Chủ Nhật, 27 tháng 8, 2017

BÍ ẢN ĐƯỜNG ĐỜI 111/10 (Mao Trạch Đông)




(ĐC sưu tầm trên NET)

                            Mao Trạch Đông 4 lần kết hôn;nhưng chưa từng làm thủ tục ly hôn?

Mao Trạch Đông

 {{{caption}}} 

Đồ tể của nhân loại - Đứa con Quái thai của sự hôn phối giữa CM Vô sản và ĐT giai cấp

Câu nói để đời:  “Tần Thuỷ Hoàng là cái thá gì? Ông ta chỉ chặt đầu 460 nho sĩ. Chúng ta đã chặt đầu 460.000 trí thức.”. Và “Mọi người cộng sản phải nắm cho rõ chân lý này: ‘Quyền lực chính trị lớn mạnh được là bắt đầu từ họng súng".

---------------------------------------------


Điền Gia Anh-thư ký Mao Trạch Đông: Một cuộc đời oan nghiệt

  Điền Gia Anh nằm trong nhóm “tú tài” gồm các thư ký đặc biệt của Mao Trạch Đông như Hồ Kiều Mộc, Trần Bá Đạt, Diệp Tử Long. Từ tháng 10-1948 đến tháng 5-1966 (tức từ 26 tuổi đến 44 tuổi), Điền là thư ký chính trị cho Mao Trạch Đông, sát cánh trong 18 năm và cũng là thư ký duy nhất tự sát trong Trung Nam Hải.
Trong đời của Mao Trạch Đông có sử dụng nhiều thư ký (cơ yếu, cận vệ, y tế…). Trong số đó không ít người tài hoa xuất chúng và Điền Gia Anh (4.1.1922 - 23.5.1966) là một người như vậy.
“Chỉ mong không có tội”
Lần đầu tiên khi Điền Gia Anh đến nhận công tác tại Phủ chủ tịch, Mao Trạch Đông hỏi: “Anh đến chỗ tôi làm việc có suy nghĩ gì không?”. Điền Gia Anh đáp: “Không dám cầu có công, chỉ mong không có tội”.
Câu trả lời của Điền Gia Anh rõ ràng không làm vừa lòng Mao Trạch Đông, nhưng đó là lời nói trong tâm khảm. Ai cũng biết làm thư ký chỗ Mao Chủ tịch đâu có dễ dàng, huống chi lúc ấy Điền Gia Anh chỉ mới 26 tuổi, anh biết rõ trách nhiệm nặng nề của mình.
Khi Mao chủ tịch mời Điền Gia Anh ăn cơm, Điền vốn tửu lượng rất khá, nhưng hôm ấy chỉ uống một chút đã say, điều này có thể thấy tâm lý căng thẳng của Điền.
Vừa về nhận công tác, Mao Trạch Đông đã gọi Điền Gia Anh đến truyền đạt ý kiến chỉ đạo miệng, yêu cầu Điền phải thảo ngay một bức điện báo và nộp tại chỗ. Đây là cuộc thi lần thứ nhất.
Sau đó, Mao lại yêu cầu Điền đi làm công tác điều tra tình hình vùng đông bắc nhưng không ra chỉ thị, đề mục cụ thể. Điền hỏi thì Chủ tịch bảo: “Anh cứ đi khắp nơi xem xét từ thành thị, thương phẩm, công xưởng, dân tình rồi trở về báo cáo”. Đây thực ra là một phương pháp khảo sát cán bộ đặc thù của Mao Trạch Đông. Điền Gia Anh trải qua lần thi thứ hai trót lọt.

Điền Gia Anh, thư ký chính trị của Mao Trạch Đông
“Đi khắp đường thiên hạ, đọc hết sách nhân gian”.
Điền Gia Anh tên thật là Tăng Chính Xương, người Thành Đô, Tứ Xuyên, mồ côi cha mẹ từ nhỏ, tự học mà thành tài, thuộc lòng cả bộ Tư trị thông giám, Sử ký và nhiều tác phẩm cổ điển Trung Hoa, được gọi là thần đồng. Trên đầu giường có viết câu liễn “Đi khắp đường thiên hạ, đọc hết sách nhân gian”.
Năm 1938, Điều  gia nhập đảng Cộng sản Trung Quốc, học tại Học viện Mác Lênin ở Diên An, được giữ lại để nghiên cứu về vấn đề Trung Quốc.
Mao Trạch Đông chọn Điền Gia Anh làm thư ký là qua giới thiệu của Hồ Kiều Mộc. Năm 1941, Điền Gia Anh được chọn vào Ban Nghiên cứu chính trị trung ương. Năm 1943 ở Diên An, Điền Gia Anh được Hồ Kiều Mộc chuyển từ  Ban Nghiên cứu chính trị trung ương sang Bộ Tuyên huấn trung ương, sau mới tiến cử đến Mao Chủ tịch.
Mao Trạch Đông chú ý đến Điền Gia Anh từ những bài viết của Điền đăng trên tờ Giải phóng Nhật báo tại Diên An. Có lần Điền Gia Anh giảng cổ văn cho cán bộ trong cơ quan nghe, Mao Trạch Đông tình cờ đi ngang nghe Điền giảng quá thu hút bèn đứng ngoài cửa sổ chăm chú nghe.
Năm 1946, Điền Gia Anh được Mao Trạch Đông chọn làm thầy giáo dạy cho con trai là Mao Ngạn Anh vừa từ ở Liên Xô về. Từ năm 1948, Điền trở thành thư ký chính trị của Mao Trạch Đông, hai người rất tâm đầu ý hợp, đều ham thích cổ văn, thư họa.
Năm 1954, Điền Gia Anh là phó chủ nhiệm Văn phòng Trung ương đảng, là người biên tập, chú giải “Tuyển tập Mao Trạch Đông” từ quyển 1 đến 4, tham gia biên soạn hiến pháp nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, Mao Trạch Đông thi từ, viết diễn văn khai mạc đại hội đảng lần thứ 8 cho Mao Trạch Đông.

Điền Gia Anh (trái) và Mao Trạch Đông đàm đạo 
Những suy nghĩa “cả gan” của Điền Gia Anh
Từ sau khi “đại nhảy vọt” bị thất bại, trong nội bộ đảng không ít người trăn trở một vấn đề: Chủ nghĩa xã hội rốt cuộc là phải làm thế nào? Trước đó thì vấn đề này chưa trở nên bức xúc, nhưng từ cuối năm 1958, nhất là sau hội nghị Lư Sơn vào hè năm 1958 thì ngày càng có nhiều đảng viên bắt đầu hoài nghi, Điền Gia Anh là một người trong số đó.
Lúc ấy có người đề xuất là phải nghiên cứu thật kỹ các trước tác của chủ nghĩa xã hội không tưởng, trước tác của Mác-Ăngghen để xem họ nói thế nào. Riêng Điền Gia Anh thì tự đi tìm câu trả lời từ trong thực tế.
Tư tưởng căn bản của Điền Gia Anh là: Chế độ xã hội chủ nghĩa là không thể thay đổi, nhưng phương pháp xây dựng thì có thể đa dạng, linh hoạt. Anh cho rằng Trung Quốc lúc ấy chưa giải quyết được vấn đề phương pháp xây dựng xã hội chủ nghĩa.
Tất nhiên lúc ấy Điền Gia Anh không thể đề xuất những khái niệm tầm cỡ như “mô thức Liên Xô” hay “mô thức Trung Quốc” mà phần lớn tư tưởng của Điền là từ góc độ cụ thể của người đi sâu sát trong quần chúng nhân dân và chưa hình thành một hệ thống tư tưởng. Mặc dù vậy, một số đề xuất và suy nghĩ  “cả gan”của Điền Gia Anh cho đến bây giờ vẫn còn nguyên giá trị.
Chống lại sai lầm của phe tả khuynh
Chẳng hạn, về vấn đề dân chúng phải giàu có, Điền Gia Anh nói: “Mấy năm nay không cho xã viên làm kinh tế phụ, đó là sai lầm. Sự giàu có của một quốc gia trước hết phải xem dân chúng có giàu hay không. Mục đích của những người cộng sản chúng ta là phải làm cho dân chúng giàu có. Về vấn đề này nhiều đồng chí còn hiểu mơ hồ. Dân chúng giàu rồi thì quốc gia mới giàu, vì vậy việc xã viên làm kinh tế phụ để có thể phát triển kinh tế là đúng và không có gì phải sợ”.
Những lời nói trên được Điền Gia Anh phát biểu chống lại sai lầm của phe tả khuynh “thủ tiêu kinh tế phụ gia đình” từ sau năm 1958, tuy còn phiến diện nhưng đây là đòn phủ định tư tưởng xây dựng “chủ nghĩa xã hội bần cùng”: chỉ hướng đến “tích luỹ cao”mà coi thường công việc nâng cao đời sống cho công nhân, nông dân, trí thức.
Ngoài ra, đối với các vấn đề thương nghiệp, khoa học, quan hệ đảng-chính (đảng và chính quyền), Điền Gia Anh đều có những kiến giải và kiến nghị sâu sắc.
Anh chỉ rõ những bất cập trong quản lý kinh tế hiện thời do phong tỏa thị trường và phản đối quyết liệt cách lãnh đạo kinh tế bằng biện pháp hành chính đơn thuần, những yếu kém của lãnh đạo địa phương. Anh cũng đề nghị phải phân khai mối quan hệ giữa đảng và chính quyền, phát huy dân chủ trong đảng, chủ trương khoán sản phẩm cho nông dân.
Những gì Điền Gia Anh nói đã đi vào vấn đề mấu chốt của nền kinh tế và thể chế chính trị đương thời, rất đáng chú ý. Nhưng không ngờ đây cũng là mầm móng đưa đến cái chết oan uổng của Điền Gia Anh trong Cách mạng Văn hóa.

Cách mạng Văn hóa ở Trung Quốc   
Trần Bá Đạt tâm địa hẹp hòi
Hai kẻ thù nguy hiểm của Điền Gia Anh là Trần Bá Đạt và Giang Thanh. Điền Gia Anh và Trần Bá Đạt quen nhau từ thời ở Diên An, lúc ấy Mao Trạch Đông kiêm chủ nhiệm Phòng Nghiên cứu chính trị trung ương, Trần Bá Đạt là phó chủ nhiệm, Điền Gia Anh từ tổ kinh tế chuyển về làm nghiên cứu viên tổ chính trị.
Trần Bá Đạt có viết mấy cuốn sách, Điền Gia Anh giúp Đạt tìm kiếm tư liệu, lúc bấy giờ ở Diên An điều kiện rất khó khăn, việc sưu tầm tài liệu là rất khó. Đến khi sách viết xong, Đạt dương dương tự đắc hỏi Anh: “Cậu thì làm được gì?”.
Sau năm 1949, Điền Gia Anh và Đạt tiếp xúc với nhau nhiều do quan hệ công việc nên hiểu rõ con người Đạt.
Đạt vốn người giả dối, bên ngoài ra vẻ đạo đức nhưng kỳ thực tâm địa hẹp hòi, tham công người khác, che giấu dã tâm. Ai làm việc chỗ Mao Trạch Đông có thành tích, được khen thưởng là Đạt tìm cách chê bai, xúc xiểm. Điền Gia Anh nhiều năm được Mao Chủ tịch trọng dụng đã trở thành cái gai trong mắt Đạt. Tính Điền Gia Anh lại thẳng thắn, phát biểu không kiêng nể nên Đạt rất ghét.
Năm 1955, căn cứ theo đề nghị của Chủ tịch thành lập trở lại Phòng nghiên cứu chính trị trung ương, Trần Bá Đạt làm chủ nhiệm, Hồ Thằng, Điền Gia Anh làm phó chủ nhiệm, nhưng thực tế công việc chỉ có Hồ và Điền làm.
Đặt điều vu oan cho Điền Gia Anh
Từ sau năm 1962, trước những phát biểu thẳng thắn của Điền Gia Anh, Mao Trạch Đông dần dần lạnh nhạt và quan hệ không còn gắn bó như trước. Trần Bá Đạt thừa lúc này bèn “kể tội” Điền Gia Anh với Mao Trạch Đông, nói Điền là “kẻ độc đoán”, “nắm cả đại quyền”, “Bá Đạt không thể quản nổi”, toàn những điều bịa đặt.
Hồ Thằng và nhiều người trong Phòng Nghiên cứu đều chứng minh hoàn toàn không có những chuyện ấy, đáng tiếc là Mao Trạch Đông nghe lời sàm tấu và đem những lời Trần Bá Đạt nói về Điền Gia Anh phát biểu trong một hội nghị trung ương. Điền Gia Anh vốn thẳng tính lập tức gọi điện thoại yêu cầu Đạt đối chất cho rõ ràng nhưng Đạt ấp a ấp úng không trả lời được, tuy vậy Điền vẫn bị tiếng oan, Đạt càng tìm cách hãm hại.
Khi Cách mạng Văn hoá bắt đầu, thời cơ đã đến, Đạt là thân tín của Giang Thanh, cùng “bè lũ bốn tên” mưu đồ đại sự và được cất nhắc vào ủy viên thường vụ Bộ Chính trị. Trần Bá Đạt đến Viện nghiên cứu chủ nghĩa Mác yêu cầu vạch trần những “sai lầm” về tư tưởng của Điền Gia Anh.
Lúc ấy viện trưởng là Tử Mộc vốn biết Điền Gia Anh nên tìm cách che chở, hậu quả là bị liên lụy, bị Trần Bá Đạt chỉ mặt phê phán nói Tử Mộc là đệ tử của Điền Gia Anh, là “viện trưởng chuyên quyền”, cuối cùng bị bức hại đến chết. 

Trong mắt Giang Thanh (ngoài cùng bên phải), Điền Gia Anh là kẻ thù “không đội trời chung”
Giang Thanh tàn độc, thâm hiểm
Kẻ thù nguy hiểm thứ hai của Điền Gia Anh là Giang Thanh vì Điền biết rõ thân thế cũng như những thủ đoạn tàn độc của bà ta. Trong mắt Giang Thanh, Điền Gia Anh là kẻ thù “không đội trời chung”.
Năm 1962, Điền Gia Anh chủ trương khoán sản phẩm đến từng hộ nông dân bị phê bình, Giang Thanh  và Trần Bá Đạt bèn “chụp mũ chính trị”, cho Điền là “phần tử giai cấp tư sản”, một trong 4 loại phần tử phải phê đấu.
Đặc biệt là dựa vào lời phát biểu của Điền Gia Anh phản đối ý kiến của tư lệnh Lâm Bưu về Mao Trạch Đông (không đồng ý Lâm Bưu cho tư tưởng Mao Trạch Đông là tối cao; không đồng ý Lâm Bưu cho là phải học và vận dụng tất cả trước tác của Mao Trạch Đông; không đồng ý Lâm Bưu yêu cầu cắt những lời nói (ngữ lục) lấy ý nghĩa để học tập (sau đó là Mao tuyển), Điền Gia Anh cho rằng chỉ đọc thuộc ngũ lục là dung tục hóa tư tưởng Mao chủ tịch; không đồng ý Lâm Bưu nói tư tưởng Mao Trạch Đông là chủ nghĩa Mác sống nhất đương thời, vì chẳng lẽ chủ nghĩa Mác lại chia thành sống và chết?).
Tai họa dồn dập đến với Điền Gia Anh. Tháng 5-1966, cuộc đại loạn bắt đầu. Ngay trong các vách tường của phòng cơ yếu và phòng thư ký xuất hiện đầy các biểu ngữ và báo chữ lớn phản kháng Điền Gia Anh, nói Điền là hữu khuynh, không tôn trọng lãnh tụ, là thuộc phe của Bành Đức Hoài, Trương Văn Thiên ở hội nghị Lư Sơn trước đây.
Đến ngày 5-8-1966, Giang Thanh và Trần Bá Đạt đã hạ thủ với Điền Gia Anh, Chủ tịch nước Lưu Thiếu Kỳ cùng Bành Chân, Lục Định Nhất, Dương Thượng Côn, nói Điền là tuy làm thư ký của Mao Trạch Đông nhưng thực chất là người của bộ tư lệnh giai cấp tư sản Lưu-Đặng (Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình).
Trước những âm mưu, dã tâm, uy bức của những kẻ nắm đại quyền trong Cách mạng Văn hóa như Giang Thanh, Trần Bá Đạt, cuối cùng Điền Gia Anh đã phải chọn con đường mà đồng chí và bạn bè anh không muốn: Tự tử.
Lời cuối cùng Điền Gia Anh nói với vợ trước tối ra đi là: “Tôi bị Giang Thanh, Trần Bá Đạt hãm hại, thường nghe rằng thiện có thiện báo, ác có ác báo, tôi tin là loại người ác ấy sẽ không có kết cục tốt đâu”. Trong di ngôn để lại có hai câu: “Tin là đảng sẽ làm rõ vấn đề. Tin là sẽ không ngậm oan dưới mộ”.

Giang Thanh ra tòa năm 1980
Ác giả ác báo
Đúng 15 năm sau ngày Điền Gia Anh qua đời, bọn Giang Thanh, Trần Bá Đạt đã lãnh đúng ác báo. Ngày 25-1-1981, tại phiên tòa đặc biệt của Tòa án tối cao nước CHND Trung Hoa, bọn chúng đã bị xử tử hình (hoãn sau 2 năm).
Ngày 28.3.1980, Trung ương đảng đã tổ chức trọng thể lễ truy điệu Điền Gia Anh tại lễ đường Khu Công mộ Bát Bảo Sơn, Bắc Kinh để bình phản, rửa oan cho ông.
Điền Gia Anh nhiều năm công tác bên Mao Trạch Đông, tình cảm hai người rất sâu đậm. Nhưng về sau do tư tưởng hữu khuynh của Điền đã khiến Mao trở nên lạnh nhạt, điều này làm cho Điền cảm thấy rất mâu thuẫn.
Trong năm 1963, Điền từng nói với La Quang Lộc rằng: “Tôi cảm cái ân tri ngộ của Chủ tịch, nhưng nếu cứ thế này thì có một ngày sẽ phải chia tay”. Mao Trạch Đông cuối cùng đã không bảo vệ người cộng sự thân tín của mình vì nghi ngờ. Đây cũng là một bi kịch của lịch sử.
Ngay sau Cách mạng Văn hóa kết thúc, Mao Trạch Đông nói rằng Điền Gia Anh: “Không có vấn đề gì”. Không biết lúc nói như thế tâm tình của Mao Trạch Đông như thế nào, là hối hận, là tưởng nhớ, hay là đánh giá lại Điền Gia Anh?
Thiên Tường (theo Nam thư ký trong bức tường đỏ-Quan Đông tác gia, Trung Quốc)

----------------------------------------------------------------

Giới thiệu tài liệu: Jonathan Spence, “Mao”, nhà xuất bản Claasen: tiểu sử được thuật lại một cách dễ hiểu và chứa đựng nhiều thông tin từ ngòi bút của một trong những nhà Hán học nổi tiếng nhất thời chúng ta. Hung Chang & Jon Halliday, “Mao”, Panteon: một trong những mô tả mới nhất, nhưng cũng bị tranh cãi nhiều nhất về con người của ông chủ tịch vĩ đại. Các tranh luận mà quyển sách này đã gây ra trên khắp thế giới được Gregor Benton & Lin Chun tập trung lại trong quyển “Was Mao Really a Monster? The academic response to Chang and Halliyday’s Mao: The Unknown Story”, Routledge. 
Phan Ba dịch từ chuyên san lịch sử “Trung Quốc của Mao Trạch Đông” do GEO Epoche xuất bản.Quyển sách bao gồm các chương sau đây:

  • Tên cướp đỏ: 1921 – 1931: lần thăng tiến của Mao
  • Con người chuyên quyền kia: Tưởng Giới Thạch
  • Cuộc chạy trốn qua núi: 1934 – 1935: “Vạn lý Trường chinh”
  • Địa ngục Nam Kinh: Cuộc thảm sát tại Nam Kinh
  • Trận đấu tay đôi vì Trung Quốc: 1946 – 1949: nội chiến
  • Khởi hành vào một kỷ nguyên mới: 1940 – 1954: cải tạo Xã hội Chủ nghĩa
  • Cuộc chiến chống Mỹ: 1950 – 1953: Chiến tranh Triều Tiên
  • Sự điên khùng của một bạo chúa: 1958 – 1961: “Đại nhảy vọt”
  • Cuộc chiến của những đứa trẻ con: 1966 – 1976: Cách mạng Văn hóa
  • Chuyến viếng thăm của kẻ thù giai cấp: Chuyến đi thăm Trung Quốc của Nixon
  • Cái chết của ông Hoàng đế Đỏ: 1976 Mao qua đời
  • Kế hoạch cho lần trỗi dậy: Trung Quốc mở cửa
  • Cơn bão trên Thiên An Môn: Thảm sát Thiên An Môn
--------------------------------------------------------------
(Tiếp theo)

Kế hoạch cho lần trỗi dậy

Anna Loll
Phan Ba dịch
Sau cái chết của Mao, kinh tế của Trung Quốc kiệt quệ, Trung Quốc thuộc trong những nước nghèo nhất thế giới. Do vậy mà giới lãnh đạo Trung Quốc quyết định thay đổi đường lối một cách triệt để: họ mở cửa đất nước cho Chủ nghĩa Tư bản.
Trung Quốc 1978: một đất nước to lớn như Hoa Kỳ, với gần một tỉ người dân, với một chương trình nguyên tử riêng của mình và với những giàn máy công nghiệp cao vút ngay cả trong những vùng đất hẻo lánh. Nhưng cũng là một đất nước mà trong đó tiền lương không tăng; việc xây dựng mở rộng đường sắt được xem là phi sản xuất; người nông dân không được phép bán rau cải của họ trong thành phố hay còn dọn đến đấy ở; ngũ cốc, dầu và xà phòng được chia phần một cách nghiêm ngặt. Và là một đất nước mà trong đó có hơn 100 triệu người bị nạn đói đe dọa.


Một doanh nghiệp ca ngợi sản phẩm của mình trên một tấm áp phích quảng cáo trước tường của Cấm Thành. Chỉ vài năm trước đó, quảng cáo được xem là "xấu xa của tư bản". Ảnh: GEO Epoche.
Một doanh nghiệp ca ngợi sản phẩm của mình trên một tấm áp phích quảng cáo trước tường của Cấm Thành. Chỉ vài năm trước đó, quảng cáo được xem là “xấu xa của tư bản”. Ảnh: GEO Epoche.
Nước Cộng hòa Nhân dân thuộc trong số những nước nghèo nhất thế giới. Trong vòng hai thập niên, chế độ quanh Mao Trạch Đông với những chiến dịch  như “Đại Nhảy Vọt” và “Cách mạng Văn hóa” đã hủy diệt tất cả mọi sự thịnh vượng trong trứng nước. Vào giữa những năm 1950, người dân còn có nhiều ngũ cốc để ăn hơn là bây giờ; thu nhập trung bình một năm của một người Trung Quốc còn chưa tới 200 US dollar – ít hơn là ở Uganda, Malawi hay Afghanistan. Hơn một phần tư người dân sống trong cảnh nghèo nàn cùng cực.Trung Quốc tàn tạ và kiệt quệ: về kinh tế, chính trị, trí thức. Nếu như giới lãnh đạo nhà nước còn thành lập đại học và trường học sau chiến thắng trong nội chiến, làm giảm con số những người mù chữ, thì bây giờ có một thế hệ mới đang trưởng thành, thế hệ mà trong thời của cuộc Cách mạng Văn hóa đã bị cố tình không cho học tập.Vì thế mà bây giờ Trung Quốc thiếu lực lượng có khả năng cho hành chính nhà nước, để quản lý một cách có hiệu quả những nhà máy hóa học, nhà máy luyện thép, dự án xây dựng. Thêm vào đó, nền kinh tế kế hoạch không có hiệu quả trong sản xuất: nhân viên nhà nước ra lệnh cho doanh nghiệp phải sản xuất cái gì và bao nhiêu – nhà nước thâu lấy hàng hóa và lợi nhuận. Nếu một nhà máy thua lỗ, Bắc Kinh sẽ bù đắp cho họ.
Hầu như không có gì khuyếnkhích các giám đốc quan tâm đến chi phí. Do không được trả lương theo năng suất nên công nhân viên hay vắng mặt và làm việc ít.
Nhưng rồi trong một hội nghị của giới lãnh đạo Đảng trong tháng 12 năm 1978, một quan chức cao cấp xuất hiện và tuyên bố điều hầu như không thể tin được. Tên của ông ấy: Đặng Tiểu Bình. Thông điệp của ông ấy: Đảng phải rời bỏ điều không tưởng và trong tương lai phải “tìm sự thật trong thực tế”. Trong tăng trưởng kinh tế.
HAI NĂM SAU CÁI CHẾT CỦA MAO, Đặng – một người đồng đội cũ và cũng là người cạnh tranh của Đại Chủ tịch – đã thành công trong việc tước quyền lực người kế tục nhà độc tài, Hoa Quốc Phong, và giật lấy quyền lãnh đạo Đảng và nhà nước về cho mình. Trong lúc đó, ông ấy đứng ở hậu trường, nhưng bổ nhiệm người thân cận vào các chức vụ cao nhất. (Cho tới 1981, Hoa vẫn còn là Tổng bí thư Đảng – nhưng Đặng và những người đồng minh với ông ấy đã cầm quyền trong đất nước này từ lâu.)
Người lãnh tụ mới của Trung Quốc là một người thực tế. “Mèo đen hay mèo trắng không quan trọng”, ông ấy nói: “miễn là nó bắt được chuột.” Điều quan trọng là mục đích. Và để thực hiện điều đấy, Đặng sẵn sàng mở cửa đất nước của mình: cho nền kinh tế thị trường và cho các nhà đầu tư từ Phương Tây. Cho tới năm 2000, bây giờ ông ấy yêu cầu như thế trong mùa Thu 1979, thu nhập năm của người Trung Quốc cần phải tăng lên gấp năm lần – lên 1000 dollar trên đầu người.
Ngay từ giữa 1960, các nhà lãnh đạo Đảng thuộc phe cải tổ như cố thủ tướng Chu Ân Lai đã phát triển một kế hoạch cho tăng trưởng: “bốn hiện đại hóa”. Cho tới cuối thiên niên kỷ, nông nghiệp, công nghiệp, quốc phòng cũng như khoa học và kỹ thuật cần phải được cải mới – trước hết là với tư bản và bí quyết từ nước ngoài. Ngược lại, Mao theo đuổi cuộc cách mạng liên tục như là điều được ưu tiên cao nhất. Mãi bây giờ, sau cái chết của Mao, Đặng mới có thể thực hiện được viễn tưởng của nhà cải cách.
Và nó là triệt để – ngay cả khi Đặng Tiểu Bình không bãi bỏ hoàn toàn nền kinh tế kế hoạch. Ông ấy khuyến khích các doanh nghiệp xã hội chủ nghĩa làm việc có hiệu quả: ông ấy cho phép nhiều công ty nhất định giữ lại lợi nhuận cho họ bắt đầu từ một con số nào đó. Nếu như họ đã cung cấp cho nhà nước một lượng sản phẩm đã được định trước, họ có thể bán phần còn lại trên thị trường để thu lợi nhuận về cho họ.
Giới lãnh đạo cũng quyết định cho nền nông nghiệp một cuộc cải tổ rộng lớn: họ cho phép các gia đình trong những vùng nghèo được phép sản xuất cho riêng họ trên những cánh đồng thuê lại từ nhà nước .
Tuy vậy, về mặt chính trị, Đặng và những người theo ông ấy vẫn trung thành với di sản của Mao: khi sinh viên và giới khoa học gia yêu cầu một cuộc “hiện đại hóa thứ năm” – dân chủ – trên các tấm áp phích, Đặng cho người bắt giam họ. Dưới quyền của ông ấy, dưới thời của nhà thử nghiệm lớn, nhiều thứ được phép khuấy lên, nhưng quyền lực tuyệt đối của Đảng Cộng sản thì không.
Nhờ cuộc cải cách mà rất nhiều doanh nghiệp tư nhân nhỏ được thành lập. Nông dân chào bán hàng hóa của họ ở chợ, nhà hàng quán trọ được khai trương. Tiệm may quần áo và thẩm mỹ viện mời khách, cửa hàng đầy máy truyền hình cạnh tranh với những cửa hàng quốc doanh.


Trung Quốc thành lập bốn đặc khu kinh tế mà người nước ngoài được phép đầu tư vào đó. Nhưng cả Bắc Kinh cũng bùng nổ: ngày càng có nhiều người từ bỏ đồng phục Maoít như những người đàn ông này. Ảnh: GEO Epoche.
Trung Quốc thành lập bốn đặc khu kinh tế mà người nước ngoài được phép đầu tư vào đó. Nhưng cả Bắc Kinh cũng bùng nổ: ngày càng có nhiều người từ bỏ đồng phục Maoít như những người đàn ông này. Ảnh: GEO Epoche.
NHƯNG CHẲNG BAO LÂU SAU ĐÓ đã có vấn đề: trong năm đầu tiên của cuộc cải cách, Trung Quốc mắc nợ cao chưa từng có – trước hết là vì đầu tư nhiều và nhà nước thu nhập quá ít. Thêm vào đó lại thiếu  điện cho các doanh nghiệp mới. Đường sá, đường sắt và kênh đào không theo kịp sự tăng trường kinh tế.Nhưng Đặng tiếp tục mở rộng cuộc cải cách: năm 1979, ông ấy cho thành lập bốn “vùng đặc quyền kinh tế” để thu hút tư bản và kiến thức Phương Tây, ví dụ như ở Thâm Quyến gần biên giới với Hongkong. Ở đấy, người nước ngoài được phép đầu tư, xây dựng và chào bán hàng hóa của họ. Doanh nghiệp từ Hongkong thành lập xí nghiệp may mặc, sản xuất đồ chơi và giày dép.Lương thấp hơn 75% so với trong phần đất là thuộc địa của Anh quốc, giá mướn nhà thường còn rẻ hơn tới 95%. Chẳng bao lâu sau đó, Thâm Quyến có một sân chơi golf, nhà chọc trời vươn cao lên trên những con đường  mới được xây dựng.
Ngay từ năm 1985, thành phố cảng này hầu như không còn khác biệt gì khi so với những vùng ngoại ô của Hongkong nữa. Những gì mà Singapore, Đài Loan và Nam Hàn đã đạt được dường như bây giờ cũng có khả năng ở Trung Quốc: một điều kỳ diệu về kinh tế. Tổng sản lượng quốc gia của Trung Quốc tăng mỗi năm gần 9% kể từ 1978.
Cả Bắc Kinh cũng bùng nổ: thay cho những bộ đồng phục kiểu Maoít, bây giờ đàn ông đề tóc dài mặc áo khoác thời trang. Nông dân rút ra hàng tập tiền giấy để mua máy truyền hình cho gia đình của họ ở quê.
Chủ nghĩa Thực dụng của Đặng mang lại thu nhập cao hơn cho nhiều người Trung Quốc. Thế nhưng với tiêu dùng tăng lên, giá cả cũng tăng cao – hơn 26% trong năm 1988. Sản xuất ngũ cốc giảm lại càng làm cho tình hình thêm tồi tệ. Người nông dân bây giờ thích trồng đường và thuốc lá hơn, vì họ có thể bán chúng lấy lợi nhuận nhiều hơn là với lúa mì.
Mức sống bây giờ lại giảm xuống, đặc biệt là trong thành phố, tỷ lệ thất nghiệp tăng sau khi các nhà máy quốc doanh cho thôi việc. Để hiện đại hóa, Đặng chấp nhận đất nước bị chia cắt ra về mặt xã hội. “Một vài người sẽ giàu lên trước”, ông ấy viết ngắn gọn.
Thế nhưng khác với dưới thời của Mao, bây giờ người Trung Quốc không còn sẵn sàng lặng lẽ chấp nhận những việc như thế nữa. Trong tháng 12 năm 1986, 30.000 sinh viên ở Thượng Hải đã yêu cầu trên các biểu ngữ “Hãy cho chúng tôi dân chủ!”. Cả trong công nghiệp cũng có sự phản đối; công nhân đình công ở nhiều nơi – vì họ bị cho thôi việc hay không được trả lương.
Sự tức giận lại càng được khuếch đại, vì nhiều chính khách địa phương nhận hối lộ từ doanh nghiệp. Con cái của các quan chức lãnh đạo, được gọi là “nhóm hoàng tử”, bây giờ thường nhận được các công việc làm tốt nhất theo một cách thật kỳ lạ.
Tuy vậy, nền kinh tế ngày càng tăng trưởng nhanh hơn. Và lời hứa hẹn của Đặng không những được hiện thực – mà còn vượt quá nữa: trong năm 2000, mỗi một người Trung Quốc trung bình thu nhập được gần 1000 dollar. Và mười năm sau đó nữa, trong đất nước này sẽ có 393 tỉ phú và 1,1 triệu triệu phú, người dân sẽ có thu nhập 4393 dollar trên đầu người.
Nhiều gấp 20 lần của năm 1979.
Anna Loll
Phan Ba dịch

Cơn bão trên Thiên An Môn



Trong tháng 4, vài trăm sinh viên tụ tập lại trên Thiên An Môn để tưởng niệm một quan chức được họ yêu mến. Rồi những tiếng gọi yêu cầu dân chủ đầu tiên bắt đầu vang lên. Giữa tháng 5 đã có hàng triệu người biểu tình. Ảnh: GEO Epoche.
Trong tháng 4, vài trăm sinh viên tụ tập lại trên Thiên An Môn để tưởng niệm một quan chức được họ yêu mến. Rồi những tiếng gọi yêu cầu dân chủ đầu tiên bắt đầu vang lên. Giữa tháng 5 đã có hàng triệu người biểu tình. Ảnh: GEO Epoche.
1989: Thảm sát Thiên An MônTrong những năm 1980, Trung Quốc giàu có hơn và tự do hơn trước đó. Nhưng cái giá phải trả rất cao: tham nhũng, lạm phát, bất công. Vì thế mà trong mùa Xuân 1989, một lần tụ tập tự phát của sinh viên trên Quảng trường Thiên An  Môn đã trở thành cuộc biểu tình lớn nhất mọi thời đại. Nhiều tuần liền, những người biểu tình thống trị đường phố của Bắc Kinh – cho tới khi những người thừa kế già nua của Mao gọi quân đội đến.Cay RadeMacher
Phan Ba dịch
Trong năm 1989 đánh dấu kỷ nguyên mới, trong năm mà nhiều quốc gia đã ra đời từ vùng Baltic cho tới Trung Á, hàng triệu người Trung Quốc cũng yêu cầu tự do. Họ tụ họp lại, được dẫn đầu bởi sinh viên, thành cuộc biểu tình nhiều quyền lực nhất của mọi thời đại, chiếm Quảng trường Thiên An Môn. Cho tới khi cuộc phản đối của họ chấm dứt trong một đêm của sự khủng bố.
Trong những giờ khắc của đêm 3 rạng sáng ngày 4 tháng 6 năm 1989, giới lãnh đạo quanh Đặng Tiểu Bình ra lệnh cho quân đội thực hiện một chiến dịch mà dưới cái tên “Vụ thảm sát trên Quảng trường Thiên An Môn” đã trở thành một dấu biểu hiện cho chính họ.
Nhưng dù sự kiện này có ảnh hưởng sâu rộng đến như thế, người ta biết rất ít về nó. Những người biểu tình muốn chính xác là những điều gì, đã làm những việc gì? Ai dẫn đầu hàng trăm ngàn người đó? Tại sao giới lãnh đạo nhà nước lại bỏ mặc thủ đô cho những người đó trong nhiều tuần liền? Nhưng rồi tại sao họ lại dùng vũ lực?
Và những gì đã thật sự xảy ra trong cái đêm tháng 6 đó?
KHÁC VỚI ĐÔNG ÂU, không có một cuộc khủng hoảng kinh tế thúc đẩy sự bất bình, còn ngược lại là đằng khác: từ những cuộc cải cách của thập niên 1980, tổng sản lượng quốc gia tăng gần 9% hàng năm.
Trong thời gian đó, lợi nhuận làm ra là khổng lồ – nhưng không được phân chia một cách công bằng. Ai có việc làm trong nền kinh tế mới thì kiếm được nhiều tiền. Ngược lại, nông dân, công dân trong các nhà máy quốc doanh và nhân viên nhà nước bị tụt lại phía sau. Hậu quả: giữa các thu nhập là một hố sâu ngày càng lớn ra, càng bị tăng cường bởi một tỷ lệ lạm phát – của năm 1988 – trên 20%
Cuối những năm 1980, có ba triệu người chạy trốn nông thôn về sống trên đường phố của các thành phố Trung Quốc, những người từ các vùng hẻo lánh đã kéo về các thành phố lớn với hy vọng có được việc làm. Một niềm hy vọng hảo huyền: có khoảng năm triệu người thất nghiệp trong Trung Quốc, thêm 20 triệu người nữa là công nhân trong các nhà máy quốc doanh với lương tối thiểu rất thấp, những người hầu như không phải làm gì.


Sinh viên là những người thua cuộc trong Trung Quốc hiện đại: sau khi tốt nghiệp, nhà nước vẫn phân chia cho họ những công việc không có thu nhập cao như trong thời của Mao. Vì thế mà những người biểu tình tích cực nhất đến từ 40 trường đại học của Bắc Kinh. Ảnh: GEO Epoche.
Sinh viên là những người thua cuộc trong Trung Quốc hiện đại: sau khi tốt nghiệp, nhà nước vẫn phân chia cho họ những công việc không có thu nhập cao như trong thời của Mao. Vì thế mà những người biểu tình tích cực nhất đến từ 40 trường đại học của Bắc Kinh. Ảnh: GEO Epoche.
Trong ĐCS, nạn tham nhũng là bệnh: quan chức nhập hàng hóa xa xỉ, hướng các đầu tư nhà  nước vào những nhà máy nhất định, giao chức vụ cho người thân quyến. Năm 1988 – theo một báo cáo của Tòa án Nhân dân Tối cao – có 55 710 vụ tội phạm kinh tế được xét xử, trung bình mỗi ngày bắt đầu 152 vụ.Đảng chia rẽ sâu sắc trong câu hỏi phải tiếp tục như thế nào. Người đàn ông nhiều quyền lực của Trung Quốc, Đặng Tiểu Bình, 84 tuổi, đã rút lui ra khỏi hầu hết các chức vụ, nhưng vẫn còn là Chủ tịch Quân ủy Trung ương – và qua đó kiểm soát quân đội và cảnh sát nhân dân vũ trang, một đơn vị bán quân sự để chống nổi loạn trong nước.Đặng là bố già không tranh cãi của Đảng. Thế nhưng ở dưới ông, cỗ máy của các quan chức đã chia ra thành hai phái kình địch với nhau, được đại diện bởi hai người che chở cho họ:
  • Thủ tướng Lý Bằng, 60 tuổi, kỹ sư điện, là một trong các quan chức cao cấp trẻ tuổi nhất: nhà chính trị gia năng động, lạnh lùng, không khoan nhượng này có thời gian được đào tạo trong nước Liên bang Xô viết của Stalin và kể từ đấy là người hâm mộ việc nhà nước kiểm soát nghiêm ngặt nền kinh tế.
  • Bí thư Đảng Triệu Tử Dương, 69 tuổi, luôn ăn mặc lịch sự, muốn đẩy lùi Đảng ra khỏi nền kinh tế; trong tương lai, các nhà quản lý nên lãnh đạo các nhà máy chứ không phải cán bộ Đảng.
Trong nửa sau của thập niên 1980, các phe phái này đấu tranh với nhau vì đường hướng cho lần trỗi dậy. Đặng thường quyết định bốc đồng, cổ vũ cả hai phe.
Tạm thời không có cải cách nữa? Với lời yêu cầu đấy, Lý Bằng có trước hết là quan chức cao cấp đứng về phía mình – các thống soái, bộ trưởng ngày xưa.
Hay các cải cách cần phải được tiến xa hơn nữa. Triệu Tử Dương đại diện cho đường hướng này, và ông ấy dựa vào các đồng minh ở ngoài ĐCS, như sinh viên. Nhưng đấy là những đồng minh nguy hiểm cho một quan chức Đảng.
2,7 triệu sinh viên của khoảng 1000 trường đại học là một đạo quân của những người chán nản. Vì sau khi học xong, nhà nước phân bổ cho mỗi một người tốt nghiệp một việc làm; rồi thầy giáo thu nhập được vào khoảng 1/3 của công nhân có tay nghề, giáo sư nhận được nhiều tiền như người soát vé. Tài xế taxi ngược lại có thể thu nhập gấp ba lần.
Không phải là điều đáng ngạc nhiên, khi trong giới trí thức có sự bất bình lớn với giới lãnh đạo Trung Quốc. Trong tháng 3 năm 1989, giới quan chức chóp bu biết được qua một lần thăm dò ý kiến, rằng đặc biệt là những người tốt nghiệp đại học ủng hộ cuộc cải cách. Kết luận của Đảng: “Đó là một bằng chứng cho sự mơ hồ về tư tưởng hệ ở các cấp bậc có học cao hơn.”
Sự “mơ hồ về tư tưởng hệ” này sẽ dần dần phát triển trở thành một sự thách thức quyền lực.
Việc đấy đã xảy ra như thế nào thì không thể tái diễn lại chính xác được, mặc dù có nhiều tường thuật của các nhân chứng và tài liệu. Có những lời tường thuật mâu thuẫn với nhau. Bản sao nhiều văn kiện nhạy cảm – biên bản những cuộc họp trong giới lãnh đạo Đảng hay tường thuật của những viên chỉ huy quân đội gửi cho cấp trên của họ – được một người cung cấp thông tin nặc danh mang lén sang Hoa Kỳ nhiều năm sau đó. Các văn kiện này có độ tin cậy cho tới đâu thì thường không thể kiểm chứng được.
Mặc dù vậy, chắc chắn một điều là các sự kiện bi thảm đó đã bắt đầu một cách bất ngờ: với cái chết vì bệnh tim của một quan chức cao cấp.


Những người biểu tình thành lập các liên hiệp sinh viên: những tổ chức mang tầm quan trọng, độc lập với Đảng trong lịch sử Trung Quốc. Các lãnh tụ của họ – như sinh viên Vương Đan trong hình – yêu cầu, ngoài những điều khác, các chính trị gia lãnh đạo hãy từ chức. Ảnh: GEO Epoche.
Những người biểu tình thành lập các liên hiệp sinh viên: những tổ chức mang tầm quan trọng, độc lập với Đảng trong lịch sử Trung Quốc. Các lãnh tụ của họ – như sinh viên Vương Đan trong hình – yêu cầu, ngoài những điều khác, các chính trị gia lãnh đạo hãy từ chức. Ảnh: GEO Epoche.
THỨ BẢY, 15 THÁNG 4. Hồ Điệu Bang qua đời ở tuổi 73 vì một cơn đau tim. Năm 1982, người được Đặng Tiểu Bình che chở được bầu lên làm Tổng Bí thư ĐCS, thế nhưng năm 1987 ông ấy mất chức vụ này – đối với những người bảo thủ trong ĐCS, các kế hoạch tự do hóa nền kinh tế của Hồ nguy hiểm tới mức ngay đến Đặng cũng không thể giữ được ông ấy.Ít ra thì Hồ cũng giữ được một chức vụ trong Bộ Chính trị, ủy ban cao nhất của Đảng và từ đấy trở thành thần tượng của tất cả những người Trung Quốc hy vọng vào một sự thay đổi về chính trị và kinh tế.Tất cả các quan chức cao cấp đều biết rõ, rằng họ phải tổ chức chôn cất long trọng chính trị gia Hồ nổi bật, nhưng cũng biết rằng tang lễ này có thể là dịp biểu tình của những người có thiện cảm với cải cách.
Lý Bằng cảnh báo: “Chúng ta phải giám sát các trường đại học. Sinh viên bao giờ cũng dễ bị  kích động nhất.”
Thứ hai, 17 tháng 4, vào buổi sáng. Khoảng 600 sinh viên và giảng viên của trường Đại học Chính trị và Luật tụ tập lại trên Quảng trường Thiên An Môn, đặt cờ và vòng hoa tưởng niệm Hồ Diệu Bang. Dần dần, nhiều nhóm thanh niên đổ đến thêm, cho tới 16 giờ là khoảng 10.000 sinh viên, cũng cả từ các đại học khác, thêm vào đó là người hiếu kỳ. Cảnh sát cố giải tán đám đông, hoài công. Một dấu hiệu báo động.
Vì Quảng trường Thiên An Môn, một quảng trường hình chữ nhật lớn 40 ha trong trung tâm của thành phố mười một triệu dân, là quảng trường lớn nhất thế giới, trái tim của Trung Quốc. Ở mặt Bắc, ẩn ở phía sau “Thiên An Môn”, là “Cấm Thành”, nơi các hoàng đế đã cai trị nhiều thế kỷ liền. Ở các cạnh dài có các đài tưởng niệm của quyền lực Cộng sản: bên phía Tây là “Đại hội đường Nhân dân”, nơi Quốc Hội họp, ở phía Đông là bảo tàng đồ sộ của Cách mạng Trung Quốc.
Ở giữa, một cột đá nhắc nhở đến những người “tử vì đạo” của ĐCS; người chết nổi tiếng nhất của họ nằm bất động cách đấy vài mét như xác chết sáp của sự vĩnh cửu: Mao Trạch Đông nằm trong một gian sảnh tưởng niệm.


Bắt đầu từ giữa tháng 5, hàng ngàn người bắt đầu tuyệt thực. Họ được sinh viên Y khoa chăm sóc trong lều trên Thiên An Môn. Ảnh: GEO Epoche.
Bắt đầu từ giữa tháng 5, hàng ngàn người bắt đầu tuyệt thực. Họ được sinh viên Y khoa chăm sóc trong lều trên Thiên An Môn. Ảnh: GEO Epoche.
Chính tại đài tưởng niệm này, cờ tang bay phất phới, vòng hoa chồng chất lên nhau. “Trái tim của ông ấy mắc bệnh, vì Trung Quốc mắc bệnh”, sinh viên đã làm thơ về Hồ Diệu Bang trước đó trên báo tường. Cuộc biểu tình này vô danh, tự phát. Không ai biết là ai đã viết tờ báo tường đầu tiên, những bài thơ đầu tiên – hay ai là người đầu tiên đã kêu gọi hãy đến Quảng trường Thiên An Môn. Mặc dù vậy, cơn bão phản đối làm rung chuyển Trung Quốc đã bắt đầu qua đó.18 tháng 4, 8 giờ. Khoảng 200 sinh viên biểu tình ngồi chận lối vào Đại hội đường Nhân dân. Họ muốn nói chuyện với thành viên chủ tịch đoàn Quốc Hội về các yêu cầu mà rõ ràng là đã xuất hiện trong vài giờ trước đó tại những cuộc gặp gỡ tự phát ở các trường đại học. Ngoài những việc khác, họ yêu cầu nhiều tiền hơn cho đào tạo (và qua đó là những điều kiện học tập tốt hơn), tự do xuất bản cũng như công bố thu nhập của cán bộ Đảng. Những người biểu tình hát quốc ca. Người sếp lễ tân của Quốc Hội nói chuyện với họ một chút, ngoài ra thì ít có gì xảy ra. Thời tiết mùa hè, bầu không khí trên Thiên An Môn yên bình.19 tháng 4, 23 giờ. Gần 300 sinh viên của Đại  học Bắc Kinh tụ tập lại trong khuôn viên của trường để thành lập “Liên hiệp Sinh viên Thống nhất”, tổ chức đối lập quan trọng đầu tiên từ nhiều thập niên.
Bảy người trẻ tuổi được bầu làm lãnh đạo, trong đó có Vương Đan, một sinh viên khoa Sử hai mươi tuổi.
20 tháng 4, buổi sáng. Một cộng tác viên khuyên Triệu Tử Dương hãy hủy bỏ chuyến đi sang Bắc Triều Tiên theo kế hoạch. Câu trả lời của Triệu: “Dời chuyến đi thăm chính thức sẽ khiến cho những người nước ngoài nào đó phỏng đoán rằng tình hình chính trị của chúng ta là bất ổn.” Ông ấy đi.
THỨ SÁU, 21 THÁNG 4. Ở trường Đại học Sư phạm, Ngô Nhĩ Khai Hy 21 tuổi công bố một thông cáo mà trong đó anh ấy yêu cầu, ngoài những điều khác, hãy tẩy chay không lên giảng đường.
Thứ bảy, 22 tháng 4, 3 giờ. Ngày lễ tang cho Hồ. Trước lúc bình minh, hơn 80000 sinh viên của 20 trường đại học bắt đầu diễu hành. Những “đội canh gác” riêng bao xung quanh các nhóm người diễu hành, bảo đảm trật tự. Họ đến Thiên An Môn mà không bị quấy rầy.
4 giờ 30. Chiếc xe buýt cảnh sát chạy đến, người sĩ quan bước xuống bị sinh viên bao quanh – vì ông ấy bảo đảm rằng hành động của họ được nhà nước nhân nhượng.
10 giờ 00. Bắt đầu nghi lễ trong Đại hội đường Nhân dân. Đặng Tiểu Bình và 4000 cán bộ cao cấp tiến hành nghi thức cúi chào ba lần trước Hồ Diệu Bang nằm trong quan tài.
Sau lễ, Triệu Tử Dương gặp Đặng Tiểu Bình. Tuy là ông muốn “kiên quyết ngăn chận” không cho sinh viên biểu tình, thế nhưng để làm điều đó thì “các biện pháp hợp pháp là đã đủ. Chủ yếu là phải thuyết phục và đối thoại trên nhiều bình diện”. Người bố già chỉ trả lời: “Tốt.”
Tức là Triệu Tử Dương vẫn còn nhận được sự ủng hộ của con người già nua đó. Trong thời gian của chuyến đi thăm Bắc Triều Tiên, việc bắt đầu vào sáng hôm sau đó, Thủ tướng Lý, nhân vật số hai trong hệ thống cấp bậc, sẽ tiếp nhận quyền điều khiển Đảng.


ĐCS chia rẽ. Ngày 19 tháng 5, sếp Đảng Triệu Tử Dương nói chuyện với các sinh viên mà ông ấy cho rằng một phần các yêu cầu của họ là có lý do. Nhưng nhiều quan chức lo sợ một cuộc Cách mạng Văn hóa lần thứ nhì (bên phải cạnh Triệu là Ôn Gia Bảo). Ảnh: GEO Epoche.
ĐCS chia rẽ. Ngày 19 tháng 5, sếp Đảng Triệu Tử Dương nói chuyện với các sinh viên mà ông ấy cho rằng một phần các yêu cầu của họ là có lý do. Nhưng nhiều quan chức lo sợ một cuộc Cách mạng Văn hóa lần thứ nhì (bên phải cạnh Triệu là Ôn Gia Bảo). Ảnh: GEO Epoche.
24 tháng 4. Tụ tập của khoảng 10000 sinh viên từ hầu hết các trường đại học Bắc Kinh. Vương Đan và những người diễn thuyết khác kêu gọi tẩy chay thính đường, dân chủ, tự do báo chí, điều tra các cảnh sát viên dùng bạo lực. Rồi một “Ủy ban Hành động của các trường đại học Bắc Kinh” được thành lập – một tổ chức xuất hiện mạnh mẽ hơn và tự tin hơn thấy rõ. Thuộc trong ủy ban lãnh đạo, ngoài những người khác, là Ngô Nhĩ Khai Hy và Vương Đan.Lần đầu tiên kể từ 1949, sự độc chiếm quyền lực của Đảng bị thách thức một cách nghiêm trọng. Nếu như cho phép, người sếp tuyên giáo của ĐCS lớn tiếng, “thì rồi chúng ta sẽ có hàng nghìn  Lech Walesa” – và qua đó nhắc đến người công nhân Ba Lan đã thành lập công đoàn tự do “Solidarnosc” đầu tiên của đất nước đấy và đã làm lung lay hệ thống xã hội chủ nghĩa ở đó.25 tháng 4, 9 giờ. Lý Bằng đến gặp Đặng Tiểu Bình để thúc giục ông ấy hành động cứng rắn hơn: “Mũi lao bây giờ hướng trực tiếp đến anh.”
Đặng trả lời: “Chúng ta phải hành động một cách rõ ràng trong lúc dập tắt cuộc bạo loạn này.”
Người bố già dùng từ “bạo loạn”. Một khái niệm nhắc nhở đến một chấn thương: đến cuộc Cách mạng Văn hóa, cái mà kể từ lúc đó bị nhiều cán bộ phỉ báng là “bạo loạn”, vì Đặng và nhiều quan chức cao cấp khác chỉ thoát chết trong đường tơ kẻ tóc vào thời đấy.
Kể từ lúc đấy, họ lo sợ rằng có một điều gì giống như thế sẽ lại xảy ra cho họ. Trong cuộc Cách mạng Văn hóa, đấy cũng chính là những đám học sinh sinh viên cuồng tín đe dọa họ đấy mà? Và bây giờ cũng lại sinh viên, lại khẩu hiệu, lại diễu hành.
Lý Bằng nhận ra rằng câu nói của Đặng cũng giống như một thứ vũ khí. “Chúng ta có cần phải cho viết một bài xã luận trong “Nhân dân Nhật Báo” để công bố lời nói của đồng chí Tiểu Bình hay không?”, ông ấy đưa đề nghị ra cho các quan chức. Không ai phản đối. Viên phó tuyên truyền bắt đầu tiến hành.
18 giờ 30. Đài phát thanh nhà nước đã phát đi bài xã luận dựa trên câu nói của Đặng, bài báo mà sẽ được phát hành vào ngày hôm sau. Sinh viên căm phẫn: phẫn nộ, có cảm giác như đã bị phản bội. Vì họ nhìn mình như là công dân, người yêu nước, nhiều người còn tự nhìn mình như là người cộng sản. Nhưng “bạo loạn” đã đóng dấu họ trở thành những người phạm tội.
Bất thình lình – và cả Đặng lẫn Lý Bằng đều không nhận ra điều đấy – không còn có khoảng trống cho thỏa hiệp nữa: Đảng bây giờ còn có thể chấp nhận những yêu cầu của sinh viên nữa hay không khi mà đã đóng dấu “kẻ bạo loạn” lên người họ?
Và ngược lại: Có phải là bây giờ sinh viên phải tiếp tục biểu tình cho tới khi tất cả các yêu cầu được chấp thuận hay không? Vì nếu họ rút lui trước đó thì họ phải lo ngại là bị an ninh quốc gia đàn áp như là những “kẻ bạo loạn”.


Hàng ngàn người ngủ qua đêm trên Thiên An Môn. Càng ngày các lãnh tụ sinh viên càng gặp khó khăn hơn trong tổ chức cung cấp cho họ – và thống nhất các mục đích kế tiếp của phong trào. Ảnh: GEO Epoche
Hàng ngàn người ngủ qua đêm trên Thiên An Môn. Càng ngày các lãnh tụ sinh viên càng gặp khó khăn hơn trong tổ chức cung cấp cho họ – và thống nhất các mục đích kế tiếp của phong trào. Ảnh: GEO Epoche

(Còn tiếp)
------------------------------------------------------------------

BÍ ẢN ĐƯỜNG ĐỜI 111/9 (Mao Trạch Đông)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét