Thứ Sáu, 25 tháng 5, 2018

NHỮNG GIAI THOẠI HUYỀN BÍ 6 / Đọc truyện

(ĐC sưu tầm trên NET)

Sách là ngọn đuốc soi rọi chân lý, là chiếc khăn thấm đẫm máu, nước mắt và lòng nhân ái của loài người!
--------------------------------------------------------------------
NGUYN HU KIT dịch
TSÁCH HUYN MÔN
NHNG GIAI THOI HUYN BÍ
(LCH SHI THÔNG THIÊN HC - PHN 2)
HI KÝ CA ĐẠI TÁ H. S. OLCOTT
CHI TRƯỞNG HI THÔNG THIÊN HC THGII
 

CHƯƠNG MƯỜI 
MỘT CUỘC KHỦNG HOẢNG NỘI BỘ

I.

Vào khoảng cuối năm 1879, bắt đầu có sự bất hòa trong cuộc sống tập thể của nhóm bốn người trong chúng tôi. Đó là nguyên nhân đưa đến sự phân ly giữa nhóm người lưu vong khởi hành từ Hoa Kỳ sang đây. Sự kết hợp của nhóm người này là một điều vô lý và phản tự nhiên, một sản phẩm kỳ khôi ngông cuồng của bà Blavatsky và đương nhiên là phải gây xáo trộn.
Blavatsky và tôi, như đã nói trước đây, vẫn luôn luôn đồng một quan niệm về vấn đề các đấng chân sư, sự liên hệ giữa chúng tôi với các ngài, và về lý tưởng phụng sự. Dầu cho giữa chúng tôi một đôi khi có sự va chạm nào, do bởi sự cách biệt phàm ngã và bởi cái nhìn khác biệt nhau về các vấn đề thế sự, chúng tôi vẫn luôn luôn hoàn toàn hòa hợp ý kiến về một lý tưởng chung và về việc thực hiện lý tưởng đó.
Nhưng đối với hai người bạn kia thì lại khác. Ông Wimbridge và cô Bates đều là người Anh, và chỉ được phết một lớp sơn hiểu biết nông cạn về các vấn đề huyền học, siêu hình, do lòng hứng khởi nồng nhiệt của bà Blavatsky truyền sang.
Ông W. là một họa sĩ kiến trúc sư, còn cô Bates là một nữ giáo viên dạy trẻ, độ chừng ba mươi lăm tuổi. Cả hai đều đã sống vài năm ở Mỹ, và được giới thiệu cho bà Blavatsky do những bạn quen của đôi bên. Cả hai đều tán thành kế hoạch của bà Blavatsky theo đó họ sẽ cùng đi với chúng tôi sang Ấn Độ để hành nghề tùy khả năng của mỗi người, với sự trợ giúp có thể tìm cho họ do ảnh hưởng của chúng tôi đối với những người Ấn Độ có thế lực.
Tôi không có gì phiền trách ông W., nhưng cảm thấy một sự đố kỵ tự nhiên đối với cô kia. Tôi yêu cầu bà Blavatsky đừng cho cô ấy đi theo chúng tôi. Bà luôn luôn đáp rằng vì cả hai đều là người Anh có tinh thần yêu nước, nên có họ đi cùng với mình sẽ là một sự bảo đảm đối với nhà cầm quyền Anh Ấn, cho thấy sự vô tư của chúng tôi, hoàn toàn không có ý đồ hay mục tiêu chính trị. Bà còn nói bà sẽ gánh chịu tất cả mọi hậu quả của việc này, vì bà biết rằng sự liên hệ với hai người ấy hoàn toàn vô hại.
Trong việc này, cũng như trong một trăm trường hợp khác nữa, tôi luôn luôn nhượng bộ trước sự tiên kiến chắc hẳn là huyền diệu và cao siêu hơn của bà; và thế là chúng tôi tất cả bốn người cùng vượt biển sang Ấn Độ và cùng định cư với nhau ở Bombay.
Nhưng than ôi! Thật là không may mắn chút nào! Cô Bates bắt đầu gây nên một sự hiểu lầm giữa bà Blavatsky và một thiếu phụ khác, hội viên Hội Thông thiên học ở New York, lôi cuốn ông W. vào cuộc tranh chấp, và làm tan vỡ sự hòa hợp trong nhóm chúng tôi.
Tôi không dính dáng gì vào sự hiềm khích ấy, nhưng sau cùng tôi phải đảm nhiệm cái công tác không thú vị là bắt buộc cô Bates phải ra khỏi Hội. Đó là cái số phận luôn được gán ghép cho tôi: bà Blavatsky là người vô tình gây nên những vụ cãi lẫy, tranh chấp, còn tôi phải hứng chịu những cú đấm đá và đuổi cổ những kẻ bất hảo! Điều này, tất cả những bạn bè quen thuộc của chúng tôi đều biết rõ. Bà bạn tôi luôn nói đến năng khiếu “linh cảm, linh giác” của bà, nhưng cái năng khiếu đó rất ít khi giúp bà phát hiện một kẻ phản bội hay một kẻ thù truyền kiếp đến với chúng tôi dưới lớp ngụy trang của một tình bạn giả tạo.

II.

Trong chuyến đi Tích Lan kể trên, chúng tôi để cô Bates và bà Coulomb ở lại coi sóc Hội quán. Ông bà Coulomb là hai người Pháp vừa mới đến giúp việc cho chúng tôi. Vì cô Bates là phụ nữ độc thân, còn bà Coulomb đã có kinh nghiệm về nội trợ, nên tôi bỗng có cái ý nghĩ dại dột là bảo cô Bates hãy giao chức quản gia của cô lại cho bà Coulomb, còn cô lãnh nhiệm vụ khác.
Cuộc đời làm gia trưởng trên mười lăm năm của tôi vẫn chưa dạy cho tôi biết điều khôn dại này, là đừng nên để cho một người mới đến có cái cơ hội làm “bà chủ” để sai phái chỉ huy người đàn bà kia! Bây giờ thì tôi đã biết rồi. Khi chúng tôi trở về Bombay, thì thấy Hội quán có một bầu không khí rất căng thẳng: cô Bates và bà Coulomb đang xung đột nhau, tất cả mọi sự tố giác và phản kích được cả hai người tranh nhau đổ vào lỗ tai không muốn nghe của chúng tôi!
Bates tố giác bà Coulomb toan bỏ thuốc độc cho cô, và bà này cũng trả đũa bằng một sự tố giác tương tự, ăn miếng trả miếng. Tôi muốn lấy chổi quét cả hai ra khỏi nhà, và đó là một điều rất tốt nếu tôi có thể làm. Nhưng thay vì như thế, tôi lại được mời làm phán quan phân xử những sự tranh chấp cãi lẫy của họ. Thế là tôi đành phải ngồi nghe những chuyện vô lý của họ suốt hai đêm liên tiếp, và sau cùng tôi quyết định rằng vụ tố giác bà Coulomb bỏ thuốc độc không đủ lý do buộc tội vì không có bằng chứng cụ thể. Lý do chính của vụ xung đột là vì chúng tôi đã giao chức vụ quản gia cho bà Coulomb khi chúng tôi vắng mặt, và cô Bates không hài lòng với nhiệm vụ biên tập viên tạp chí mà chúng tôi giao cho cô.
Trong khi tôi phân xử, bà Blavatsky ngồi kế bên; bà có vẻ hút thuốc lá hơi nhiều hơn lúc thường, và thỉnh thoảng cũng góp một lời, nhưng ý kiến của bà lại có khuynh hướng làm tăng thêm hơn là làm dịu bớt sự căng thẳng.
Sau cùng, ông Wimbridge, với tư cách là bạn của cô Bates, cũng đồng ý với tôi để bắt buộc cả hai đàng phải chịu hòa giải, và tạm thời cơn giông tố đã lắng dịu. Những ngày kế đó, chúng tôi hoàn toàn bận rộn với công việc sưu tập và soạn bài cho tờ tạp chí “Theosophist”, một việc đã trở nên rất khẩn thiết sau thời gian vắng mặt khá lâu của chúng tôi.
Ngay trước khi trở về Bombay, chúng tôi được tin bạn Mulji Thackersey đã từ trần, và thế là Hội Thông thiên học đã mất đi một cộng tác viên đắc lực. Chiều tối ngày 4 tháng 8 năm ấy, một vị chân sư đến viếng Blavatsky, và tôi được gọi đến để gặp ngài trước khi ngài từ giã. Ngài đọc cho tôi viết một bức thư dài rất quan trọng cho một bạn đạo có thế lực của chúng tôi ở Paris, và đưa cho tôi những gợi ý quan trọng về vấn đề quản trị công việc của Hội. Tôi được mời ra ngoài trước khi cuộc viếng thăm kết thúc, và vì tôi để ngài ngồi lại trong phòng với bà Blavatsky, nên tôi không thể biết rằng ngài đã ra đi bằng cách nào, và ngài có biến mất một cách mầu nhiệm hay không.
Cuộc viếng thăm ấy đến với tôi rất đúng lúc, vì chính vào ngày hôm sau đã xảy ra một vụ nổ lớn: cô Bates phẫn nộ với bà Blavatsky về một việc có liên quan đến người thiếu phụ ở New York kể trên, và căm giận quyết định của tôi trong vụ phân xử cuộc xung đột giữa cô với bà Coulomb. Trong khi cô day lưng về phía tôi và còn đang cãi vã với bà Blavatsky thì một bức thư của vị chân sư đến chiều hôm trước từ trên không trung rơi xuống chỗ tôi ngồi. Tôi mở thư ra xem, thì thấy đó là lời khuyên của ngài về hành động tốt nhất mà tôi phải làm trong cơn khó khăn hiện tại.
Ngày hôm sau, bắt đầu cuộc chia ly giữa bốn người trong nhóm chúng tôi; ông Wimbridge đứng về phe cô Bates. Có sự đồng ý chung về kế hoạch mua vé tàu cho cô Bates trở về New York, nhưng rốt cuộc điều này đã bị cô bác bỏ, sau khi một bạn đạo là ông Seervai đã lo sắp đặt xong mọi việc và làm các thủ tục cần thiết.
Thật là một điều đáng tiếc vì câu chuyện xảy ra do sự ganh tị, hiềm khích nhỏ nhen giữa đàn bà, một vụ xung đột thật vô lý và không đáng xảy ra. Lẽ ra nó đã có thể tránh khỏi bằng cách sử dụng lý trí và một chút nhẫn nhục, tự chủ.
Tuy rằng đối với chúng tôi, chuyện ấy không có gì đáng bận tâm, nhưng nó đã gây một ảnh hưởng xấu cho Hội. Một hậu quả đáng tiếc là những người ly khai đã tìm cách liên hệ với một tờ nhật báo bản xứ ở Bombay, từ trước vẫn không hề có thiện cảm với chúng tôi, và tờ báo này đã công khai mạ lỵ Hội Thông thiên học với những lời lẽ cay đắng vẫn còn tiếp tục cho đến bây giờ.

III.

Cộng thêm vào cái viễn ảnh đen tối đó, sau chuyến đi Tích Lan trở về, chúng tôi thấy những Hội viên đều im lìm mê ngủ và Chi hội Bombay hoàn toàn bất động. Hai tháng vắng mặt của chúng tôi dường như đã làm tê liệt mọi hứng thú đối với công việc Hội, và khi tờ nhật báo bản xứ nói trên bắt đầu khai pháo tấn công thì vòm trời của chúng tôi có vẻ rất u ám.
Tuy vậy, chúng tôi vẫn tiếp tục với một ý chí kiên cường dũng mãnh, cố gắng cho tờ tạp chí ra đúng kỳ hạn mỗi tháng và trả lời thư từ bốn phương gửi đến chúng tôi với số lượng càng ngày càng nhiều. Đó là một trong những cơn khủng hoảng của Hội, mà trong tình trạng hầu như cô đơn, bà Blavatsky và tôi cùng sát cánh với nhau một cách chặt chẽ nhất để hỗ trợ tinh thần và khích lệ lẫn nhau. Tuy rằng những bạn bè thân tín nhất có thể phản bội và những cộng tác viên đắc lực nhất có thể bỏ cuộc nửa chừng, chúng tôi luôn nói với nhau những lời đầy lạc quan, cố ý làm cho nhau nghĩ rằng cơn nghịch cảnh hiện tại không có gì đáng kể, và sẽ trôi qua như một cụm mây thưa thớt của mùa hè.
Khi đó, chúng tôi biết, vì cả hai chúng tôi đều có bằng chứng cụ thể và thường xuyên, rằng các đấng cao cả mà chúng tôi phục vụ luôn bao bọc che chở chúng tôi với nguồn thần lực mạnh mẽ và ân huệ của các ngài; đó là một cái khiên vững chắc để bảo vệ chúng tôi khỏi mọi sự trắc trở nguy vong, và một điềm triệu báo trước sự thành công hoàn toàn trong sứ mạng.
Tuy nhiên, với thời gian qua chúng tôi không đến nỗi cô đơn. Một số bạn đạo người Ấn Độ thường xuyên đến trợ giúp chúng tôi, và dần dần chúng tôi phục hồi lại được cái tư thế đã mất của thuở ban đầu.
Trong số những người cộng tác đắc lực với chúng tôi có bạn Damodar Mavalankar, một thanh niên Ấn thuộc dòng Bà-la-môn mà tôi đã nhiều lần đề cập tới trước đây.
Tuy dáng người mảnh mai, ốm yếu, anh ta đã lao mình vào công việc của Hội với tất cả tâm hồn và biểu lộ một tấm lòng trung kiên sắt đá không gì lay chuyển. Hồi còn thơ ấu, anh đã từng vướng một chứng bệnh ngặt nghèo và bị sốt nặng sắp chết. Trong cơn mê sảng, anh nhìn thấy linh ảnh một bậc hiền giả đạo mạo bước đến gần, nắm tay anh và bảo anh chưa nên chết vội, mà phải sống để làm việc đạo trong tương lai.
Sau khi gặp bà Blavatsky, nhãn quang tâm linh của Damodar phát triển dần dần, và anh nhận ra đấng mà chúng tôi gọi là chân sư K. H. chính là nhà hiền giả đã xuất hiện trong cơn mê sảng của anh ta hồi còn bé, khi anh đang nằm hấp hối trên giường bệnh. Điều này đã làm cho anh càng quyết tâm trung thành với lý tưởng và mục đích của chúng tôi; và xem bà Blavatsky như người mẹ đỡ đầu.
Đối với tôi Damodar đặt một niềm tin tuyệt đối, lẫn cả tình thương và lòng kính trọng. Anh ta bênh vực tôi khi tôi vắng mặt, trước những sự vu khống công khai hay riêng tư, và đối xử với tôi như con đối với cha. Damodar đã hợp tác chặt chẽ và sát cánh với chúng tôi trong một tình thân hữu đậm đà nhất.
Anh ta làm việc với một lòng trung thành và vô kỷ tuyệt đối cho đến năm 1885, khi đó anh khởi hành từ Madras sang Tây Tạng, qua Darjiling, và vẫn còn ở đó dưới sự huấn luyện của chân sư để chuẩn bị cho anh ta làm công tác phụng sự nhân loại trong tương lai. Thỉnh thoảng, có tin đồn nhảm được loan truyền rằng anh ta đã chết trên lộ trình đầy tuyết phủ trong chuyến đi lên dãy Tuyết Sơn, nhưng tôi có lý do vững chắc để tin rằng anh vẫn còn sống mạnh khỏe và có ngày sẽ trở về. Tôi sẽ trở lại vấn đề này ở một đoạn sau.
Có lần Damodar nhận được bốn bức thư gửi đến từ bốn thành phố cách nhau rất xa và tất cả đều có đóng dấu sở Bưu điện. Tôi đưa tất cả cho Giáo sư Smith, yêu cầu ông hãy vui lòng xem xét cẩn thận mỗi bao thư xem có dấu hiệu gì chỉ ra rằng có ai đã bóc thư hay không, vì trong thư tín của chúng tôi thường thấy có những lời ghi chú của chân sư viết thêm vào những khoảng trống. Sau khi đã khám xét tỉ mỉ, giáo sư trả lại cho tôi và nói rằng tất cả các thư đều còn nguyên vẹn hoàn toàn, không có dấu vết gì khả nghi. Tôi liền yêu cầu bà Blavatsky hãy thử “nhìn” xem có thông điệp nào của chân sư trong đó không. Bà bèn cầm lấy các thư vẫn còn nguyên vẹn, để từng cái một lên trán, và nói rằng trong hai bức thư có chữ viết của chân sư. Kế đó bà đọc các thông điệp bằng khả năng linh thị, và tôi yêu cầu giáo sư Smith hãy tự tay ông mở các bao thư. Ông này săm soi xét kỹ các bao thư một lần nữa rồi lấy dao rọc mở các bao, và tất cả chúng tôi đều thấy rằng nội dung các thông điệp đều giống y như bà Blavatsky đã đọc.
Chính vào ngày chia ly giữa nhóm chúng tôi như đã kể trên, chúng tôi nhận được thư ông Sinnett mời chúng tôi lên chơi tại nhà nghỉ mát của ông ở Simla, thủ đô mùa hè của Chính phủ Ấn Độ, ở dưới chân dãy Tuyết Sơn.
Chúng tôi rời khỏi Bombay bằng xe lửa và dọc đường chúng tôi ghé lại vài thị trấn trên miền Bắc để viếng thăm các Chi hội đã thành lập trước đây. Kế đó, chúng tôi ngồi xe thồ leo đường dốc núi đến Kalka, nghỉ ngơi tại đó nửa ngày rồi mới thuê xe ngựa để đi Simla.
Cảnh vật miền núi thật là hùng vĩ, ngoạn mục với những đỉnh núi cao trùng điệp nối tiếp nhau đến tận chân trời. Chúng tôi đến thị trấn Simla trước khi mặt trời lặn, những ngôi biệt thự phản chiếu ánh nắng vàng làm cho thành phố có vẻ rất hấp dẫn. Một người giúp việc của gia đình ông Sinnett đón tiếp chúng tôi khi vào thành phố với những chiếc kiệu nhỏ hai người khiêng ở hai đầu, và không bao lâu chúng tôi đã đến ngôi biệt thự của ông bà Sinnett. Tại đây, một cuộc tiếp đón nồng hậu đang chờ đợi chúng tôi.

CHƯƠNG MƯỜI MỘT 
THỊ TRẤN SIMLA

I.

Thị trấn Simla phô bày trước mắt chúng tôi những cảnh tượng rất hùng vĩ của miền sơn cước. Ngôi biệt thự của ông Sinnett tọa lạc trên một triền núi, nhìn xuống một vùng thung lũng rất ngoạn mục, và ngồi trên hàng ba nhà ông, người ta có thể nhìn thấy những biệt thự của phần nhiều những vị quan chức Anh Ấn cao cấp nắm guồng máy cai trị cả một đất nước rộng lớn này.
Sáng hôm sau, hành động đầu tiên của ông Sinnett là bắt đầu có một cuộc nói chuyện rất nghiêm trọng với bà Blavatsky về chính sách mà bà nên theo đuổi. Ông khẩn khoản yêu cầu bà hãy xem cuộc viếng thăm này như một chuyến đi chơi giải trí mà thôi, và trong thời gian ba tuần lễ ở tại đây đừng nói gì đến Hội Thông thiên học, cũng đừng đề cập đến việc chúng tôi bị Chính phủ theo dõi vì tình nghi là gián điệp của Nga. Nói tóm lại, hãy quên đi việc riêng của mình, mà tốt hơn hãy đạt kết quả bằng cách gây cảm tình trong các giới quen biết tại đây, những giới này sẽ không có thiện cảm nếu họ bị bắt buộc phải nghe những quan niệm dị kỳ của chúng ta và nghe những sự than phiền về những nỗi bất công vô lý mà chúng ta phải chịu.
Lẽ tất nhiên, bà Blavatsky hứa sẽ nghe theo, và cũng lẽ tất nhiên, bà quên hết tất cả khi người khách đầu tiên vừa bước chân vào nhà. Những tin tức từ Bombay về hậu quả của vụ xung đột với cô Bates làm cho bà xúc động đến cực điểm, và sáng ngày hôm sau, như thường lệ, bà trút hết tất cả mọi tội lỗi, trách nhiệm lên đầu tôi. Bà giậm chân, đi tới đi lui trong phòng và nói một mình cơ hồ như tôi là nguyên nhân của tất cả mọi sự đắng cay khổ sở của bà.
Sau đó, ông Sinnett, trong một buổi nói chuyện riêng với tôi, có bày tỏ sự thất vọng vì thấy rằng bà không chịu tự chủ mà đã bỏ mất tất cả những cơ hội kết thân với những người rất cần gây thiện cảm như một điều tối ư quan trọng. Ông nói rằng người Anh luôn xem đức tính tự chủ, điềm nhiên như một dấu hiệu của giá trị nhân bản thật sự. Bà bạn trung kiên của chúng tôi, phu nhân Gordon, là vị khách đầu tiên tại Simla, và sau đó nối tiếp nhau một loạt những quan chức quan trọng nhất của Chính phủ ông Sinnett cố tình mời đến nhà để gặp bà Blavatsky.
Trong tập nhật ký của tôi có chép rằng bà bắt đầu thực hiện những hiện tượng thần thông ngay lập tức. Từ ngày đầu tiên cho đến sau, không một buổi dạ tiệc nào được xem như đầy đủ mà không có sự biểu diễn những phép thuật của bà Blavatsky, chẳng hạn như phát động tiếng gõ nhịp dưới mặt bàn và tiếng chuông reo trong không khí, v.v... Thậm chí, bà còn làm cho tiếng chuông reo ở trên và bên trong đầu của những vị chính khách nghiêm trang khả kính nhất.
Từ trước đến nay, chúng tôi vẫn bị Chính phủ ghét và theo dõi vì nghi ngờ là gián điệp của Nga. Một mục tiêu của chuyến đi này là phải làm sao giải tỏa sự hiểu lầm vô lý đó để cho công việc của chúng tôi ở Ấn Độ khỏi bị ngăn trở, chướng ngại. Nhưng tôi phải đợi cho đến khi chúng tôi đã đích thân gặp gỡ và tiếp xúc với tất cả những vị quan chức ở cấp lãnh đạo, để cho họ có cơ hội nhận xét trực tiếp về tác phong, hạnh kiểm và ý đồ khả hữu của chúng tôi khi đến xứ Ấn Độ.
Khi nhận thấy đã đến lúc, một ngày nọ sau bữa ăn tối, tôi nói chuyện một cách thân hữu với vị Bộ trưởng Bộ Ngoại vụ trong Chính phủ, và sắp đặt một cuộc trao đổi thư từ, kèm theo với những bản sao các văn kiện, chứng thư riêng của tôi. Vì tính cách lịch sử và tầm mức quan trọng của vấn đề này, nên tôi in lại nguyên văn bức thư của tôi như sau:
“Simla, ngày 27 tháng 9 năm 1880
Kính gửi: Ông Bộ trưởng Bộ Ngoại vụ. Thưa ông Bộ Trưởng,
Tham chiếu cuộc đàm thoại giữa chúng ta ngày thứ Bảy vừa qua về Hội Thông thiên học và công việc của Hội tại Ấn Độ, và thể theo lời đề nghị của chính ông, tôi xin trình bày lại vấn đề bằng văn thư.
1. Hội Thông thiên học được tổ chức tại New York năm 1875 bởi một số học giả khoa Đông phương học và Tâm linh học, nhằm mục đích học hỏi khảo cứu các tôn giáo, triết lý và khoa học cổ của Á châu với sự trợ giúp của các nhà học giả, chuyên viên bản xứ.
2. Ngoài những mục đích kể trên, Hội không có mục đích nào khác nữa, và nhất là không có ý định xen vào các vấn đề chính trị, dù ở Ấn Độ hay bất cứ ở đâu.
3. Năm 1878, hai nhà sáng lập Hội là bà H. P. Blavatsky (một công dân Nga đã nhập quốc tịch Mỹ4 và là một học giả khoa Tâm linh học Á châu) và tôi, cùng với hai hội viên khác (thuộc quốc tịch Anh) đã đến Ấn Độ để xúc tiến công việc của Hội. Vì lẽ hai người trong nhóm chúng tôi là người Anh, người thứ ba có quốc tịch Mỹ, và tôi là một công dân sinh trưởng tại Mỹ, nên chúng tôi không hề dính líu đến vấn đề chính trị của xứ Ấn Độ. Riêng tôi có một thẻ thông hành đặc biệt (theo thể thức ngoại giao) do Ngoại trưởng Evarts cấp, với một chứng thư của Bộ Ngoại giao Mỹ giới thiệu tôi cho các vị đại sứ và lãnh sự Mỹ ở hải ngoại, cùng với một chứng thư tương tự viết tay của Tổng thống Hoa Kỳ. Những bổn sao các văn kiện trên đã được lưu trữ tại Văn khố của Chính phủ tiểu bang Bombay, và sẽ được gửi đến Bộ Ngoại vụ Ấn Độ trong nay mai.
4. Những báo cáo sai lầm, do không hiểu biết rõ hay có ác ý, về mục đích của chúng tôi tại Ấn Độ đã được đệ trình lên Chính phủ Ấn, bởi đó chúng tôi bị đặt dưới sự canh chừng và theo dõi của nhân viên an ninh, nhưng công việc này đã được thi hành một cách vụng về đến nỗi làm cho cả nước đều chú ý, và người dân bản xứ thấy rằng mọi liên hệ với chúng tôi sẽ gây ác cảm đối với chính quyền, và sẽ ảnh hưởng bất lợi đến tương lai của họ. Như vậy, những kế hoạch lợi ích của Hội chúng tôi bị ngăn trở một cách trầm trọng, và chúng tôi phải chịu nhiều sự ngược đãi hoàn toàn không có lý do chính đáng, do hậu quả hành động của Chính phủ căn cứ trên những tin đồn nhảm và thất thiệt.
5. Bất cứ người nào đã từng có dịp biết rõ sự thật, đều nhận thấy rằng trong thời gian lưu trú của chúng tôi trên mười tám tháng nay ở Ấn Độ, chúng tôi đã tạo một ảnh hưởng lành mạnh và bảo thủ đối với dân bản xứ, và được họ chấp nhận như những người bạn tốt lành, chân chính của dân tộc và xứ sở họ. Chúng tôi có giữ nhiều thư từ gửi đến từ khắp mọi nơi trên xứ Ấn Độ để chứng thực điều ấy. Nếu Chính phủ có thể giải tỏa những sự bất lợi mà họ đã vô tình gây cho chúng tôi, và phục hồi trở lại thanh danh mà chúng tôi vẫn có trước khi cái nhãn hiệu “âm mưu chính trị” bị chụp mũ lên đầu chúng tôi một cách tàn nhẫn và bất công như đã kể trên, thì chúng tôi sẽ có thể làm một công việc phụng sự lớn lao không những cho dân chúng Ấn Độ mà còn cho cả nền văn hóa và khoa học Đông phương.
Nhưng nếu lệnh theo dõi chúng tôi chỉ bị hủy bỏ không thôi cũng vẫn chưa đủ, vì sự nghi ngờ đã âm thầm tác động từ trên xuống dưới trong guồng máy cai trị của Chính phủ, xuyên qua tất cả mọi giai tầng cơ sở trong quần chúng Ấn, làm cho chúng tôi đương nhiên trở thành một hình ảnh của tai họa. Như một giải pháp hữu hiệu, chúng tôi yêu cầu Bộ Ngoại vụ ra lệnh cho các cấp trực thuộc hãy thông báo cho từng địa phương biết rõ sự kiện này là chúng tôi không còn bị nghi ngờ, và xét vì công việc của chúng tôi làm là vì sự lợi ích cho xứ Ấn Độ, nên nó được chấp nhận. Và điều này, với tư cách là một sĩ quan và một công dân Mỹ, tôi trân trọng giải bày với tôn ông như nhà đại diện của nền công lý và luật pháp công minh của Anh quốc.
Trân trọng kính thư,
Ký tên:
Đại tá Henry S. Olcott.
Hội Trưởng Hội Thông Thiên Học Thế Giới
Sự trả lời của Chính phủ Ấn Độ vẫn chưa làm tôi thỏa mãn. Tuy họ có lời bảo đảm rằng chúng tôi sẽ không bị quấy rầy nếu chúng tôi không xen vào việc chính trị, nhưng họ không nói rằng những lệnh truyền cho các quan chức Anh Ấn ở các tiểu bang theo dõi và dò xét chúng tôi sẽ được hủy bỏ.
Trong một bức thư thứ nhì, tôi đã lưu ý Bộ Ngoại vụ về vấn đề này, và sau đó ít lâu, tôi đã đạt được như ý muốn. Kể từ khi đó, chúng tôi đã được tự do.

II.

Ngày 29 tháng 9, bà Sinnett, bà Blavatsky và tôi cùng đi dạo chơi trên đỉnh một ngọn đồi ở vùng chung quanh. Trên nóc lợp ngói của một ngôi miếu nhỏ của Ấn giáo tại đó, giữa vô số những chữ khắc tên họ của du khách bốn phương đến viếng, tôi nhận thấy có một chữ khắc ám hiệu của Chân Sư M. với tên tôi ở dưới, nhưng do đâu mà có chữ đó thì tôi cũng không biết.
Khi chúng tôi đang ngồi nói chuyện, bà Blavatsky nhân lúc cao hứng, mới hỏi chúng tôi có ai mơ ước điều gì không? Bà Sinnett nói: “Tôi muốn có một thông điệp của chân sư rơi xuống ngay chỗ tôi ngồi.”
Blavatsky bèn lấy từ trong quyển sổ tay bỏ túi của bà một tờ giấy màu hồng, dùng ngón tay vẽ lên đó vài phù hiệu bí mật, xếp tờ giấy thành hình ba góc, cầm nó trong tay đi xuống sườn đồi cách đó độ hai mươi thước, day mặt về hướng tây, đưa tay vẽ một đạo bùa trên không gian, xòe cả hai bàn tay ra, và tờ giấy kia liền biến mất. Thay vì nhận được thư trả lời rơi xuống chỗ bà đang ngồi, bà Sinnett nhận thư bằng cách trèo lên một cái cây ở gần bên. Thông điệp ấy được viết trên tờ giấy màu hồng lúc nãy, cũng xếp thành hình ba góc, và mắc vào một nhánh nhỏ trên cây. Trên tờ giấy có chữ viết do một bàn tay lạ, để trả lời một câu hỏi riêng tư của bà Sinnett, và do chân sư K. H. ký tên bằng chữ Tây Tạng.
Bây giờ tôi xin kể một chuyện khác. Một nhóm chúng tôi gồm sáu người, ba người nam và ba người nữ, sửa soạn từ nhà ra đi trong một cuộc du ngoạn dưới một thung lũng cách xa thành phố. Người quản gia của gia đình Sinnett đã sắp đặt các giỏ mây đựng đồ vật thực, và đã gói vào trong giỏ sáu bộ chén dĩa kiểu lạ để dùng trà. Khi chúng tôi sắp sửa ra đi thì một người khách đến thình lình, và cũng được mời cùng đi với chúng tôi. Những người giúp việc đã xách các giỏ mây đi trước, còn chúng tôi từ từ đi sau theo hàng một, trên con đường mòn gồ ghề khúc khuỷu đưa xuống thung lũng. Sau một chuyến đi bộ dạo chơi thong thả, chúng tôi đến một chỗ bằng phẳng trên sườn một dãy đồi cỏ cây sầm uất, với những cây cổ thụ to lớn có tàn cây che mát rượi.
Chúng tôi bèn cắm trại ở đây, và nằm ngồi rải rác trên bãi cỏ xanh, trong khi những người giúp việc dọn chỗ trên bãi cỏ và bày đồ vật thực. Họ vừa nhóm lửa nấu nước pha trà, thì thấy người quản gia vẻ mặt băn khoăn bước đến gần bà Sinnett và thưa với bà rằng còn thiếu một bộ chén dĩa cho ông khách mới đến vào phút chót. Bà nói với một giọng bực mình:
- Anh thật là lơ đễnh, sao không nhớ đem thêm một bộ chén dĩa nữa khi anh biết rằng ông khách ấy cũng sẽ dùng trà như mọi người?
Kế đó bà quay lại với chúng tôi và vừa nói vừa cười:
- Hình như trong các bạn chắc phải có hai người uống chung một cốc.
Lúc ấy tôi mới nói rằng, trước đây trong một trường hợp tương tự, chúng tôi đã giải quyết vấn đề bằng cách đưa cái chén cho một người và cái dĩa cho người kia. Đến đây, một người trong nhóm mới nói đùa với bà Blavatsky:
- Bây giờ, thưa bà, đây là một cơ hội để cho bà thực hiện phép mầu.
Tất cả chúng tôi bất giác cười lớn vì câu nói đùa bỡn vô lý đó, nhưng khi thấy bà Blavatsky có vẻ sẵn lòng chấp nhận thì mọi người đều hoan hô thích thú, và yêu cầu bà làm ngay lập tức. Những người nằm trên bãi cỏ cũng đã đứng dậy và tề tựu chung quanh. Bà Blavatsky nói rằng để làm cái việc này, bà cần có sự trợ giúp của Thiếu tá X., một bạn hữu của chúng tôi cũng đang có mặt lúc ấy.
Ông này tỏ vẻ bằng lòng. Bà yêu cầu ông đem theo một đồ dụng cụ để đào đất; ông ta bèn chụp lấy con dao lớn đựng trong giỏ và đi theo bà. Bà Blavatsky nhìn chăm chú trên mặt đất, đưa mặt chiếc nhẫn lớn của bà đeo, chiếu xuống chỗ nọ chỗ kia, và sau cùng bà nói: “Ông hãy đào ở chỗ này.”
Ông khách ra tay đào xới, và nhận thấy rằng phía dưới lớp cỏ xanh che phủ mặt đất là một hệ thống chằng chịt những rễ cây của những cây lớn nhỏ ở gần bên. Ông ta cắt những đám rễ và lôi ra từng nắm, kéo đất rời qua một bên, và đụng phải một vật màu trắng. Thì ra đó là một cái chén sứ uống trà nằm trong lòng đất, và khi ông ta lấy cái chén ra thì thấy nó thuộc cùng một kiểu giống y như sáu cái chén kia.
Hãy tưởng tượng những tiếng kêu ngạc nhiên và xúc động của nhóm người đứng xem chung quanh! Bà Blavatsky bảo ông kia hãy tiếp tục đào nữa ở chỗ ấy, và sau khi ông này đã cắt bỏ và kéo ra một rễ cây lớn bằng ngón tay út của tôi, ông ta lôi ra một cái dĩa cũng cùng một kiểu với những bộ chén dĩa khác. Điều này làm cho cả bọn xúc động đến cực điểm, và ông khách sử dụng con dao lại là người kêu to ầm ĩ nhất vì ngạc nhiên và khoái trá.
Khi cuộc đi chơi kết thúc và chúng tôi trở về nhà, bà Sinnett và tôi cùng đi thẳng đến cái tủ đựng chén để kiểm điểm lại, thì thấy bốn bộ chén dĩa uống trà bỏ sót lại ở nhà vẫn còn nguyên, cùng với sáu bộ đem theo là tất cả mười bộ. Thế là bộ thứ bảy do bà Blavatsky tạo thêm trong cuộc đi chơi, không phải ở trong số mười bộ chén của bà Sinnett.
Nếu có kẻ hoài nghi đưa ra giả thuyết rằng bộ chén sau cùng này có thể đã được chôn dấu từ trước để lòe bịp chúng tôi, thì sự thật hiển nhiên đã đính chính ngay điều ấy. Mọi người có mặt đều nhìn thấy rõ rằng bộ chén dĩa ấy nằm gọn trong lòng đất y như những mảnh đá vụn, giữa những rễ cây mọc dọc ngang chằng chịt như mạng lưới, phải dùng sức mạnh và dao bén để chặt đứt và bứng ra một cách mạnh mẽ mới lôi bộ chén dĩa kia ra được. Lớp cỏ trên mặt đất ở chỗ ấy vẫn xanh tươi và không có dấu hiệu gì khả nghi, và nếu có ai đã đào đất lên để chôn bộ chén dĩa từ trước, thì mặt đất bị đào xới đã không thể nào thoát khỏi cái nhìn nhận xét tinh vi của toàn thể quan khách đứng vây chung quanh trong khi ông thiếu tá ra tay làm việc.
Sau buổi ăn trưa, bà Blavatsky còn làm một phép mầu khác, nó làm tôi ngạc nhiên hơn cả. Một trong những vị khách nói rằng ông ta sẵn lòng gia nhập Hội Thông thiên học nếu bà Blavatsky có thể làm ngay tại chỗ cho ông ta một chứng chỉ Hội viên đã hoàn tất mọi thủ tục. Đó hẳn là một yêu cầu quá đáng, nhưng bà bạn tôi không hề e ngại, đưa tay khoát một cái trên không trung, và chỉ vào một bụi rậm cách đó một khoảng ngắn, bà bảo người kia hãy đến đó xem có gì không, vì cây và bụi rậm thường được dùng làm các trạm phát thư tín. Người khách kia vừa cười vừa đi đến chỗ bụi rậm, dường như không tin tưởng lắm về kết quả mong ước. Nhưng khi đến nơi, ông ta rút ra từ trong bụi rậm một chứng chỉ hội viên bằng chữ in có ghi tên họ của ông và ngày tháng hôm đó, với một bức thư chính thức của vị Hội trưởng, mà tôi biết chắc rằng tôi không hề viết, nhưng lại viết bằng chính tuồng chữ của tôi!
Điều này làm cho tất cả mọi người đều hoan hô vui vẻ, và vì bà Blavatsky đang nhân lúc cao hứng, nên dường như không một phép lạ nào khác mà bà không làm cho chúng tôi xem. Những màn biểu diễn phương thuật của bà Blavatsky đã có kết quả là làm cho nhiều nhân vật người Âu có thế lực đã gia nhập Hội Thông thiên học, và biểu lộ một lòng ưu ái đầy thiện cảm đối với bà bạn của tôi.
Ngày 7 tháng 10, tôi thuyết trình về đề tài: “Thần linh học và Thông thiên học” tại hội trường của Viện Phụng sự hợp nhất (United Service Institution). Tôi được cho biết rằng số thính giả hôm ấy gồm một cử tọa đông đảo nhất chưa từng thấy tại Simla.
Tối hôm đó tôi được mời tham dự buổi dạ tiệc tiếp tân của vị Phó vương Anh là Lord Ripon tại Dinh Chính phủ và được nhiều bạn hữu đến chúc mừng, khen tặng tôi về buổi diễn thuyết và về những mối giao tế được cải thiện tốt đẹp với Chính phủ Anh Ấn.
Hằng ngày chúng tôi đều bận rộn tiếp khách. Bà Blavatsky vẫn tiếp tục thực hiện các hiện tượng huyền bí đến mức làm cho một nửa dân số Simla tin rằng bà được sự “trợ giúp của Quỷ vương (Satan)”. Một viên sĩ quan Anh trong nhóm quan khách cũng đã không ngần ngại mà nói thẳng với bà như vậy.
Chiều hôm đó, ông Hume đưa cho bà bức thư đầu tiên để nhờ bà chuyển đạt lên chân sư K. H. Đó là bước khởi đầu một cuộc trao đổi thư từ vô cùng thú vị giữa ông với chân sư, thỉnh thoảng vẫn được mọi người nhắc đến.
Những ngày cuối cùng của chúng tôi ở Simla vẫn còn tiếp nối những buổi dạ tiệc tiếp tân và những cuộc đi du ngoạn ngoài thành phố. Trong những dịp đó một vài màn biểu diễn phép thuật của bà Blavatsky đã làm cho các quan khách thích thú đến cực điểm.
Ngày hôm đó, bà Sinnett, bà Blavatsky và tôi đang ngồi đợi ông Sinnett tại phòng khách. Các bà ngồi chung với nhau trên chiếc đi-văng. Bà Sinnett cầm tay bà Blavatsky để ngắm nhìn đến lần thứ hai mươi và trầm trồ khen ngợi một chiếc nhẫn kim cương màu vàng rất đẹp, vốn là món quà tặng của bà Wijeratne, vợ một nhà thầu giàu có ở tỉnh Galle trong dịp viếng thăm của chúng tôi đến Tích Lan trong năm ấy. Đó là một hạt kim cương loại rất hiếm và quý giá, long lanh chớp sáng và chiếu ra những tia sáng chói lấp lánh.
Sinnett đã có lần yêu cầu bà Blavatsky dùng phép thuật tạo thêm cho bà một bản sao của hạt kim cương ấy, nhưng bà này không hứa gì cả. Tuy nhiên, lần này bà chịu làm. Bà Blavatsky dùng hai ngón của bàn tay kia xoa lên hạt đá quý độ một lúc, kế đó bà ngừng tay và để lộ chiếc nhẫn đeo trên bàn tay bên này. Nằm sánh đôi với hạt kim cương của bà đeo, giữa ngón tay đeo nhẫn và ngón tay bên cạnh là một hạt kim cương khác cũng màu vàng, tuy không chói sáng bằng hạt của bà, nhưng cũng là một hạt kim cương rất đẹp. Bà liền tặng hạt kim cương ấy cho bà Sinnett. Cho đến bây giờ, món bảo vật ấy vẫn còn là sở hữu của bà bạn quí mến của chúng tôi.
Buổi cơm tối hôm đó, bà Blavatsky không ăn gì cả, nhưng trong khi mọi người đang dùng bữa thì bà ngồi sưởi ấm hai bàn tay trên dĩa bàn đựng nước nóng đặt trước mặt bà. Độ một lát, bà xoa hai bàn tay và chà xát thật mạnh thì thấy có hai hạt ngọc bích nhỏ rơi xuống dĩa.
Hiện tượng làm cho xuất hiện các loại đá quý này cũng rất thường xảy ra với Stainton Moses, người bạn Anh mà chúng tôi có đề cập tới trong quyển hồi ký trước đây. Đôi khi, các loại đá quý nhỏ rơi xuống như mưa trên người ông ta và rơi khắp phòng, có khi là vài viên ngọc thạch lớn. Người Đông phương nói rằng đó là do tác động của những tinh linh của loài khoáng thạch, thuộc loại mà người Tây phương gọi là Thổ tinh (Gnomes), hay tinh linh của các hầm mỏ, và thổ ngữ Tamoul Ấn Độ gọi là Kalladimanden.
Ông Sinnett có ghi chép lại một việc xảy ra ngày 20 tháng 10 mà ông gọi là “hiện tượng cái gối”. Hôm ấy chúng tôi đi du ngoạn và cắm trại trên một ngọn đồi. Ông Sinnett đang trông đợi một thông điệp trả lời bức thư ông gửi cho một vị chân sư, nhưng ông không nghĩ rằng ông sẽ nhận được trong chuyến đi dạo chơi hôm đó. Tuy nhiên, một người trong nhóm đề nghị với bà Blavatsky làm xuất hiện một vật gì đó bằng phép mầu.
Blavatsky hỏi: “Các ông muốn nhận được vậy ấy ở đâu khác ngoài trên một cành cây? Không nên làm cho sự việc trở thành nhàm chán vì cứ lặp lại những chuyện cũ.”
Mọi người thăm dò ý kiến lẫn nhau, và sau cùng họ đồng ý yêu cầu bà làm cho vật ấy xuất hiện bên trong cái gối dựa lưng của bà Sinnett đang dùng ở trên chiếc ghế bành của bà lúc ấy.
Blavatsky liền nói: “Được rồi, hãy mở nó ra xem có vật gì ở trong không.”
Ông Sinnett liền lấy con dao bỏ túi của ông và rọc cái gối. Cái áo gối ở ngoài mặt có thêu hoa, được lót bằng da hay một thứ vải cứng và may bằng thứ chỉ lớn, dày và rất chắc. Đó là một cái gối kiểu xưa, và đường chỉ đã trở nên cứng chặt với thời gian, làm cho công việc cắt rạch nó ra hơi có phần khó nhọc. Tuy nhiên, sau cùng thì cái bao ngoài đã bị rách đứt, và bên trong là một cái bao thứ nhì chứa đựng lông chim và cũng được may bằng một thứ chỉ rất chắc.
Khi cái gối trong đã bị cắt ra xong, ông Sinnett mới thọc tay vào, mò trong đống lông chim, và lấy ra một bức thư với cái trâm cài đầu. Đó là bức thư của chân sư K. H. đề cập đến một câu chuyện giữa ông Sinnett với bà Blavatsky; còn cái trâm cài đầu là của bà Sinnett, và ngay trước khi xuất hành bà còn để nó lại trên mặt bàn phấn của bà. Tôi muốn để cho độc giả hãy tự rút lấy kết luận của những sự việc kể trên.

III.

Để hoàn tất đầy đủ việc ghi chép lịch sử những mối giao thiệp đầu tiên của chúng tôi với Chính phủ Ấn Độ, và cho thấy họ đã đi tới hành động cực đoan vô lý như thế nào để tự bảo vệ chống những âm mưu chính trị khả hữu của Hội Thông thiên học, tôi đã quyết định in lại bức thư nhà cầm quyền Anh Ấn trả lời bức thư của tôi đề ngày 27 tháng 9.
Thư ấy tuy cũng khá thân thiện, nhưng không đủ làm thỏa mãn yêu cầu của chúng tôi. Nguyên văn bức thư ấy như sau:
“Bộ Ngoại vụ Tổng lý sự vụ Số 1025 E. G.
Simla, ngày 2 tháng 10 năm 1880
H. M. Durand,
Thứ trưởng Ngoại vụ Chính phủ Ấn Độ
Kính gửi: Đại tá H. S. Olcott
Hội Trưởng Hội Thông Thiên Học
Kính Ông,
1. Vì lý do công vụ, ông Bộ Trưởng A. C. Lyall vắng mặt tại Simla, nên tôi được chỉ thị trả lời bức thư ông đề ngày 27 tháng 9 vừa qua.
2. Ông trình bày rằng Hội Thông thiên học không có chủ trương can thiệp vào việc chính trị, dù ở Ấn Độ hay bất cứ ở đâu; nhưng ông đã bị theo dõi và quấy nhiễu trong những khi đi lại ở Ấn Độ vì công việc của Hội; và bởi lẽ đó những chương trình hoạt động công ích của Hội đã bị ngăn trở trầm trọng. Ông yêu cầu Chính phủ Ấn Độ giải tỏa những sự bất lợi đã vô tình gây ra cho ông trong vấn đề này bởi việc cho người theo dõi mọi động tác và sự đi lại của ông.
3. Tôi xin cảm ơn ông về những tin tức, dữ kiện mà ông đã có nhã ý trình bày về những mục đích và hoạt động của Hội Thông thiên học, và tôi xin bảo đảm rằng Chính phủ Ấn Độ không có ý muốn gây sự bất tiện cho ông trong thời gian lưu trú tại xứ này. Nếu như những hội viên của Hội chỉ theo đuổi sự học hỏi khảo cứu triết học và khoa học, hoàn toàn không dính dấp đến vấn đề chính trị, như ông có giải thích rằng đó là mục đích duy nhất của họ, thì các hội viên không cần phải lo ngại bất cứ sự phiền phức nào đến từ các viên chức an ninh.
4. Tôi xin nói thêm rằng, Chính phủ Ấn Độ sẽ rất hân hạnh nếu ông vui lòng gửi đến Bộ Ngoại vụ những bản sao các văn kiện nêu ra ở đoạn thứ ba trong thư ông.
Trân trọng kính thư, Ký tên:
H. M. DURAND
Thứ trưởng Bộ Ngoại vụ”
Ngày 20 tháng 12, tôi nhận được của chính quyền bức thư sau cùng mà tôi trông đợi, giải tỏa mọi sự khó khăn giữa chúng tôi với các quan chức Anh Ấn. Thư ấy viết như sau:
Bộ Ngoại vụ Tổng lý sự vụ Số 1060 A. G.
Simla, ngày 20 tháng 10 năm 1880
H. M. DURAND,
Thứ trưởng Ngoại vụ
Kính gửi:
Đại tá H. S. Olcott
Hội Trưởng Hội Thông Thiên Học
Kính Ông,
1. Tôi được chỉ thị ký nhận thư ông đề ngày 14 tháng 10, có kèm theo những văn kiện, chứng thư của ông gửi cho Chính phủ Ấn Độ, và yêu cầu rằng tất cả những viên chức Chính phủ có lệnh theo dõi canh chừng ông trước đây, được thông báo cho biết rằng mục đích của ông khi đến Ấn Độ nay đã được giải thích rõ ràng.
2. Tôi xin đa tạ ông về những bản sao văn kiện mà ông đã gửi, và chúng tôi sẽ cho lưu trữ tại Văn khố của Bộ Ngoại vụ.
3. Về khoản yêu cầu của ông, tôi được chỉ thị trả lời rằng những viên chức địa phương mà chúng tôi đã báo động về sự có mặt của ông ở xứ này, sẽ được thông tri cho biết rằng những biện pháp theo dõi do lệnh truyền cho họ thực thi trước đây, nay đã được thâu hồi.
4. Tuy nhiên, tôi xin nói thêm rằng sở dĩ có quyết định này là do hậu quả của sự tín nhiệm mà Tổng thống và Ngoại trưởng Hoa Kỳ đặt nơi ông, chứ không nên được hiểu là đương nhiên bày tỏ thái độ lập trường của Chính phủ Ấn Độ đối với Hội Thông thiên học, mà ông là Hội Trưởng.
Trân trọng kính thư, Ký tên:
H. M. DURAND,
Thứ trưởng Bộ Ngoại vụ”
Đoạn chót của bức thư này đề cập đến bản sao những văn kiện của tôi gửi, gồm có bức thư viết tay của Tổng thống Hayes giới thiệu tôi cho tất cả các vị Đại sứ và Lãnh sự Hoa Kỳ ở hải ngoại và yêu cầu giúp đỡ, cùng một bức thư giới thiệu tương tự của Ngoại trưởng W. M. Evarts5 và thẻ Thông hành Ngoại giao của tôi.
Thời gian viếng thăm Simla của chúng tôi đã chấm dứt. Chúng tôi liền rời khỏi thị trấn miền núi đẹp đẽ này để tiếp tục chuyến đi công tác đã sắp đặt trước ở các vùng đồng bằng.
Kiểm điểm lại những kết quả đã thu thập được, có thể nói rằng chúng tôi đã có thêm vài bạn hữu, giải tỏa Hội Thông thiên học khỏi sự vướng mắc về phương diện chính trị, và tạo thêm nhiều kẻ chống đối thù nghịch trong các giới Anh Ấn, họ vẫn bám giữ lý thuyết cho rằng có sự can thiệp của Quỷ vương Satan trong các vấn đề nhân sự (mà trong trường hợp này là bà Blavatsky được sự trợ giúp của Quỷ vương Satan để làm các phép mầu).
Trong một xã hội nghiêm chỉnh và bảo thủ như ở đây thì những cử chỉ, tác phong kiểu giang hồ phóng đãng như bà Blavatsky đương nhiên là đã làm chướng mắt mọi người; khả năng tri thức, tâm linh xuất chúng của bà đã gây nên sự tị hiềm, đố kỵ; và những quyền năng kỳ bí của bà đã làm cho người ta nhìn bà bằng cái nhìn sợ hãi, kinh hoảng.
Dù sao, nhận xét chung thì những lợi điểm thu hoạch được vẫn trội hơn sự mất mát thua thiệt, và chuyến đi này có thể được xem như một sự thành công xứng đáng.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét