Đồ tể của nhân loại - Đứa con Quái thai của sự hôn phối giữa CM Vô sản và ĐT giai cấp
Câu
nói để đời: “Tần Thuỷ Hoàng là cái thá gì? Ông ta chỉ chặt đầu 460 nho
sĩ. Chúng ta đã chặt đầu 460.000 trí thức.”. Và “Mọi người cộng sản
phải nắm cho rõ chân lý này: ‘Quyền lực chính
trị lớn mạnh được là bắt đầu từ họng súng".
---------------------------------------------
Điền Gia Anh-thư ký Mao Trạch Đông: Một cuộc đời oan nghiệt
Đăng lúc: 02.10.2016 05:57
Điền Gia Anh nằm trong nhóm “tú tài” gồm các thư ký đặc biệt của Mao
Trạch Đông như Hồ Kiều Mộc, Trần Bá Đạt, Diệp Tử Long. Từ tháng 10-1948
đến tháng 5-1966 (tức từ 26 tuổi đến 44 tuổi), Điền là thư ký chính trị
cho Mao Trạch Đông, sát cánh trong 18 năm và cũng là thư ký duy nhất tự
sát trong Trung Nam Hải.
Trong đời của Mao Trạch Đông có sử dụng nhiều thư ký (cơ
yếu, cận vệ, y tế…). Trong số đó không ít người tài hoa xuất chúng và
Điền Gia Anh (4.1.1922 - 23.5.1966) là một người như vậy.
“Chỉ mong không có tội” Lần đầu tiên khi Điền Gia Anh đến nhận công tác tại Phủ chủ tịch, Mao
Trạch Đông hỏi: “Anh đến chỗ tôi làm việc có suy nghĩ gì không?”. Điền
Gia Anh đáp: “Không dám cầu có công, chỉ mong không có tội”.
Câu trả lời của Điền Gia Anh rõ ràng không làm vừa lòng Mao Trạch
Đông, nhưng đó là lời nói trong tâm khảm. Ai cũng biết làm thư ký chỗ
Mao Chủ tịch đâu có dễ dàng, huống chi lúc ấy Điền Gia Anh chỉ mới 26
tuổi, anh biết rõ trách nhiệm nặng nề của mình.
Khi Mao chủ tịch mời Điền Gia Anh ăn cơm, Điền vốn tửu lượng rất
khá, nhưng hôm ấy chỉ uống một chút đã say, điều này có thể thấy tâm lý
căng thẳng của Điền.
Vừa về nhận công tác, Mao Trạch Đông đã gọi Điền Gia Anh đến
truyền đạt ý kiến chỉ đạo miệng, yêu cầu Điền phải thảo ngay một bức
điện báo và nộp tại chỗ. Đây là cuộc thi lần thứ nhất.
Sau đó, Mao lại yêu cầu Điền đi làm công tác điều tra tình hình
vùng đông bắc nhưng không ra chỉ thị, đề mục cụ thể. Điền hỏi thì Chủ
tịch bảo: “Anh cứ đi khắp nơi xem xét từ thành thị, thương phẩm, công
xưởng, dân tình rồi trở về báo cáo”. Đây thực ra là một phương pháp khảo
sát cán bộ đặc thù của Mao Trạch Đông. Điền Gia Anh trải qua lần thi
thứ hai trót lọt.
Điền Gia Anh, thư ký chính trị của Mao Trạch Đông
“Đi khắp đường thiên hạ, đọc hết sách nhân gian”. Điền Gia Anh tên thật là Tăng Chính Xương, người Thành Đô, Tứ
Xuyên, mồ côi cha mẹ từ nhỏ, tự học mà thành tài, thuộc lòng cả bộ Tư
trị thông giám, Sử ký và nhiều tác phẩm cổ điển Trung Hoa, được gọi là
thần đồng. Trên đầu giường có viết câu liễn “Đi khắp đường thiên hạ, đọc
hết sách nhân gian”.
Năm 1938, Điều gia nhập đảng Cộng sản Trung Quốc, học tại Học
viện Mác Lênin ở Diên An, được giữ lại để nghiên cứu về vấn đề Trung
Quốc.
Mao Trạch Đông chọn Điền Gia Anh làm thư ký là qua giới thiệu của
Hồ Kiều Mộc. Năm 1941, Điền Gia Anh được chọn vào Ban Nghiên cứu chính
trị trung ương. Năm 1943 ở Diên An, Điền Gia Anh được Hồ Kiều Mộc chuyển
từ Ban Nghiên cứu chính trị trung ương sang Bộ Tuyên huấn trung ương,
sau mới tiến cử đến Mao Chủ tịch.
Mao Trạch Đông chú ý đến Điền Gia Anh từ những bài viết của Điền đăng trên tờ Giải phóng Nhật báo tại
Diên An. Có lần Điền Gia Anh giảng cổ văn cho cán bộ trong cơ quan
nghe, Mao Trạch Đông tình cờ đi ngang nghe Điền giảng quá thu hút bèn
đứng ngoài cửa sổ chăm chú nghe.
Năm 1946, Điền Gia Anh được Mao Trạch Đông chọn làm thầy giáo dạy cho
con trai là Mao Ngạn Anh vừa từ ở Liên Xô về. Từ năm 1948, Điền trở
thành thư ký chính trị của Mao Trạch Đông, hai người rất tâm đầu ý hợp,
đều ham thích cổ văn, thư họa.
Năm 1954, Điền Gia Anh là phó chủ nhiệm Văn phòng Trung ương
đảng, là người biên tập, chú giải “Tuyển tập Mao Trạch Đông” từ quyển 1
đến 4, tham gia biên soạn hiến pháp nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa,
Mao Trạch Đông thi từ, viết diễn văn khai mạc đại hội đảng lần thứ 8 cho
Mao Trạch Đông.
Điền Gia Anh (trái) và Mao Trạch Đông đàm đạo
Những suy nghĩa “cả gan” của Điền Gia Anh
Từ sau khi “đại nhảy vọt” bị thất bại, trong nội bộ đảng không ít
người trăn trở một vấn đề: Chủ nghĩa xã hội rốt cuộc là phải làm thế
nào? Trước đó thì vấn đề này chưa trở nên bức xúc, nhưng từ cuối năm
1958, nhất là sau hội nghị Lư Sơn vào hè năm 1958 thì ngày càng có nhiều
đảng viên bắt đầu hoài nghi, Điền Gia Anh là một người trong số đó.
Lúc ấy có người đề xuất là phải nghiên cứu thật kỹ các trước tác
của chủ nghĩa xã hội không tưởng, trước tác của Mác-Ăngghen để xem họ
nói thế nào. Riêng Điền Gia Anh thì tự đi tìm câu trả lời từ trong thực
tế.
Tư tưởng căn bản của Điền Gia Anh là: Chế độ xã hội chủ nghĩa là
không thể thay đổi, nhưng phương pháp xây dựng thì có thể đa dạng, linh
hoạt. Anh cho rằng Trung Quốc lúc ấy chưa giải quyết được vấn đề phương
pháp xây dựng xã hội chủ nghĩa.
Tất nhiên lúc ấy Điền Gia Anh không thể đề xuất những khái niệm
tầm cỡ như “mô thức Liên Xô” hay “mô thức Trung Quốc” mà phần lớn tư
tưởng của Điền là từ góc độ cụ thể của người đi sâu sát trong quần chúng
nhân dân và chưa hình thành một hệ thống tư tưởng. Mặc dù vậy, một số
đề xuất và suy nghĩ “cả gan”của Điền Gia Anh cho đến bây giờ vẫn còn
nguyên giá trị.
Chống lại sai lầm của phe tả khuynh Chẳng hạn, về vấn đề dân chúng phải giàu có, Điền Gia Anh nói:
“Mấy năm nay không cho xã viên làm kinh tế phụ, đó là sai lầm. Sự giàu
có của một quốc gia trước hết phải xem dân chúng có giàu hay không. Mục
đích của những người cộng sản chúng ta là phải làm cho dân chúng giàu
có. Về vấn đề này nhiều đồng chí còn hiểu mơ hồ. Dân chúng giàu rồi thì
quốc gia mới giàu, vì vậy việc xã viên làm kinh tế phụ để có thể phát
triển kinh tế là đúng và không có gì phải sợ”.
Những lời nói trên được Điền Gia Anh phát biểu chống lại sai lầm
của phe tả khuynh “thủ tiêu kinh tế phụ gia đình” từ sau năm 1958, tuy
còn phiến diện nhưng đây là đòn phủ định tư tưởng xây dựng “chủ nghĩa xã
hội bần cùng”: chỉ hướng đến “tích luỹ cao”mà coi thường công việc nâng
cao đời sống cho công nhân, nông dân, trí thức.
Ngoài ra, đối với các vấn đề thương nghiệp, khoa học, quan hệ
đảng-chính (đảng và chính quyền), Điền Gia Anh đều có những kiến giải và
kiến nghị sâu sắc.
Anh chỉ rõ những bất cập trong quản lý kinh tế hiện thời do phong
tỏa thị trường và phản đối quyết liệt cách lãnh đạo kinh tế bằng biện
pháp hành chính đơn thuần, những yếu kém của lãnh đạo địa phương. Anh
cũng đề nghị phải phân khai mối quan hệ giữa đảng và chính quyền, phát
huy dân chủ trong đảng, chủ trương khoán sản phẩm cho nông dân.
Những gì Điền Gia Anh nói đã đi vào vấn đề mấu chốt của nền kinh
tế và thể chế chính trị đương thời, rất đáng chú ý. Nhưng không ngờ đây
cũng là mầm móng đưa đến cái chết oan uổng của Điền Gia Anh trong Cách
mạng Văn hóa.
Cách mạng Văn hóa ở Trung Quốc
Trần Bá Đạt tâm địa hẹp hòi Hai kẻ thù nguy hiểm của Điền Gia Anh là Trần Bá Đạt và Giang
Thanh. Điền Gia Anh và Trần Bá Đạt quen nhau từ thời ở Diên An, lúc ấy
Mao Trạch Đông kiêm chủ nhiệm Phòng Nghiên cứu chính trị trung ương,
Trần Bá Đạt là phó chủ nhiệm, Điền Gia Anh từ tổ kinh tế chuyển về làm
nghiên cứu viên tổ chính trị.
Trần Bá Đạt có viết mấy cuốn sách, Điền Gia Anh giúp Đạt tìm kiếm
tư liệu, lúc bấy giờ ở Diên An điều kiện rất khó khăn, việc sưu tầm tài
liệu là rất khó. Đến khi sách viết xong, Đạt dương dương tự đắc hỏi
Anh: “Cậu thì làm được gì?”.
Sau năm 1949, Điền Gia Anh và Đạt tiếp xúc với nhau nhiều do quan hệ công việc nên hiểu rõ con người Đạt.
Đạt vốn người giả dối, bên ngoài ra vẻ đạo đức nhưng kỳ thực tâm
địa hẹp hòi, tham công người khác, che giấu dã tâm. Ai làm việc chỗ Mao
Trạch Đông có thành tích, được khen thưởng là Đạt tìm cách chê bai, xúc
xiểm. Điền Gia Anh nhiều năm được Mao Chủ tịch trọng dụng đã trở thành
cái gai trong mắt Đạt. Tính Điền Gia Anh lại thẳng thắn, phát biểu không
kiêng nể nên Đạt rất ghét.
Năm 1955, căn cứ theo đề nghị của Chủ tịch thành lập trở lại
Phòng nghiên cứu chính trị trung ương, Trần Bá Đạt làm chủ nhiệm, Hồ
Thằng, Điền Gia Anh làm phó chủ nhiệm, nhưng thực tế công việc chỉ có Hồ
và Điền làm.
Đặt điều vu oan cho Điền Gia Anh Từ sau năm 1962, trước những phát biểu thẳng thắn của Điền Gia
Anh, Mao Trạch Đông dần dần lạnh nhạt và quan hệ không còn gắn bó như
trước. Trần Bá Đạt thừa lúc này bèn “kể tội” Điền Gia Anh với Mao Trạch
Đông, nói Điền là “kẻ độc đoán”, “nắm cả đại quyền”, “Bá Đạt không thể
quản nổi”, toàn những điều bịa đặt.
Hồ Thằng và nhiều người trong Phòng Nghiên cứu đều chứng minh
hoàn toàn không có những chuyện ấy, đáng tiếc là Mao Trạch Đông nghe lời
sàm tấu và đem những lời Trần Bá Đạt nói về Điền Gia Anh phát biểu
trong một hội nghị trung ương. Điền Gia Anh vốn thẳng tính lập tức gọi
điện thoại yêu cầu Đạt đối chất cho rõ ràng nhưng Đạt ấp a ấp úng không
trả lời được, tuy vậy Điền vẫn bị tiếng oan, Đạt càng tìm cách hãm hại.
Khi Cách mạng Văn hoá bắt đầu, thời cơ đã đến, Đạt là thân tín
của Giang Thanh, cùng “bè lũ bốn tên” mưu đồ đại sự và được cất nhắc vào
ủy viên thường vụ Bộ Chính trị. Trần Bá Đạt đến Viện nghiên cứu chủ
nghĩa Mác yêu cầu vạch trần những “sai lầm” về tư tưởng của Điền Gia
Anh.
Lúc ấy viện trưởng là Tử Mộc vốn biết Điền Gia Anh nên tìm cách
che chở, hậu quả là bị liên lụy, bị Trần Bá Đạt chỉ mặt phê phán nói Tử
Mộc là đệ tử của Điền Gia Anh, là “viện trưởng chuyên quyền”, cuối cùng
bị bức hại đến chết.
Trong mắt Giang Thanh (ngoài cùng bên phải), Điền Gia Anh là kẻ thù “không đội trời chung”
Giang Thanh tàn độc, thâm hiểm Kẻ thù nguy hiểm thứ hai của Điền Gia Anh là Giang Thanh vì Điền
biết rõ thân thế cũng như những thủ đoạn tàn độc của bà ta. Trong mắt
Giang Thanh, Điền Gia Anh là kẻ thù “không đội trời chung”.
Năm 1962, Điền Gia Anh chủ trương khoán sản phẩm đến từng hộ nông
dân bị phê bình, Giang Thanh và Trần Bá Đạt bèn “chụp mũ chính trị”,
cho Điền là “phần tử giai cấp tư sản”, một trong 4 loại phần tử phải phê
đấu.
Đặc biệt là dựa vào lời phát biểu của Điền Gia Anh phản đối ý
kiến của tư lệnh Lâm Bưu về Mao Trạch Đông (không đồng ý Lâm Bưu cho tư
tưởng Mao Trạch Đông là tối cao; không đồng ý Lâm Bưu cho là phải học và
vận dụng tất cả trước tác của Mao Trạch Đông; không đồng ý Lâm Bưu yêu
cầu cắt những lời nói (ngữ lục) lấy ý nghĩa để học tập (sau đó là Mao
tuyển), Điền Gia Anh cho rằng chỉ đọc thuộc ngũ lục là dung tục hóa tư
tưởng Mao chủ tịch; không đồng ý Lâm Bưu nói tư tưởng Mao Trạch Đông là
chủ nghĩa Mác sống nhất đương thời, vì chẳng lẽ chủ nghĩa Mác lại chia
thành sống và chết?).
Tai họa dồn dập đến với Điền Gia Anh. Tháng 5-1966, cuộc đại loạn
bắt đầu. Ngay trong các vách tường của phòng cơ yếu và phòng thư ký
xuất hiện đầy các biểu ngữ và báo chữ lớn phản kháng Điền Gia Anh, nói
Điền là hữu khuynh, không tôn trọng lãnh tụ, là thuộc phe của Bành Đức
Hoài, Trương Văn Thiên ở hội nghị Lư Sơn trước đây.
Đến ngày 5-8-1966, Giang Thanh và Trần Bá Đạt đã hạ thủ với Điền
Gia Anh, Chủ tịch nước Lưu Thiếu Kỳ cùng Bành Chân, Lục Định Nhất, Dương
Thượng Côn, nói Điền là tuy làm thư ký của Mao Trạch Đông nhưng thực
chất là người của bộ tư lệnh giai cấp tư sản Lưu-Đặng (Lưu Thiếu Kỳ và
Đặng Tiểu Bình).
Trước những âm mưu, dã tâm, uy bức của những kẻ nắm đại quyền
trong Cách mạng Văn hóa như Giang Thanh, Trần Bá Đạt, cuối cùng Điền Gia
Anh đã phải chọn con đường mà đồng chí và bạn bè anh không muốn: Tự tử.
Lời cuối cùng Điền Gia Anh nói với vợ trước tối ra đi là: “Tôi bị
Giang Thanh, Trần Bá Đạt hãm hại, thường nghe rằng thiện có thiện báo,
ác có ác báo, tôi tin là loại người ác ấy sẽ không có kết cục tốt đâu”.
Trong di ngôn để lại có hai câu: “Tin là đảng sẽ làm rõ vấn đề. Tin là
sẽ không ngậm oan dưới mộ”.
Giang Thanh ra tòa năm 1980
Ác giả ác báo Đúng 15 năm sau ngày Điền Gia Anh qua đời, bọn Giang Thanh, Trần
Bá Đạt đã lãnh đúng ác báo. Ngày 25-1-1981, tại phiên tòa đặc biệt của
Tòa án tối cao nước CHND Trung Hoa, bọn chúng đã bị xử tử hình (hoãn sau
2 năm).
Ngày 28.3.1980, Trung ương đảng đã tổ chức trọng thể lễ truy điệu
Điền Gia Anh tại lễ đường Khu Công mộ Bát Bảo Sơn, Bắc Kinh để bình
phản, rửa oan cho ông.
Điền Gia Anh nhiều năm công tác bên Mao Trạch Đông, tình cảm hai
người rất sâu đậm. Nhưng về sau do tư tưởng hữu khuynh của Điền đã khiến
Mao trở nên lạnh nhạt, điều này làm cho Điền cảm thấy rất mâu thuẫn.
Trong năm 1963, Điền từng nói với La Quang Lộc rằng: “Tôi cảm cái
ân tri ngộ của Chủ tịch, nhưng nếu cứ thế này thì có một ngày sẽ phải
chia tay”. Mao Trạch Đông cuối cùng đã không bảo vệ người cộng sự thân
tín của mình vì nghi ngờ. Đây cũng là một bi kịch của lịch sử.
Ngay sau Cách mạng Văn hóa kết thúc, Mao Trạch Đông nói rằng Điền
Gia Anh: “Không có vấn đề gì”. Không biết lúc nói như thế tâm tình của
Mao Trạch Đông như thế nào, là hối hận, là tưởng nhớ, hay là đánh giá
lại Điền Gia Anh?
Thiên Tường (theo Nam thư ký trong bức tường đỏ-Quan Đông tác gia, Trung Quốc)
Giới thiệu tài liệu: Jonathan Spence,
“Mao”, nhà xuất bản Claasen: tiểu sử được thuật lại một cách dễ hiểu và
chứa đựng nhiều thông tin từ ngòi bút của một trong những nhà Hán học
nổi tiếng nhất thời chúng ta. Hung Chang & Jon Halliday, “Mao”,
Panteon: một trong những mô tả mới nhất, nhưng cũng bị tranh cãi nhiều
nhất về con người của ông chủ tịch vĩ đại. Các tranh luận mà quyển sách
này đã gây ra trên khắp thế giới được Gregor Benton & Lin Chun tập
trung lại trong quyển “Was Mao Really a Monster? The academic response
to Chang and Halliyday’s Mao: The Unknown Story”, Routledge.
Phan Ba dịch từ chuyên san lịch sử “Trung Quốc của Mao Trạch Đông” do GEO Epoche xuất bản.Quyển sách bao gồm các chương sau đây:
Tên cướp đỏ: 1921 – 1931: lần thăng tiến của Mao
Con người chuyên quyền kia: Tưởng Giới Thạch
Cuộc chạy trốn qua núi: 1934 – 1935: “Vạn lý Trường chinh”
Địa ngục Nam Kinh: Cuộc thảm sát tại Nam Kinh
Trận đấu tay đôi vì Trung Quốc: 1946 – 1949: nội chiến
Khởi hành vào một kỷ nguyên mới: 1940 – 1954: cải tạo Xã hội Chủ nghĩa
Cuộc chiến chống Mỹ: 1950 – 1953: Chiến tranh Triều Tiên
Sự điên khùng của một bạo chúa: 1958 – 1961: “Đại nhảy vọt”
Cuộc chiến của những đứa trẻ con: 1966 – 1976: Cách mạng Văn hóa
Chuyến viếng thăm của kẻ thù giai cấp: Chuyến đi thăm Trung Quốc của Nixon
Anna Loll Phan Ba dịch Sau cái chết của Mao, kinh tế của Trung Quốc kiệt quệ, Trung
Quốc thuộc trong những nước nghèo nhất thế giới. Do vậy mà giới lãnh đạo
Trung Quốc quyết định thay đổi đường lối một cách triệt để: họ mở cửa
đất nước cho Chủ nghĩa Tư bản. Trung Quốc 1978: một đất nước to lớn như Hoa Kỳ, với gần một
tỉ người dân, với một chương trình nguyên tử riêng của mình và với những
giàn máy công nghiệp cao vút ngay cả trong những vùng đất hẻo lánh.
Nhưng cũng là một đất nước mà trong đó tiền lương không tăng; việc xây
dựng mở rộng đường sắt được xem là phi sản xuất; người nông dân không
được phép bán rau cải của họ trong thành phố hay còn dọn đến đấy ở; ngũ
cốc, dầu và xà phòng được chia phần một cách nghiêm ngặt. Và là một đất
nước mà trong đó có hơn 100 triệu người bị nạn đói đe dọa.
Nước Cộng hòa Nhân dân thuộc trong số những nước nghèo nhất thế giới.
Trong vòng hai thập niên, chế độ quanh Mao Trạch Đông với những chiến
dịch như “Đại Nhảy Vọt” và “Cách mạng Văn hóa” đã hủy diệt tất cả mọi
sự thịnh vượng trong trứng nước. Vào giữa những năm 1950, người dân còn
có nhiều ngũ cốc để ăn hơn là bây giờ; thu nhập trung bình một năm của
một người Trung Quốc còn chưa tới 200 US dollar – ít hơn là ở Uganda,
Malawi hay Afghanistan. Hơn một phần tư người dân sống trong cảnh nghèo
nàn cùng cực.Trung Quốc tàn tạ và kiệt quệ: về kinh tế, chính trị, trí thức. Nếu
như giới lãnh đạo nhà nước còn thành lập đại học và trường học sau chiến
thắng trong nội chiến, làm giảm con số những người mù chữ, thì bây giờ
có một thế hệ mới đang trưởng thành, thế hệ mà trong thời của cuộc Cách
mạng Văn hóa đã bị cố tình không cho học tập.Vì thế mà bây giờ Trung Quốc thiếu lực lượng có khả năng cho hành
chính nhà nước, để quản lý một cách có hiệu quả những nhà máy hóa học,
nhà máy luyện thép, dự án xây dựng. Thêm vào đó, nền kinh tế kế hoạch
không có hiệu quả trong sản xuất: nhân viên nhà nước ra lệnh cho doanh
nghiệp phải sản xuất cái gì và bao nhiêu – nhà nước thâu lấy hàng hóa và
lợi nhuận. Nếu một nhà máy thua lỗ, Bắc Kinh sẽ bù đắp cho họ. Hầu như không có gì khuyếnkhích các giám đốc quan tâm đến chi phí. Do
không được trả lương theo năng suất nên công nhân viên hay vắng mặt và
làm việc ít. Nhưng rồi trong một hội nghị của giới lãnh đạo Đảng trong tháng 12
năm 1978, một quan chức cao cấp xuất hiện và tuyên bố điều hầu như không
thể tin được. Tên của ông ấy: Đặng Tiểu Bình. Thông điệp của ông ấy:
Đảng phải rời bỏ điều không tưởng và trong tương lai phải “tìm sự thật
trong thực tế”. Trong tăng trưởng kinh tế. HAI NĂM SAU CÁI CHẾT CỦA MAO, Đặng – một người đồng đội cũ và
cũng là người cạnh tranh của Đại Chủ tịch – đã thành công trong việc
tước quyền lực người kế tục nhà độc tài, Hoa Quốc Phong, và giật lấy
quyền lãnh đạo Đảng và nhà nước về cho mình. Trong lúc đó, ông ấy đứng ở
hậu trường, nhưng bổ nhiệm người thân cận vào các chức vụ cao nhất.
(Cho tới 1981, Hoa vẫn còn là Tổng bí thư Đảng – nhưng Đặng và những
người đồng minh với ông ấy đã cầm quyền trong đất nước này từ lâu.) Người lãnh tụ mới của Trung Quốc là một người thực tế. “Mèo đen hay
mèo trắng không quan trọng”, ông ấy nói: “miễn là nó bắt được chuột.”
Điều quan trọng là mục đích. Và để thực hiện điều đấy, Đặng sẵn sàng mở
cửa đất nước của mình: cho nền kinh tế thị trường và cho các nhà đầu tư
từ Phương Tây. Cho tới năm 2000, bây giờ ông ấy yêu cầu như thế trong
mùa Thu 1979, thu nhập năm của người Trung Quốc cần phải tăng lên gấp
năm lần – lên 1000 dollar trên đầu người. Ngay từ giữa 1960, các nhà lãnh đạo Đảng thuộc phe cải tổ như cố thủ
tướng Chu Ân Lai đã phát triển một kế hoạch cho tăng trưởng: “bốn hiện
đại hóa”. Cho tới cuối thiên niên kỷ, nông nghiệp, công nghiệp, quốc
phòng cũng như khoa học và kỹ thuật cần phải được cải mới – trước hết là
với tư bản và bí quyết từ nước ngoài. Ngược lại, Mao theo đuổi cuộc
cách mạng liên tục như là điều được ưu tiên cao nhất. Mãi bây giờ, sau
cái chết của Mao, Đặng mới có thể thực hiện được viễn tưởng của nhà cải
cách. Và nó là triệt để – ngay cả khi Đặng Tiểu Bình không bãi bỏ hoàn toàn
nền kinh tế kế hoạch. Ông ấy khuyến khích các doanh nghiệp xã hội chủ
nghĩa làm việc có hiệu quả: ông ấy cho phép nhiều công ty nhất định giữ
lại lợi nhuận cho họ bắt đầu từ một con số nào đó. Nếu như họ đã cung
cấp cho nhà nước một lượng sản phẩm đã được định trước, họ có thể bán
phần còn lại trên thị trường để thu lợi nhuận về cho họ. Giới lãnh đạo cũng quyết định cho nền nông nghiệp một cuộc cải tổ
rộng lớn: họ cho phép các gia đình trong những vùng nghèo được phép sản
xuất cho riêng họ trên những cánh đồng thuê lại từ nhà nước . Tuy vậy, về mặt chính trị, Đặng và những người theo ông ấy vẫn trung
thành với di sản của Mao: khi sinh viên và giới khoa học gia yêu cầu một
cuộc “hiện đại hóa thứ năm” – dân chủ – trên các tấm áp phích, Đặng cho
người bắt giam họ. Dưới quyền của ông ấy, dưới thời của nhà thử nghiệm
lớn, nhiều thứ được phép khuấy lên, nhưng quyền lực tuyệt đối của Đảng
Cộng sản thì không. Nhờ cuộc cải cách mà rất nhiều doanh nghiệp tư nhân nhỏ được thành
lập. Nông dân chào bán hàng hóa của họ ở chợ, nhà hàng quán trọ được
khai trương. Tiệm may quần áo và thẩm mỹ viện mời khách, cửa hàng đầy
máy truyền hình cạnh tranh với những cửa hàng quốc doanh.
NHƯNG CHẲNG BAO LÂU SAU ĐÓ đã có vấn đề: trong năm đầu tiên
của cuộc cải cách, Trung Quốc mắc nợ cao chưa từng có – trước hết là vì
đầu tư nhiều và nhà nước thu nhập quá ít. Thêm vào đó lại thiếu điện
cho các doanh nghiệp mới. Đường sá, đường sắt và kênh đào không theo kịp
sự tăng trường kinh tế.Nhưng Đặng tiếp tục mở rộng cuộc cải cách: năm 1979, ông ấy cho thành
lập bốn “vùng đặc quyền kinh tế” để thu hút tư bản và kiến thức Phương
Tây, ví dụ như ở Thâm Quyến gần biên giới với Hongkong. Ở đấy, người
nước ngoài được phép đầu tư, xây dựng và chào bán hàng hóa của họ. Doanh
nghiệp từ Hongkong thành lập xí nghiệp may mặc, sản xuất đồ chơi và
giày dép.Lương thấp hơn 75% so với trong phần đất là thuộc địa của Anh quốc,
giá mướn nhà thường còn rẻ hơn tới 95%. Chẳng bao lâu sau đó, Thâm Quyến
có một sân chơi golf, nhà chọc trời vươn cao lên trên những con đường
mới được xây dựng. Ngay từ năm 1985, thành phố cảng này hầu như không còn khác biệt gì
khi so với những vùng ngoại ô của Hongkong nữa. Những gì mà Singapore,
Đài Loan và Nam Hàn đã đạt được dường như bây giờ cũng có khả năng ở
Trung Quốc: một điều kỳ diệu về kinh tế. Tổng sản lượng quốc gia của
Trung Quốc tăng mỗi năm gần 9% kể từ 1978. Cả Bắc Kinh cũng bùng nổ: thay cho những bộ đồng phục kiểu Maoít, bây
giờ đàn ông đề tóc dài mặc áo khoác thời trang. Nông dân rút ra hàng
tập tiền giấy để mua máy truyền hình cho gia đình của họ ở quê. Chủ nghĩa Thực dụng của Đặng mang lại thu nhập cao hơn cho nhiều
người Trung Quốc. Thế nhưng với tiêu dùng tăng lên, giá cả cũng tăng cao
– hơn 26% trong năm 1988. Sản xuất ngũ cốc giảm lại càng làm cho tình
hình thêm tồi tệ. Người nông dân bây giờ thích trồng đường và thuốc lá
hơn, vì họ có thể bán chúng lấy lợi nhuận nhiều hơn là với lúa mì. Mức sống bây giờ lại giảm xuống, đặc biệt là trong thành phố, tỷ lệ
thất nghiệp tăng sau khi các nhà máy quốc doanh cho thôi việc. Để hiện
đại hóa, Đặng chấp nhận đất nước bị chia cắt ra về mặt xã hội. “Một vài
người sẽ giàu lên trước”, ông ấy viết ngắn gọn. Thế nhưng khác với dưới thời của Mao, bây giờ người Trung Quốc không
còn sẵn sàng lặng lẽ chấp nhận những việc như thế nữa. Trong tháng 12
năm 1986, 30.000 sinh viên ở Thượng Hải đã yêu cầu trên các biểu ngữ
“Hãy cho chúng tôi dân chủ!”. Cả trong công nghiệp cũng có sự phản đối;
công nhân đình công ở nhiều nơi – vì họ bị cho thôi việc hay không được
trả lương. Sự tức giận lại càng được khuếch đại, vì nhiều chính khách địa phương
nhận hối lộ từ doanh nghiệp. Con cái của các quan chức lãnh đạo, được
gọi là “nhóm hoàng tử”, bây giờ thường nhận được các công việc làm tốt
nhất theo một cách thật kỳ lạ. Tuy vậy, nền kinh tế ngày càng tăng trưởng nhanh hơn. Và lời hứa hẹn
của Đặng không những được hiện thực – mà còn vượt quá nữa: trong năm
2000, mỗi một người Trung Quốc trung bình thu nhập được gần 1000 dollar.
Và mười năm sau đó nữa, trong đất nước này sẽ có 393 tỉ phú và 1,1
triệu triệu phú, người dân sẽ có thu nhập 4393 dollar trên đầu người. Nhiều gấp 20 lần của năm 1979. Anna Loll Phan Ba dịch
Cơn bão trên Thiên An Môn
1989: Thảm sát Thiên An MônTrong những năm 1980, Trung Quốc giàu có hơn và tự do hơn
trước đó. Nhưng cái giá phải trả rất cao: tham nhũng, lạm phát, bất
công. Vì thế mà trong mùa Xuân 1989, một lần tụ tập tự phát của sinh
viên trên Quảng trường Thiên An Môn đã trở thành cuộc biểu tình lớn
nhất mọi thời đại. Nhiều tuần liền, những người biểu tình thống trị
đường phố của Bắc Kinh – cho tới khi những người thừa kế già nua của Mao
gọi quân đội đến.Cay RadeMacher Phan Ba dịch Trong năm 1989 đánh dấu kỷ nguyên mới, trong năm mà nhiều quốc gia đã
ra đời từ vùng Baltic cho tới Trung Á, hàng triệu người Trung Quốc cũng
yêu cầu tự do. Họ tụ họp lại, được dẫn đầu bởi sinh viên, thành cuộc
biểu tình nhiều quyền lực nhất của mọi thời đại, chiếm Quảng trường
Thiên An Môn. Cho tới khi cuộc phản đối của họ chấm dứt trong một đêm
của sự khủng bố. Trong những giờ khắc của đêm 3 rạng sáng ngày 4 tháng 6 năm 1989,
giới lãnh đạo quanh Đặng Tiểu Bình ra lệnh cho quân đội thực hiện một
chiến dịch mà dưới cái tên “Vụ thảm sát trên Quảng trường Thiên An Môn”
đã trở thành một dấu biểu hiện cho chính họ. Nhưng dù sự kiện này có ảnh hưởng sâu rộng đến như thế, người ta biết
rất ít về nó. Những người biểu tình muốn chính xác là những điều gì, đã
làm những việc gì? Ai dẫn đầu hàng trăm ngàn người đó? Tại sao giới
lãnh đạo nhà nước lại bỏ mặc thủ đô cho những người đó trong nhiều tuần
liền? Nhưng rồi tại sao họ lại dùng vũ lực? Và những gì đã thật sự xảy ra trong cái đêm tháng 6 đó? KHÁC VỚI ĐÔNG ÂU, không có một cuộc khủng hoảng kinh tế thúc
đẩy sự bất bình, còn ngược lại là đằng khác: từ những cuộc cải cách của
thập niên 1980, tổng sản lượng quốc gia tăng gần 9% hàng năm. Trong thời gian đó, lợi nhuận làm ra là khổng lồ – nhưng không được
phân chia một cách công bằng. Ai có việc làm trong nền kinh tế mới thì
kiếm được nhiều tiền. Ngược lại, nông dân, công dân trong các nhà máy
quốc doanh và nhân viên nhà nước bị tụt lại phía sau. Hậu quả: giữa các
thu nhập là một hố sâu ngày càng lớn ra, càng bị tăng cường bởi một tỷ
lệ lạm phát – của năm 1988 – trên 20% Cuối những năm 1980, có ba triệu người chạy trốn nông thôn về sống
trên đường phố của các thành phố Trung Quốc, những người từ các vùng hẻo
lánh đã kéo về các thành phố lớn với hy vọng có được việc làm. Một niềm
hy vọng hảo huyền: có khoảng năm triệu người thất nghiệp trong Trung
Quốc, thêm 20 triệu người nữa là công nhân trong các nhà máy quốc doanh
với lương tối thiểu rất thấp, những người hầu như không phải làm gì.
Trong ĐCS, nạn tham nhũng là bệnh: quan chức nhập hàng hóa xa xỉ,
hướng các đầu tư nhà nước vào những nhà máy nhất định, giao chức vụ cho
người thân quyến. Năm 1988 – theo một báo cáo của Tòa án Nhân dân Tối
cao – có 55 710 vụ tội phạm kinh tế được xét xử, trung bình mỗi ngày bắt
đầu 152 vụ.Đảng chia rẽ sâu sắc trong câu hỏi phải tiếp tục như thế nào. Người
đàn ông nhiều quyền lực của Trung Quốc, Đặng Tiểu Bình, 84 tuổi, đã rút
lui ra khỏi hầu hết các chức vụ, nhưng vẫn còn là Chủ tịch Quân ủy Trung
ương – và qua đó kiểm soát quân đội và cảnh sát nhân dân vũ trang, một
đơn vị bán quân sự để chống nổi loạn trong nước.Đặng là bố già không tranh cãi của Đảng. Thế nhưng ở dưới ông, cỗ máy
của các quan chức đã chia ra thành hai phái kình địch với nhau, được
đại diện bởi hai người che chở cho họ:
Thủ tướng Lý Bằng, 60 tuổi, kỹ sư điện, là một trong các quan chức
cao cấp trẻ tuổi nhất: nhà chính trị gia năng động, lạnh lùng, không
khoan nhượng này có thời gian được đào tạo trong nước Liên bang Xô viết
của Stalin và kể từ đấy là người hâm mộ việc nhà nước kiểm soát nghiêm
ngặt nền kinh tế.
Bí thư Đảng Triệu Tử Dương, 69 tuổi, luôn ăn mặc lịch sự, muốn đẩy
lùi Đảng ra khỏi nền kinh tế; trong tương lai, các nhà quản lý nên lãnh
đạo các nhà máy chứ không phải cán bộ Đảng.
Trong nửa sau của thập niên 1980, các phe phái này đấu tranh với nhau
vì đường hướng cho lần trỗi dậy. Đặng thường quyết định bốc đồng, cổ vũ
cả hai phe. Tạm thời không có cải cách nữa? Với lời yêu cầu đấy, Lý Bằng có trước
hết là quan chức cao cấp đứng về phía mình – các thống soái, bộ trưởng
ngày xưa. Hay các cải cách cần phải được tiến xa hơn nữa. Triệu Tử Dương đại
diện cho đường hướng này, và ông ấy dựa vào các đồng minh ở ngoài ĐCS,
như sinh viên. Nhưng đấy là những đồng minh nguy hiểm cho một quan chức
Đảng. 2,7 triệu sinh viên của khoảng 1000 trường đại học là một đạo quân
của những người chán nản. Vì sau khi học xong, nhà nước phân bổ cho mỗi
một người tốt nghiệp một việc làm; rồi thầy giáo thu nhập được vào
khoảng 1/3 của công nhân có tay nghề, giáo sư nhận được nhiều tiền như
người soát vé. Tài xế taxi ngược lại có thể thu nhập gấp ba lần. Không phải là điều đáng ngạc nhiên, khi trong giới trí thức có sự bất
bình lớn với giới lãnh đạo Trung Quốc. Trong tháng 3 năm 1989, giới
quan chức chóp bu biết được qua một lần thăm dò ý kiến, rằng đặc biệt là
những người tốt nghiệp đại học ủng hộ cuộc cải cách. Kết luận của Đảng:
“Đó là một bằng chứng cho sự mơ hồ về tư tưởng hệ ở các cấp bậc có học
cao hơn.” Sự “mơ hồ về tư tưởng hệ” này sẽ dần dần phát triển trở thành một sự thách thức quyền lực. Việc đấy đã xảy ra như thế nào thì không thể tái diễn lại chính xác
được, mặc dù có nhiều tường thuật của các nhân chứng và tài liệu. Có
những lời tường thuật mâu thuẫn với nhau. Bản sao nhiều văn kiện nhạy
cảm – biên bản những cuộc họp trong giới lãnh đạo Đảng hay tường thuật
của những viên chỉ huy quân đội gửi cho cấp trên của họ – được một người
cung cấp thông tin nặc danh mang lén sang Hoa Kỳ nhiều năm sau đó. Các
văn kiện này có độ tin cậy cho tới đâu thì thường không thể kiểm chứng
được. Mặc dù vậy, chắc chắn một điều là các sự kiện bi thảm đó đã bắt đầu
một cách bất ngờ: với cái chết vì bệnh tim của một quan chức cao cấp.
THỨ BẢY, 15 THÁNG 4. Hồ Điệu Bang qua đời ở tuổi 73 vì một cơn
đau tim. Năm 1982, người được Đặng Tiểu Bình che chở được bầu lên làm
Tổng Bí thư ĐCS, thế nhưng năm 1987 ông ấy mất chức vụ này – đối với
những người bảo thủ trong ĐCS, các kế hoạch tự do hóa nền kinh tế của Hồ
nguy hiểm tới mức ngay đến Đặng cũng không thể giữ được ông ấy.Ít ra thì Hồ cũng giữ được một chức vụ trong Bộ Chính trị, ủy ban cao
nhất của Đảng và từ đấy trở thành thần tượng của tất cả những người
Trung Quốc hy vọng vào một sự thay đổi về chính trị và kinh tế.Tất cả các quan chức cao cấp đều biết rõ, rằng họ phải tổ chức chôn
cất long trọng chính trị gia Hồ nổi bật, nhưng cũng biết rằng tang lễ
này có thể là dịp biểu tình của những người có thiện cảm với cải cách. Lý Bằng cảnh báo: “Chúng ta phải giám sát các trường đại học. Sinh viên bao giờ cũng dễ bị kích động nhất.” Thứ hai, 17 tháng 4, vào buổi sáng. Khoảng 600 sinh viên và giảng
viên của trường Đại học Chính trị và Luật tụ tập lại trên Quảng trường
Thiên An Môn, đặt cờ và vòng hoa tưởng niệm Hồ Diệu Bang. Dần dần, nhiều
nhóm thanh niên đổ đến thêm, cho tới 16 giờ là khoảng 10.000 sinh viên,
cũng cả từ các đại học khác, thêm vào đó là người hiếu kỳ. Cảnh sát cố
giải tán đám đông, hoài công. Một dấu hiệu báo động. Vì Quảng trường Thiên An Môn, một quảng trường hình chữ nhật lớn 40
ha trong trung tâm của thành phố mười một triệu dân, là quảng trường lớn
nhất thế giới, trái tim của Trung Quốc. Ở mặt Bắc, ẩn ở phía sau “Thiên
An Môn”, là “Cấm Thành”, nơi các hoàng đế đã cai trị nhiều thế kỷ liền.
Ở các cạnh dài có các đài tưởng niệm của quyền lực Cộng sản: bên phía
Tây là “Đại hội đường Nhân dân”, nơi Quốc Hội họp, ở phía Đông là bảo
tàng đồ sộ của Cách mạng Trung Quốc. Ở giữa, một cột đá nhắc nhở đến những người “tử vì đạo” của ĐCS;
người chết nổi tiếng nhất của họ nằm bất động cách đấy vài mét như xác
chết sáp của sự vĩnh cửu: Mao Trạch Đông nằm trong một gian sảnh tưởng
niệm.
Chính tại đài tưởng niệm này, cờ tang bay phất phới, vòng hoa chồng
chất lên nhau. “Trái tim của ông ấy mắc bệnh, vì Trung Quốc mắc bệnh”,
sinh viên đã làm thơ về Hồ Diệu Bang trước đó trên báo tường. Cuộc biểu
tình này vô danh, tự phát. Không ai biết là ai đã viết tờ báo tường đầu
tiên, những bài thơ đầu tiên – hay ai là người đầu tiên đã kêu gọi hãy
đến Quảng trường Thiên An Môn. Mặc dù vậy, cơn bão phản đối làm rung
chuyển Trung Quốc đã bắt đầu qua đó.18 tháng 4, 8 giờ. Khoảng 200 sinh viên biểu tình ngồi chận lối vào
Đại hội đường Nhân dân. Họ muốn nói chuyện với thành viên chủ tịch đoàn
Quốc Hội về các yêu cầu mà rõ ràng là đã xuất hiện trong vài giờ trước
đó tại những cuộc gặp gỡ tự phát ở các trường đại học. Ngoài những việc
khác, họ yêu cầu nhiều tiền hơn cho đào tạo (và qua đó là những điều
kiện học tập tốt hơn), tự do xuất bản cũng như công bố thu nhập của cán
bộ Đảng. Những người biểu tình hát quốc ca. Người sếp lễ tân của Quốc
Hội nói chuyện với họ một chút, ngoài ra thì ít có gì xảy ra. Thời tiết
mùa hè, bầu không khí trên Thiên An Môn yên bình.19 tháng 4, 23 giờ. Gần 300 sinh viên của Đại học Bắc Kinh tụ tập
lại trong khuôn viên của trường để thành lập “Liên hiệp Sinh viên Thống
nhất”, tổ chức đối lập quan trọng đầu tiên từ nhiều thập niên. Bảy người trẻ tuổi được bầu làm lãnh đạo, trong đó có Vương Đan, một sinh viên khoa Sử hai mươi tuổi. 20 tháng 4, buổi sáng. Một cộng tác viên khuyên Triệu Tử Dương hãy
hủy bỏ chuyến đi sang Bắc Triều Tiên theo kế hoạch. Câu trả lời của
Triệu: “Dời chuyến đi thăm chính thức sẽ khiến cho những người nước
ngoài nào đó phỏng đoán rằng tình hình chính trị của chúng ta là bất
ổn.” Ông ấy đi. THỨ SÁU, 21 THÁNG 4. Ở trường Đại học Sư phạm, Ngô Nhĩ Khai Hy
21 tuổi công bố một thông cáo mà trong đó anh ấy yêu cầu, ngoài những
điều khác, hãy tẩy chay không lên giảng đường. Thứ bảy, 22 tháng 4, 3 giờ. Ngày lễ tang cho Hồ. Trước lúc bình minh,
hơn 80000 sinh viên của 20 trường đại học bắt đầu diễu hành. Những “đội
canh gác” riêng bao xung quanh các nhóm người diễu hành, bảo đảm trật
tự. Họ đến Thiên An Môn mà không bị quấy rầy. 4 giờ 30. Chiếc xe buýt cảnh sát chạy đến, người sĩ quan bước xuống
bị sinh viên bao quanh – vì ông ấy bảo đảm rằng hành động của họ được
nhà nước nhân nhượng. 10 giờ 00. Bắt đầu nghi lễ trong Đại hội đường Nhân dân. Đặng Tiểu
Bình và 4000 cán bộ cao cấp tiến hành nghi thức cúi chào ba lần trước Hồ
Diệu Bang nằm trong quan tài. Sau lễ, Triệu Tử Dương gặp Đặng Tiểu Bình. Tuy là ông muốn “kiên
quyết ngăn chận” không cho sinh viên biểu tình, thế nhưng để làm điều đó
thì “các biện pháp hợp pháp là đã đủ. Chủ yếu là phải thuyết phục và
đối thoại trên nhiều bình diện”. Người bố già chỉ trả lời: “Tốt.” Tức là Triệu Tử Dương vẫn còn nhận được sự ủng hộ của con người già
nua đó. Trong thời gian của chuyến đi thăm Bắc Triều Tiên, việc bắt đầu
vào sáng hôm sau đó, Thủ tướng Lý, nhân vật số hai trong hệ thống cấp
bậc, sẽ tiếp nhận quyền điều khiển Đảng.
24 tháng 4. Tụ tập của khoảng 10000 sinh viên từ hầu hết các trường
đại học Bắc Kinh. Vương Đan và những người diễn thuyết khác kêu gọi tẩy
chay thính đường, dân chủ, tự do báo chí, điều tra các cảnh sát viên
dùng bạo lực. Rồi một “Ủy ban Hành động của các trường đại học Bắc Kinh”
được thành lập – một tổ chức xuất hiện mạnh mẽ hơn và tự tin hơn thấy
rõ. Thuộc trong ủy ban lãnh đạo, ngoài những người khác, là Ngô Nhĩ Khai
Hy và Vương Đan.Lần đầu tiên kể từ 1949, sự độc chiếm quyền lực của Đảng bị thách
thức một cách nghiêm trọng. Nếu như cho phép, người sếp tuyên giáo của
ĐCS lớn tiếng, “thì rồi chúng ta sẽ có hàng nghìn Lech Walesa” – và qua
đó nhắc đến người công nhân Ba Lan đã thành lập công đoàn tự do
“Solidarnosc” đầu tiên của đất nước đấy và đã làm lung lay hệ thống xã
hội chủ nghĩa ở đó.25 tháng 4, 9 giờ. Lý Bằng đến gặp Đặng Tiểu Bình để thúc giục ông ấy
hành động cứng rắn hơn: “Mũi lao bây giờ hướng trực tiếp đến anh.” Đặng trả lời: “Chúng ta phải hành động một cách rõ ràng trong lúc dập tắt cuộc bạo loạn này.” Người bố già dùng từ “bạo loạn”. Một khái niệm nhắc nhở đến một chấn
thương: đến cuộc Cách mạng Văn hóa, cái mà kể từ lúc đó bị nhiều cán bộ
phỉ báng là “bạo loạn”, vì Đặng và nhiều quan chức cao cấp khác chỉ
thoát chết trong đường tơ kẻ tóc vào thời đấy. Kể từ lúc đấy, họ lo sợ rằng có một điều gì giống như thế sẽ lại xảy
ra cho họ. Trong cuộc Cách mạng Văn hóa, đấy cũng chính là những đám học
sinh sinh viên cuồng tín đe dọa họ đấy mà? Và bây giờ cũng lại sinh
viên, lại khẩu hiệu, lại diễu hành. Lý Bằng nhận ra rằng câu nói của Đặng cũng giống như một thứ vũ khí.
“Chúng ta có cần phải cho viết một bài xã luận trong “Nhân dân Nhật Báo”
để công bố lời nói của đồng chí Tiểu Bình hay không?”, ông ấy đưa đề
nghị ra cho các quan chức. Không ai phản đối. Viên phó tuyên truyền bắt
đầu tiến hành. 18 giờ 30. Đài phát thanh nhà nước đã phát đi bài xã luận dựa trên
câu nói của Đặng, bài báo mà sẽ được phát hành vào ngày hôm sau. Sinh
viên căm phẫn: phẫn nộ, có cảm giác như đã bị phản bội. Vì họ nhìn mình
như là công dân, người yêu nước, nhiều người còn tự nhìn mình như là
người cộng sản. Nhưng “bạo loạn” đã đóng dấu họ trở thành những người
phạm tội. Bất thình lình – và cả Đặng lẫn Lý Bằng đều không nhận ra điều đấy –
không còn có khoảng trống cho thỏa hiệp nữa: Đảng bây giờ còn có thể
chấp nhận những yêu cầu của sinh viên nữa hay không khi mà đã đóng dấu
“kẻ bạo loạn” lên người họ? Và ngược lại: Có phải là bây giờ sinh viên phải tiếp tục biểu tình
cho tới khi tất cả các yêu cầu được chấp thuận hay không? Vì nếu họ rút
lui trước đó thì họ phải lo ngại là bị an ninh quốc gia đàn áp như là
những “kẻ bạo loạn”.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét