BÍ ẨN LỊCH SỬ 67/5
(ĐC sưu tầm trên NET)
Tình báo là một mặt trận thầm lặng nhiều khi không có tiếng súng nhưng
vô cùng nguy hiểm, đòi hỏi người chiến sĩ tình báo phải gan dạ, mưu trí,
dũng cảm. Trong thời gian tồn tại của mình, cơ quan tình báo Liên Xô
(KGB) đã có những đóng góp đáng kể vào sự vững mạnh của đất nước cũng
như thế cân bằng chiến lược Đông Tây. Cuốn Các chủ tịch KGB - Những hồ
sơ lộ sáng của nhà sử học lừng danh người Nga Leonid Mlechin viết về
những nhà lãnh đạo của KGB trong suốt thời gian cơ quan này hoạt động.
Với những phân tích, đánh giá sâu sắc, tinh tế của mình, Leonid Mlechin
sẽ đem đến cho bạn đọc cái nhìn đúng đắn, thoả đáng về vai trò, vị trí
của các vị thủ lĩnh và cơ quan KGB trong lịch sử tồn tại của Liên bang
Xô Viết. Đó là những người mà số phận gắn liền với cả vinh quang chói
lọi và những thất bại cay đắng.
------------------------------------------------------------------
LỜI GIỚI THIỆU
LỜI GIỚI THIỆU
Cuốn sách các bạn cầm
trên tay của tác giả
Nga Leonid Mlechin là một
cuốn sách đặc biệt vì
nó kể về những người
lãnh đạo một công tác
mà ở Liên Xô trước
đây và Nga hiện nay
gọi là "công tác đặc
biệt"; và bản thân những
người đó cũng có những
số phận đặc biệt. Đó
là các Chủ tịch KGB.
Cơ quan an ninh Liên
Xô được thành lập từ
những ngày đầu cách mạng
tháng Mười với nhiệm vụ
trấn áp các lực lượng
phản cách mạng trong nước
để bảo vệ chính quyền
với tên gọi là Ủy
ban đặc biệt, về sau
đã trở thành một cơ
quan kiểm soát toàn diện
xã hội và một cơ
quan tình báo quốc tế
bậc nhất. Với tên gọi
là KGB từ năm 1954,
cơ quan quyền lực hùng
mạnh này đã trở thành
nỗi kinh hoàng đối với
số đông người và niềm
kính nể đối với đồng
nghiệp an ninh quốc tế.
KGB là một hiện tượng
lịch sử trong thế kỷ
20, nó được xây dựng
bằng công sức, trí tuệ
và cả xương máu của
nhiều thế hệ người Xô
viết. Suốt 74 năm tồn
tại Liên Xô (1917 -
1991); KGB sống song hành
cùng Liên Xô.
Những chặng
đường các Chủ tịch KGB
đã đi là những chặng
đường của lịch sử Liên
Xô vinh quang và cay
đắng. Và số phận cá
nhân vừa oanh liệt vừa
bi thảm của họ cũng
không nằm ngoài lịch sử
đó.
Đây là lần đầu tiên,
một cuốn sách kể về
cuộc đời và sự nghiệp
của tất cả các Chủ
tịch KGB (mười bảy vị)
từ thời Lênin cho đến
khi Liên Xô tan rã.
Đọc cuốn sách này, người
ta hiểu biết thêm nhiều
về lịch sử chính trị
và an ninh Liên Xô.
Trong sách có đề cập
đến những lãnh tụ và
nhân vật lịch sử như
Lênin, Stalin, Trotski và một
số nhân vật còn có
những đánh giá khác nhau
như Beria, Tukhachevski và một
số vụ việc còn nhiều
bí ẩn như vụ ám
sát Kirov, "Vụ án các
bác sĩ", vụ "Đảng bộ
Lêningrad "v.. v... Một số
sự kiện lịch sử như
việc Stalin bắt tay với
Hitle để trì hoãn chiến
tranh, sự biến ở Hung-ga-ri
năm 1956 v.v... được đề
cập và phân tích khá
sâu trong mối quan hệ
chính trị - ý thức
hệ - an ninh.
Sách cũng cung cấp thêm
tư liệu và lý giải
về những diễn biến nhân
sự ở hậu trường trong
những bước ngoặt lớn chuyển
giao lãnh đạo của Liên
Xô. Hầu hết các nhà
hoạt động nhà nước nổi
tiếng của Liên Xô được
nhắc đến trong sách này.
Đây không phải là cuốn
sách về một ngành công
tác. Đây là câu chuyện
kể về những bước ngoặt
lịch sử của đất nước
Liên Xô, mà trên mỗi
bước ngoặt đó đều có
vai trò của KGB.
Do đó nó không chỉ
bổ ích về nghiệp vụ
mà còn có giá trị
nghiên cứu, tham khảo rất
quý đối với đông đảo
bạn đọc.
L.Mlechin trong mấy năm gần
đây là một tác giả
ăn khách ở Nga, vì
sách của ông thường viết
về đề tài an ninh,
trên cơ sở khai thác
kho tư liệu lưu trữ
phong phú của Liên Xô
và KGB. Tuy nhiên, nằm
trong trào lưu tư tưởng
dân chủ cấp tiến của
xã hội Nga hiện nay,
tác giả có xu hướng
phân tích một cách phê
phán đối với lịch sử
nước nhà, đối với Stalin.
Đó là điều phổ biến
và khó tránh được hiện
nay. Nhiều điều đã được
biết hoặc trở thành bình
thường đối với xã hội
Nga có thể không được
chấp nhận hoặc chia sẻ
đối với chúng ta. Mặc
dù vậy, giới thiệu cuốn
sách này với độc giả
kính mến, chúng tôi tin
rằng cuốn sách có giá
trị tái hiện lịch sử
sinh động, lại được viết
bằng giọng văn chính luận
hấp dẫn, chắc chắn nó
sẽ mang lại cho bạn
đọc nhiều điều bổ ích
và phát hiện lý thú.
Dịch giả HÙNG SƠN
Bộ trưởng Bộ Nội vụ
(5/3 - 26/6/1954)
Sự nghiệp chính trị của
L.P.Beria bao gồm hai giai
đoạn: ba mươi năm dưới
thời Stalin và ba tháng
sau khi Stalin chết, mà
cả hai giai đoạn đều
đậm đà, sâu sắc.
Nhưng về ba tháng sau
khi Stalin chết, chúng ta
sẽ nói đến ở chương
sau, đó đã là một
thời đại khác. Trong tất
cả các Chủ tịch KGB,
có hai người cho đến
nay vẫn tiếp tục thu
hút sự quan tâm nghiên
cứu và gây nhiều tranh
luận. Đó là Beria và
Andropov. Đây là hai nhân
cách đa dạng, hai nhà
hoạt động chính trị đa
tài đa diện và phức
tạp, trong khi các Chủ
tịch KGB khác, trước và
sau họ nói chung là
những nhân vật đơn tuyến.
Mặc dù được rất ít
người ngưỡng mộ so với
Andropov, song phải nói rằng
những năm gần đây, Beria
thu hút được thêm công
chúng, hay chí ít cũng
được nhìn nhận nhiều hơn
như là một nhà chính
trị có tài, chứ không
phải chỉ là con quỷ
khát máu như vẫn thường
được mô tả.
Lavrenti Beria sinh ngày 29/3/1899
trong một gia đình nông
dân ở Xukhumi, cũng như
Stalin, là người Gruzia. Ông
học giỏi, nhiều tài, yêu
nhạc và am hiểu kiến
trúc. Nhưng giữa một thời
buổi sôi sục những biến
động, ông đã đi theo
cách mạng, vào Đảng năm
1917, hoạt động bí mật
và làm đến Phó Chủ
tịch ủy ban đặc biệt
(cơ quan an ninh), rồi
Bí thư thứ nhất Đảng
bộ ngoại Cápcadơ bao gồm
ba nước Azerbaijan, Gruzia và
Armenia. Beria nổi tiếng với
Trung ương nhờ bài báo
sau này in thành sách
nhan đề bàn về "Lịch
sử các tổ chức Đảng
ngoại Kavkaz", trong đó ca
ngợi công lao Stalin đối
với phong trào cách mạng
Capcadơ. Nhưng đó chỉ là
một phần, vì ca ngợi
Stalin thì có nhiều người,
còn Stalin - nhà lãnh
đạo dày dạn kinh nghiệm,
đánh giá Beria ở trí
thông minh và tài năng
tổ chức hoàn thành nhiệm
vụ. Những người không hoàn
thành nhiệm vụ vì kém
năng lực hoặc vì không
cho rằng phải hoàn thành
nhiệm vụ bằng mọi giá
kể cả giá sinh mạng
con người đều là những
người mà Stalin không dùng.
Mùa hè 1933 khi Stalin
nghỉ ở Abkhazia, nghe nói
đã diễn ra một vụ
mưu sát. Beria nhảy ra
lấy thân mình che cho
Stalin và hô to: "Hãy
bảo vệ lãnh tụ!". Ai
là kẻ đã định mưu
sát? - cuối cùng cũng
không làm rõ được, vì
lính bảo vệ trên bờ
biển đã đánh chết một
người giơ súng bắn vào
Stalin và người ta nói
rằng Beria là bậc thầy
của những màn như vậy.
Khi mới lên làm Dân
ủy nội vụ năm 1939,
Beria đã thả 336.600 người
khỏi nhà tù, nhưng đồng
thời lại bắt 200.000 người
và sa thải 7.372 (tức
là 1/5) số cán bộ
của các cơ quan an
ninh theo sắc lệnh "Sửa
chữa những khuyết điểm trong
công tác điều tra của
Dân ủy nội vụ".
Như vậy, với việc Beria
lên cầm quyền, các cuộc
khủng bố dồn dập trong
giai đoạn 1936- 1938 không
hề ngừng mà còn tăng
lên. Việc tra tấn tù
nhân đã có từ năm
1937, nhưng chỉ thị chính
thức cho phép việc đánh
đập và tra tấn tù
nhân là theo kiến nghị
của Beria và do Stalin
ký ngày 10/01/1939. Stalin tin
cậy giao cho Beria những
nhiệm vụ đặc biệt bí
mật và khó khăn. Chỉ
kể hai việc trong số
đó: việc ám sát Trôtski
đã bị trục xuất từ
năm 1929 đang sống ở
Mehico và vụ sát hại
hơn 20 nghìn tù binh
Ba Lan ở Khatưn năm
1940.
TROTSKI
Giết Trôtski đã bị trục
xuất khỏi Liên Xô sang
sống ở Mehico là mong
muốn mạnh mẽ của Stalin.
Ít có ai mà ông
ghét cay ghét đắng như
Trôtski. Trong vấn đề này
có nhiều lý do cá
nhân. Trotski từ đáy lòng
mình khinh bỉ và coi
thường Stalin.
Lev Trôtski là công thần
lập quốc, một trong những
người sáng lập Nhà nước
Xô viết. Số phận đã
hào phóng ban thưởng cho
con người này vừa nhiều
vinh quang, vừa nhiều tai
tiếng, nhiều lần lên cao
cũng như nhiều lần thất
sủng. Trong lịch sử cách
mạng Liên Xô, ít có
nhà lãnh đạo nào nhiều
thăng trầm như Trôstki. Ông
đã từng chứng kiến những
tư tưởng và mơ ước
táo bạo nhất của mình
nhanh chóng trở thành hiện
thực, và cũng chính ông,
trong một cuộc đời, đã
nhìn thấy toàn bộ những
hy vọng của mình tan
thành mây khói, và toàn
bộ công danh, sự nghiệp
của mình ra tro.
Khi Lênin còn sống, Trôtski
đứng ở hàng thứ hai
trong Đảng và được xem
là có thể thay thế
Lênin. Trong khi đó Stalin
cũng ngày càng tăng được
trọng lượng chính trị và
càng ngày càng tin rằng
chính ông cần phải là
người lãnh đạo Đảng và
đất nước sau khi Lênin
ra đi. Vì lẽ đó,
Stalin bực bội thấy mọi
người tiếp tục ngưỡng mộ
công lao cách mạng và
tài năng quân sự, tài
năng hùng biện của Lev
Trôtski.
Trôtski đã đóng vai trò
quan trọng cùng các nhà
cách mạng thế hệ đầu
trong việc giành chính quyền
vào tay những người Bônsêvích
trong cách mạng tháng Mười
năm 1917. Tên tuổi ông
nổi bật. Ông là nhà
hùng biện có tài. Bản
thân Trôtski từng mơ ước
trở thành nhà văn hoặc
nhà báo. Nhưng cách mạng
thành công, và ông trở
thành một trong những nhân
vật chủ chốt của bộ
tham mưu của cách mạng.
Khi Lênin thành lập chính
phủ, định giao cho ông
làm Dân ủy Nội vụ,
nhưng ông không nhận. Sverdlov
đề xuất: "Thế thì giao
cho ông ấy phụ trách
ngoại giao" (vì Trôtski có
học thức, biết ngoại ngữ,
sống ở nước ngoài nhiều).
Lênin bảo: "Lúc này thì
ngoại giao có việc gì
mấy!", nhưng cũng đồng ý.
Lênin nói đúng. Trôtski nhận
chức Dân ủy Ngoại giao,
nhưng vẫn bận chủ yếu
công việc ở Hội đồng
quân sự cách mạng và
Hội đồng cách mạng Petrograd.
- Ta sẽ ban bố
mấy sắc lệnh và lời
kêu gọi nhân dân thế
giới, công bố các hiệp
định bí mật bất bình
đẳng của Sa hoàng và
rồi đóng cửa tiệm. -
Trôtski nói.
Tất nhiên là Trôtski nói
đùa, nhưng quả thật thời
gian đầu sau khi cách
mạng tháng Mười thành công,
ngoại giao có vẻ là
lĩnh vực không thiết thực
đối với người cách mạng:
ngoại giao gì khi mà
vấn đề là làm thế
nào để thúc đẩy tiến
trình cách mạng thế giới!
Bản thân Trôtski ngày đầu
tiên đến nhận công tác
ở Bộ Ngoại giao, tuyên
bố trước cán bộ, nhân
viên một câu "xanh rờn":
- Giai cấp vô sản
thế giới không cần đến
ngoại giao. Nhân dân lao
động các nước sẽ tự
hiểu nhau.
Ngoại giao Liên Xô ngay
từ những ngày đầu sau
cách mạng đã mang một
số tồn tại đặc trưng
cho cả sau này, như
xem nhẹ chủ quyền của
các quốc gia (các nhà
lãnh đạo cho rằng trong
trường hợp cần thiết, nhà
nước vô sản có thể
tiến hành can thiệp "đỏ"
nhằm phổ biến chủ nghĩa
xã hội, thiết lập chính
quyền vô sản ở bất
kỳ nước nào) .
Leon Trotsky với con gái Nina
Trotsky với binh sĩ tại Mặt trận Ba Lan, 1919.
Trotsky với
Lenin và binh sĩ tại
Petrograd năm 1921
Các lãnh đạo của những người theo
chủ nghĩa Trotsky Đối lập Cánh tả ở Moscow, 1927. Ngồi: Leonid Serebryakov, Karl Radek, Leon Trotsky, Mikhail Boguslavsky, và Yevgeni Preobrazhensky. Đứng: Christian Rakovsky, Yakov Drobnis, Alexander Beloborodov, và Lev Sosnovsky.
Trôtski làm Dân ủy Ngoại
giao vừa đúng sáu tháng,
sau khi ký xong hoà
ước Brest-Litov với Đức thì
thở phào và bàn giao
lại chức Dân ủy ngoại
giao. Lênin giao cho Trôtski
một công việc còn quan
trọng hơn nhiều: đó là
thành lập quân đội, làm
Dân ủy Quốc phòng và
Chủ tịch Hội đồng quân
sự cách mạng.
Bất chấp sự phản đối
của các đồng chí trong
Đảng, Trôtski sử dụng cả
một số sĩ quan của
quân đội Sa hoàng làm
biên chế chính thức của
Hồng quân. Chính điều này
đã giúp bảo đảm hiệu
quả của quân đội trong
thời kỳ mới thành lập.
Vốn tính kiêu ngạo, ông
không sợ sự cạnh tranh,
không thích những người thừa
hành ngoan ngoãn, mà thích
làm việc với những người
có tài.
Chính ông đã tạo ra
bộ khung những tướng giỏi
cho thời kỳ nội chiến.
Và điều này sau này
sẽ là vận đen đối
với họ: được Trôtski đưa
lên ngang bằng với án
tử hình?
Vai trò thống lĩnh quân
đội đối với Trôtski thật
là phù hợp, vì đấy
là chỗ để phát huy
năng khiếu tổ chức bẩm
sinh, lòng dũng cảm và
tính cương quyết cùng nghị
lực to lớn của ông.
Thêm vào những đức tính
ấy là sự tàn nhẫn.
Lênin và Trôtski hợp tác
với nhau, và họ đã
chiến thắng trong cuộc nội
chiến, nhưng bằng một cái
giá đẫm máu.
Sau này trong nhiều năm,
người ta viết rằng sự
tàn nhẫn của Trôtski có
thể giải thích bằng nguồn
gốc Do Thái của ông
ta (Trôtski họ thật là
Bronstein), do vậy mà ông
ta không thương tiếc gì
nước Nga và người Nga.
Sự thực ý nghĩa dân
tộc đối với Trôtski cũng
không khác gì đối với
Dzerjinski hay Stalin cả. Họ
đều không coi mình là
người Do Thái, người Ba
Lan hay người Gruzia.
Họ đứng cao hơn dân
tộc và tự đặt cho
mình những nhiệm vụ mang
tầm thế giới.
Chiến thắng trong cuộc nội
chiến đã tăng thêm cho
Trôtski nhiều người ủng hộ.
Karl Kadek, ủy viên Ban
Chấp hành Quốc tế Cộng
sản, một nhà cách mạng,
nổi tiếng thời đó nói
rằng nếu có thể gọi
Lênin là bộ óc của
cách mạng, thì Trôtski là
ý chí của cuộc cách
mạng ấy.
Cục trưởng Cục Chính trị
Hội đồng Quân sự cách
mạng V. A.Antonov Ovseenko gọi
Trôtski là "lãnh tụ, nhà
tổ chức và người cổ
vũ mọi thắng lợi của
cách mạng".
Sau khi nội chiến kết
thúc, Trôtski bắt tay vào
cải tổ quân đội, đã
nhanh chóng giảm biên chế
quân đội để mọi người
trở về làm việc và
giảm gánh nặng ngân khố
quốc gia. Các nhà lý
luận quân sự cho ràng
Hồng quân Liên Xô đã
hình thành chiến lược quân
sự vô sản.
Frunze, Tukhachevski, Budionưi và Voroshilov
đã nghĩ như thế. Các
nhà quân sự đỏ, đang
phấn khởi trước chiến thắng
Bạch vệ trong nội chiến,
cho rằng cần phải tiếp
tục thế tiến công. Riêng
Trôtski cho rằng cần phải
biết phòng vệ, mà không
phải tiếp tục tiến lên
làm cách mạng thế giới.
Trôtski phản đối việc tuyệt
đối hoá những bài học
của nội chiến, và không
xem nhẹ nghệ thuật quân
sự của đối phương. Ông
đánh giá cao các tướng
Bạch vệ Dutov, Cornilov, Krasnov,
đô đốc Kolchak, Denikin. Ông
thường nói rằng chính chỉ
huy kỵ binh Bạch vệ
- Trung tướng Mamontov đã
dậy Hồng quân chiến thuật
săn lùng trong vùng địch
hậu.
Những người Gruzia trong
Cuộc nổi dậy tháng Tám chống chính quyền Xô viết năm 1924
Trong khi nhiều vị chỉ
huy không coi trọng lắm
khoa học quân sự, Trôtski
yêu cầu mọi người phải
học tập, kể cả ngoài
mặt trận, vào thời gian
không có chiến sự. Bản
thân ông tham gia vào
việc soạn thảo lý luận
và các bài giảng về
quân sự, thành lập hệ
thống đào tạo quân sự
và khoa học quân sự.
Tại Đại hội XII của
Đảng, bài tham luận của
Trôtski đã được hoan nghênh
nhiệt liệt, khiến cho Stalin
và các ủy viên khác
của Bộ Chính trị tái
mặt vì ghen tị.
Năm 1925 - lúc này
Lênin đã mất và Stalin
lên thay - Trôtski bị
gạt khỏi chức Dân ủy
Quốc phòng và Chủ tịch
Hội đồng quân sự cách
mạng. Ông bị điều về
Hội đồng kinh tế quốc
dân làm Vụ trưởng vụ
khoa học - kỹ thuật
công nghiệp 2 năm dưới
trướng của Dzerjinsky. Nhưng công
tác này chẳng chiếm hết
bao nhiêu thời gian của
ông. Nỗ lực chính của
ông là để chiến đấu
với Stalin và chính sách
của Stalin cho đến khi
bị thất bại. Năm 1926
ông bị ra khỏi Bộ
Chính trị, tháng 10/1927 ra
khỏi Trung ương, và một
tháng sau bị khai trừ
khỏi Đảng.
Stalin không biết làm gì
với Trôtski, vì đất nước
còn chưa sẵn sàng coi
người bạn chiến đấu thân
thiết của Lênin là kẻ
thù. Thế là Trôtski bị
đưa đi giam lỏng ở
Alma-Ata, rồi từ đó bị
trục xuất khỏi Liên Xô,
còn những người ủng hộ
ông ta dần dần bị
thủ tiêu. Nhưng rồi ở
nước ngoài, Trôtski cũng vẫn
tiếp tục đấu tranh với
Stalin.
Thời gian từ đó trở
về sau, Trôtski viết rất
nhiều, và không phải cái
gì cũng đúng. Nhưng một
vài tiên đoán lịch sử
của ông đã trở thành
sự thật. Chẳng hạn, năm
1931 ông tiên đoán rằng
phát xít sẽ lên nắm
quyền ở Đức năm 1933
ông cảnh báo rằng Hitler
đang chuẩn bị chiến tranh.
Trôtski chê Stalin là không
hiểu thế nào là chủ
nghĩa phát xít, lại cho
rằng chủ nghĩa phát xít
cũng không xấu hơn xã
hội - dân chủ. Ngày
2/9/1939, Trôtski cảnh báo trước
rằng chỉ hai năm nữa
Hitler sẽ tấn công Liên
Xô. Chưa đầy 2 năm,
lời cảnh báo đó đã
trở thành sự thật.
Stalin không thể tha thứ
cho bản thân việc đã
để cho Trôtski ra đi.
Bây giờ bắt Trôtski ở
nước ngoài, lại ở mãi
Mehico bên kia bán cầu
là việc làm hơi khó.
Tháng 5/1940, diễn ra cuộc
mưu sát đầu tiên đối
với Trôtski. Một nhóm biệt
động lọt vào nhà Trôtski
xả súng máy bắn khắp
nhà, Trôtski thoát chết, nhưng
từ ngày đó sống trong
nỗi lo âu về cái
chết đã được báo trước.
Sáng sáng ngủ dậy, ông
ta nói với vợ: "Thấy
không, đêm qua họ đã
không giết chúng ta. Thế
mà em còn có điều
gì không bằng lòng?".
Nhưng, như Stalin đã nói,
không có thành trì nào
mà những người Bônsêvich, những
người lê-nin-nit chúng ta không
chiếm được. Năm 1940, Beria
giao nhiệm vụ giết Trôtski
cho Pavel Sudoplatov. Lãnh đạo
trực tiếp chiến dịch này
là Eitingon, sau này đã
được phong tướng. Người trực
tiếp thi hành nhiệm vụ
là Ramon Merkader - một
người Tây Ban Nha. Mẹ
anh ta - bà Marie
Caridal cũng là một cộng
tác viên của Bộ Nội
vụ.
Trước khi bị giết một
ít ngày, Trôtski ghi trong
nhật ký. "Đêm qua tôi
nằm mơ thấy mình nói
chuyện với Lênin. Ông lo
lắng hỏi về bệnh tình
của tôi, và bảo:
"Anh bị căng thẳng thần
kinh đấy. Anh cần phải
nghỉ ngơi, phải tham khảo
ý kiến bác sĩ". Tôi
kể cho Lênin về chuyến
đi Đức chữa bệnh năm
1926 và định nói thêm:
" Đấy là sau khi
anh mất, nhưng nhớ ra
và chữa lại, à quên
sau khi anh bị ốm".
Vậy là cuối đời, trong
những giấc mơ của mình,
Dân ủy Quốc phòng đầu
tiên của Liên Xô vẫn
nhìn thấy Lênin là vị
cứu tinh.
Ngày 20/8/1940, Merkader đến nhà
Trôtski nhờ ông xem hộ
một bài báo. Mặc dù
trời nóng, anh ta vẫn
đội mũ và mặc áo
choàng mỏng. Khi Trôtski ngồi
vào bàn đọc, anh ta
rút cái rìu giấu trong
áo ra, nhắm mắt, lấy
hết sức bổ vào đầu
Trôtski. Anh ta tính chém
một nhát giết chết ngay
Trôtski và chạy, nhưng không
ngờ Trôtski quay lại vật
lộn với Merkader. Trong lúc
lúng túng, anh ta không
kịp rút khẩu súng lục
ra để sử dụng.
Ngày hôm sau Trôtski tắt
thở ở bệnh viện. Ba
trăm nghìn người đã đến
từ biệt với ông.
Leon Trotsky, Mexico City
Các tù nhân Nga đã bị tấn công ở thành phố
Mexico. Và Leon Trotsky cũng qua đời trong đợt tấn công này. Ông qua đời
vào ngày hôm sau, ngày 21/08/1940 ngay tại căn phòng của mình. Sau này,
tất cả những gì trong căn phòng của ông, bao gồm cả các nghiên cứu nơi
ông đã bị tấn công đều được lưu giữ như khi ông sống ở đó.
Hai người con trai của
Trôtski đều mang họ mẹ
(vì sợ liên quan đến
tên tuổi gây tai tiếng
của người cha) và đều
làm khoa học, không dính
dáng gì đến chính trị.
Người con lớn - Sergei
Sedov - làm kỹ sư,
không đi theo cha mà
ở lại Liên Xô, dạy
ở trường kỹ thuật cao
cấp Bauman, từ chối tham
gia kể cả các cuộc
tranh luận về đề tài
chính trị, để chính quyền
không có cớ gì đụng
đến anh. Thế nhưng chính
quyền vẫn cứ đụng đến:
đầu tiên điều anh lên
Vorkuta (một vùng xa phía
bắc), sau đó ra lệnh
bắt và năm 1937 xử
bắn.
Người con trai thứ hai
là Lev Sedov, thừa hưởng
tính cách chiến đấu của
cha, quyết định lưu vong
cùng với bố mẹ. Sống
ở Paris, anh ta tích
cực giúp bố bằng cách
tập hợp những người ủng
hộ Trôtski, nhưng không ngờ
rằng bị vây bọc bởi
toàn những người làm cộng
tác viên cho tình báo
Nga. Năm 1938, anh ta
phải mổ ruột thừa. Việc
mổ suôn xẻ, nhưng vài
ngày sau thì anh ta
chết trong bệnh viện. Nhiều
người cho rằng an ninh
Liên Xô đã làm việc
đó, nhưng bằng chứng về
nguyên nhân khác, ngoài bệnh
tật, dẫn đến cái chết,
thì không tìm ra.
Hai ngày sau tại Matxcơva,
nhà vật lý lý thuyết
nổi tiếng, một trong những
người sáng lập thuyết lượng
tử là Matvei Petrovich Bronstein
bị xử tử. Nhà bác
học này bị buộc tội
là phần tử Trôtski và
bị bắt. Trước đó, có
lần ông nói đùa là
ông có họ với Trôtski.
Quả là một câu đùa
chết người!
Tại phiên toà ở Mehico,
R.Merkader không nhận là làm
việc cho an ninh Liên
Xô. Matxcơva hài lòng về
điều đó và có ý
định tổ chức đánh tháo
hoặc chuộc Merkader ra, nhưng
sau, cân nhắc lại, lại
thôi.
Merkader ngồi tù đến khi
mãn hạn, năm 1960. ông
ta được đưa sang Cuba,
rồi từ Cuba sang Liên
Xô, tháng 5/1960. KGB báo
cáo với lãnh đạo (lúc
đó là Khruschov).
Ngày 31/5, một sắc lệnh
không công bố của Xô
viết tối cao Liên Xô
quyết định "tặng Huân chương
Lênin và danh hiệu Anh
hùng Liên Xô cho đồng
chí Lopes Ramon Ivanovich vì
đã hoàn thành nhiệm vụ
đặc biệt...".
Liên Xô cấp quốc tịch
Liên Xô cho ông, và
xếp cho ông làm việc
ở Viện Mác - Lênin.
Điều trớ trêu là vào
lúc này, khi ông ở
tù ra, thì những người
thầy và đồng chí đã
giao nhiệm vụ cho ông
là L.Eitingon và P.Sudoplatov lại
đã phải vào tù vì,
là người của Beria.
Đến giữa những năm 70,
Merkader rời Matxcơva sang sống
ở Cuba - ở đó
vui hơn, không bị rét
và không có những cán
bộ Đảng và cán bộ
an ninh vừa chơi với
ông vừa theo dõi ông.
Ông qua đời ở Cuba
năm 1978 .
Thi hài ông được đưa
về chôn cất tại nghĩa
trang Kunsevo ở Matxcơva. Đa
phần của cuộc đời, ông
không sống bằng tên thật,
do đó khi ông chết
đi, người ta cũng mai
táng ông với cái tên
mà ông đã mang trong
phần lớn cuộc đời: đồng
chí Lopes R.I.
LITVINOV
Ngày 4/5/1939, ba nhân vật
cao cấp của Đảng và
Chính phủ là Molotov (Thủ
tướng Chính phủ), Malenkov (Bí
thư Trung ương Đảng phụ
trách tổ chức) và Beria
(Dân ủy Nội vụ) đến
Bộ Ngoại giao, tuyên bố
với Litvinov - Dân ủy
Ngoại giao rằng từ ngày
hôm nay ông bị thôi
chức.
Với danh nghĩa là "làm
trong sạch Bộ Ngoại giao
khỏi những phần tử thù
địch và đáng ngờ", Beria
và đồng sự đã bắt
các phó của Litvinov, cách
chức hầu hết các vụ
trưởng; tổng cộng đã bắt
và xử lý hai nghìn
rưởi cán bộ Bộ ngoại
giao kể cả ở các
sứ quán ở nước ngoài,
trong đó có khoảng năm
chục đại sứ. Sau vụ
này, cả một thế hệ
các nhà ngoại giao dày
dạn kinh nghiệm bị mất
đi, mà chưa kịp được
thay thế bằng lớp cán
bộ mới.
Ngày 23/7/1939, một thông báo
được ban bố, trong đó
giải thích rằng Trung ương
Đảng rất quan tâm đến
công tác của Bộ Ngoại
giao và đã quyết định
cử người bạn chiến đấu
gần gũi của đồng chí
Stalin là V.M.Molotov làm Dân
ủy Ngoại giao. Còn báo
chí cho biết rằng Litvinov
đã "không bảo đảm thực
hiện đúng đắn đường lối
đối ngoại của Đảng, trong
công tác lựa chọn và
sử dụng cán bộ đã
tỏ ra không có tinh
thần Bônsêvích, đánh giá đối
tượng có sai lầm, đặc
biệt là đối với Anh
và Pháp".
Theo quy luật, sau khi
bị cách chức là đến
bị bắt.
Litvinov chờ đợi, nhưng không
thấy gì cả. Bộ Nội
vụ tiếp tục lấy lời
khai của những người bị
bắt đối với Litvinov.
Nhưng Stalin ra lệnh không
được đụng đến Litvinov.
Khác với hai người tiền
nhiệm của mình là Trôtski
và Chicherin có nhiều ý
tưởng cao xa, Dân ủy
ngoại giao thứ ba của
chính quyền Xô viết -
Litvinov - là một con
người thực tế. Ông tham
gia cách mạng từ sớm,
và làm một công tác
vào loại nguy hiểm nhất:
chở vũ khí từ nước
ngoài vào Nga cho những
người bôn-sê-vich. Lênin cũng đã
tin cậy giao cho ông
nhiệm vụ đổi tiền do
Kamo cướp được ở ngân
hàng Kavkaz.
Năm 1918, Trôtski cử ông
làm đại diện ở Anh,
nhưng chính phủ Anh không
công nhận chính quyên Xô
viết, kiếm cớ bỏ tù
Litvinov. Litvinov ngồi tù một
thời gian cho đến khi
Matxcơva đánh đổi điệp viên
Anh R.Loccart lấy ông. Ông
về Bộ Ngoại giao, ban
đầu làm đại diện ở
Estonia, sau đó làm Thứ
trưởng. Chicherin bị ốm, nhiều
thời gian phải điều trị
ở nước ngoài, do đó
Litvinov thực tế là quyền
Dân ủy. Năm 1930 ông
trở thành Dân ủy chính
thức và ở trên cương
vị này 9 năm.
Stalin và trùm mật vụ KGB Beria
Nikita Khrushchev Malenkov Molotov
Litvinov là một người thân
phương Tây. Ông đã sống
lưu vong ở Anh, lấy
vợ Anh. Chicherin và Molotov
coi Đức là đối tác
chủ yếu của Liên Xô.
Litvinov thì coi đối tác
chính của Liên Xô là
Anh, Pháp và Mỹ. Năm
1933, chính ông đáp tàu
biển vượt đại dương sang
Mỹ đàm phán với Tổng
thống Mỹ Roosevelt và thoả
thuận việc lập quan hệ
ngoại giao giữa Liên Xô
và Mỹ. Đó là giai
đoạn đỉnh cao đắc chí
nhất của Litvinov. Để tỏ
lòng biết ơn của chính
phủ Liên Xô đối với
công trạng đó, Stalin đã
tặng Litvinov một ngôi nhà
ngoại ô ở Firsanovka.
Ngoại giao Liên Xô thời
Litvinov đã đưa nước Nga
Xô viết gia nhập Hội
quốc liên - tiền thân
của Liên hợp quốc Cũng
chính Litvinov đã tìm cách
liên kết các quốc gia
châu Âu để chống lại
nước Đức Hitler. Nhưng không
thành công, vì các nước
châu Âu sợ Hitler nhưng
cũng lại không tin Stalin.
Năm 1936, nhân dịp 60
tuổi, Litvinov được trao tặng
Huân chương Lênin. Báo "Sự
thật" có bài nhan đề
"Người con trung thành của
Đảng Bônsêvích". Bài báo viết:
"Tên tuổi của đồng chí
Litvinov sẽ đi vào lịch
sử như một trong những
đại biểu của thời đại
vĩ đại của cách mạng
tháng Mười và xây dựng
chủ nghĩa xã hội, như
một hiện thân của chính
sách đối ngoại Liên Xô
trong cuộc đấu tranh vì
hoà bình giữa các dân
tộc".
BẮT TAY VỚI ĐỨC QUỐC
XÃ
Kỷ nguyên của Litvinov kết
thúc sau khi Stalin quyết
định hợp tác chiến lược
với Đức. Việc thay ngoại
trưởng là một tín hiệu
cho Hitler hiểu rằng Liên
Xô sẵn sàng nhích lại
gần với Đức.
Khi Stalin và Molotov thông
báo cho Berlin rằng Matxcơva
sẵn sàng đón Dân ủy
Ngoại giao của Đức Quốc
xã, Hitler phấn khởi giơ
hai tay lên trời và
cả cười:
- Bây giờ thì cả
thế giới trong túi ta
rồi?
Khi Ribbentrop đến Matxcơva tháng
8/1939, Stalin lần đầu tiên
đích thân tham gia đàm
phán với một Bộ trưởng
Ngoại giao nước ngoài. Ba
người: Stalin, Molotov và Ribbentrop
đã quyết định mọi vấn
đề trong một ngày. Đến
một giờ đêm thì Molotov
và Ribbentrop ký hiệp ước
không tấn công.
Ngày 31/8/1939, Molotov báo cáo
tại phiên họp bất thường
của Xô viết tối cao
về việc ký Hiệp ước
với Đức.
Ngày hôm sau, 1/9/1939, Hitler
tấn công Ba Lan. Còn
ngày 17/9/1939, quân đội Liên
Xô chiếm lãnh thổ Tây
Ucraina, và Tây Belarussia.
Ngày 28/9/1939, Ribbentrop sang Matxcơva
lần thứ hai để ký
với Molotov một hiệp ước
nữa về hữu nghị và
biên giới . .
Để bảo vệ cho việc
ký hiệp ước với Đức,
Molotov phát biểu trước Xô
viết tối cao: "Hệ tư
tưởng của Hitler, cũng như
bất kỳ hệ tư tưởng
nào khác, ta có thể
công nhận hoặc không công
nhận - đấy là vấn
đề quan điểm chính trị.
Nhưng không thể nào tiêu
diệt một hệ tư tưởng
bằng vũ lực được".
Tại sao Stalin và Molotov
quyết định nhích lại gần
Đức và ký hiệp ước
không tấn công với Đức?
Cách giải thích chính thống
là: điều đó đã giúp
Liên Xô tránh được đòn
tấn công của Đức vào
năm 1939, trì hoãn chiến
tranh để có thời gian
chuẩn bị tốt hơn cho
cuộc chiến tất yếu sẽ
đến.
Nhưng Hitler không có ý
định tấn công Liên Xô
năm 1939, vả lại còn
đang có nước Pháp thù
địch ở sau lưng.
Trong thời kỳ Lenin bị ốm (1922–23), Stalin đã dùng bức ảnh (đã bị
chỉnh sửa) này để làm công cụ tuyên truyền mình như người kế tục trung
thành của Lenin.
Vấn đề là ở chỗ
Hitler đã cho Stalin điều
mà Anh và Pháp không
thể cho: đó là việc
phân chia thế giới. Với
Hitler, Stalin đã trở thành
nhân vật chính trị thế
giới và Liên Xô vào
vai người quyết định số
phận thế giới.
Trước khi đánh Ba Lan,
Hitler có nói với các
tướng của mình: "Thực sự,
trên toàn thế giới chỉ
có ba nhà hoạt động
nhà nước vĩ đại là
Stalin, tôi và Mussolini. Stalin
và tôi là những người
duy nhất biết nhìn thấy
tương lai.
Vài ngày nữa, tôi sẽ
bắt tay Stalin trên biên
giới Đức - Nga và
cùng với ông ta phân
chia thế giới".
Giữa cá nhân Hitler và
Stalin đã xuất hiện một
"mối tình" ngắn ngủi qua
những bức thư. Mà người
đưa thư là Molotov. Hiện
còn tồn tại tin đồn
về một cuộc gặp bí
mật giữa Stalin và Hitler
ở biên giới. Nhưng điều
đó không có, hai người
chỉ viết thư và công
hàm cho nhau, thông qua
Molotov và Đại sứ Đức
ở Matxcơva.
Trong chuyến đi Matxcơva của
Ribbentrop, buổi tối, trong phòng
làm việc của Molotov có
tổ chức một cuộc chiêu
đãi. Stalin đề nghị nâng
cốc chúc sức khoẻ Hitler.
Ribbentrop phấn khởi nâng cốc
đáp lại chúc sức khoẻ
Stalin và nói ở Matxcơva
ông ta cảm thấy thoải
mái dễ chịu như ở
nhà.
Khác với Ribbentrop, J.Goebbels cũng
có mặt trong đoàn cùng
với Ribbentrop thì lại không
hề có cảm tình với
các quan chức Liên Xô
- những người mà theo
ông ta không có một
chút tự nhiên, chân tình
nào và luôn luôn cảnh
giác.
Dân ủy Nội vụ Beria
thì ra sức rót rượu
vốt-ka cho Tham tán Đại
sứ quán Đức là G.Hilger.
Khi uống đã kha khá,
Hilger chủ động phanh lại
để giữ tỉnh táo, Stalin
liền bảo:
- Thôi, nếu ngài không
muốn uống, thì không ai
có thể ép buộc được
ngài phải uống cả.
- Kể cả ông trùm
an ninh? - Hilger đùa.
Stalin bèn đáp:
- Đằng sau bàn tiệc
này, kể cả trùm an
ninh cũng không có nghĩa
gì hơn bất kỳ ai
khác.
Stalin không nói đùa. Đối
với ông, Beria cũng chỉ
là một cấp dưới phục
tùng của ông, không hơn,
chỉ có điều ông giao
cho Beria những nhiệm vụ
bí mật nhất và đẫm
máu nhất.
CHIẾN TRANH
Đầu năm 1941, Beria được
bổ nhiệm làm Phó Thủ
tướng Chính phủ. Về danh
nghĩa là thăng chức, trên
thực tế Stalin gạt ông
ta khỏi việc lãnh đạo
công tác an ninh .
Đồng thời, Cơ quan dân
ủy Nội vụ cũng bị
chia ra làm hai: Bộ
An ninh quốc gia và
Bộ Nội vụ. Tình báo,
phản gián, công tác điều
tra được chuyển về Bộ
An ninh quốc gia do
V.N.Merkulov lãnh đạo. Beria còn
lại Bộ Nội vụ, bao
gồm công an, cứu hoả,
biên phòng, nội chính và
toàn bộ hệ thống các
nhà tù và trại cải
tạo (GULAG) đến lúc đó
đã trở thành một vương
quốc công nghiệp - xây
dựng. Là Phó Thủ tướng,
Beria quản thêm các bộ:
Lâm nghiệp, Luyện kim màu,
Công nghiệp dầu và đường
sông. Từ nay Beria lãnh
đạo kinh tế và xây
dựng nhiều hơn, sự thực
thì cũng bằng các biện
pháp an ninh đã quen
thuộc của ông ta là
chính, và bằng sức lực
của tù nhân.
Như một món quà an
ủi, ông được phong hàm
Cao ủy an ninh quốc
gia mà từ 9/7/1945 đổi
thành Nguyên soái Liên Xô.
Chỉ có ba Chủ tịch
cơ quan an ninh được
phong hàm này: đó là
Yagoda, Ejov và Beria. Cả
ba đều bị xử bắn.
Nhưng Beria không đi hẳn
khỏi hệ thống an ninh.
Bởi khi chiến tranh nổ
ra, thì hai bộ nói
trên lại được sáp nhập
làm một và do Beria
lãnh đạo. Song, đến năm
1943 thì tại tách ra,
trong đó bộ phận tình
báo quân sự tách ra
thành một cơ cấu riêng,
trực tiếp phục tùng Stalin
là Tổng tư lệnh tối
cao. Nhưng Stalin vẫn giữ
Beria bên mình như một
liên lạc viên. Kể cả
sau năm 1945, khi Beria
không làm Dân ủy Nội
vụ nữa, Stalin vẫn giao
cho ông ta truyền đạt
các chỉ thị cho các
Dân ủy, nhất là về
các công việc đen tối,
bí mật.
Beria cũng phải gánh chung
trách nhiệm với Stalin về
việc Hitler bất ngờ tấn
công Liên Xô năm 1941,
vì Beria quản lý toàn
bộ mạng lưới tình báo
của Liên Xô.
Khi Ribbentrop ở thăm Matxcơva
mùa thu năm 1939, Stalin
có nói với ông ta
rằng trong trường hợp Đức
cần đến sự giúp đỡ
của Nga, thì Nga sẽ
giúp. Berlin không thể tin
được: chẳng lẽ Stalin sẵn
sàng đứng về phía Đức?
Và yêu cầu đại sứ
quán Đức ở Matxcơva kiểm
tra lại biên bản hội
đàm. Ribbentrop trả lời rằng
viện trợ quân sự thì
Đức không cần đến, nhưng
mong rằng Liên Xô sẽ
giúp cung cấp nguyên vật
liệu cho Đức. Và quả
thực, trong một thời gian
Đức đã được Liên Xô
cung cấp với số lượng
lớn dầu, nguyên liệu và
lương thực. Đổi lại, Đức
giúp hiện đại hoá Hồng
quân Liên Xô. Các chuyên
gia Liên Xô đã chia
nhau đi đến các nhà
máy, cơ sở công nghiệp
quân sự của Đức. Đức
mở rộng cửa chia sẻ
kinh nghiệm và kỹ thuật
quân sự với chuyên gia
Liên Xô, ai định giấu
giếm gì đó thì bị
phạt.
Ý định tấn công Liên Xô đã được Hitler ấp ủ từ năm 1939.
Trùm phát xít Hitler và và các tướng
lĩnh Đức Quốc xã chóp bu đều chủ quan cho rằng Hồng quân sẽ bị “đánh gãy
xương sống” và Liên Xô sẽ sụp đổ nhanh chóng trong “Chiến dịch
Barbarossa” lớn chưa từng có trong lịch sử chiến tranh thế giới.
|
"Chiến dịch Barbarossa" tấn công Liên Xô của Đức Quốc xã.
|
Đức Quốc xã và đồng minh đã huy động 4 triệu binh sĩ, 3.600 xe tăng, hơn 4.000 máy bay và 46.000 trọng pháo đồng thời
tấn công Liên Xô trên trận tuyến kéo dài 2.900 km, từ Biển Baltic ở phía bắc đến Biển Đen ở phía nam.
Nhưng tại sao Hitler đã
rắp tâm sẽ tấn công
Liên Xô, lại chia sẻ
bí mật vũ khí với
Liên Xô? Đấy là ý
đồ quỷ quyệt của Hitler
để làm Liên Xô mất
cảnh giác, đồng thời biết
rằng đằng nào Liên Xô
cũng không kịp sử dụng
các bí mật đó, vì
Đức sắp tấn công Liên
Xô đến nơi rồi.
Còn Stalin, Molotov và Beria
tính rằng Đức sẽ sa
lầy một thời gian vào
chiến sự với Anh và
Pháp, không thể thắng nhanh
được để tấn công Liên
Xô.
Tháng 11 năm 1940, Molotov
đi Đức đàm phán về
một số vấn đề tranh
chấp, nhưng không đạt được
thoả thuận gì.
Ngày 13/4/1941, Stalin làm một
động tác bất ngờ.
Ông ra ga để tiễn
Bộ trưởng Ngoại giao Nhật
Matsuoka, nhưng thực tế là
để toàn thể Ngoại giao
đoàn nhìn thấy ông đặt
tay lên vai đại sứ
Đức dặn dò rằng Đức
và Liên Xô cần phải
tiếp tục là bạn.
Các thông tin tình báo
về việc Đức tập trung
quân ở biên giới Liên
Xô và về ngày dự
định tấn công Liên Xô
đều không được chấp nhận.
Beria cho rằng các trinh
sát viên hoặc là làm
điệp báo hai mang, hoặc
bị ảnh hưởng của địch,
đã cung cấp tin tức
giả do Anh tung ra
nhằm mục đích kích Liên
Xô chống Đức.
Stalin và Molotov cho đến
tận phút cuối cùng vẫn
còn không tin rằng Hitler
dự định tấn công Liên
Xô, mà chỉ cho rằng
hắn muốn buộc Liên Xô
nhượng bộ về lãnh thổ
và kinh tế. Ngày 21/6/1941
Tổng Bí thư Ban chấp
hành Quốc tế Cộng sản
Georghi Dimitrov cũng nhận được
thông tin rằng Đức đang
chuẩn bị tấn công Liên
Xô.
Ông gọi điện thoại cho
Molotov. Molotov trả lời Đimitrov:
"Tình hình còn phức tạp,
nhưng một cuộc chơi lớn
đang được tiến hành".
Đến tháng sáu năm 1941,
Stalin và Molotov vẫn còn
hy vọng sẽ không bị
Hitler qua mặt. Hai ông
biết rằng sớm muộn cũng
sẽ phải đánh nhau với
Đức, có thể vào năm
42, 43, khi lợi ích
của hai cường quốc nhất
định xung đột với nhau.
Nhưng còn bây giờ, theo
họ, Hitler không dám tiến
hành chiến tranh trên hai
mặt trận; Đức có thể
tiến hành chiến tranh ở
châu Âu là do nhận
được nguyên liệu, dầu và
bột mì của Liên Xô.
Suy luận của Stalin và
Molotov về nguyên tắc là
đúng. Chỉ có điều Hitler
không định tiến hành chiến
tranh lâu. Y dự định
đánh một đòn chớp nhoáng
đè bẹp Liên Xô trong
vòng vài tháng và giải
quyết mọi vấn đề.
Tối ngày 21/6/1941 Molotov mời
Đại sứ Đức Shulenburg lên
đề nghị giải thích một
số vấn đề về quan
hệ của Đức với Liên
Xô. Đức hứa báo cáo
với trong nước. Nhưng vài
giờ sau chiến tranh bắt
đầu. Đại sứ Đức lại
xuất hiện tại phòng làm
việc của Molotov nhưng với
thông báo chiến tranh.
Trong những tuần và tháng
đầu tiên sau khi chiến
tranh nổ ra, khi Hồng
quân Liên Xô bị tổn
thất to lớn và phải
chạy dài, Stalin lại cử
Beria đứng đầu cơ quan
an ninh quốc gia và
tham gia Hội đồng Quốc
phòng - cơ quan quyền
lực cao nhất của đất
nước, được thành lập ngày
30/6/1941 do Stalin đứng đầu.
Beria phụ trách công tác
sản xuất vũ khí và
quân dụng. Một tháng sau
khi chiến tranh nổ ra,
Dân ủy nội vụ đã
sơ tán tù binh khỏi
các nhà tù ở Matxcơva
để khỏi rơi vào tay
quân Đức, đồng thời đẩy
nhanh "tiến độ xử lý
các kẻ thù" nguy hiểm
nhất của nhân dân. Đến
ngày 16/10/1941 (tức là bốn
tháng sau khi chiến tranh
nổ ra), 138 người ở
nhà tù Butưrskaia (Matxcơva) đã
bị xử bắn theo lệnh
Beria, trong đó có hai
chiến sĩ lão thành của
KGB là Cục trưởng Cục
cảnh vệ bảo vệ Lênin
là A.ra.Belenki và nguyên ủy
viên ban lãnh đạo ủy
ban đặc biệt M.S.Kedrov.
Trong những ngày bi kịch,
khi quân Đức đang tiến
gần đến Matxcơva, Beria nhận
chỉ thị của Stalin thăm
dò khả năng và tìm
cách ký hoà ước với
Đức kể cả nếu phải
nhân nhượng về lãnh thổ.
Tháng 10/1941, Stalin cho gọi
Nguyên soái Jukov. Vì Stalin
đang ốm, nên Jukov được
đưa thẳng vào bệnh viện
Trung ương ở Kunsevo để
gặp Stalin. Theo Jukov kể,
Stalin vẫn còn đang bị
sốc sau vụ Đức tấn
công Liên Xô.
Stalin không tin là có
thể giữ được Matxcơva nên
đã quyết định sơ tán
thủ đô. Beria phụ trách
việc tiêu hủy các công
trình quan trọng nhất trong
thành phố. Ngày 16/10/1941, Stalin
dự định bản thân cũng
rời Matxcơva.
Nhưng niềm tin của Jukov
rằng sẽ bảo vệ được
Matxcơva đã giữ ông lại.
Sau trận phản công của
Hồng quân ở ngoại ô
Matxcơva, Stalin mới hoàn hồn,
lấy lại được sự tự
tin, và bắt đầu phân
công mọi người rõ ràng
theo các vị trí.
Beria thì vắt kiệt sức
sản xuất của các trại
cải tạo. Ngày 30/9/1943 ông
ta được tặng danh hiệu
Anh hùng Lao động xã
hội chủ nghĩa vì công
lao trong việc đẩy mạnh
sản xuất vũ khí và
quân dụng trong điều kiện
thời chiến.
VƯƠNG QUỐC CÔNG NGHIỆP
XÂY DỰNG VÀ NIỀM TIN
CHO TRÁI ĐẤT
Ngày 27/12/1945, Xô viết tối
cao Liên Xô quyết định
để Beria thôi chức Dân
ủy Nội vụ. Người thay
ông là người phó của
ông - trung tướng S.N.Kruglov
38 tuổi, ủy viên dự
khuyết Trung ương Đảng, người
được tặng thưởng Huân chương
của Anh và Mỹ (vì
công lao bảo đảm an
ninh cho hội nghị tứ
cường ở Potsdam năm 1945).
Hai tuần sau, báo "Sự
thật" mới đưa tin này
và giải thích rằng Phó
Thủ tướng L.P.Beria tự đề
nghị giải phóng ông khỏi
chức vụ này "vì quá
bận công tác khác của
trung ương".
Việc "tự đề nghị" thì
đương nhiên là không có,
còn "quá bận" thì đúng.
Sau chiến tranh Beria vẫn
tiếp tục được giao những
trọng trách.
N.K.Baibakov, nhiều năm lãnh đạo
ủy ban kế hoạch nhà
nước (Gosplan) kể trong hồi
ký rằng Beria phụ trách
một số lĩnh vực rất
quan trọng của kinh tế
quốc dân, trong đó có
làm Chủ tịch Ủy ban
về nhiên liệu. Một lần
Baibakov bị cảm lạnh, sốt
cao, phải nằm ở nhà.
Chuông điện thoại réo. Ở
đầu dây bên kia, Beria
giọng bực tức, càu nhàu:
"Phải đi giầy lông vào",
và lệnh cho Baibakov bay
ngay cùng với thứ trưởng
Bộ Nội vụ Kruglov xuống
Ufa - ở đó vừa
xảy ra một vụ nổ
ở nhà máy lọc đầu.
Đối với cấp dưới, Beria
cứng như sắt, không chấp
nhận "thông cảm với hoàn
cảnh" này nọ. Từ ông
ta toả ra một uy
lực tàn nhẫn và lẫm
liệt.
|
Các nhà lãnh đạo Xô viết trên lễ đài lăng Lênin (Beria và Malenkov). |
Theo Baibakov, dư luận rằng
Beria biết lấy lòng Stalin
và biết đánh trúng tâm
lý lãnh tụ là điều
đơm đặt. Stalin là người
không dễ "lấy lòng". Chiếm
được sự tin cậy của
Stalin chỉ có thể bằng
việc làm thực tế.
Beria chính là nhà tổ
chức tài năng, người biết
cách thực hiện bằng được
mọi nhiệm vụ được giao,
bằng cả "cây gậy và
củ cà rất", chấp nhận
hy sinh, kể cả sinh
mạng của người khác để
đạt được mục đích. Ban
lãnh đạo cao cấp của
đất nước trong những năm
trong và sau chiến tranh
luôn tin rằng công việc
nào đã giao cho Beria
phụ trách, công việc đó
dứt khoát thành công.
Tháng 12/1944 Liên Xô thành
lập ủy ban đặc biệt
trực thuộc Hội đồng Quốc
phòng tối cao phụ trách
việc sử dụng uranium, Beria
trực tiếp lãnh đạo ủy
ban này.
Theo hồi ký của E.Slavski,
nguyên Dân ủy chế tạo
máy trong nhiều năm, Beria
không am hiểu các vấn
đề thuộc về chuyên môn
khoa học, kỹ thuật, nên
rất coi trọng và chú
ý lắng nghe ý kiến
các nhà bác học, công
trình sư, tìm mọi cách
cung cấp cho các nhà
khoa học tất cả những
gì mà họ yêu cầu,
đồng thời cũng rất biết
"ốp" họ làm việc quên
mình.
Nắm trong tay toàn bộ
nhà tù trên lãnh thổ
Liên Xô, Beria đã sử
dụng lao động tù nhân
vào việc sản xuất vũ
khí, quân trang, quân dụng
phục vụ chiến tranh.
Nay, hệ thống nhà tù
và trại cải tạo đã
trở thành như một vương
quốc công nghiệp - xây
dựng. Chỉ đạo công việc
chế tạo bom nguyên tử
là một siêu bộ gọi
là Tổng cục trực thuộc
Hội đồng Dân ủy. Còn
xây dựng các công trình
công nghiệp nguyên tử là
Tổng cục trại xây dựng
công nghiệp của Bộ Nội
vụ. Thăm dò, khai thác
và chế biến uranium là
công việc của Tổng cục
trại mỏ - luyện kim
của Bộ Nội vụ. Như
vậy là trong việc sản
xuất bom nguyên tử có
sự đóng góp công sức
lao động của tù nhân.
Quả bom nguyên tử đầu
tiên của Liên Xô đã
được nổ thử ngày 29/8/1949
tại căn cứ Semipalatinsk cũng
được sản xuất và lắp
đặt tại trại tù của
Bộ Nội vụ ở thành
phố Sarov ở Mordovia.
Năm 1945, theo đề nghị
của Beria, chính phủ quyết
định thu hút chuyên gia
Đức vào công tác xử
lý uranium ở Liên Xô.
Đức (lúc đó còn chưa
thành lập nước Cộng hoà
dân chủ Đức - ND)
gửi sang gần 300 chuyên
gia.
Nguyên là vùng giáp giới
giữa Đông Đức và Tiệp
Khắc có trữ lượng uranium
rất lớn. Theo một hiệp
định được ký kết giữa
Liên Xô và Đông Đức,
Công ty cổ phần Xô-đức
"Vismut" đưa ủy nhiệm khai
thác quặng uranium ở vùng
này. Thoả thuận rằng 10
năm đầu uranium khai thác
được thì cung cấp cho
Liên Xô, còn sau đó
toàn bộ quyền sử dụng
uranium thuộc về Đức.
Nhưng trong 10 năm, Liên
Xô đã sử dụng gần
hết.
Đến ngày hôm nay, chúng
ta cũng không được biết
chính xác quy mô của
vương quốc nguyên tử mà
Beria đã nắm trong tay.
Quản lý một cơ ngơi
như vậy chắc chắn là
một công việc to lớn.
Tất nhiên Beria có năng
khiếu tổ chức. Nhưng mặt
khác mà nói, cũng không
thể không là nhà tổ
chức một khi có trong
tay các nguồn tài chính,
toàn bộ cơ sở công
nghiệp và các trại của
Bộ Nội vụ, một nguồn
sức lao động hầu như
vô tận, và các nguồn
tài nguyên bao la.
Chỉ có mỗi viện sĩ
Piotr Kapitsa đề nghị Stalin
giải phóng cho ông khỏi
việc tham gia vào dự
án nguyên tử vì không
thể nào làm việc được
dưới sự lãnh đạo cường
quyền của Beria. Tuy thế
ông cũng phải công nhận
tài năng tổ chức và
huy động lực lượng của
Beria.
Viện sĩ A.D.Sakharov kể rằng
Beria tự mình lo liệu
toàn bộ công tác nguyên
tử, thậm chí cả Malenkov,
lúc đó đã trở thành
người thứ hai trong Đảng
cũng không được Beria cho
tiếp cận các công việc
đó. Một chữ ký của
Beria là đủ để soạn
thảo bất cứ quyết định
nào thành nghị quyết của
Trung ương Đảng và Hội
đồng Dân ủy.
Tại một cuộc họp, Beria
phê bình một cán bộ
phụ trách làm thất bại
việc chế tạo thử một
vật liệu cần thiết như
thế này:
- Những người Bônsêvích chúng
ta, khi đã muốn làm
gì chúng ta nhắm mắt
trước tất cả mọi thứ
khác. Còn đồng chí, Pavlov,
đồng chí đã đánh mất
tinh thần Bônsêvích! Lần này
chúng tôi sẽ không phạt
đồng chí. Chúng tôi mong
rằng đồng chí sẽ sửa
chữa khuyết điểm. Nhưng hãy
nhớ rằng, nhà tù của
chúng ta còn nhiều chỗ
lắm .
Beria là người Gruzia, nên
chữ "nhà tù" phát âm
thành ra "nhà chù [2]
- nghe lại càng đáng
sợ. Người bị Beria phê
bình suýt nữa ngất xỉu.
Năm 1945, bản thân những
người sáng chế ra bom
nguyên tử không biết rằng
họ đã tạo ra một
loại vũ khí có khả
năng hủy diệt đối tượng
sử dụng và cả người
sử dụng nó. Con người
vẫn đón nhận sự ra
đời của loại siêu vũ
khí này một cách bình
tĩnh, như niềm tin của
con người rằng lịch sử
giống như một đội quân
được tập luyện để hành
quân từ thấp lên cao.
Người Mỹ cho rằng họ
làm vũ khí hạt nhân
chỉ là để bảo vệ
mình khỏi mối đe dọa
Liên Xô. Còn người Liên
Xô thì tin rằng đã
tự trang bị một lá
chắn hạt nhân đối với
Mỹ. Một sự lạc quan
bao trùm thế giới, rằng
"bom nguyên tử được chế
tạo để cho chiến tranh,
nhưng kiến thức để chế
tạo nó có thể mang
lại cho trái đất này
không phải cái chết mà
là sự sống, không phải
bạo tàn mà tự do",
"mở ra thời đại của
sự giàu có vô tận
và những khả năng cho
tất cả mọi người".
Người ta đã nghĩ như
thế và viết như thế
trong những năm đầu sau
chiến tranh thế giới thứ
hai. Và không phải chỉ
ở Mỹ, mà cả ở
Nga.
Những người sáng tạo ra
vũ khí hạt nhân ở
Nga ngày hôm nay vẫn
vui sướng nhớ lại công
việc mình đã làm, tự
hào rằng họ đã nghĩ
ra và thử nghiệm một
sản phẩm tuyệt vời như
thế nào. Họ tự hào
không phải chỉ vì đã
hoàn thành nhiệm vụ mà
Tổ quốc giao cho. Họ
còn có niềm tự hào
riêng của nhà bác học
đã giải được một loạt
bài toán khó. Trong số
họ có cả những nhà
lãng mạn chủ nghĩa coi
việc hoàn thành công việc
của họ là một bước
của con người vươn tới
các vì sao.
Stalin giao cho Beria lãnh
đạo ủy ban quốc gia
về tiến hành thử bom
nguyên tử.
Ngày 29/8/1949, Liên Xô tiến
hành thử quả bom nguyên
tử đầu tiên. Có mặt
tại cuộc thử, Beria cũng
hồi hộp lo lắng như
mọi người khác, vì hiểu
rằng nếu thất bại đầu
ông ta cũng có thể
bay.
Khi Beria mừng rỡ chạy
đi gọi điện về Matxcơva,
thì ở đầu dây kia
Stalin giọng ngái ngủ chỉ
trả lời gọn lỏn:
"Tôi đã biết rồi". Và
bỏ ống nghe xuống.
Trung ương Đảng và Hội
đồng Dân ủy ra một
nghị quyết đặc biệt tuyên
dương công trạng Beria "vì
công tác tổ chức sản
xuất năng lượng nguyên tử
và thử thành công vũ
khí nguyên tử". Beria được
nhận Huân chương Lênin và
giải thưởng Stalin hạng nhất.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét