Nhiều nhà khoa học cảm thấy chúng ta vẫn chưa hề nắm bắt được nguồn
gốc xuất xứ của ý thức. Nguồn: Sciepro/Science Photo Library.
Tôi không thể định nghĩa vấn đề thực sự ở đây là gì, bởi vậy tôi ngờ
rằng chẳng có vấn đề gì cả, nhưng tôi không chắc có đúng là không có vấn
đề hay không.”
Nhà vật lý người Mỹ Richard Feynmann đã nói như vậy về các vấn đề hóc
búa và những nghịch lý nổi tiếng trong cơ học lượng tử, lý thuyết mà các
nhà vật lý đã sử dụng để mô tả các vật thể nhỏ bé nhất trong Vũ trụ.
Nhưng cũng có thể đó là ông đang nói về ý thức, một vấn đề không kém
phần nan giải.
Một số nhà khoa học tin rằng chúng ta đã hiểu được ý thức là gì, hoặc
cũng có người cho rằng ý thức đơn thuần là một ảo tưởng. Nhưng rất nhiều
nhà khoa học cảm thấy chúng ta vẫn chưa hề nắm bắt được nguồn gốc xuất
xứ của ý thức.
Vấn đề nan giải bất tử về ý thức thậm chí đã khiến một số nhà nghiên cứu
dùng đến vật lý lượng tử để giải thích nó. Điều này hiển nhiên luôn vấp
phải hoài nghi: thật không khôn ngoan khi dùng bí ẩn này để lý giải một
bí ẩn khác. Tuy nhiên, những ý tưởng như vậy không hẳn là kỳ quặc, và
cũng không hề tùy hứng.
Các nhà vật lý vẫn thường cảm thấy khó chịu trước thực tế là yếu tố ý
thức xuất hiện trong lý thuyết lượng tử ngay từ thời kỳ đầu. Hơn nữa,
các máy tính lượng tử được dự đoán là có khả năng hoàn thành những việc
máy tính thông thường không thể, tương tự như cách trí não có thể làm
được những điều vượt xa khả năng của trí tuệ nhân tạo. “Ý thức lượng tử”
thường bị chế nhạo như một lời tán tỉnh huyễn hoặc, nhưng người ta vẫn
không thể bác bỏ nó.
Cơ học lượng tử là lý thuyết tốt nhất mà con người có khi mô tả thế giới
ở cấp độ cơ bản của nguyên tử và các hạt hạ nguyên tử. Điều đặc biệt bí
ẩn nổi tiếng nhất của nó là thực tế rằng kết quả của một thí nghiệm
lượng tử có thể thay đổi tùy thuộc vào việc chúng ta có đo đạc tính chất
nào đó của các hạt tham gia thí nghiệm hay không.
Hiện tượng này có tên gọi là “hiệu ứng người quan sát”, từng khiến các
nhà lý thuyết lượng tử tiên phong vô cùng bối rối. Có vẻ như nó phá hoại
giả định cơ sở ẩn sau tất cả các ngành khoa học: rằng có một thế giới
khách quan ngoài kia, không phụ thuộc vào chúng ta. Nếu sự vận hành của
thế giới tùy thuộc vào cách chúng ta quan sát nó, thì khái niệm “hiện
thực” thật ra đâu còn ý nghĩa gì?
Một số nhà nghiên cứu cảm thấy bị ép buộc phải kết luận rằng tính khách
quan thực ra chỉ là một ảo ảnh, rằng ý thức phải được coi như một tác
nhân tham gia chủ động trong lý thuyết lượng tử. Với số khác, điều này
chẳng có ý nghĩa gì cả. Chắc chắn, Albert Einstein đã từng phàn nàn
rằng, Mặt trăng đâu chỉ tồn tại khi chúng ta nhìn nó!
Ngày nay, một số nhà vật lý nghi ngờ rằng, dù yếu tố ý thức có ảnh hưởng
lên cơ học lượng tử hay không, có lẽ thực tế là ý thức tồn tại chính
nhờ cơ học lượng tử. Họ tin rằng lý thuyết lượng tử là điều không thể
thiếu để giải thích đầy đủ sự vận hành của trí não.
Có lẽ, cũng như các đối tượng lượng tử có thể đồng thời hiện hữu ở hai
vị trí, một trí não lượng tử cũng có thể giữ hai ý tưởng loại trừ lẫn
nhau tại cùng một thời điểm?
Sự xâm nhập nổi tiếng nhất của trí não vào cơ học lượng tử đến từ “thí
nghiệm hai khe hẹp”. Tưởng tượng rằng ta chiếu một tia sáng trước một
màn chứa hai khe hẹp song song. Một phần ánh sáng đi qua các khe, và
được hứng bởi một màn chắn phía sau.
Ánh sáng có thể được coi như một dạng sóng và khi các sóng hiện ra sau
hai khe chúng có thể giao thoa với nhau. Nếu các đỉnh sóng trùng nhau,
chúng sẽ cộng hưởng, còn nếu một đỉnh và một hõm trùng nhau thì chúng sẽ
triệt tiêu nhau. Sự giao thoa các sóng này được gọi là hiện tượng nhiễu
xạ, nó tạo ra một dãy luân phiên các dải sáng tối trên màn chắn sau khi
các sóng ánh sáng cộng hưởng và triệt tiêu nhau.
Thí nghiệm này được hiểu như một đặc tính của các sóng trong suốt 200 năm, trước khi lý thuyết lượng tử xuất hiện.
Thí nghiệm hai khe cũng có thể thực hiện được với các hạt lượng tử như
electron, loại hạt vi mô mang điện cấu thành nên nguyên tử. Những hạt
này cũng có thể hành xử như sóng, nghĩa là chúng cũng có thể trải qua sự
nhiễu xạ khi một dòng các hạt electron đi qua hai khe hẹp tạo ra giao
thoa.
Giả sử các hạt lượng tử được gửi qua các khe lần lượt mỗi hạt một lần,
rồi lần lượt đập vào màn chắn phía sau. Giờ đây rõ ràng chẳng có gì trên
đường đi của mỗi hạt để nó có thể giao thoa – nhưng quy luật các điểm
va chạm của mỗi hạt theo thời gian đều là các dải giao thoa.
Có vẻ như thí nghiệm này ngụ ý rằng mỗi hạt đều đồng thời đi qua cả hai
khe và tự giao thoa với chính nó. Sự kết hợp của việc “đi qua cả hai
đường ở cùng một thời điểm” này được gọi là một trạng thái chồng chập.
Nhưng điều tiếp theo sau đây mới thực sự kỳ dị.
Bằng cách đặt một máy dò bên trong hoặc ngay sau một khe, ta có thể phát
hiện ra hạt vi mô có đi qua nó hay không. Tuy nhiên, trong trường hợp
này, sự giao thoa biến mất. Đơn giản chỉ với việc quan sát đường đi của
hạt – ngay cả khi sự quan sát này không làm nhiễu chuyển động của hạt –
mà chúng ta đã thay đổi kết quả thí nghiệm.
Nhà vật lý Pascual Jordan, người đã làm việc cùng với bậc thầy lượng tử
Niels Bohr ở Copenhagen vào những năm 1920, đã kết luận rằng “sự quan
sát không chỉ làm nhiễu cái cần được đo, chúng còn định dạng ra nó nữa…
Chúng ta đã ép [một hạt lượng tử] phải mang một vị trí xác định.” Nói
cách khác, Jordan nói, “chính chúng ta đã định đoạt kết quả thí nghiệm.”
Nếu như vậy, hiện thực khách quan có vẻ như là điều không tồn tại.
Và thậm chí nó còn trở nên kỳ lạ hơn.
Thí nghiệm hai khe hẹp nổi tiếng. Nguồn: Victor de Schwanberg/Science Photo Library.
Nếu tự nhiên có vẻ như đang thay đổi hành vi của nó tùy thuộc vào việc
chúng ta có “quan sát” nó hay không, ta có thể lừa nó tiết lộ mục đích
của mình. Để làm vậy, ta có thể đo xem hạt đi qua khe nào trong hai khe,
nhưng chỉ khi nó đã đi qua hai khe ấy. Từ đó, nó hẳn đã phải “quyết
định” sẽ đi một hoặc cả hai đường.
Một thí nghiệm như vậy do nhà vật lý Mỹ John Wheeler đề xuất vào những
năm 1970, được gọi là “sự lựa chọn bị trì hoãn”, và được thực hiện trong
thập kỷ tiếp theo. Nó sử dụng các kỹ thuật thông minh để thực hiện
những phép đo trên quỹ đạo của các hạt lượng tử (thường là các hạt lượng
tử ánh sáng, còn gọi là photon) sau khi chúng đã chọn đi một đường hay
là một chồng chập của cả hai đường.
Thực tế hóa ra, cũng như Bohr đã tự tin tiên đoán, không có gì khác biệt
trong chuyện chúng ta có trì hoãn phép đo hay không. Cứ khi nào chúng
ta đo đường đi của photon trước khi nó chạm đến máy dò là tất cả hiện
tượng giao thoa biến mất.
Cứ như thể tự nhiên không chỉ “biết” khi bị chúng ta quan sát, mà còn ngay từ khi chúng ta dự định quan sát nữa.
Trong những thí nghiệm này, bất cứ khi nào thấy đường đi của một hạt
lượng tử, đám mây những đường đi của nó “chập lại” thành một trạng thái
đơn lẻ được xác định cụ thể. Hơn thế, thí nghiệm sự lựa chọn bị trì hoãn
ngụ ý rằng, chỉ riêng hành động quan sát, chứ không tính đến bất kỳ sự
gây nhiễu cụ thể nào gây ra bởi phép đo, có thể gây ra sự chập lại.
Nhưng phải chăng điều này có nghĩa rằng sự chập lại thực sự chỉ xảy ra
khi kết quả của một phép đo chạm vào nhận thức của chúng ta?
Khả năng này được nhà vật lý người Hungary Eugene Wigner thừa nhận vào
những năm 1930. “Nó có nghĩa là những ấn tượng đi vào nhận thức của tôi
sẽ ảnh hưởng tới việc mô tả lượng tử các đối tượng,” ông viết. “Thuyết
duy ngã có thể nhất quán một cách lôgic với cơ học lượng tử hiện tại.”
Wheeler thậm chí còn hình dung rằng sự hiện hữu sinh vật, vốn có khả
năng “nhận biết”, đã biến thứ trước đó là một chồng chập những quá khứ
lượng tử thành một lịch sử cụ thể. Theo nghĩa này, Wheeler nói, chúng ta
đã trở thành thành viên trong chu trình tiến hóa của Vũ trụ ngay từ
khởi đầu của nó. Nói như ông, chúng ta đang sống trong một “vũ trụ cho
phép sự tham gia của cá nhân”.
Ngày nay, các nhà vật lý vẫn chưa đồng thuận xem đâu là cách tốt nhất để
giải thích các thí nghiệm lượng tử này, và ở một mức độ nào đó tự bản
thân bạn (ở thời điểm hiện tại) có thể tùy chọn cho mình ý nghĩa của
chúng. Nhưng dù là cách này hay cách khác, thật khó để lờ đi ngụ ý rằng ý
thức và cơ học lượng tử có liên quan với nhau theo một cách nào đó.
Đến đầu những năm 1980, nhà vật lý người Anh Roger Penrose đã đề xuất
rằng mối liên quan này có thể theo một hướng khác. Dù nhận thức có ảnh
hưởng lên cơ học lượng tử hay không, ông nói, có lẽ cơ học lượng tử vẫn
luôn có vai trò trong ý thức.
Nếu, Penrose hỏi, có những cấu trúc kiểu phân tử trong trí não của chúng
ta, có khả năng thay đổi trạng thái của chúng để đáp lại một sự kiện
lượng tử đơn lẻ thì sao? Liệu những cấu trúc này có thể gắn với một
trạng thái chồng chập, cũng như các hạt trong thí nghiệm hai khe hẹp
không? Và liệu có thể rằng các trạng thái chồng chập lượng tử ấy cũng
xuất hiện trong những phương thức kích hoạt các nơron thông tin cho nhau
qua các tín hiệu điện hay không?
Có lẽ, Penrose nói, khả năng duy trì những trạng thái tinh thần có vẻ
như không tương thích của chúng ta, không phải là điều dị thường của ý
thức, mà là một hiệu ứng lượng tử thực sự.
Sau cùng, trí não con người có vẻ như có khả năng xử lý các quá trình ý
thức vượt xa khả năng của các máy tính kỹ thuật số. Có lẽ thậm chí chúng
ta có thể thực hiện những nhiệm vụ tính toán bất khả với các máy tính
thông thường, vốn sử dụng lôgic kỹ thuật số cổ điển.
Penrose đề xuất quan điểm về hiệu ứng lượng tử trong ý thức của con
người trong cuốn sách in năm 1989 của ông, The Emperor’s New Mind (Trí
não mới của Hoàng đế). Ý tưởng này được gọi là Orch-OR, viết tắt của
“orchestrated objective reduction” (sự giản lược khách quan hài hòa).
Orch-OR đã gợi đến đề xuất của Penrose rằng lực hấp dẫn là nguyên nhân
dẫn tới thực tế rằng các vật thể đời thường, như những chiếc ghế hay các
hành tinh, không thể hiện hiệu ứng lượng tử. Penrose tin rằng sự chồng
chập lượng tử trở nên bất khả với các đối tượng vô cùng lớn so với
nguyên tử, bởi hiệu ứng hấp dẫn của chúng sẽ ép buộc hai phiên bản không
tương thích của không-thời gian đồng thời tồn tại.
Penrose đã phát triển ý tưởng này xa hơn cùng với bác sĩ người Mỹ Stuart
Hameroff. Trong cuốn sách in năm 1994 Shadows of the Mind (Những cái
bóng của trí não), ông đề xuất rằng những cấu trúc tham gia vào nhận
thức lượng tử này có thể là các dải protein gọi là microtubule. Chúng
xuất hiện ở hầu khắp các tế bào của chúng ta, bao gồm cả các nơron trong
não bộ. Penrose và Hameroff lập luận rằng những rung động của
microtubule có thể gắn với một trạng thái chồng chập lượng tử.
Nhưng không có bằng chứng nào cho một niềm tin mơ hồ như vậy.
Người ta từng nghĩ rằng ý tưởng chồng chập lượng tử trong các
microtubule được ủng hộ bởi một số thí nghiệm thực hiện năm 2013, nhưng
thực tế những nghiên cứu này không hề đề cập đến các hiệu ứng lượng tử.
Bên cạnh đó, đa số các nhà nghiên cứu nghĩ rằng ý tưởng Orch-OR đã bị
một nghiên cứu công bố năm 2000 loại bỏ. Nhà vật lý Max Tegmark đã tính
toán rằng các trạng thái chồng chập lượng tử của những phân tử xuất hiện
trong tín hiệu nơron không thể tồn tại trong thậm chí một phần nhỏ của
thời gian cần thiết để tín hiệu ấy có thể được truyền đi.
Các hiệu ứng lượng tử như sự chồng chập rất dễ bị phá hủy bởi một quá
trình gọi là sự phân rã, có nguồn gốc từ những tương tác của một đối
tượng lượng tử với môi trường xung quanh nó, qua đó “tính lượng tử” mất
đi.
Sự phân rã được coi là vô cùng nhanh trong môi trường nóng ẩm như các tế bào sống.
Tín hiệu thần kinh là những xung điện, do các nguyên tử mang điện đi qua
vách tế bào thần kinh tạo ra. Nếu một trong những nguyên tử này đang ở
trong một trạng thái chồng chập và sau đó va chạm với một nơron, Tegmark
đã chỉ ra rằng sự chồng chập này có thể phân rã trong không tới một
phần tỉ tỉ của một giây. Cần có ít nhất mười nghìn tỉ lần thời gian như
vậy để một nơron phóng ra một tín hiệu.
Do đó, người ta hết sức hoài nghi các ý tưởng về những hiệu ứng lượng tử trong não.
Tuy nhiên, Penrose không bị những lập luận này lay chuyển và không thay
đổi giả thuyết Orch-OR. Và mặc cho dự đoán của Tegmark về sự phân rã vô
cùng nhanh trong các tế bào, các nhà nghiên cứu khác đã tìm thấy bằng
chứng cho những hiệu ứng lượng tử trong sinh vật. Một số người chỉ ra
rằng cơ học lượng tử chính là cơ chế giúp những con chim di cư sử dụng
hệ thống dẫn đường bằng từ, và giúp những cây xanh sử dụng ánh sáng để
tạo ra đường từ sự quang hợp.
Bên cạnh đó, một nghiên cứu công bố năm 2015, nhà vật lý Matthew Fisher
của Đại học California ở Santa Barbara lập luận rằng não bộ có thể chứa
những phân tử có khả năng duy trì những trạng thái chồng chập lượng tử
mạnh hơn. Ông tin rằng những hạt nhân nguyên tử phốt pho có thể có khả
năng này.
Các nguyên tử phốt pho tồn tại ở khắp mọi nơi trong tế bào sống. Chúng
thường ở dạng các ion phốt pho, trong đó một nguyên tử phốt pho kết hợp
với bốn nguyên tử ôxy.
Những ion như vậy, là đơn vị cơ bản của năng lượng trong tế bào. Hầu hết
năng lượng của tế bào đặt trong các phân tử gọi là ATP, vốn chứa một
dây ba nhóm phốt phát kết hợp thành một phân tử hữu cơ. Khi một trong ba
gốc phốt phát tách ra tự do, năng lượng được giải phóng để tế bào sử
dụng.
Các tế bào có cơ cấu phân tử để tập hợp các ion phốt phát thành nhóm và
tách chúng trở lại. Fisher đề xuất một lược đồ trong đó hai ion phốt
phát có thể được đặt trong một trạng thái chồng chập đặc biệt gọi là một
“trạng thái rối”.
Các hạt nhân phốt phát có một tính chất lượng tử gọi là spin, khiến
chúng giống như những nam châm với các cực chỉ theo những hướng cụ thể.
Trong một trạng thái rối, spin của một hạt nhân phốt pho phụ thuộc vào
spin của hạt nhân còn lại.
Nói cách khác, các trạng thái rối thực ra chính là những trạng thái chồng chập với nhiều hơn một hạt lượng tử.
Fisher nói rằng động thái mang tính cơ-lượng tử của những spin của các
hạt nhân này có thể cản trở tương đối hiệu quả sự phân rã theo thang
thời gian của con người. Ông đồng ý với Tegmark rằng những rung động
lượng tử, như những gì đã được Penrose và Hameroff đặt làm tiên đề, sẽ
có thể bị ảnh hưởng mạnh bởi môi trường xung quanh “và sẽ phân rã gần
như ngay lập tức”. Nhưng các spin của hạt nhân sẽ không tương tác đủ
mạnh với môi trường xung quanh chúng, và động thái lượng tử trong spin
của hạt nhân phốt pho sẽ phải được “bảo vệ” khỏi sự phân rã.
Điều này có thể xảy ra, Fisher nói, nếu các nguyên tử phốt pho kết hợp
chặt chẽ thành một đối tượng gọi là “các phân tử Posner”. Chúng là một
cụm sáu ion phốt phát, kết hợp với chín ion canxi. Có vài nguyên nhân
cho thấy, chúng có thể tồn tại trong các tế bào sống, mặc dù còn xa ta
mới có thể kết luận từ đây.
Trong các phân tử Posner, Fisher lập luận, spin của phốt pho có thể ngăn
trở sự phân rã trong một ngày hoặc hơn, thậm chí là trong các tế bào
sống. Điều này có nghĩa là chúng có thể ảnh hưởng lên cách thức hoạt
động của não bộ.
Ý tưởng ở đây là các phân tử Posner có thể bị các nơron nuốt mất. Một
khi đã vào bên trong, các phân tử Posner có thể kích hoạt việc bắn một
tín hiệu sang nơron khác, bằng cách rời ra và giải phóng các ion canxi
của chúng.
Do trạng thái rối lượng tử trong các phân tử Posner, hai tín hiệu như
vậy vướng vào nhau: chúng ta có thể coi đó như một dạng chồng chập lượng
tử của một “suy nghĩ”. “Nếu việc xử lý lượng tử với spin của các hạt
nhân thực tế cũng hiện hữu trong não bộ, nó sẽ là một hiện tượng cực kỳ
phổ biến, xảy ra hầu hết mọi lúc,” Fisher nói.
Ý tưởng này xuất hiện lần đầu tiên khi ông bắt đầu nghĩ về bệnh tâm thần.
“Đường vào ngành hóa sinh não bộ của tôi bắt đầu khi ba hay bốn năm
trước tôi quyết định khám phá xem làm thế nào mà các ion liti trên Trái
đất có thể có hiệu ứng kinh ngạc đến vậy trong việc điều trị các bệnh
thần kinh,” Fisher nói.
Các chất gây nghiện chứa liti được sử dụng rộng rãi để điều trị chứng
rối loạn lưỡng cực, nhưng không ai biết tác dụng của chúng đến từ đâu.
“Khi đó tôi chưa tìm kiếm một giải thích mang tính lượng tử,” Fisher
nói. Nhưng rồi ông lướt qua một báo cáo rằng các chất gây nghiện chứa
liti có những ảnh hưởng khác nhau lên hành vi của chuột, tùy thuộc vào
dạng – hay “đồng vị” – liti được sử dụng.
Đây thực sự là một vấn đề vô cùng nan giải, ngay từ nghĩa đen. Trong
ngôn ngữ hóa học, các đồng vị khác nhau có hoạt tính gần như đồng nhất,
vậy nên nếu liti có tác dụng như một chất gây nghiện nhân tạo thì tất cả
các đồng vị của nó cũng phải tạo hiệu ứng tương tự.
Nhưng Fisher nhận ra rằng hạt nhân của các nguyên tử với những đồng vị
khác nhau của liti có thể có spin khác nhau. Tính chất lượng tử này có
thể ảnh hưởng đến cách tác động của chất gây nghiện chứa liti. Chẳng
hạn, nếu liti thay thế cho canxi trong các phân tử Posner, spin của liti
có thể “cảm thấy” và ảnh hưởng lên những nguyên tử phốt pho, do đó giao
thoa với trạng thái rối của chúng.
Nhưng nếu đúng thì điều này sẽ giúp giải thích tại sao liti có thể điều trị chứng rối loạn lưỡng cực.
Ở điểm này, đề xuất của Fisher chỉ là một ý tưởng hấp dẫn. Nhưng có một
vài phương pháp mà tính chính xác của chúng có thể được kiểm định, bắt
đầu với ý tưởng spin của phốt pho trong các phân tử Posner có thể giữ
được sự gắn kết lượng tử trong quãng thời gian dài. Đó chính là điều
tiếp theo mà Fisher hướng tới.
Cũng như vậy, ông thận trọng với việc liên kết những ý tưởng ban đầu về
“ý thức lượng tử”, mà với ông thì cùng lắm chúng cũng chỉ mang tính ức
đoán.
Đa số các nhà vật lý không cảm thấy thực sự thoải mái với mối quan hệ có
thể có giữa lý thuyết lượng tử và ý thức, đa số hi vọng rằng hai lĩnh
vực tồn tại độc lập với nhau. Sau cùng, chúng ta còn chưa thực sự biết ý
thức là gì, càng chưa thể có một lý thuyết để mô tả nó. Mọi chuyện càng
trở nên huyền hoặc khi hiện nay mới có một nhóm nghiên cứu quy mô nhỏ,
tập trung vào khái niệm “ý thức lượng tử”, khẳng định rằng cơ học lượng
tử đưa ra cơ sở khả dĩ cho việc tìm hiểu những hiện tượng như thần giao
cách cảm và cách không di vật. Hệ quả là, các nhà vật lý thường cảm thấy
ngại ngùng khi đề cập đến quan hệ giữa “lượng tử” và “ý thức”.
Nhưng gạt những chuyện ấy qua một bên, thì ý tưởng về mối quan hệ này đã
có một lịch sử lâu dài, và một số nhà nghiên cứu tin rằng sẽ chẳng bao
giờ có thể bác bỏ nó.
Năm 2016, Adrian Kent ở Đại học Cambridge, Anh, một trong những “triết
gia lượng tử” đáng kính nhất, đã dự đoán rằng ý thức có thể ảnh hưởng
đến động thái của các hệ thống lượng tử theo những cách thức vi tế nhưng
có thể đo được.
Kent rất thận trọng với ý tưởng này. “Không có lý do bắt buộc nào về mặt
nguyên lý để tin rằng lý thuyết lượng tử là lựa chọn đúng đắn để thử
tạo lập một lý thuyết cho ý thức, hay có sự liên quan giữa các vấn đề
lượng tử với vấn đề về ý thức,” ông thừa nhận.
Duy Khánh dịch
Nguồn: http://www.bbc.com/earth/story/20170215-the-strange-link-between-the-human-mind-and-quantum-physics
Loài người về mặt bản chất là một giống loài hung dữ, tương tự như
hắc tinh tinh (Chimpanzees). Không phải tự dưng mà chúng ta có cùng một
tổ tiên. Vào những năm 1960 và 1970, có một niềm tin rất phổ biến trong
xã hội: Nếu cho con người một môi trường tốt để sống, thì sự hung hăng
và tội ác sẽ biến mất trong vòng một đêm. Những người nào có quan điểm
khác đi sẽ bị chửi rủa một cách công khai. Và bây giờ khi chúng ta có cơ
hội để xem xét nền tảng, lý lịch sinh học liên quan tới hành vi của con
người; chúng ta sẽ có thể trả lời cho câu hỏi tại sao có người lại hung
hăng hơn người kia và tại sao có một số người lại có khả năng phạm tội
cao hơn những người còn lại.
Các bé trai thường sẽ hung hăng hơn các bé gái. Đó là điều được
xác định từ trước khi chúng ta sinh ra. Hàm lượng testosterone cao được
sản sinh ra ở các bào thai nam trong quá trình mang thai của người mẹ
làm cho họ hung hăng hơn cho tới hết cuộc đời. Tương tự, những bé gái mà
có rối loạn bất thường ở tuyến thượng thận, mà từ đó gây ra việc sản
sinh nhiều testosterone trước khi ra đời cũng trở nên hung hăng hơn sau
này. Những loại thuốc kiểu nội tiết được uống khi mang thai cũng làm
tăng mức độ hung hăng của cả bé trai và bé gái. Một số trẻ em có tính
hung hăng rõ rệt hơn so với những em khác sẽ có khả năng phạm tội cao
hơn: 72% tội phạm vị thành niên hoặc trẻ tuổi ở các nhà tù Hà Lan bị kết
án vì tội gây hấn. Một số các rối loạn về tâm thần (psychiatric
disorders) được tình cờ phát hiện là có sự xuất hiện nhiều một cách đáng
ngạc nhiên trong nhóm tội phạm này – cụ thể là lên tới 90% trong số các
nam thanh niên phạm tội. Bên cạnh hành vi phản xã hội (antisocial
behavior), còn có sự liên kết chặt chẽ giữa những hành vi phạm tội và
việc lạm dụng các chất gây nghiện/chất kích thích, loạn thần
(psychoses), và rối loạn tăng động giảm chú ý (ADHD). Yếu tố di truyền
cũng gây ảnh hưởng, ví dụ như ở những trường hợp anh/chị em sinh đôi.
Các biến thể nhỏ trong ADN (mang tính đa hình) từ gen của các proteins
mà phá vỡ các dẫn truyền hóa học (chemical messengers) trong não có thể
gây ra sự hung hăng, chứng nghiện rượu hoặc hành vi tự sát một cách dã
man. Sự giảm thiểu một cách bất thường của các chất dẫn truyền thần kinh
(ví dụ: serotonin) có mối liên hệ tới tính hung hăng, bốc đồng và hành
vi phản xã hội (Lưu ý: một số trường hợp mất cân bằng serotonin khác lại
không gây ra các hành vi này nhưng lại gây ra trầm cảm hay rối loạn
hoảng sợ, vì vậy không phải cá thể nào mất cân bằng serotonin cũng gây ra các hành vi bạo lực).
Một số đàn ông Trung Quốc đã được phát hiện có một số biến thế nhỏ
trong gen dính mà lứu tới việc xử lý serotonin có liên quan tới các tội
ác bạo lực nghiêm trọng, rối loạn nhân cách phản xã hội, và chứng nghiện
rượu cùng các chất gây nghiện khác. Một vài biến thể khác trong cùng
một protein làm khả năng bị rối loạn nhân cách ranh giới (Borderline
Personality Disorders) mà cũng có thể được “đánh dấu” bởi các hành vi
gây hấn và bốc đồng.
Violent Lips by Ulta.com
Môi trường xung quanh bào thai cũng gây ảnh hưởng tới các xu hướng
sau này về sự hung hăng. Các thử nghiệm thiết lập phù hợp với các dịch
vụ y tế cho rằng những người đàn ông mà đã từng bị suy dinh dưỡng nghiêm
trọng khi còn trong bụng mẹ vào thời điểm bệnh dịch ở Hà Lan vào mùa
đông 1944-1945 thì có khả năng bị rối loạn nhân cách phản xã hội cao gấp
2.5 lần người bình thường. Vấn đề suy dinh dưỡng trong bụng mẹ vẫn xảy
ra cho tới tận bây giờ – ở xã hội hiện đại của chúng ta, khi nhau thai
bị trục trặc hoặc hoạt động không bình thường. Sự kết hợp giữa các yếu
tố về gen và việc hút thuốc khi đang mang thai của người mẹ có thể làm
tăng nguy cơ bị rối loạn tăng động giảm chú ý (ADHD) ở trẻ gấp 9 lần. Và
rối loạn tăng động giảm chú ý thì lại có mối liên hệ với sự hung hăng
và hành vi phạm tội ở vị thành niên cao hơn.
Thế nhưng không chỉ có những yếu tố từ trước khi sinh ra mới quyết
định mức độ hung hăng của chúng ta (*). Đây (*) không phải là một ý
tưởng mới, hay đơn giản hơn – nó đã từng bị coi là điều cấm kỵ khi niềm
tin vào xã hội và chính quyền đang ở mức cao nhất. Charles Darwin
(1809-1882) đã đi đến kết luận tương tự trong cuốn hồi ký của ông ấy,
rằng ông ấy “có khuynh hướng đồng ý với Francis Dalton (anh em họ của
Darwin) rằng giáo dục và môi trường chỉ tác động rất nhỏ lên tâm trí của
bất cứ ai, và hầu hết những phẩm chất của chúng ta đều là bẩm sinh,
trời phú”. Điều đó gây ra sự ảnh hưởng tới các bậc cha mẹ và hàng loạt
các tổ chức xã hội về “góc nhìn đúng” tại thời điểm đó (thế kỷ 19-20).
Dịch và chú thích: Khánh Linh
Nguồn: We are our brains – From the womb to Alzheimer’s (Dick Swaab)
Nhận xét: Sau khi dịch xong bài này, mình thấy
rằng có nhiều nguyên nhân gây ra các hành vi bạo lực ở vị thành niên,
một trong số đó là do di truyền và dinh dưỡng. Điều này có thể lý giải
(mặc dù sẽ dấy lên tranh cãi) rằng những nam nữ thanh niên ở các vùng
nghèo hơn sẽ có tỉ lệ phạm tội cao hơn so với những người ở thành thị.
Không phải do nghèo hay do giáo dục, mà do malnourishment (suy dinh
dưỡng), độc hại từ môi trường (các khu công nghiệp) và di truyền từ bố
hoặc mẹ nghiện rượu hoặc thuốc lá.
Kỳ 2: Tuổi trẻ và tính hung hăng
Chúng ta sinh ra với những khuynh hướng khác nhau đối với những hành
vi hung hăng phụ thuộc vào giới tính, nguồn gen của chúng ta hay lượng
dinh dưỡng chúng ta nhận được qua nhau thai, cũng như lượng tiêu thụ
nicotine, cồn, và các loại thuốc khác trong quá trình mang thai của
người mẹ. Khả năng xảy ra cho những hành vi phóng túng, chống xã hội
(antisocial), hung dữ hay côn đồ của chúng ta tăng lên trong quá
trình dậy thì bởi lượng hormone (nội tiết tố) Testosterone tăng. Và có
sự khác biệt đáng kể về giới đối với những hành vi trên. Đàn ông thường
có xu hướng giết người cao cấp 5 lần so với phụ nữ. Ngoài ra, những ca
giết người trong gia đình hoặc người quen trong nam giới chỉ chiếm 20%
tổng số ca, trong khi đó với phụ nữ lại là 60%. Độ tuổi mà đàn ông
thường gây ra các vụ giết người thường tuân theo các đường khuôn mẫu
(stereotypical curve). Vì như đã nói ở trên, lượng Testosterone tăng
trong giai đoạn dậy thì, do đó các vụ giết người cũng tăng lên như vậy.
Chúng đạt đỉnh điểm ở quanh độ tuổi từ 20-24 tuổi, và sau đó giảm mạnh ở
độ tuổi 50-54. Mẫu tuổi giống hệt nhau ở các vụ giết người đều được tìm
ra ở nhiều khu vực trên thế giới, từ Mỹ cho đến Anh Quốc, xứ Wales cho
tới Canada. Sự suy giảm các hành vi tội phạm trong số những người ở độ
tuổi ngoài 20 gần 30 không phản ánh sự suy giảm của Testosterone nhưng
lại được quy cho sự phát triển muộn của vỏ não trước trán, giúp hạn chế
sự bốc đồng và thúc đẩy các hành vi có đạo đức. Sẽ là logic nếu như chỉ
áp dụng khung luật hình sự của người lớn đối với những ai có cấu trúc
não bộ trưởng thành, ví dụ trong khoảng tuổi từ 23 đến 25 tuổi. Tuy
nhiên, các chính trị gia không xem xét và cũng không quan tâm đến mô
hình phát triển này; thay vào đó là họ tạo ra các phiếu bầu từ các cử
tri sợ hãi bằng cách làm điều ngược lại – hạ thấp độ tuổi chịu trách
nhiệm hình sự. Chức năng của phần vỏ não trước trán bị ức chế bởi cồn –
thứ có thể dẫn tới các hành vi bạo lực đột ngột, thiếu suy nghĩ chỉ sau
một đêm đi chơi hoặc uống rượu. Các tổn thương gây ra cho vùng não trước
trán trong những năm đầu tiên của cuộc đời có thể làm gián đoạn các
hành vi xã hội và đạo đức sau này của một người.
Testosterone kích thích sự hung hăng. Một số người đàn ông có lượng
testosterone cao hơn những người khác và do đó, khả năng trở nên hung dữ
là cao hơn. Những người bị đi tù bởi tội hiếp dâm và những hành vi phạm
tội mang tính bạo lực khác được tìm thấy có lượng testosterone cao hơn
những người phạm các tội khác (các tội phi-bạo lực), và mức testosterone
này cũng cao hơn ở những tù nhân, trong các doanh trại quân đội mà
có xu hướng của hành vi phản xã hội so với những người khác. Mối liên hệ
tương tự giữa việc có hàm lượng testosterone cao và và sự hung hăng
cũng được tìm thấy ở các tù nhân nữ. Sự hung hăng được thể hiện ở các
vận động viên khúc côn cầu khi đang trong trận đấu có thể dễ dàng ước
lượng được bằng số lần họ va chạm bằng gậy đánh khúc côn cầu với đối
thủ. Một mối liên hệ khác cũng được tìm thấy giữa sự hung hăng với lượng
testosterone trong máu, do vậy đã dấy lên mối lo ngại về việc sử dụng
một lượng lớn các chất Steroids trong giới thể thao (Steroid là một
loại hợp chất hữu cơ có chứa một sự sắp xếp đặc trưng của bốn vòng
cycloalkane được nối với nhau. Ví dụ về các steroid bao gồm các chất béo
ăn cholesterol, hormon sinh dục estradiol và testosterone, và thuốc
chống viêm dexamethasone – Wikipedia) được đồng hóa vào cơ thể để tăng lượng cơ – vì chất này cũng làm tăng hành vi hung hăng.
car-crime by pacepulse.blogspot.com
Các yếu tố môi trường cũng đóng vai trò tương tự. Những bộ phim bạo
lực và các trò chơi điện tử cũng có cho thấy gia tăng hành vi hung hăng.
Thú vị hơn nữa, hiệu ứng tương tự cũng được tạo ra khi đọc các đoạn
Thánh Kinh có nội dung liên quan tới sự trừng phạt bằng cách giết chóc
(nhưng chỉ đúng với những người theo tôn giáo đó). Hơn nữa, các hiệu ứng
thực thể ví dụ như nhiệt độ hoặc ánh sáng cũng ảnh hưởng rất lớn tới
các hành động của chúng ta. Tất cả chúng ta đều biết rằng những ngày hè
nóng kéo dài có thể châm ngòi cho những hành vi bạo lực. Điều này xuất
hiện trong nghiên cứu của Gabriel Schreiber về 2131 vụ xung đột trong
suốt 3500 năm trước đây, mà ông ấy đã tìm thấy như là một khuôn mẫu
(pattern) xảy ra đều đặn hàng năm. Trong hàng thế kỷ, những quyết định
khơi mào chiến tranh thường được tạo ra vào mùa hè ở cả bán cầu bắc và
nam, ngược lại ở các vùng xích đạo thì yếu tố về mùa lại không đóng vai
trò nhiều lắm.
via kidsintrouble.weebly.com
Những yếu tố khác ví dụ như thiếu hụt về mặt giáo dục và nền tảng kém
cũng hiển nhiên đóng góp cho hành vi hung hăng và côn đồ. Thật ra thì
chúng là những nhân tố duy nhất được nghiên cứu ở những thế hệ trước.
Khi nhà tội phạm học người Ý Cesare Lombroso (1835 – 1909) bị tố cáo về
việc dành quá ít sự chú tâm vào vào những nguyên nhân xã hội của tội ác,
ông ấy đã trả lời rằng điều này đã được hoàn thành bởi vô số các học
giả, và không quên thêm một câu “thật là vô nghĩa khi phải chứng minh
rằng mặt trời tỏa sáng”. Cho tới gần đây, Bộ An ninh và Tư pháp Hà Lan
mới thể hiện sự quan tâm tới các nhân tố ngoài xã hội khác làm gia tăng
hành vi hung hăng và khả năng phạm tội.
Dịch và chú thích: Khánh Linh
Kỳ 3: Các rối loạn về não bộ và nhà tù
Hệ thống tư pháp hình sự của chúng ta liệu có hay vi phạm nguyên tắc: luật hình sự không áp dụng cho những người có bệnh về não hay không?
Quy định về trách nhiệm hình sự này ra đời lần đầu tiên năm 1843, từ
sau vụ án Daniel M’Naghten giết chết thư ký của Thủ tướng Anh – cho dù
đã để lại cú sốc lớn đối với nước Anh thời Victoria – Daniel M’Naghten
đã không bị bỏ tù, mà được đưa vào một bệnh viên tâm thần. Theo “quy tắc M’Naghten” nêu trên, những phạm nhân có rối loạn tâm thần cần được phán xử là “có tội nhưng loạn thần”
và được cách ly trong một cơ sở bệnh viện được bảo vệ, mà không phải là
nhà tù. Tuy nhiên, mặc dù chúng ta thừa nhận trách nhiệm hình sự nêu
trên, nhưng trong nhà tù ngày nay, vẫn có rất nhiều người mắc bệnh tâm
thần hoặc các bệnh về thần kinh. Theo bác sĩ Theo Doreleijers, bác sĩ
tâm thần người Hà Lan làm việc cho tòa án, trong số những người trẻ tuổi
bị bỏ tù thì 90% có rối loạn tâm thần, và 30% trong số bị bắt giữ theo
lệnh nhập viện bị rối loạn tăng động giảm chú ý (ADHD).
Trong các trường hợp rối loạn não liên quan đến hành vi hung hăng,
người ta tìm thấy hai khu vực của não bộ có liên quan đặc biệt, một trong số đó là vùng não trước trán
(the prefrontal cortex – PFC – hình trên), ngăn chặn, ức chế hành vi
hung hăng và có ý nghĩa quyết định đối với các phán xét mang tính chất
đạo đức. Trẻ em có vùng não trước trán bị tổn thương thường gặp khó khăn
trong tiếp nhận các quy tắc đạo đức và chuẩn mực xã hội. Các cựu chiến
binh Việt Nam với các tổn thương vùng não trước trán trở nên hung hăng
và bạo lực. Nghiên cứu nhiều kẻ giết người bột phát cũng tìm thấy sự suy
giảm hoạt động ở vùng não trước trán của họ. Rối loạn não ảnh hưởng lên
vùng não trước trán này có nhiều liên quan với hành vi hung hăng. Một
nhà phẫu thuật khắc tên của mình trên bụng của bệnh nhân khi kết thúc ca
mổ, bị phát hiện mắc bệnh Pick, một dạng bệnh mất trí nhớ bắt đầu trong
vùng não trước trán . Bệnh nhân tâm thần phân liệt, đồng thời có giảm
hoạt động trong vùng não trước trán, thì có thể dẫn đến hành vi hung
hăng. John Hinckley Jr. trở nên nổi tiếng sau khi cố gắng thực hiện âm
mưu ám sát Tổng thống Reagan. (Viên đạn từ khẩu súng lục của anh ta đã
bắn vào nách trái, xuyên qua phổi trái, dừng lại một inch cách tim của
Tổng thống). Kết quả chụp cắt lớp não của Hinckley, mà cả thế giới đều
biết, cho thấy sự co ngót của bộ não, dấu hiệu điển hình của tâm thần
phân liệt. Tuy nhiên, anh ta vẫn còn ở trong tù cho đến nay. Năm 2003,
Mijailo Mijailovic, một bệnh nhân tâm thần phân liệt, sau khi ngừng uống
thuốc đã sát hại Bộ trưởng ngoại giao Thụy Điển, Anna Lindh. Mijailo
Mijailovic tin rằng Chúa Giêsu đã chọn anh ta cho mục đích này và nghe
tiếng nói bảo anh ta phạm tội giết người. Ngược lại, hành vi hung hăng
cũng có thể là triệu chứng đầu tiên của tâm thần phân liệt.
Prison brake by Polis Poliviou
Khu vực thứ hai là hạch hạnh nhân (Hình dưới), với
cấu trúc kích thước một hạt hạnh nhân, nằm sâu bên trong thùy thái
dương. Khi bạn cầm lên khối sệt của bộ não (ví dụ, trong một cuộc khám
nghiệm tử thi), bạn có thể cảm thấy, trong vòng cực của thùy thái dương,
một viên nhỏ rắn của hạch hạnh nhân. Sự kích thích của hạch hạnh nhân
gây ức chế hoặc gây ra hành vi hung hăng, tùy vị trí và cách thức thực
hiện. Tác dụng ức chế của nó đã được chứng minh một cách thuyết phục bởi
nhà tâm lý học Tây Ban Nha José Manuel Rodriguez Delgado, người đã làm
thí nghiệm ngăn được một con bò đực đang sung sức bằng cách kích thích
điện từ xa tới hạch hạnh nhân của nó. Nếu bạn phá hỏng cấu trúc hạch
hạnh nhân trên cả hai mặt, thì bạn có thể khiến một con chuột cống trở
nên hiền lành. Một số bệnh nhân tâm thần có nguyên nhân từ trục trặc của
hạch hạnh nhân. Điều này ngăn cản họ nhìn nhận biểu cảm trên khuôn mặt
các nạn nhân đang đau khổ và vì thế không cảm thấy sự đồng cảm với các
nạn nhân. Năm 1966, Charles Whitman đã giết vợ và mẹ của mình, sau đó,
anh ta còn bắn mười bốn người chết và gây thương tích cho ba mươi mốt
người khác tại Đại học Texas ở Austin. Các bác sĩ đã tìm thấy một khối u
ở thùy thái dương, khối u này đã gây áp lực lên hạch hạnh nhân của
Charles Whitman. Những câu chuyện nêu trên khiến chúng ta phải tự hỏi,
rằng liệu có bao nhiêu người, mang theo trong mình rối loạn não bộ, có
thể xả súng ở trường học hay bất cứ nơi khác. Ulrike Meinhof bắt đầu sự
nghiệp của mình là một nhà báo phản biện, sau này trở thành một trong
những kẻ sáng lập của Rote Armée Fraktion ở Đức, đây là nhóm khủng bố đã
giết chết ba mươi bốn người. Meinhof đã tự tử trong xà lim năm 1976.
Trước đó, các bác sĩ đã phát hiện ra bà ta mắc phải chứng phình động
mạch, có một chỗ phình thành mạch máu ở đáy não đã gây áp lực vào hạch
hạnh nhân. Điều này gây ra tổn thương lâu dài. Và khi bà ta được phẫu
thuật chữa bệnh phình mạch máu, thì cuộc giải phẫu thần kinh lại làm
thương tổn tới vùng não trước trán, vì vậy có tới hai nguyên nhân được
cho là dẫn tới hành vi hung hăng và phạm pháp của bà ta.
Còn có những rối loạn não bộ khác mà đôi khi được xem là nguyên nhân
gây nên sự hung hăng, đó là các rối loạn tâm trạng, rối loạn nhân cách
ranh giới, những khó khăn trong học tập, xuất huyết não, MS, bệnh
Parkinson và bệnh Huntington. Ngay cả bệnh nhân sa sút trí tuệ cũng có
thể trở nên hung hăng. Năm 2003, một phụ nữ Hà Lan tám mươi mốt tuổi
đang ở một nhà dưỡng lão, vì bệnh mất trí nhớ, sa sút trí tuệ tuổi già
của mình, đã sát hại bạn cùng phòng, tám mươi tuổi. Bà ta đã được tìm
thấy trong tâm trạng bối rối trong nhà vệ sinh và khi y tá đưa bà trở
lại giường mới phát hiện ra nạn nhân đã bị bà ta giết. Cũng may là bà ta
không bị khởi tố. Ở các nước “văn minh” như Hoa Kỳ và Nhật Bản, các
bệnh nhân tâm thần phân liệt gây ra những vụ giết người vẫn có thể bị
tuyên án tử hình. Rất hy vọng việc này sẽ không bị xảy ra ở Hà Lan.
Nhưng khó có thể biết, liệu hệ thống tư pháp hình sự của chúng ta có
thường xuyên vi phạm “quy tắc M’Naghten”?
Dịch và chú thích: Nguyễn Thị Phương Hoa
Nguồn: We are our brains – From the womb to Alzheimer’s (Dick Swaab)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét