng khi có thể làm dịu bớt bao nhiêu nỗi khổ đau của nhân loại, và trong nhiều trường hợp, đã làm cho những phế nhân phục hồi lại được tất cả niềm vui của một sức khỏe lành mạnh và tất cả những khả năng hoạt động của một đời người.
Sự việc trên vẫn tiếp tục cho đến tận những vùng làng mạc xa xôi hẻo lánh trên lộ trình hoạt động của tôi ở miền Nam đảo Tích Lan. Tôi thường đến mỗi thị trấn hay làng xã bằng xe ngựa hay xe bò, và thấy bệnh nhân rải rác nằm ngồi đợi tôi trên các hàng ba, bãi cỏ, và trong đủ mọi loại xe cộ, hoặc kiệu khiêng bằng tay, đến từ các vùng lân cận.
Baddegama là một trung tâm nổi tiếng về những hoạt động truyền giáo, và cũng về sự thù nghịch đối với Phật giáo nói chung. Có những tin tức hăm dọa rằng các nhà truyền giáo sẽ tấn công tôi trong buổi diễn thuyết tại đây, và lẽ tự nhiên các Phật tử sẽ tề tựu đông đảo để nghe tôi nói chuyện. Nhiều hội viên Thông thiên học cũng từ Galle đến dự thính, và trong đám đông, tôi nhìn thấy Cornelis Appu. Ông ta đã đi bộ suốt hai mươi cây số đường trường để đến đây. Thế là không còn nghi ngờ gì về việc ông ta đã được hoàn toàn chữa khỏi bệnh bại liệt!
Một trường hợp lý thú đã đến với tôi ở một tiểu ấp tên Agalya. Một bà lão bảy mươi hai tuổi bị một con trâu cái đá khi bà đang vắt sữa độ vài năm trước đây; bà bị vẹo xương sống, không thể đứng thẳng người và đi phải chống gậy. Bà bất giác cười lớn một cách dòn dã khi tôi nói rằng không bao lâu tôi sẽ làm cho bà nhảy múa được. Nhưng chỉ sau có mười phút truyền điện dọc theo xương sống và tay chân, bà đã cảm thấy bình phục sức khỏe. Tôi bèn nắm tay bà, quăng bỏ cây gậy chống và bảo bà cùng chạy với tôi trên sân cỏ. Bà đã chạy được như thường!

II.

Xong việc, tôi trở về Trụ sở Hội Thông thiên học tại Galle, và một cuộc vây khổn thứ nhì của bệnh nhân đang chờ đón tôi tại đây. Tôi có ghi nhận một việc cho thấy cái tinh thần ích kỷ, hẹp hòi, vô nhân đạo của vài người trong giới y sĩ đối với vấn đề chữa bệnh miễn phí của những lương y mà họ gọi là “tay ngang”, trong khi những người này lại chỉ làm việc vì tình thương nhân loại.
Một số bệnh nhân của bệnh viện Galle phải rời khỏi bệnh viện vì là bệnh nan y không thể chữa khỏi. Họ đã đến với tôi và được bình phục sức khỏe. Lẽ tự nhiên, họ loan truyền tin lành đó một cách hào hứng, sôi nổi. Giới y sĩ chuyên nghiệp không thể làm ngơ hay dửng dưng trước sự việc ấy, và ngày nọ một vị bác sĩ trẻ trong tỉnh đã đến chứng kiến việc làm của tôi.
Ngày đó, có một trăm bệnh nhân đến nhờ tôi chữa, và tôi đã truyền điện cho hai mươi ba người, trong số đó có những trường hợp khỏi bệnh một cách rất nhiệm mầu. Khi đã chứng kiến tận mắt, bác sĩ K. thành thật nhìn nhận hiệu lực của khoa chữa bệnh bằng nhân điện và đã ở lại với tôi suốt ngày, trợ giúp tôi trong việc chẩn bệnh, và làm những công việc của một người trợ tá bệnh viện. Chúng tôi đều ưa thích nhau, và khi chia tay, ông ta hẹn sẽ đến sáng ngày hôm sau để trợ giúp tôi tùy theo khả năng. Chính ông cũng đang bị đau chân vì một chứng bệnh cứng xương mắt cá, và tôi đã chữa khỏi cho y.
Ngày hôm sau, ông ta không đến, cũng không cho biết lý do tại sao. Sự bí mật ấy về sau được giải thích trong một bức thư ông viết cho một người bạn quen giữa đôi bên. Chính người này đã giới thiệu ông ta đến với tôi trước đây.
Dường như khi chia tay tôi hôm trước, lòng đầy hứng khởi với những gì đã tận mắt chứng kiến, ông ta liền đến gặp vị Bác sĩ trưởng của bệnh viện và báo cáo mọi việc. Vị thượng cấp của ông nghe một cách lạnh lùng, và khi đã nghe xong liền nói lên một nhận xét cay độc về tôi. Ông cho rằng tôi là một lang băm, việc chữa bệnh ấy chỉ là một trò dối gạt phỉnh lừa, những bệnh nhân đã được trả tiền để nói dối, và vị bác sĩ trẻ bị ngăn cấm không được có bất cứ liên hệ gì với tôi hay những “trò khỉ” của tôi nữa.
Ông ta còn cảnh cáo vị bác sĩ trẻ rằng, nếu không tuân lệnh, hãy coi chừng có thể bị mất việc. Và nếu thấy tôi có nhận tiền thù lao, phải tố giác tôi trước pháp luật vì hành nghề lương y mà không có giấy phép!
Thế là người trợ tá và hâm mộ tôi đã quên cả bổn phận học hỏi cầu tiến trong sự chữa bệnh, quên cả sự trung thành đối với chân lý, quên cả lương tâm chức nghiệp đối với khoa học, quên tất cả những gì anh ta đã tận mắt nhìn thấy tôi làm, cả sự hứa hẹn những gì mà với thời gian anh ta cũng sẽ có thể làm, thậm chí cũng không nhớ cả cái bàn chân đau của anh ta đã được tôi chữa khỏi, và quên cả phép lịch sự tối thiểu của người không đến được nơi hẹn như lời hẹn trước. Người bác sĩ ấy không đến, thậm chí cũng không có một lời xin lỗi.
Tôi cảm thấy thương hại anh ta, bởi vì tất cả những triển vọng tương lai đen tối của anh ta trong sự trói buộc; đồng thời tôi cũng cảm thấy rằng anh ta đã đánh mất đi sự quý trọng mà lẽ ra tôi vẫn dành cho anh ta nếu anh dám đứng ra chống lại óc nô lệ nghề nghiệp xấu xa ích kỷ. Đó là một sự thiên lệch, hủ bại về tinh thần, luôn khiến cho toàn thể nhân loại phải chịu đựng bệnh tật chứ không được chữa trị một cách hiệu quả, trừ phi bởi những lương y “chính thống”, với cái gọi là “hiểu biết” và “không hề lầm lẫn” của ngành Y học chính thức!

CHƯƠNG MƯỜI LĂM 
BÍ QUYẾT CỦA SỰ CHỮA BỆNH

I.

Bí quyết chữa bệnh hữu hiệu bằng khoa nhân điện đã được tiết lộ cho tôi nhờ một kinh nghiệm trải qua tại một làng nhỏ ở miền nam Tích Lan.
Một người bệnh bán thân bất toại, tê liệt hết nửa thân mình, được đưa đến cho tôi chữa. Tôi bắt đầu truyền điện trên cánh tay y dọc theo các đường gân và bắp thịt, và thỉnh thoảng thổi vài cái lên trên. Trong không đầy nửa tiếng đồng hồ, tôi đã làm cho cánh tay anh ta co giãn được như thường đến mức có thể vung tay vòng quanh đầu, mở và xếp các ngón tay tự nhiên, cầm bút, thậm chí nhặt một cây kim nhỏ, và làm mọi động tác chính xác tùy ý muốn.
Kế đó, vì tôi đã chữa liên tiếp nhiều trường hợp tương tự suốt nhiều giờ và đã cảm thấy mệt mỏi, tôi mới yêu cầu Ban tổ chức hãy bảo người bệnh ngồi đợi để tôi nghỉ ngơi giây lát. Trong khi tôi ngồi nghỉ và ngậm ống điếu hút thuốc, một người trong Ban tổ chức nói cho tôi biết rằng bệnh nhân ấy rất giàu có, ông ta đã tốn tiền cho các bác sĩ, thuốc men hết một ngàn năm trăm ru-pi mà bệnh vẫn không thuyên giảm. Ông ta lại là một người rất hà tiện và ai cũng biết rõ tính keo kiệt, bủn xỉn của ông ta. Ái chà! Trong tất cả những thói hư tật xấu ghê tởm nhất đối với nhà huyền học, thì sự tham muốn tiền bạc là một: đó là một sự đam mê ti tiện và bỉ ổi nhất! Trong lòng tôi tự nhiên mất hết thiện cảm đối với người ấy.
Theo lời đề nghị của tôi, Ban tổ chức mới hỏi ông ta xem định quyên góp bao nhiêu tiền vào quỹ phước thiện Phật giáo. Ông ta nói rằng mình rất nghèo và đã phải tốn nhiều tiền cho các bác sĩ, nhưng dù sao cũng sẽ đóng góp một ru-pi! Thế là hết chỗ nói!
Sau một lúc nghỉ ngơi, tôi lại tiếp tục chữa cái chân bại xuội của y và chỉ độ nửa giờ sau, cái chân y đã cử động và đi đứng được như thường. Ông ta bước chân ra về một cách tỉnh táo lành mạnh như mọi người. Người thư ký của tôi cũng đã bảo ông ta viết một chứng thư về sự chữa khỏi bệnh cho ông ta và tôi còn giữ bức văn kiện ấy như một kỷ niệm trong chuyến đi Tích Lan.
Ban tổ chức của tôi đã sắp đặt một loạt những chuyến đi diễn thuyết ở các vùng, mỗi lần kéo dài độ hai tuần lễ, rồi trở về Galle là địa điểm trung tâm.
Khi chuyến đi này kết thúc, một hôm tôi hỏi thăm về tình trạng sức khỏe của vài bệnh nhân mà tôi chú trọng nhất vì tính cách đặc biệt của bệnh trạng, trong số đó có trường hợp của bệnh nhân hà tiện bủn xỉn kể trên. Tôi rất ngạc nhiên khi nghe biết rằng cánh tay ông ta đã hoàn toàn lành mạnh, nhưng còn cái chân thì không khỏi hẳn, mà đã trở lại tình trạng liệt bại như cũ!
Tuy tôi không thấy có trường hợp nào tương tự trong các sách vở dạy về khoa nhân điện, nhưng lý do đã nổi bật ngay tức khắc. Đó là vì tôi đã mất thiện cảm đối với người kia sau khi nghe nói về thói bủn xỉn, hà tiện của ông ta. Bởi vậy, nguồn sinh lực của tôi không rung động dọc theo hệ thần kinh của ông ta như trong trường hợp chữa cánh tay, và kết quả là chỉ có một sự kích thích lành mạnh tạm thời, rồi lại trở về tình trạng bại liệt như cũ. Trong cả hai trường hợp, tôi đã áp dụng cùng một kỹ thuật chữa bệnh giống nhau, và đã truyền qua cho ông ta một lượng sinh lực đồng đều nhau, nhưng trong trường hợp sau, tôi không cảm thấy có chút tình thương và hảo ý nào để đem lại sự khỏi bệnh thật sự và lâu dài như trong trường hợp của cánh tay.
Vài nhà viết sách về khoa nhân điện, trong đó có tác giả Younger, cũng đã khẳng định rằng “tình thương là bí quyết căn bản để chữa hầu hết mọi bệnh tật bằng cách truyền nhân điện”.
Trường hợp trên cũng nhắc nhở sự thật của những giáo lý cổ xưa dạy rằng những tư tưởng tốt lành của ta đưa đến cho người khác có tác dụng rất nhiệm mầu để gây cho người ấy niềm phúc lạc và sự lành mạnh lâu bền, còn những tư tưởng ác gây ra một hậu quả ngược lại.
Điều đó cảnh báo chúng ta hãy cẩn thận giữ gìn đừng nghĩ quấy cho kẻ khác, và bởi đó chúng ta sẽ hiểu dễ dàng lý do tại sao có sự sợ sệt những nhà phù thủy với những phép trù ếm và thốt ra những lời nguyền rủa hại đời. Những việc đó đều có căn cứ chắc chắn, và người ta có thể sử dụng những sức mạnh vô hình để gây họa cũng như để đem đến niềm vui và hạnh phúc cho người chung quanh.
Một trường hợp bị “ma nữ hấp tinh” đã được vị Sư trưởng của một ngôi chùa đưa đến cho tôi chữa trị tại Galle. Một nhà sư trẻ độ chừng hai mươi bảy tuổi, từ hai hay ba năm qua đã bị một con nữ yêu (Yakshini) tác quái chọc ghẹo. Vị Sư trưởng nói với tôi rằng con nữ yêu này đã đóng vai trò “vợ ma” của nhà sư trẻ, làm cho vị sư này trác táng quá độ giống như một người bị chứng “động tình” (nymphomania). Nhà sư trẻ bị “hấp tinh” như vậy nhiều lần mỗi đêm, làm cho thể chất y hao mòn đến độ chỉ còn da bọc xương.
Vị Sư trưởng yêu cầu tôi chữa bệnh cho nhà sư trẻ. Cũng may là vài năm trước đây ở Hoa Kỳ tôi cũng đã có chữa khỏi một trường hợp tương tự, nhưng bệnh nhân là một người nữ, vì vậy nên tôi biết khá rõ là phải làm thế nào.
Tôi dành cho nhà sư trẻ một khóa trị liệu bằng nước lạnh có truyền nhân điện, và bảo ông ta hãy đến mỗi buổi sáng trong vòng một tháng để nhận lấy phần nước đem về uống mỗi ngày. Sau một tháng, nhà sư đã hoàn toàn khỏi bệnh.
Trường hợp này được giải thích một cách đơn giản là ảnh hưởng tác quái của nữ yêu đã bị hóa giải và tiêu diệt bởi quyền năng ý chí mạnh mẽ hơn của tôi, và tác dụng thường xuyên của nước lạnh có truyền nhân điện đã trợ giúp thêm để tăng cường hiệu lực. Tất cả các nhà chữa bệnh bằng nhân điện đều đồng quan niệm như nhau về sự công hiệu của nước lạnh có truyền nhân điện như một phương thuốc trị liệu rất thần tình.

II.

Ngày 17 tháng 2, tôi xuống tàu đi Calcutta. Sau một chuyến đi thích thú, tôi cặp bến vào ngày 20 và được tiếp đón tại nhà khách của Quốc vương Jotendra Mohun Tagore. Ngôi dinh thự của ngài bỗng dưng biến thành một bệnh viện, vì bệnh nhân đã tề tựu rất đông để chờ đợi tôi cứu chữa.
Một trong những bệnh nhân đầu tiên là một thanh niên Ấn bị bệnh động kinh (epilepsy), thường lên cơn từ năm mươi đến sáu mươi lần mỗi ngày. Tuy nhiên, bệnh ấy thuyên giảm rất mau dưới bàn tay truyền điện của tôi, và qua ngày thứ tư, những cơn động kinh đã hoàn toàn dứt hẳn.
Tôi không biết rằng sự khỏi bệnh này có được lâu bền hay không, nhưng chắc là không. Vì những nguyên nhân sâu xa đến nỗi đã gây nên một số quá nhiều những lần lên cơn như vậy mỗi ngày, không có lẽ lại bị tiêu trừ sau chỉ có mấy ngày chữa trị. Đáng lý ra bệnh nhân phải được chữa trị trong một thời hạn lâu dài, có thể là nhiều tuần trước khi có thể hoàn toàn bình phục. Và quả nhiên sự việc về sau đã xảy ra đúng như tôi nhận xét.
Bệnh động kinh tuy là một trong những chứng bệnh dễ sợ nhất, nhưng cũng là một trong những bệnh dễ trị nhất bằng phương pháp truyền nhân điện.
Ngoài ra, tôi cũng gặp những trường hợp lý thú tương tự khác nữa. Trong số đó có một thanh niên Bà- la-môn chừng hai mươi tám tuổi, bị chứng tê liệt các đường gân trên mặt đã hai năm qua, làm cho anh ta phải ngủ với cặp mắt mở to vì không thể khép mí mắt lại, và cũng không thể nói chuyện vì lưỡi không cử động được.
Khi hỏi tên anh ta là gì, anh chỉ có thể thốt ra một âm thanh chát chúa trong cổ họng, vì lưỡi và đôi môi đều tê cứng và anh ta không sử dụng được như ý muốn.
Khi vừa bước vào phòng, anh ta đứng nhìn tôi trong câm lặng và ra hiệu bằng tay để mô tả căn bệnh của mình.
Sáng hôm ấy, tôi cảm thấy sinh lực tràn đầy cuồn cuộn, cơ hồ tôi có thể truyền điện cho cả một con voi. Tôi đưa cánh tay và bàn tay mặt thẳng lên trời, và đôi mắt nhìn thẳng vào người bệnh, tôi dõng dạc hô to bằng thổ ngữ Bengali: “Anh hãy khỏi bệnh!” Đồng thời tôi hạ cánh tay xuống tư thế ngang bằng và chĩa bàn tay tôi vào mặt anh ta.
Lúc ấy, bệnh nhân có phản ứng cơ hồ như bị điện giật. Anh ta run rẩy khắp cả thân mình, đôi mắt y nhắm lại và mở ra, cái lưỡi y bị tê cứng đã lâu, nay lại thè ra thụt vào, anh ta thốt lên một tiếng kêu mừng rỡ với một âm thanh vang dội và sụp xuống lạy dưới chân tôi. Anh vừa ôm hôn hai đầu gối tôi, vừa tỏ lòng biết ơn bằng những lời nói nhiệt thành rối rít.
Cảnh tượng ấy thật quá xúc động. Sự khỏi bệnh của anh ta thật quá đỗi nhanh chóng, đến nỗi mỗi người có mặt trong phòng đều chia sẻ nỗi cảm xúc mừng vui không tả xiết của người thanh niên, và không có ai là không rơi lệ.

III.

Trường hợp sau đây có lẽ là trường hợp lý thú nhất. Có một người tên Badrinath Banerji, là luật sư tòa án thị trấn Bhagalpore. Ông ta bị mù hoàn toàn, phải nhờ một đứa trẻ dắt đi. Sau khi đã qua tay những y sĩ nhãn khoa giỏi nhất của thành phố Calcutta và phải rời khỏi bệnh viện vì võng mạc teo nhỏ dần không thể chữa khỏi, ông ta đến nhờ tôi chữa bệnh.
Tôi nắm chặt hai bàn tay, chĩa ngón cái của bàn tay mặt trước một mắt của y, và ngón cái của bàn tay trái chĩa vào đằng sau gáy. Tôi vận dụng ý chí phóng một luồng nhân điện từ đầu dương cực do ngón cái tay mặt chạy xuyên qua con mắt và bộ óc của người bệnh, cho tiếp nối với đầu âm cực ở ngón cái chĩa vào sau gáy. Thế là tôi sử dụng thân mình tôi như một cái bình phát điện, dòng điện lưu thông theo một mạch khép kín (circuit fermé) với hai cực âm dương là hai ngón tay cái, để “sạc” điện vào con mắt và đường dây thần kinh trong não bộ của người bệnh.
Phương pháp “sạc điện” này được tiếp tục độ nửa giờ, trong khi đó người bệnh vẫn hoàn toàn tỉnh táo, thỉnh thoảng ông cũng thốt lên vài lời để bày tỏ cảm giác mà ông tiếp nhận được. Sau cùng, ông ta thoáng thấy một tia sáng đỏ lờ mờ trong con mắt đó. Tôi bèn đổi qua con mắt bên kia, và cũng áp dụng một phương pháp tương tự, kết quả cũng giống y như trước.
Khi ấy, tôi mới cho bệnh nhân về và dặn ngày hôm sau trở lại. Qua hôm sau, tôi lại tiếp tục, và lần này cái ánh sáng lờ mờ màu đỏ đã biến mất mà trở thành màu trắng. Tôi kiên nhẫn chữa trị luôn mười ngày liên tiếp, và sau cùng tôi đã thành công: thị giác của ông ta đã được phục hồi, và ông ta có thể đọc bằng một mắt những chữ in kiểu nhỏ nhất trên một tờ báo hay cuốn sách. Tất nhiên, ông ta không còn cần đến người dẫn đường và đi lại như mọi người thường.
Trường hợp khỏi bệnh này đã gây dư luận sôi nổi, vì người này vẫn còn giữ chứng thư của những vị y sĩ ưu tú và nổi tiếng nhất, quả quyết rằng bệnh mù mắt của ông ta không thể chữa khỏi! Vả lại, sự mù lòa của ông ta đã được tất cả mọi người biết và xác nhận trong cả tỉnh Bhagalpore.
Giai đoạn tiếp theo sau sự khỏi bệnh này mới thật rất lý thú và lạ lùng. Thị giác của ông ta đã mờ dần và mất hẳn hai lần, và cả hai lần đều được tôi phục hồi trở lại. Lần đầu tiên sau khi chữa khỏi được sáu tháng, và lần thứ nhì sau đúng mười hai tháng. Trong mỗi trường hợp, ông ta đều mù hoàn toàn và tôi đã làm cho ông sáng mắt trở lại sau khoảng nửa giờ chữa trị. Muốn cho ông ta được hoàn toàn khỏi hẳn, tôi cần phải giữ ông ta bên cạnh tôi để có thể chữa trị mỗi ngày cho đến khi những triệu chứng của bệnh hoàn toàn dứt hẳn.
Điều này về sau đã được thực hiện, và chứng bệnh mù mắt của ông ta không còn tái phát nữa.
Tôi cũng rất may mắn và “mát tay” trong việc chữa bệnh điếc. Người anh của bệnh nhân mù nói trên là một công chức cao cấp của Sở Bưu điện, bị điếc đến nỗi người đối thoại phải thét lớn vào tai anh ta mới nghe được. Sau hai lần chữa trị bằng nhân điện trong hai ngày liên tiếp, anh ta đã có thể nghe tôi nói chuyện bằng một giọng bình thường ở khoảng cách chừng mười lăm thước tây.

IV.

Trong số những người Âu đến viếng khu nhà khách của Quốc vương Mohun Tagore Calcutta để chứng kiến việc chữa bệnh của tôi có mục sư Philip Smith, thuộc một phái bộ truyền giáo người Anh. Ông ta rất nhã nhặn, lịch sự đối với tôi, và tôi đã dành cho ông ta mọi cơ hội thuận tiện để quan sát các sự việc, hầu có một nhận xét đúng đắn về khoa chữa bệnh bằng phương pháp truyền nhân điện.
Ông ta theo dõi mỗi trường hợp, đưa ra nhiều câu hỏi cho mỗi bệnh nhân, và ở lại bên cạnh tôi cho đến chiều tối, khi tất cả mọi người đã ra về. Kế đó, chúng tôi nói chuyện với nhau về vấn đề chữa bệnh và phân tích tỉ mỉ từng trường hợp mà ông ta đã quan sát tại chỗ. Ông ta tuyên bố hoàn toàn thỏa mãn về sự giải thích của tôi, và nói rằng nếu ông ta không nhìn thấy tận mắt mọi việc đã xảy ra, thì có lẽ ông ta đã không thể tin được khi nghe người khác thuật lại.
Kế đó, vị mục sư nêu ra vấn đề các phép lạ được diễn tả trong Kinh Thánh, và thú nhận rằng ông ta đã thấy tôi chữa khỏi nhiều chứng bệnh một cách mầu nhiệm, giống như Đức Giê Su và các Thánh Tông Đồ đã làm khi xưa: làm cho người mù được sáng, người điếc được nghe, người câm được nói, người bại liệt quăng nạng gỗ, chữa khỏi các bệnh đau thần kinh, đau bụng kinh niên, phong giật, động kinh, và các chứng bệnh nan y khác.
Tôi nói:
“Thưa mục sư, xin ông vui lòng nói cho tôi biết, ông thấy việc chữa bệnh của tôi với những phép chữa bệnh diễn tả trong Kinh Thánh có khác nhau ở điểm nào? Nếu những gì ông thấy tôi làm đều giống y như những trường hợp nói trong Kinh Thánh, thì phải chăng cả hai loại đều phải được giải thích giống như nhau? Nếu cách chữa bệnh trong Kinh Thánh được gọi là phép lạ, thì phải chăng phép chữa bệnh của tôi cũng phải được gọi như vậy? Còn nếu không phải, mà phép chữa của tôi chỉ là hoàn toàn đúng theo luật tự nhiên, thì tại sao lại muốn cho người ta tin rằng những phép chữa bệnh của Đức Giê Su và các Thánh Tông Đồ là do quyền năng thiêng liêng hay phép lạ nhiệm mầu? Phải chăng như vậy là không hợp lý?”
Vị mục sư ngồi suy nghĩ một hồi lâu, có vẻ đắm chìm trong cơn suy tư thâm trầm, và kế đó ông ta đưa ra một câu trả lời rất độc đáo mà tôi không bao giờ quên. Ông nói:
“Tôi nhìn nhận rằng phép chữa bệnh trong cả hai trường hợp đều hoàn toàn giống y như nhau. Tôi không còn nghi ngờ gì về việc đó. Tôi chỉ có thể giải thích bằng cách suy luận rằng những phép chữa bệnh của Đức Giê Su đã được thực hiện bằng sức người, tức là qua cái khía cạnh thể chất hồng trần của ngài!”

V.

Trước đây, những trường hợp chữa khỏi bệnh của tôi ở Tích Lan được phản ảnh rầm rộ trên báo chí đã tạo nên một sự sôi động trong quần chúng Ấn Độ, và nhiều người đã khẩn thiết yêu cầu tôi đi chữa bệnh trong tỉnh Bengale. Sự việc ấy nay lại tái diễn một lần nữa, vì những bài tường thuật hấp dẫn trên báo chí miền Bắc Ấn về việc làm của tôi, đã làm cho tôi “bị” mời mọc khẩn cấp, ráo riết để đi cứu chữa bệnh nhân ở miền Nam Ấn.
Dân chúng vây phủ lấy tôi ở Tinnevelly, cũng như ở tất cả các ga xe lửa khác trong vùng, và tôi đã thực hiện vài trường hợp chữa khỏi bệnh nan y một cách rất thần diệu.
Một thanh niên Ấn Độ chừng ba mươi tuổi được người cha dắt đến và nhờ tôi chữa khỏi bệnh câm đã mắc phải từ ba năm về trước. Vì bị đám đông vây chặt làm nghẽn hết lối đi, tôi mới trèo lên bực tam cấp của ngôi đền Bà-la-môn gần bên, và kéo người câm cùng bước lên với tôi.
Lúc ấy, tôi đưa tay làm hiệu để yêu cầu đám đông giữ im lặng, và bảo người cha tuyên bố cho mọi người biết tự sự. Sự việc diễn ra sau đó đã được một bạn đạo là ông Ramaswamier tường thuật lại và đăng trong mục phụ bản tạp chí Theosophist, số tháng 8 năm 1883.
Ông viết như sau:
“Giữa một đám quần chúng tề tựu đông đảo trước ngôi đền Nelliappa, Đại tá Olcott đặt hai bàn tay lên người câm. Ông khoát tay bảy lần vòng quanh đầu, và bảy lần dọc theo thân mình người bất hạnh, tất cả mọi sự đã diễn ra trong không đầy năm phút, và người câm đã nói được!
“Giữa những tràng pháo tay vang động và những tiếng hoan hô nồng nhiệt, Đại tá Olcott đã chỉ thị cho người câm thốt lên hồng danh của Shiva, Gopala, Rama, Ramachandra và của các đấng thần minh khác một cách trôi chảy dễ dàng như bất cứ người nào trong đám đông đang chứng kiến sự việc ấy.
“Tin lành về việc chữa khỏi bệnh cho người câm đã loan truyền tức khắc ra khắp cả thành phố và đã gây nên một cơn xúc động sâu xa.”
Điều ấy cũng không lạ gì, vì khi tôi làm cho người câm hô to danh hiệu các vị thần bằng giọng lớn tột đỉnh của y, thì một nửa đám đông vô cùng xúc động, bèn đổ xô ra đường như điên như dại, vung tay lên khỏi đầu, và la lớn những tiếng ngạc nhiên, mừng rỡ theo kiểu Ấn Độ, nghe rền cả một góc trời: “Wah! Wah! Wah!
Trong tờ Phụ bản của tạp chí Theosophist số tháng 5 năm 1883, độc giả sẽ thấy đăng tờ y chứng của Bác sĩ Purna Chandra Sen Dacca, nói về việc tôi đã chữa khỏi trong vòng hai mươi phút hai bệnh nhân bị chứng sốt rét trầm trọng, với hậu quả là bị sưng lá lách, mệt tim và loạn thần kinh.
Cũng trong Phụ bản tạp chí ấy số tháng 6 năm 1883, có bản tường thuật của Bác sĩ Mohun Ghose về mười trường hợp khó trị do tôi chữa khỏi, trong số đó có trường hợp của chính ông ta. Đó là trường hợp mù mắt bên tay trái mà các y sĩ nhãn khoa danh tiếng ở Calcutta đều tuyên bố là không thể chữa khỏi, và có thể là một chứng bệnh do bẩm sinh đã có.
Bác sĩ Mohun viết:
“Nhưng hôm nay, sau vài phút truyền điện bằng cách thổi vào một cái ống dẫn điện nhỏ bằng bạc, Đại tá Olcott đã phục hồi thị giác cho tôi. Ông bảo tôi nhắm con mắt bên phải, và đọc bằng con mắt bên trái từ trước vẫn bị mù. Tôi đã đọc được báo in bằng kiểu chữ nhỏ loại thông thường. Những cảm xúc của tôi như thế nào, hẳn người ta có thể tưởng tượng rõ ràng hơn là do tôi diễn tả.”
Phải, nhưng hãy thử tưởng tượng những cảm xúc của các y sĩ nhãn khoa trứ danh của thành phố Calcutta, đã tuyên bố là con mắt ấy không thể chữa khỏi!

VI.

Vì những trường hợp chữa khỏi bệnh bằng nhân điện của tôi được các báo chí phổ biến rộng rãi và bình luận thường xuyên, nên độc giả có thể thích thú mà đọc một bản tóm lược những con số thống kê do bạn Chandra Mukerji công bố. Ông này cùng đi với tôi suốt những cuộc hành trình trong năm 1882 và trợ giúp tôi phần việc của một người thư ký riêng.
Ông cho biết, tổng số bệnh nhân mà tôi đã chữa trị là hai ngàn tám trăm mười hai người trong một chuyến đi vòng quanh các thị trấn miền Đông Bắc, kéo dài độ năm mươi bảy ngày!
C. Wallace, tác giả một bộ sách về khoa nhân điện, khi nhìn thấy bản thống kê tổng số bệnh nhân do tôi chữa khỏi trong năm ấy, có viết thư cho tôi biết rằng không một nhà chữa bệnh bằng nhân điện nào ở Âu châu có thể thành công tới một nửa số đó. Lẽ tất nhiên, bà chỉ nói về những nhà chữa bệnh chuyên nghiệp như bà mà thôi, chứ không đề cập đến những bậc thiên tài như Schlatter, Newton, Linh mục Ars, Zouave Jacob và những vị khác được cho là có sự hỗ trợ của một quyền năng thiêng liêng.
Riêng phần tôi, tôi thành thật thú nhận rằng tôi không thể nào chịu đựng nổi một sự phung phí sinh lực lớn lao và thường xuyên như vậy, nếu tôi không được sự trợ giúp thần lực của các đấng chân sư, tuy rằng điều này các ngài không hề nói cho tôi biết. Điều mà tôi bắt buộc phải nhìn nhận là tôi không còn có được một quyền năng nhiệm mầu như vậy nữa kể từ khi tôi được lệnh ngưng mọi công tác chữa bệnh, tức là vào khoảng cuối năm 1885.
Sau đó, tuy tôi vẫn luôn cố gắng tối đa, tôi vẫn không chữa khỏi những trường hợp tuyệt vọng mà trước kia tôi đã có thể thành công dễ dàng với chỉ độ nửa giờ chữa trị, hoặc có khi ít hơn. Sau đó, tại Bombay, tôi được lệnh của sư phụ truyền cho tôi hãy ngưng tất cả mọi công tác chữa bệnh cho đến khi có lệnh mới. Sự ngăn cấm này không phải đến quá sớm vì tôi nghĩ rằng chính tôi cũng có thể bị tê liệt nếu tôi vẫn tiếp tục cố gắng và dùng sức quá nhiều vào việc ấy.
Khi đến Madras, một buổi sáng tôi nhận thấy ngón tay trỏ bên bàn tay trái của tôi không còn cảm giác, và đó là một sự cảnh cáo rõ rệt cho tôi biết là tôi phải cẩn thận. Ở những trạm dọc đường giữa Madras Bombay, tôi đã phải mất nhiều thì giờ hơn và dùng sức cố gắng lớn lao hơn nhiều để chữa khỏi những chứng bệnh tương tự so với những lần trước đây, và tỷ lệ thất bại cũng cao hơn nhiều.
Điều này cũng không lạ gì, vì sau khi chữa trị bằng cách này hay cách khác độ tám ngàn bệnh nhân trong vòng mười hai tháng, thì dù cho một lương y trẻ có sinh lực dồi dào mạnh khỏe nhất cũng phải cảm thấy kiệt sức và khô cạn sinh khí, đừng nói chi một người tuổi đã ngoài năm mươi như tôi. Vả lại, với những chuyến du hành mệt mỏi thường xuyên, việc ngủ nghỉ ăn uống thất thường, sự lao phí tâm lực để trả lời thư tín bốn phương, tiếp khách hằng ngày, và những buổi diễn thuyết hầu như mỗi ngày của tôi về những đề tài triết lý thâm sâu, những điều này đương nhiên là phải đưa đến hậu quả nói trên.

VII.

Sau khi lệnh ngưng công tác chữa bệnh của tôi được giải tỏa, tôi lại tiếp tục làm việc. Trong một chuyến đi hành đạo ở Madura, miền Nam Ấn, có rất đông bệnh nhân tề tựu đến nhờ tôi chữa bệnh, và mỗi trường hợp chữa khỏi bệnh lại làm cho dân chúng càng thêm sôi động. Tôi đã phải nhờ Ban tổ chức sắp xếp trật tự, và chọn lựa những bệnh nhân được chữa ưu tiên, trong số đám đông vây chặt và xô đẩy nhau ở cửa ra vào.
Bản báo cáo của một bạn đạo gửi đăng trên tạp chí Theosophist cho biết rằng tôi đã truyền điện cho hai mươi bảy bệnh nhân, và những trường hợp khỏi bệnh đáng kể nhất gồm có ba người điếc, một trường hợp bệnh thấp khớp tủy xương sống đã kéo dài chín năm mà y học không thể chữa khỏi, và hai chứng bại liệt.
Nói chung, đó là một loạt những sự việc mệnh danh là “phép lạ”, mà nếu được một giáo sĩ của bất cứ một tôn giáo nào khai thác triệt để, cũng đủ chứng minh cho người đời thấy rằng y là người có thiên ân, vì quần chúng mê tín dị đoan của bất cứ đất nước nào cũng sẵn sàng tin tưởng như vậy.
Độc giả sẽ nhận thấy rằng nếu hai nhà sáng lập Hội Thông thiên học quả thật là những kẻ gian trá lừa bịp như họ thường bị vu khống, thì họ đã có thể tóm thâu những số bạc khổng lồ và được tôn sùng như thần thánh, thay vì chỉ có những số lợi tức ít oi như được tường trình trong các bản báo cáo tình hình tài chính hằng năm của Hội.
Không phải là chúng tôi không có cơ hội, bởi vì mọi cơ hội tốt mà bất cứ một nhà cải cách tôn giáo nào ở Ấn Độ đã từng có, thì chúng tôi cũng đã có. Trong thời kỳ hiện tại, lòng tín ngưỡng chân chính đã suy thoái, và các hàng giáo phẩm, tư tế đã hầu như lụn bại, đồi trụy tinh thần, thì những phép thuật thần thông của bà Blavatsky và khả năng chữa bệnh nhiệm mầu của tôi đã gây ấn tượng sâu xa trong tâm hồn dân chúng đến mức làm cho các nhà tỷ phú sẵn sàng hiến dâng vàng bạc của cải dưới chân chúng tôi, và những số bạc khổng lồ đã được cung hiến để cho chúng tôi biểu diễn quyền năng trước mắt họ.
Một người Hồi giáo ở tỉnh Bengale có lần đề nghị dâng hiến cho tôi mười ngàn ru-pi nếu tôi ngưng việc chữa bệnh cho công chúng trong vài giờ để chữa bệnh bại liệt cho vợ y. Lẽ tất nhiên là tôi từ chối, mà đáng lẽ ra tôi đã có thể chữa khỏi bệnh cho người vợ nếu ông ta là một người nghèo khổ cùng đinh hoặc chỉ cần ông ta đến với tôi theo cách của những người dân thường mà không đặt ra vấn đề mua chuộc bằng tiền bạc.
Chúng tôi đã từ chối tất cả những đề nghị đó với một sự thành thật hiển nhiên, và đó chính là cái bí quyết làm cho chúng tôi được quần chúng mến phục và kính trọng ở khắp mọi nơi trong xứ Ấn Độ, kể từ lúc đầu cho đến bây giờ. Nếu chúng tôi đã thâu nhận một món quà nào cho riêng mình, thì toàn thể quần chúng Ấn Độ có lẽ đã bỏ rơi chúng tôi trong cơn khủng hoảng về vụ Coulomb, có lẽ chúng tôi đã bị coi như những kẻ bịp bợm, “buôn thần bán thánh”, hoặc “mượn đạo tạo đời”.
Trái lại, với tình trạng hiện hữu, tất cả các nhà truyền giáo của mọi chi phái và tất cả mọi tổ chức hiệp hội trên thế giới vẫn không thể làm mất đi những cảm tình mà chúng tôi đã tạo ra trong lòng dân chúng Ấn.
N BÍ
(LCH SHI THÔNG THIÊN HC - PHN 2)
HI KÝ CA ĐẠI TÁ H. S. OLCOTT
CHI TRƯỞNG HI THÔNG THIÊN HC THGII

CHƯƠNG MƯỜI BỐN
CÁI GIẾNG THẦN

I.

Tôi trở lại Tích Lan sau nửa năm vắng mặt, để tiếp tục công việc Hội và cũng để trợ giúp công cuộc chấn hưng Phật giáo tại xứ này.
Ngày 29 tháng 8, có xảy ra một việc tại khu hoa viên của thành phố Galle, nay đã trở thành một diễn biến lịch sử. Sau buổi diễn thuyết của tôi hôm ấy, có một cuộc quyên góp để gây quỹ cho công việc hoằng truyền Phật giáo tại xứ này. Một người tên Cornelis Appu được ông Jayasekera, Chi hội trưởng Chi hội Thông thiên học tại Galle giới thiệu cho tôi. Người ấy đã góp số tiền nửa ru-pi, và xin lỗi về số tiền quá nhỏ vì ông ta bị bệnh tê liệt một cánh tay và một chân từ tám năm nay, không thể làm gì được để kiếm sống.
Khi tôi từ Bombay vừa đến Colombo, vị Sư trưởng Phật giáo có cho tôi biết rằng Giáo hội Gia Tô đã chuẩn bị mọi việc để sử dụng cái giếng trong nhà một giáo dân, gần thị trấn Kelanie, như một cái “giếng thần” để chữa bệnh cho dân chúng, theo kiểu giếng Đức Mẹ tại Lộ Đức (Lourdes). Có tin cho biết một người đã được chữa khỏi bệnh một cách mầu nhiệm, nhưng khi hỏi kỹ ra mới biết đó chỉ là một chuyện bịa đặt.
Tôi liền nói với vị Sư trưởng rằng đây là một vấn đề nghiêm trọng cần lưu ý. Một khi sự gợi ý đó đã bắt đầu thấm nhuần vào tư tưởng người dân, thì nó sẽ trở thành một sự thôi miên tập thể. Không bao lâu sẽ có những trường hợp khỏi bệnh thật sự, và chừng đó những Phật tử kém hiểu biết và tin tưởng mù quáng sẽ bỏ đạo mình để hùa nhau theo đạo khác.
Vị Sư trưởng nói: “Tôi biết làm sao bây giờ?”
Tôi nói: “Đại đức phải ra tay hành động, hoặc phải có một vị sư danh tiếng nào khác hãy nhân danh Đức Phật để chữa bệnh cho mọi người.”
Sư trưởng đáp: “Nhưng chúng tôi không thể làm được; chúng tôi không biết gì về những việc đó.”
Tôi nói quả quyết: “Nhưng dù sao thì việc ấy vẫn phải được thực hiện.”
Khi người bệnh nói trên diễn tả căn bệnh bại liệt của ông ta, tôi cảm thấy trong thâm tâm có một cái gì hình như muốn nói với tôi: “Đây là cơ hội cho anh sử dụng cái giếng thần!”
Tôi đã khảo cứu về khoa nhân điện và chữa bệnh bằng nhân điện (Mesmérisme) trong ba mươi năm, nhưng chưa bao giờ thực tập, mà chỉ có làm vài cuộc thí nghiệm cần thiết lúc ban đầu. Nhưng bây giờ, do sự thúc đẩy của tình thương (vốn là cái động cơ căn bản cho việc chữa bệnh có kết quả), tôi đưa hai bàn tay truyền điện lên cánh tay bại liệt của người bệnh một vài lần, và nói với ông ta rằng tôi hy vọng ông sẽ cảm thấy khá hơn đôi chút. Kế đó, ông ta trở về nhà.
Chiều hôm đó, tôi đang ngồi nói chuyện với các bạn đạo tại nhà thì thấy người bệnh bại liệt ngày hôm qua, tay chống nạng, chân đi khập khiễng bước vào. Ông ta xin lỗi đã đến làm rộn, và nói rằng ông cảm thấy khá nhiều nên đến để cảm ơn tôi.
Tin lành bất ngờ này khích lệ tôi tiếp tục chữa bệnh cho ông ta. Sau độ một khắc đồng hồ truyền điện cho cánh tay bại liệt, tôi dặn ông ta hãy trở lại vào sáng hôm sau.
Tôi phải nói thêm rằng, không một ai ở Tích Lan biết tôi có quyền năng chữa bệnh, và có lẽ họ cũng không hề biết gì về quyền năng này. Như vậy không thể có giả thuyết được nêu ra về sự ám thị hay ảo giác tập thể trong trường hợp này.
Sáng hôm sau người kia lại đến và tỏ vẻ tôn sùng tôi như một siêu nhân vì y cảm thấy bớt hẳn. Tôi lại tiếp tục chữa cho y luôn ba ngày liên tiếp, và qua ngày thứ tư y đã có thể vung cánh tay bại liệt của y lên vòng quanh đầu, mở và khép bàn tay, và sử dụng bàn tay để làm các động tác thông thường một cách dễ dàng.
Trong vòng bốn ngày kế đó, ông ta đã có thể sử dụng bàn tay được chữa khỏi để ký tên vào một chứng thư kể rõ trường hợp của ông và cho công bố. Đó là lần đầu tiên ông ta có thể cầm đến một cây viết kể từ chín năm nay.
Tôi cũng đã chữa khỏi luôn cái chân bại liệt của ông ta, và độ một hai ngày sau, ông ta đã có thể nhảy với cả hai bàn chân, nhảy lò cò bằng cái chân bại liệt, đá lên vách với một chiều cao đồng đều nhau bằng cả hai chân, và chạy một cách tự do theo ý muốn.
Giống như rơm khô bắt lửa, tin ấy loan truyền rất nhanh khắp cả mọi nơi trong tỉnh. Cornelis đưa đến một người bạn bại liệt giống như ông ta, cũng được tôi chữa khỏi. Kế đó, những người khác đến. Lúc đầu còn đến từng nhóm nhỏ đôi ba người, kế đến hàng chục người, và trong vòng độ một tuần lễ sau, ngôi nhà tôi ở bị bệnh nhân vây phủ suốt ngày từ sáng sớm cho đến khuya, để nhờ tôi truyền điện chữa bệnh cho họ.
Sau cùng, họ trở nên quấy rầy, phiền nhiễu đến nỗi tôi cũng không còn biết phải làm sao để thoát khỏi vòng vây. Lẽ tất nhiên, với sự tăng gia đức tin nơi khả năng của mình, sức mạnh nhân điện của tôi tăng vọt lên gấp bội, và những chứng bệnh mà lúc đầu tôi phải mất đến nhiều ngày mới chữa khỏi, nay tôi có thể chữa trong vòng nửa tiếng đồng hồ.
Một điều bực bội, khó chịu nhất trong việc này là thái độ ích kỷ, thấp hèn của đám đông. Họ bao vây tôi trong buồng ngủ khi tôi còn chưa thay quần áo, theo sát tôi từng bước một, không cho tôi có thời giờ ăn cơm, và làm áp lực ráo riết đối với tôi, bất luận rằng tôi bị mệt mỏi và kiệt sức đến độ nào! Tôi chữa bệnh cho họ suốt bốn, năm giờ liên tiếp, cho đến khi tôi cảm thấy kiệt quệ, không còn chút sinh lực nào. Khi đó tôi mới nghỉ độ nửa giờ đi xuống biển để tắm nước mặn, và khi trở lên nhà, tôi lại cảm thấy tràn đầy sinh lực, thể xác được tăng cường. Tôi bèn tiếp tục công việc chữa bệnh cho đến khi hoàn toàn xế trưa, tôi đã mệt lả và phải yêu cầu bệnh nhân hãy trở về nhà.
Lúc ấy tôi ở trên tầng lầu thứ nhất của ngôi nhà trọ, nên phần nhiều những người bệnh nặng phải được thân nhân bạn bè khiêng lên lầu và đặt họ nằm dưới chân tôi. Có những người hoàn toàn bại liệt, với những tay chân co quắp làm cho họ có một hình thù dị dạng giống như những rễ cây có bướu trông rất dễ sợ. Sau một hay hai lần truyền điện, mỗi lần độ nửa giờ, tôi đã làm cho họ duỗi thẳng tay chân và đi đứng được như thường.
Tôi dùng cái hàng ba rộng lớn của ngôi nhà làm một sân vận động, chọn lấy hai ba người trong số những người bệnh nặng nhất vừa được chữa khỏi, và bắt họ chạy đua theo chiều dài hàng ba. Họ và những người đứng xem đều cười lớn về sự đùa giỡn khôi hài đó, và ngạc nhiên tự hỏi sao lạ vậy, nhưng tôi làm vậy là có mục đích truyền cho họ một đức tin nơi hiệu lực của phép chữa bệnh, giống như đức tin của tôi, để cho sự bình phục của họ được hoàn toàn chắc chắn.
Tôi cũng cảm thấy rất sung sướng khi có thể làm dịu bớt bao nhiêu nỗi khổ đau của nhân loại, và trong nhiều trường hợp, đã làm cho những phế nhân phục hồi lại được tất cả niềm vui của một sức khỏe lành mạnh và tất cả những khả năng hoạt động của một đời người.
Sự việc trên vẫn tiếp tục cho đến tận những vùng làng mạc xa xôi hẻo lánh trên lộ trình hoạt động của tôi ở miền Nam đảo Tích Lan. Tôi thường đến mỗi thị trấn hay làng xã bằng xe ngựa hay xe bò, và thấy bệnh nhân rải rác nằm ngồi đợi tôi trên các hàng ba, bãi cỏ, và trong đủ mọi loại xe cộ, hoặc kiệu khiêng bằng tay, đến từ các vùng lân cận.
Baddegama là một trung tâm nổi tiếng về những hoạt động truyền giáo, và cũng về sự thù nghịch đối với Phật giáo nói chung. Có những tin tức hăm dọa rằng các nhà truyền giáo sẽ tấn công tôi trong buổi diễn thuyết tại đây, và lẽ tự nhiên các Phật tử sẽ tề tựu đông đảo để nghe tôi nói chuyện. Nhiều hội viên Thông thiên học cũng từ Galle đến dự thính, và trong đám đông, tôi nhìn thấy Cornelis Appu. Ông ta đã đi bộ suốt hai mươi cây số đường trường để đến đây. Thế là không còn nghi ngờ gì về việc ông ta đã được hoàn toàn chữa khỏi bệnh bại liệt!
Một trường hợp lý thú đã đến với tôi ở một tiểu ấp tên Agalya. Một bà lão bảy mươi hai tuổi bị một con trâu cái đá khi bà đang vắt sữa độ vài năm trước đây; bà bị vẹo xương sống, không thể đứng thẳng người và đi phải chống gậy. Bà bất giác cười lớn một cách dòn dã khi tôi nói rằng không bao lâu tôi sẽ làm cho bà nhảy múa được. Nhưng chỉ sau có mười phút truyền điện dọc theo xương sống và tay chân, bà đã cảm thấy bình phục sức khỏe. Tôi bèn nắm tay bà, quăng bỏ cây gậy chống và bảo bà cùng chạy với tôi trên sân cỏ. Bà đã chạy được như thường!

II.

Xong việc, tôi trở về Trụ sở Hội Thông thiên học tại Galle, và một cuộc vây khổn thứ nhì của bệnh nhân đang chờ đón tôi tại đây. Tôi có ghi nhận một việc cho thấy cái tinh thần ích kỷ, hẹp hòi, vô nhân đạo của vài người trong giới y sĩ đối với vấn đề chữa bệnh miễn phí của những lương y mà họ gọi là “tay ngang”, trong khi những người này lại chỉ làm việc vì tình thương nhân loại.
Một số bệnh nhân của bệnh viện Galle phải rời khỏi bệnh viện vì là bệnh nan y không thể chữa khỏi. Họ đã đến với tôi và được bình phục sức khỏe. Lẽ tự nhiên, họ loan truyền tin lành đó một cách hào hứng, sôi nổi. Giới y sĩ chuyên nghiệp không thể làm ngơ hay dửng dưng trước sự việc ấy, và ngày nọ một vị bác sĩ trẻ trong tỉnh đã đến chứng kiến việc làm của tôi.
Ngày đó, có một trăm bệnh nhân đến nhờ tôi chữa, và tôi đã truyền điện cho hai mươi ba người, trong số đó có những trường hợp khỏi bệnh một cách rất nhiệm mầu. Khi đã chứng kiến tận mắt, bác sĩ K. thành thật nhìn nhận hiệu lực của khoa chữa bệnh bằng nhân điện và đã ở lại với tôi suốt ngày, trợ giúp tôi trong việc chẩn bệnh, và làm những công việc của một người trợ tá bệnh viện. Chúng tôi đều ưa thích nhau, và khi chia tay, ông ta hẹn sẽ đến sáng ngày hôm sau để trợ giúp tôi tùy theo khả năng. Chính ông cũng đang bị đau chân vì một chứng bệnh cứng xương mắt cá, và tôi đã chữa khỏi cho y.
Ngày hôm sau, ông ta không đến, cũng không cho biết lý do tại sao. Sự bí mật ấy về sau được giải thích trong một bức thư ông viết cho một người bạn quen giữa đôi bên. Chính người này đã giới thiệu ông ta đến với tôi trước đây.
Dường như khi chia tay tôi hôm trước, lòng đầy hứng khởi với những gì đã tận mắt chứng kiến, ông ta liền đến gặp vị Bác sĩ trưởng của bệnh viện và báo cáo mọi việc. Vị thượng cấp của ông nghe một cách lạnh lùng, và khi đã nghe xong liền nói lên một nhận xét cay độc về tôi. Ông cho rằng tôi là một lang băm, việc chữa bệnh ấy chỉ là một trò dối gạt phỉnh lừa, những bệnh nhân đã được trả tiền để nói dối, và vị bác sĩ trẻ bị ngăn cấm không được có bất cứ liên hệ gì với tôi hay những “trò khỉ” của tôi nữa.
Ông ta còn cảnh cáo vị bác sĩ trẻ rằng, nếu không tuân lệnh, hãy coi chừng có thể bị mất việc. Và nếu thấy tôi có nhận tiền thù lao, phải tố giác tôi trước pháp luật vì hành nghề lương y mà không có giấy phép!
Thế là người trợ tá và hâm mộ tôi đã quên cả bổn phận học hỏi cầu tiến trong sự chữa bệnh, quên cả sự trung thành đối với chân lý, quên cả lương tâm chức nghiệp đối với khoa học, quên tất cả những gì anh ta đã tận mắt nhìn thấy tôi làm, cả sự hứa hẹn những gì mà với thời gian anh ta cũng sẽ có thể làm, thậm chí cũng không nhớ cả cái bàn chân đau của anh ta đã được tôi chữa khỏi, và quên cả phép lịch sự tối thiểu của người không đến được nơi hẹn như lời hẹn trước. Người bác sĩ ấy không đến, thậm chí cũng không có một lời xin lỗi.
Tôi cảm thấy thương hại anh ta, bởi vì tất cả những triển vọng tương lai đen tối của anh ta trong sự trói buộc; đồng thời tôi cũng cảm thấy rằng anh ta đã đánh mất đi sự quý trọng mà lẽ ra tôi vẫn dành cho anh ta nếu anh dám đứng ra chống lại óc nô lệ nghề nghiệp xấu xa ích kỷ. Đó là một sự thiên lệch, hủ bại về tinh thần, luôn khiến cho toàn thể nhân loại phải chịu đựng bệnh tật chứ không được chữa trị một cách hiệu quả, trừ phi bởi những lương y “chính thống”, với cái gọi là “hiểu biết” và “không hề lầm lẫn” của ngành Y học chính thức!

CHƯƠNG MƯỜI LĂM 
BÍ QUYẾT CỦA SỰ CHỮA BỆNH

I.

Bí quyết chữa bệnh hữu hiệu bằng khoa nhân điện đã được tiết lộ cho tôi nhờ một kinh nghiệm trải qua tại một làng nhỏ ở miền nam Tích Lan.
Một người bệnh bán thân bất toại, tê liệt hết nửa thân mình, được đưa đến cho tôi chữa. Tôi bắt đầu truyền điện trên cánh tay y dọc theo các đường gân và bắp thịt, và thỉnh thoảng thổi vài cái lên trên. Trong không đầy nửa tiếng đồng hồ, tôi đã làm cho cánh tay anh ta co giãn được như thường đến mức có thể vung tay vòng quanh đầu, mở và xếp các ngón tay tự nhiên, cầm bút, thậm chí nhặt một cây kim nhỏ, và làm mọi động tác chính xác tùy ý muốn.
Kế đó, vì tôi đã chữa liên tiếp nhiều trường hợp tương tự suốt nhiều giờ và đã cảm thấy mệt mỏi, tôi mới yêu cầu Ban tổ chức hãy bảo người bệnh ngồi đợi để tôi nghỉ ngơi giây lát. Trong khi tôi ngồi nghỉ và ngậm ống điếu hút thuốc, một người trong Ban tổ chức nói cho tôi biết rằng bệnh nhân ấy rất giàu có, ông ta đã tốn tiền cho các bác sĩ, thuốc men hết một ngàn năm trăm ru-pi mà bệnh vẫn không thuyên giảm. Ông ta lại là một người rất hà tiện và ai cũng biết rõ tính keo kiệt, bủn xỉn của ông ta. Ái chà! Trong tất cả những thói hư tật xấu ghê tởm nhất đối với nhà huyền học, thì sự tham muốn tiền bạc là một: đó là một sự đam mê ti tiện và bỉ ổi nhất! Trong lòng tôi tự nhiên mất hết thiện cảm đối với người ấy.
Theo lời đề nghị của tôi, Ban tổ chức mới hỏi ông ta xem định quyên góp bao nhiêu tiền vào quỹ phước thiện Phật giáo. Ông ta nói rằng mình rất nghèo và đã phải tốn nhiều tiền cho các bác sĩ, nhưng dù sao cũng sẽ đóng góp một ru-pi! Thế là hết chỗ nói!
Sau một lúc nghỉ ngơi, tôi lại tiếp tục chữa cái chân bại xuội của y và chỉ độ nửa giờ sau, cái chân y đã cử động và đi đứng được như thường. Ông ta bước chân ra về một cách tỉnh táo lành mạnh như mọi người. Người thư ký của tôi cũng đã bảo ông ta viết một chứng thư về sự chữa khỏi bệnh cho ông ta và tôi còn giữ bức văn kiện ấy như một kỷ niệm trong chuyến đi Tích Lan.
Ban tổ chức của tôi đã sắp đặt một loạt những chuyến đi diễn thuyết ở các vùng, mỗi lần kéo dài độ hai tuần lễ, rồi trở về Galle là địa điểm trung tâm.
Khi chuyến đi này kết thúc, một hôm tôi hỏi thăm về tình trạng sức khỏe của vài bệnh nhân mà tôi chú trọng nhất vì tính cách đặc biệt của bệnh trạng, trong số đó có trường hợp của bệnh nhân hà tiện bủn xỉn kể trên. Tôi rất ngạc nhiên khi nghe biết rằng cánh tay ông ta đã hoàn toàn lành mạnh, nhưng còn cái chân thì không khỏi hẳn, mà đã trở lại tình trạng liệt bại như cũ!
Tuy tôi không thấy có trường hợp nào tương tự trong các sách vở dạy về khoa nhân điện, nhưng lý do đã nổi bật ngay tức khắc. Đó là vì tôi đã mất thiện cảm đối với người kia sau khi nghe nói về thói bủn xỉn, hà tiện của ông ta. Bởi vậy, nguồn sinh lực của tôi không rung động dọc theo hệ thần kinh của ông ta như trong trường hợp chữa cánh tay, và kết quả là chỉ có một sự kích thích lành mạnh tạm thời, rồi lại trở về tình trạng bại liệt như cũ. Trong cả hai trường hợp, tôi đã áp dụng cùng một kỹ thuật chữa bệnh giống nhau, và đã truyền qua cho ông ta một lượng sinh lực đồng đều nhau, nhưng trong trường hợp sau, tôi không cảm thấy có chút tình thương và hảo ý nào để đem lại sự khỏi bệnh thật sự và lâu dài như trong trường hợp của cánh tay.
Vài nhà viết sách về khoa nhân điện, trong đó có tác giả Younger, cũng đã khẳng định rằng “tình thương là bí quyết căn bản để chữa hầu hết mọi bệnh tật bằng cách truyền nhân điện”.
Trường hợp trên cũng nhắc nhở sự thật của những giáo lý cổ xưa dạy rằng những tư tưởng tốt lành của ta đưa đến cho người khác có tác dụng rất nhiệm mầu để gây cho người ấy niềm phúc lạc và sự lành mạnh lâu bền, còn những tư tưởng ác gây ra một hậu quả ngược lại.
Điều đó cảnh báo chúng ta hãy cẩn thận giữ gìn đừng nghĩ quấy cho kẻ khác, và bởi đó chúng ta sẽ hiểu dễ dàng lý do tại sao có sự sợ sệt những nhà phù thủy với những phép trù ếm và thốt ra những lời nguyền rủa hại đời. Những việc đó đều có căn cứ chắc chắn, và người ta có thể sử dụng những sức mạnh vô hình để gây họa cũng như để đem đến niềm vui và hạnh phúc cho người chung quanh.
Một trường hợp bị “ma nữ hấp tinh” đã được vị Sư trưởng của một ngôi chùa đưa đến cho tôi chữa trị tại Galle. Một nhà sư trẻ độ chừng hai mươi bảy tuổi, từ hai hay ba năm qua đã bị một con nữ yêu (Yakshini) tác quái chọc ghẹo. Vị Sư trưởng nói với tôi rằng con nữ yêu này đã đóng vai trò “vợ ma” của nhà sư trẻ, làm cho vị sư này trác táng quá độ giống như một người bị chứng “động tình” (nymphomania). Nhà sư trẻ bị “hấp tinh” như vậy nhiều lần mỗi đêm, làm cho thể chất y hao mòn đến độ chỉ còn da bọc xương.
Vị Sư trưởng yêu cầu tôi chữa bệnh cho nhà sư trẻ. Cũng may là vài năm trước đây ở Hoa Kỳ tôi cũng đã có chữa khỏi một trường hợp tương tự, nhưng bệnh nhân là một người nữ, vì vậy nên tôi biết khá rõ là phải làm thế nào.
Tôi dành cho nhà sư trẻ một khóa trị liệu bằng nước lạnh có truyền nhân điện, và bảo ông ta hãy đến mỗi buổi sáng trong vòng một tháng để nhận lấy phần nước đem về uống mỗi ngày. Sau một tháng, nhà sư đã hoàn toàn khỏi bệnh.
Trường hợp này được giải thích một cách đơn giản là ảnh hưởng tác quái của nữ yêu đã bị hóa giải và tiêu diệt bởi quyền năng ý chí mạnh mẽ hơn của tôi, và tác dụng thường xuyên của nước lạnh có truyền nhân điện đã trợ giúp thêm để tăng cường hiệu lực. Tất cả các nhà chữa bệnh bằng nhân điện đều đồng quan niệm như nhau về sự công hiệu của nước lạnh có truyền nhân điện như một phương thuốc trị liệu rất thần tình.

II.

Ngày 17 tháng 2, tôi xuống tàu đi Calcutta. Sau một chuyến đi thích thú, tôi cặp bến vào ngày 20 và được tiếp đón tại nhà khách của Quốc vương Jotendra Mohun Tagore. Ngôi dinh thự của ngài bỗng dưng biến thành một bệnh viện, vì bệnh nhân đã tề tựu rất đông để chờ đợi tôi cứu chữa.
Một trong những bệnh nhân đầu tiên là một thanh niên Ấn bị bệnh động kinh (epilepsy), thường lên cơn từ năm mươi đến sáu mươi lần mỗi ngày. Tuy nhiên, bệnh ấy thuyên giảm rất mau dưới bàn tay truyền điện của tôi, và qua ngày thứ tư, những cơn động kinh đã hoàn toàn dứt hẳn.
Tôi không biết rằng sự khỏi bệnh này có được lâu bền hay không, nhưng chắc là không. Vì những nguyên nhân sâu xa đến nỗi đã gây nên một số quá nhiều những lần lên cơn như vậy mỗi ngày, không có lẽ lại bị tiêu trừ sau chỉ có mấy ngày chữa trị. Đáng lý ra bệnh nhân phải được chữa trị trong một thời hạn lâu dài, có thể là nhiều tuần trước khi có thể hoàn toàn bình phục. Và quả nhiên sự việc về sau đã xảy ra đúng như tôi nhận xét.
Bệnh động kinh tuy là một trong những chứng bệnh dễ sợ nhất, nhưng cũng là một trong những bệnh dễ trị nhất bằng phương pháp truyền nhân điện.
Ngoài ra, tôi cũng gặp những trường hợp lý thú tương tự khác nữa. Trong số đó có một thanh niên Bà- la-môn chừng hai mươi tám tuổi, bị chứng tê liệt các đường gân trên mặt đã hai năm qua, làm cho anh ta phải ngủ với cặp mắt mở to vì không thể khép mí mắt lại, và cũng không thể nói chuyện vì lưỡi không cử động được.
Khi hỏi tên anh ta là gì, anh chỉ có thể thốt ra một âm thanh chát chúa trong cổ họng, vì lưỡi và đôi môi đều tê cứng và anh ta không sử dụng được như ý muốn.
Khi vừa bước vào phòng, anh ta đứng nhìn tôi trong câm lặng và ra hiệu bằng tay để mô tả căn bệnh của mình.
Sáng hôm ấy, tôi cảm thấy sinh lực tràn đầy cuồn cuộn, cơ hồ tôi có thể truyền điện cho cả một con voi. Tôi đưa cánh tay và bàn tay mặt thẳng lên trời, và đôi mắt nhìn thẳng vào người bệnh, tôi dõng dạc hô to bằng thổ ngữ Bengali: “Anh hãy khỏi bệnh!” Đồng thời tôi hạ cánh tay xuống tư thế ngang bằng và chĩa bàn tay tôi vào mặt anh ta.
Lúc ấy, bệnh nhân có phản ứng cơ hồ như bị điện giật. Anh ta run rẩy khắp cả thân mình, đôi mắt y nhắm lại và mở ra, cái lưỡi y bị tê cứng đã lâu, nay lại thè ra thụt vào, anh ta thốt lên một tiếng kêu mừng rỡ với một âm thanh vang dội và sụp xuống lạy dưới chân tôi. Anh vừa ôm hôn hai đầu gối tôi, vừa tỏ lòng biết ơn bằng những lời nói nhiệt thành rối rít.
Cảnh tượng ấy thật quá xúc động. Sự khỏi bệnh của anh ta thật quá đỗi nhanh chóng, đến nỗi mỗi người có mặt trong phòng đều chia sẻ nỗi cảm xúc mừng vui không tả xiết của người thanh niên, và không có ai là không rơi lệ.

III.

Trường hợp sau đây có lẽ là trường hợp lý thú nhất. Có một người tên Badrinath Banerji, là luật sư tòa án thị trấn Bhagalpore. Ông ta bị mù hoàn toàn, phải nhờ một đứa trẻ dắt đi. Sau khi đã qua tay những y sĩ nhãn khoa giỏi nhất của thành phố Calcutta và phải rời khỏi bệnh viện vì võng mạc teo nhỏ dần không thể chữa khỏi, ông ta đến nhờ tôi chữa bệnh.
Tôi nắm chặt hai bàn tay, chĩa ngón cái của bàn tay mặt trước một mắt của y, và ngón cái của bàn tay trái chĩa vào đằng sau gáy. Tôi vận dụng ý chí phóng một luồng nhân điện từ đầu dương cực do ngón cái tay mặt chạy xuyên qua con mắt và bộ óc của người bệnh, cho tiếp nối với đầu âm cực ở ngón cái chĩa vào sau gáy. Thế là tôi sử dụng thân mình tôi như một cái bình phát điện, dòng điện lưu thông theo một mạch khép kín (circuit fermé) với hai cực âm dương là hai ngón tay cái, để “sạc” điện vào con mắt và đường dây thần kinh trong não bộ của người bệnh.
Phương pháp “sạc điện” này được tiếp tục độ nửa giờ, trong khi đó người bệnh vẫn hoàn toàn tỉnh táo, thỉnh thoảng ông cũng thốt lên vài lời để bày tỏ cảm giác mà ông tiếp nhận được. Sau cùng, ông ta thoáng thấy một tia sáng đỏ lờ mờ trong con mắt đó. Tôi bèn đổi qua con mắt bên kia, và cũng áp dụng một phương pháp tương tự, kết quả cũng giống y như trước.
Khi ấy, tôi mới cho bệnh nhân về và dặn ngày hôm sau trở lại. Qua hôm sau, tôi lại tiếp tục, và lần này cái ánh sáng lờ mờ màu đỏ đã biến mất mà trở thành màu trắng. Tôi kiên nhẫn chữa trị luôn mười ngày liên tiếp, và sau cùng tôi đã thành công: thị giác của ông ta đã được phục hồi, và ông ta có thể đọc bằng một mắt những chữ in kiểu nhỏ nhất trên một tờ báo hay cuốn sách. Tất nhiên, ông ta không còn cần đến người dẫn đường và đi lại như mọi người thường.
Trường hợp khỏi bệnh này đã gây dư luận sôi nổi, vì người này vẫn còn giữ chứng thư của những vị y sĩ ưu tú và nổi tiếng nhất, quả quyết rằng bệnh mù mắt của ông ta không thể chữa khỏi! Vả lại, sự mù lòa của ông ta đã được tất cả mọi người biết và xác nhận trong cả tỉnh Bhagalpore.
Giai đoạn tiếp theo sau sự khỏi bệnh này mới thật rất lý thú và lạ lùng. Thị giác của ông ta đã mờ dần và mất hẳn hai lần, và cả hai lần đều được tôi phục hồi trở lại. Lần đầu tiên sau khi chữa khỏi được sáu tháng, và lần thứ nhì sau đúng mười hai tháng. Trong mỗi trường hợp, ông ta đều mù hoàn toàn và tôi đã làm cho ông sáng mắt trở lại sau khoảng nửa giờ chữa trị. Muốn cho ông ta được hoàn toàn khỏi hẳn, tôi cần phải giữ ông ta bên cạnh tôi để có thể chữa trị mỗi ngày cho đến khi những triệu chứng của bệnh hoàn toàn dứt hẳn.
Điều này về sau đã được thực hiện, và chứng bệnh mù mắt của ông ta không còn tái phát nữa.
Tôi cũng rất may mắn và “mát tay” trong việc chữa bệnh điếc. Người anh của bệnh nhân mù nói trên là một công chức cao cấp của Sở Bưu điện, bị điếc đến nỗi người đối thoại phải thét lớn vào tai anh ta mới nghe được. Sau hai lần chữa trị bằng nhân điện trong hai ngày liên tiếp, anh ta đã có thể nghe tôi nói chuyện bằng một giọng bình thường ở khoảng cách chừng mười lăm thước tây.

IV.

Trong số những người Âu đến viếng khu nhà khách của Quốc vương Mohun Tagore Calcutta để chứng kiến việc chữa bệnh của tôi có mục sư Philip Smith, thuộc một phái bộ truyền giáo người Anh. Ông ta rất nhã nhặn, lịch sự đối với tôi, và tôi đã dành cho ông ta mọi cơ hội thuận tiện để quan sát các sự việc, hầu có một nhận xét đúng đắn về khoa chữa bệnh bằng phương pháp truyền nhân điện.
Ông ta theo dõi mỗi trường hợp, đưa ra nhiều câu hỏi cho mỗi bệnh nhân, và ở lại bên cạnh tôi cho đến chiều tối, khi tất cả mọi người đã ra về. Kế đó, chúng tôi nói chuyện với nhau về vấn đề chữa bệnh và phân tích tỉ mỉ từng trường hợp mà ông ta đã quan sát tại chỗ. Ông ta tuyên bố hoàn toàn thỏa mãn về sự giải thích của tôi, và nói rằng nếu ông ta không nhìn thấy tận mắt mọi việc đã xảy ra, thì có lẽ ông ta đã không thể tin được khi nghe người khác thuật lại.
Kế đó, vị mục sư nêu ra vấn đề các phép lạ được diễn tả trong Kinh Thánh, và thú nhận rằng ông ta đã thấy tôi chữa khỏi nhiều chứng bệnh một cách mầu nhiệm, giống như Đức Giê Su và các Thánh Tông Đồ đã làm khi xưa: làm cho người mù được sáng, người điếc được nghe, người câm được nói, người bại liệt quăng nạng gỗ, chữa khỏi các bệnh đau thần kinh, đau bụng kinh niên, phong giật, động kinh, và các chứng bệnh nan y khác.
Tôi nói:
“Thưa mục sư, xin ông vui lòng nói cho tôi biết, ông thấy việc chữa bệnh của tôi với những phép chữa bệnh diễn tả trong Kinh Thánh có khác nhau ở điểm nào? Nếu những gì ông thấy tôi làm đều giống y như những trường hợp nói trong Kinh Thánh, thì phải chăng cả hai loại đều phải được giải thích giống như nhau? Nếu cách chữa bệnh trong Kinh Thánh được gọi là phép lạ, thì phải chăng phép chữa bệnh của tôi cũng phải được gọi như vậy? Còn nếu không phải, mà phép chữa của tôi chỉ là hoàn toàn đúng theo luật tự nhiên, thì tại sao lại muốn cho người ta tin rằng những phép chữa bệnh của Đức Giê Su và các Thánh Tông Đồ là do quyền năng thiêng liêng hay phép lạ nhiệm mầu? Phải chăng như vậy là không hợp lý?”
Vị mục sư ngồi suy nghĩ một hồi lâu, có vẻ đắm chìm trong cơn suy tư thâm trầm, và kế đó ông ta đưa ra một câu trả lời rất độc đáo mà tôi không bao giờ quên. Ông nói:
“Tôi nhìn nhận rằng phép chữa bệnh trong cả hai trường hợp đều hoàn toàn giống y như nhau. Tôi không còn nghi ngờ gì về việc đó. Tôi chỉ có thể giải thích bằng cách suy luận rằng những phép chữa bệnh của Đức Giê Su đã được thực hiện bằng sức người, tức là qua cái khía cạnh thể chất hồng trần của ngài!”

V.

Trước đây, những trường hợp chữa khỏi bệnh của tôi ở Tích Lan được phản ảnh rầm rộ trên báo chí đã tạo nên một sự sôi động trong quần chúng Ấn Độ, và nhiều người đã khẩn thiết yêu cầu tôi đi chữa bệnh trong tỉnh Bengale. Sự việc ấy nay lại tái diễn một lần nữa, vì những bài tường thuật hấp dẫn trên báo chí miền Bắc Ấn về việc làm của tôi, đã làm cho tôi “bị” mời mọc khẩn cấp, ráo riết để đi cứu chữa bệnh nhân ở miền Nam Ấn.
Dân chúng vây phủ lấy tôi ở Tinnevelly, cũng như ở tất cả các ga xe lửa khác trong vùng, và tôi đã thực hiện vài trường hợp chữa khỏi bệnh nan y một cách rất thần diệu.
Một thanh niên Ấn Độ chừng ba mươi tuổi được người cha dắt đến và nhờ tôi chữa khỏi bệnh câm đã mắc phải từ ba năm về trước. Vì bị đám đông vây chặt làm nghẽn hết lối đi, tôi mới trèo lên bực tam cấp của ngôi đền Bà-la-môn gần bên, và kéo người câm cùng bước lên với tôi.
Lúc ấy, tôi đưa tay làm hiệu để yêu cầu đám đông giữ im lặng, và bảo người cha tuyên bố cho mọi người biết tự sự. Sự việc diễn ra sau đó đã được một bạn đạo là ông Ramaswamier tường thuật lại và đăng trong mục phụ bản tạp chí Theosophist, số tháng 8 năm 1883.
Ông viết như sau:
“Giữa một đám quần chúng tề tựu đông đảo trước ngôi đền Nelliappa, Đại tá Olcott đặt hai bàn tay lên người câm. Ông khoát tay bảy lần vòng quanh đầu, và bảy lần dọc theo thân mình người bất hạnh, tất cả mọi sự đã diễn ra trong không đầy năm phút, và người câm đã nói được!
“Giữa những tràng pháo tay vang động và những tiếng hoan hô nồng nhiệt, Đại tá Olcott đã chỉ thị cho người câm thốt lên hồng danh của Shiva, Gopala, Rama, Ramachandra và của các đấng thần minh khác một cách trôi chảy dễ dàng như bất cứ người nào trong đám đông đang chứng kiến sự việc ấy.
“Tin lành về việc chữa khỏi bệnh cho người câm đã loan truyền tức khắc ra khắp cả thành phố và đã gây nên một cơn xúc động sâu xa.”
Điều ấy cũng không lạ gì, vì khi tôi làm cho người câm hô to danh hiệu các vị thần bằng giọng lớn tột đỉnh của y, thì một nửa đám đông vô cùng xúc động, bèn đổ xô ra đường như điên như dại, vung tay lên khỏi đầu, và la lớn những tiếng ngạc nhiên, mừng rỡ theo kiểu Ấn Độ, nghe rền cả một góc trời: “Wah! Wah! Wah!
Trong tờ Phụ bản của tạp chí Theosophist số tháng 5 năm 1883, độc giả sẽ thấy đăng tờ y chứng của Bác sĩ Purna Chandra Sen Dacca, nói về việc tôi đã chữa khỏi trong vòng hai mươi phút hai bệnh nhân bị chứng sốt rét trầm trọng, với hậu quả là bị sưng lá lách, mệt tim và loạn thần kinh.
Cũng trong Phụ bản tạp chí ấy số tháng 6 năm 1883, có bản tường thuật của Bác sĩ Mohun Ghose về mười trường hợp khó trị do tôi chữa khỏi, trong số đó có trường hợp của chính ông ta. Đó là trường hợp mù mắt bên tay trái mà các y sĩ nhãn khoa danh tiếng ở Calcutta đều tuyên bố là không thể chữa khỏi, và có thể là một chứng bệnh do bẩm sinh đã có.
Bác sĩ Mohun viết:
“Nhưng hôm nay, sau vài phút truyền điện bằng cách thổi vào một cái ống dẫn điện nhỏ bằng bạc, Đại tá Olcott đã phục hồi thị giác cho tôi. Ông bảo tôi nhắm con mắt bên phải, và đọc bằng con mắt bên trái từ trước vẫn bị mù. Tôi đã đọc được báo in bằng kiểu chữ nhỏ loại thông thường. Những cảm xúc của tôi như thế nào, hẳn người ta có thể tưởng tượng rõ ràng hơn là do tôi diễn tả.”
Phải, nhưng hãy thử tưởng tượng những cảm xúc của các y sĩ nhãn khoa trứ danh của thành phố Calcutta, đã tuyên bố là con mắt ấy không thể chữa khỏi!

VI.

Vì những trường hợp chữa khỏi bệnh bằng nhân điện của tôi được các báo chí phổ biến rộng rãi và bình luận thường xuyên, nên độc giả có thể thích thú mà đọc một bản tóm lược những con số thống kê do bạn Chandra Mukerji công bố. Ông này cùng đi với tôi suốt những cuộc hành trình trong năm 1882 và trợ giúp tôi phần việc của một người thư ký riêng.
Ông cho biết, tổng số bệnh nhân mà tôi đã chữa trị là hai ngàn tám trăm mười hai người trong một chuyến đi vòng quanh các thị trấn miền Đông Bắc, kéo dài độ năm mươi bảy ngày!
C. Wallace, tác giả một bộ sách về khoa nhân điện, khi nhìn thấy bản thống kê tổng số bệnh nhân do tôi chữa khỏi trong năm ấy, có viết thư cho tôi biết rằng không một nhà chữa bệnh bằng nhân điện nào ở Âu châu có thể thành công tới một nửa số đó. Lẽ tất nhiên, bà chỉ nói về những nhà chữa bệnh chuyên nghiệp như bà mà thôi, chứ không đề cập đến những bậc thiên tài như Schlatter, Newton, Linh mục Ars, Zouave Jacob và những vị khác được cho là có sự hỗ trợ của một quyền năng thiêng liêng.
Riêng phần tôi, tôi thành thật thú nhận rằng tôi không thể nào chịu đựng nổi một sự phung phí sinh lực lớn lao và thường xuyên như vậy, nếu tôi không được sự trợ giúp thần lực của các đấng chân sư, tuy rằng điều này các ngài không hề nói cho tôi biết. Điều mà tôi bắt buộc phải nhìn nhận là tôi không còn có được một quyền năng nhiệm mầu như vậy nữa kể từ khi tôi được lệnh ngưng mọi công tác chữa bệnh, tức là vào khoảng cuối năm 1885.
Sau đó, tuy tôi vẫn luôn cố gắng tối đa, tôi vẫn không chữa khỏi những trường hợp tuyệt vọng mà trước kia tôi đã có thể thành công dễ dàng với chỉ độ nửa giờ chữa trị, hoặc có khi ít hơn. Sau đó, tại Bombay, tôi được lệnh của sư phụ truyền cho tôi hãy ngưng tất cả mọi công tác chữa bệnh cho đến khi có lệnh mới. Sự ngăn cấm này không phải đến quá sớm vì tôi nghĩ rằng chính tôi cũng có thể bị tê liệt nếu tôi vẫn tiếp tục cố gắng và dùng sức quá nhiều vào việc ấy.
Khi đến Madras, một buổi sáng tôi nhận thấy ngón tay trỏ bên bàn tay trái của tôi không còn cảm giác, và đó là một sự cảnh cáo rõ rệt cho tôi biết là tôi phải cẩn thận. Ở những trạm dọc đường giữa Madras Bombay, tôi đã phải mất nhiều thì giờ hơn và dùng sức cố gắng lớn lao hơn nhiều để chữa khỏi những chứng bệnh tương tự so với những lần trước đây, và tỷ lệ thất bại cũng cao hơn nhiều.
Điều này cũng không lạ gì, vì sau khi chữa trị bằng cách này hay cách khác độ tám ngàn bệnh nhân trong vòng mười hai tháng, thì dù cho một lương y trẻ có sinh lực dồi dào mạnh khỏe nhất cũng phải cảm thấy kiệt sức và khô cạn sinh khí, đừng nói chi một người tuổi đã ngoài năm mươi như tôi. Vả lại, với những chuyến du hành mệt mỏi thường xuyên, việc ngủ nghỉ ăn uống thất thường, sự lao phí tâm lực để trả lời thư tín bốn phương, tiếp khách hằng ngày, và những buổi diễn thuyết hầu như mỗi ngày của tôi về những đề tài triết lý thâm sâu, những điều này đương nhiên là phải đưa đến hậu quả nói trên.

VII.

Sau khi lệnh ngưng công tác chữa bệnh của tôi được giải tỏa, tôi lại tiếp tục làm việc. Trong một chuyến đi hành đạo ở Madura, miền Nam Ấn, có rất đông bệnh nhân tề tựu đến nhờ tôi chữa bệnh, và mỗi trường hợp chữa khỏi bệnh lại làm cho dân chúng càng thêm sôi động. Tôi đã phải nhờ Ban tổ chức sắp xếp trật tự, và chọn lựa những bệnh nhân được chữa ưu tiên, trong số đám đông vây chặt và xô đẩy nhau ở cửa ra vào.
Bản báo cáo của một bạn đạo gửi đăng trên tạp chí Theosophist cho biết rằng tôi đã truyền điện cho hai mươi bảy bệnh nhân, và những trường hợp khỏi bệnh đáng kể nhất gồm có ba người điếc, một trường hợp bệnh thấp khớp tủy xương sống đã kéo dài chín năm mà y học không thể chữa khỏi, và hai chứng bại liệt.
Nói chung, đó là một loạt những sự việc mệnh danh là “phép lạ”, mà nếu được một giáo sĩ của bất cứ một tôn giáo nào khai thác triệt để, cũng đủ chứng minh cho người đời thấy rằng y là người có thiên ân, vì quần chúng mê tín dị đoan của bất cứ đất nước nào cũng sẵn sàng tin tưởng như vậy.
Độc giả sẽ nhận thấy rằng nếu hai nhà sáng lập Hội Thông thiên học quả thật là những kẻ gian trá lừa bịp như họ thường bị vu khống, thì họ đã có thể tóm thâu những số bạc khổng lồ và được tôn sùng như thần thánh, thay vì chỉ có những số lợi tức ít oi như được tường trình trong các bản báo cáo tình hình tài chính hằng năm của Hội.
Không phải là chúng tôi không có cơ hội, bởi vì mọi cơ hội tốt mà bất cứ một nhà cải cách tôn giáo nào ở Ấn Độ đã từng có, thì chúng tôi cũng đã có. Trong thời kỳ hiện tại, lòng tín ngưỡng chân chính đã suy thoái, và các hàng giáo phẩm, tư tế đã hầu như lụn bại, đồi trụy tinh thần, thì những phép thuật thần thông của bà Blavatsky và khả năng chữa bệnh nhiệm mầu của tôi đã gây ấn tượng sâu xa trong tâm hồn dân chúng đến mức làm cho các nhà tỷ phú sẵn sàng hiến dâng vàng bạc của cải dưới chân chúng tôi, và những số bạc khổng lồ đã được cung hiến để cho chúng tôi biểu diễn quyền năng trước mắt họ.
Một người Hồi giáo ở tỉnh Bengale có lần đề nghị dâng hiến cho tôi mười ngàn ru-pi nếu tôi ngưng việc chữa bệnh cho công chúng trong vài giờ để chữa bệnh bại liệt cho vợ y. Lẽ tất nhiên là tôi từ chối, mà đáng lẽ ra tôi đã có thể chữa khỏi bệnh cho người vợ nếu ông ta là một người nghèo khổ cùng đinh hoặc chỉ cần ông ta đến với tôi theo cách của những người dân thường mà không đặt ra vấn đề mua chuộc bằng tiền bạc.
Chúng tôi đã từ chối tất cả những đề nghị đó với một sự thành thật hiển nhiên, và đó chính là cái bí quyết làm cho chúng tôi được quần chúng mến phục và kính trọng ở khắp mọi nơi trong xứ Ấn Độ, kể từ lúc đầu cho đến bây giờ. Nếu chúng tôi đã thâu nhận một món quà nào cho riêng mình, thì toàn thể quần chúng Ấn Độ có lẽ đã bỏ rơi chúng tôi trong cơn khủng hoảng về vụ Coulomb, có lẽ chúng tôi đã bị coi như những kẻ bịp bợm, “buôn thần bán thánh”, hoặc “mượn đạo tạo đời”.
Trái lại, với tình trạng hiện hữu, tất cả các nhà truyền giáo của mọi chi phái và tất cả mọi tổ chức hiệp hội trên thế giới vẫn không thể làm mất đi những cảm tình mà chúng tôi đã tạo ra trong lòng dân chúng Ấn.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét