Thứ Tư, 23 tháng 8, 2017

BÍ ẢN ĐƯỜNG ĐỜI 111/6 (Mao Trạch Đông)



(ĐC sưu tầm trên NET)

Mao Trạch Đông

 {{{caption}}} 

Đồ tể của nhân loại - Đứa con Quái thai của sự hôn phối giữa CM Vô sản và ĐT giai cấp

Câu nói để đời:  “Tần Thuỷ Hoàng là cái thá gì? Ông ta chỉ chặt đầu 460 nho sĩ. Chúng ta đã chặt đầu 460.000 trí thức.”. Và “Mọi người cộng sản phải nắm cho rõ chân lý này: ‘Quyền lực chính trị lớn mạnh được là bắt đầu từ họng súng".

--------------------------------------------

Mao Trạch Đông (1893 – 1976): Tần Thủy Hoàng của Thế Kỷ 20

 Mao-Zedong.jpg
Phạm Văn Tuấn
Mao Trạch Đông là nhà lãnh đạo xuất sắc của nước Trung Hoa Cộng Sản, đã tham dự rất nhiều trận mạc trong thời kỳ nội chiến, đã đưa Đảng Cộng Sản Trung Hoa tới thắng lợi và đẩy lui Quốc Dân Đảng cùng quân đội của Tướng Tưởng Giới Thạch (Jiang Jieshi) qua hòn đảo Đài Loan. Kể từ năm 1943, Mao Trạch Đông đã duy trì một địa vị độc tôn trong Bộ Chính Trị của Đảng Cộng Sản Trung Hoa và từ năm 1945, là nhân vật không thể bị thay thế trong Ủy Ban Trung Ương của đảng kể trên.
Vào ngày 01 tháng 10 năm 1949 tại Quảng Trường Thiên An Môn ở Bắc Kinh (Tiananmen), Mao Trạch Đông đã công bố cho toàn thế giới biết việc thành lập nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa (the People’s Republic of China) rồi kể từ năm đó, Mao không ngừng theo đuổi công việc cải tiến nước Trung Hoa thành một xứ sở hùng mạnh và thịnh vượng. Tuy nhiên, các phong trào hay chiến dịch cải cách của Mao, chẳng hạn như chiến dịch “Chống Cánh Hữu” (the Anti-Rightist Campaign), phong trào “Bước Đại Nhẩy Vọt” (the Great Leap Forward) (1958-59) và cuộc “Cách Mạng Văn Hóa” (the Cultural Revolution) (1966-69) đã đưa nước Trung Hoa vào các mê hồn trận của ý thức hệ, khiến cho đất nước này tụt hậu so với các nước đang phát triển.
Kể từ cuộc Chiến Tranh Nha Phiến (1839-42), Trung Hoa đã bị nhiều nước bên ngoài chèn ép. Mao Trạch Đông đã dùng nhiều chiến thuật và quân đội nhân dân trang bị ý thức hệ Cộng Sản để chiếm chính quyền, chấm dứt cảnh nghèo khó của người dân, xóa đi các tàn tích xâm lăng của phương tây. Vào lúc đầu của thời kỳ cách mạng, Liên Xô đã giúp đỡ rất tích cực Trung Hoa và đảng cộng sản của Mao, nhưng quan hệ này dần dần trở nên căng thẳng và bị chấm dứt trước khi xẩy ra cuộc Cách Mạng Văn Hóa.
Từ khi là Chủ Tịch của nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, Mao Trạch Đông đã được tôn thờ cá nhân, được gọi là “Vị Lãnh Tụ vĩ đại”, “Vị Cứu Rỗi của nước Trung Hoa” (Savior of China)… Sự tôn thờ vì sức mạnh ý thức hệ này còn lan ra bên ngoài đất nước khiến cho Trung Hoa mất đi nhiều cơ hội phát triển kinh tế.
1. Thuở thiếu thời
Mao Trạch Đông sinh ngày 26 tháng 12 năm 1893, trong một gia đình trung lưu, thuộc làng Thiểu Sơn (Shaoshan) huyện Tương Đoàn (Xiangtan) tỉnh Hồ Nam (Hunan). Ông Tổ của Mao đã từ tỉnh Giang Tây (Jiangxi) di cư tới đây trong thời đại nhà Minh, lập gia đình với người địa phương và làm nghề nông. Thân phụ của Mao là Mao Châu Thẩm, một nông dân có tính tình vừa tiết kiệm, vừa tham lam và bà mẹ tên là Vương Kim Muội, một người đàn bà siêng năng, hiểu biết và tốt bụng. Mao Trạch Đông là con trưởng, được cha cho đi học vì ông ta vốn mù chữ, cần tới người con biết viết để giúp đỡ ông khi ghi chép công việc thương mại.
Trong cuộc Cách Mạng Năm 1911, Mao đã tham gia vào quân đội địa phương của tỉnh Hồ Nam, nhưng vì không thích hợp với binh nghiệp, nên Mao đã trở về đi học tại Trường Sa (Changsha) và tốt nghiệp trường Sư Phạm vào năm 1918. Vào dịp Phong Trào Ngũ Tứ (the May Fourth Movement), Mao đã cùng với ông thầy dạy trung học khi trước là Dương Trường Tế (Yang Changji) đi lên Bắc Kinh. Sau đó, ông Dương trở thành một nhân viên trong Đại Học Bắc Kinh, nên đã giới thiệu Mao Trạch Đông làm nhân viên phụ tá thư viện của trường đại học, giúp việc Lý Đại Siêu (Li Dazhao) khi đó làm quản thủ thư viện. Vào thời gian này, Mao đã theo học tại trường đại học, được đọc nhiều bài văn của một số nhà trí thức danh tiếng như Trần Độc Tú (Chen Duxiu), Hồ Thích (Hu Shi) và Tiền Tuyển Đồng (Qian Xuantong)… Cũng tại thư viện của trường, Mao đã đọc nhiều sách viết ra do các nhà trí thức danh tiếng đương thời là Khang Hữu Vi (Kang Youwei) và Lương Khải Siêu (Liang Qichao), cũng như các bản dịch sang tiếng Hoa của các vị này từ các sách của J.J. Rousseau, Montesquieu…, tìm hiểu các tư tưởng của nhà cách mạng Tôn Dật Tiên (Sun Yatsen) và học thêm lý thuyết Cộng Sản. Vào thời gian này, Mao đã kết hôn với người bạn học là cô Dương Khai Tuệ (Yang Khaihui), con gái của giáo sư Dương Trường Tế kể trên, mặc dù Mao có một người vợ tại quê nhà và đã không chấp nhận người này vì trước kia khi mới 14 tuổi, bị cha bắt ép kết hôn với người vợ lớn hơn 4 tuổi đời.
Sau đó, Mao đã không đi du học tại nước Pháp vì nhà nghèo. Mao đã nói về sau rằng sở dĩ ông không muốn ra khỏi nước bởi vì tin tưởng rằng các vấn đề khó khăn của Trung Hoa phải được nghiên cứu và giải quyết bên trong nước này và Mao đã tìm hiểu giới nông dân là đa số quần chúng rồi bắt đầu một cuộc đời theo cách mạng cộng sản.
Vào ngày 23 tháng 7 năm 1921, khi ở lứa tuổi 27, Mao đã tham dự Hội Nghị Toàn Quốc của Đảng Cộng Sản họp tại thành phố Thượng Hải (Shanghai) và hai năm sau, trong kỳ họp thứ ba của Hội Nghị kể trên, Mao được bầu làm một trong năm ủy viên của Ủy Ban Trung Ương Đảng.
Mao đã sống tại thành phố Thượng Hải trong một thời gian bởi vì đảng Cộng Sản muốn cuộc cách mạng xẩy ra tại nơi này. Nhưng sau khi đảng này gặp nhiều khó khăn vì tổ chức các phong trào lao động và khi tiếp xúc với phe Trung Hoa Quốc Gia, Mao đã vỡ mộng về cuộc cách mạng, nên đã dời về quê nhà là Thiểu Sơn. Tại nơi này, Mao được báo tin về các cuộc nổi dậy vào năm 1925 tại Thượng Hải và Quảng Châu. Sau đó, Mao đi Quảng Đông là căn cứ của Quốc Dân Đảng, tham gia vào việc chuẩn bị kỳ họp lần thứ hai của Đại Hội Quốc Gia của Quốc Dân Đảng.
Vào đầu năm 1927, Mao trở lại Hồ Nam rồi trong một kỳ họp của đảng Cộng Sản, đã báo cáo về các khảo cứu các cuộc nổi dậy của giới nông dân, đây là bước khởi đầu và quyết định để Mao áp dụng các lý thuyết cách mạng của mình tại Trung Hoa.
2. Tư tưởng Cộng Sản
Tại Bắc Kinh và trước khi kết hôn với Dương Khai Tuệ, Mao đã đọc ba cuốn sách dẫn dắt tới niềm tin vào chủ nghĩa Mác Xít trong số này có cuốn Bản Tuyên Ngôn của đảng Cộng Sản (the Manisfesto of the Communist Party). Tuy nhiên, Mao dần dần trở nên con người Mác Xít sau khi đã đọc nhiều sách báo khác và vào năm 1920, Mao đã viết nhiều bài báo biện hộ cho quyền tự trị của tỉnh Hồ Nam bởi vì Mao tin tưởng rằng mỗi tỉnh tự trị sẽ làm cho nước Trung Hoa giàu có và hùng mạnh hơn. Cũng do đọc cuốn truyện Thủy Hử (Outlaws of the Marsh), một trong bốn tác phẩm lớn của văn chương cổ điển Trung Hoa, Mao đã đồng ý nên dùng cách mạng bạo lực phối hợp với các kinh nghiệm của cuộc Cách Mạng Nga, để giai cấp vô sản dưới sự chỉ đạo của đảng cộng sản, sẽ lật đổ chế độ phong kiến và đế quốc. Vào năm 1920, Mao đã giúp công vào việc nghiên cứu, tuyên truyền và tổ chức các cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân thành thị, nhưng vì giới này chỉ gồm một số nhỏ quần chúng, và các cuộc nổi dậy không võ trang không thể giải quyết được các vấn đề. Vì thế, Mao bắt đầu trông cậy vào giới nông dân, điều chỉnh lý thuyết và thay đổi cách áp dụng chiến lược, khiến cho họ trở thành các kẻ ủng hộ đường lối cách mạng bạo động, đây là sự khác biệt giữa Mao và các người Trung Hoa theo cộng sản trước kia và cùng thời.
3. Cách Mạng và Chiến Tranh
Vào năm 1927, Mao Trạch Đông là người chỉ huy cuộc Nổi Dậy Mùa Thu (the Autumn Harvest Uprising) tại Trường Sa, thuộc tỉnh Hồ Nam, nhưng cuộc bạo động này đã bị chính quyền địa phương dẹp tan và Mao cùng với một số đồng chí còn lại đã bỏ chạy qua khu miền núi Tỉnh Cương Sơn (Jinggang Mountains). Trên con đường rút lui, Mao đã tổ chức lại đám tàn quân, thiết lập cách tổ chức quân sự mới, chủ trương bình đẳng giữa sĩ quan và binh lính và đảng Cộng Sản có quyền tuyệt đối chỉ huy quân lực.
Tại Tỉnh Cương Sơn, Mao đã thuyết phục được hai tướng cướp địa phương là Viên Văn Tài và Vương Tá theo mình đồng thời toán quân của Chu Đức (Zhu De) cũng đến nơi này và sau đó, lập nên Đệ Tứ Quân Đoàn của Hồng Quân Trung Hoa (the Red Army) gồm các nông dân và công nhân.
Trong khoảng thời gian từ 1931 tới 1934, Mao giúp công vào việc thành lập khu vực Xô Viết của Trung Hoa và được bầu làm chủ tịch. Vào giai đoạn này, Mao kết hôn với Hà Tú Trân (He Zizhen) vì người vợ trước là Dương Khai Tuệ đã bị quân Quốc Dân Đảng bắt và giết vào năm 1930. Tại vùng Xô Viết bị bao vây này, Mao đã biến nơi đây thành nơi ẩn náu của các người cộng sản đã bỏ chạy khỏi thành phố, cùng với Chu Đức đào tạo một đạo quân tuy nhỏ nhưng tinh nhuệ, theo đuổi đường lối “du kích chiến” (youji zhan). Nhưng rồi do áp lực của nhóm đảng viên gọi là “28 người Bôn Xê Vích” (28 Bolsheviks) chủ trương theo đường lối cộng sản của Liên Xô, trong đó có cả Chu Ân Lai (Zhou Enlai), Mao Trạch Đông đã mất địa vị chỉ huy quan trọng.
Sau cuộc Bắc Phạt (the Northern Expedition), Tướng Tưởng Giới Thạch quyết định trừ bỏ các người cộng sản. Vào tháng 10 năm 1934, quân đội cộng sản bị bao vây và bị tấn công, phải bỏ chạy trong cuộc Vạn Lý Trường Chinh (the Long March), rút lui từ tỉnh Giang Tây (Jiangxi) ở phía đông nam, về tỉnh Thiểm Tây (Shaanxi) thuộc miền tây bắc của Trung Hoa. Trong cuộc hành trình dài 9,600 cây số này, Mao đã tỏ ra là nhà lãnh đạo rồi sau đó lại được Chu Ân Lai chạy theo, phụ giúp. Trong kỳ đại hội đảng Tuân Nghĩa (the Zunyi Conference) họp vào tháng 1 năm 1935 tại tỉnh Quý Châu, Mao Trạch Đông được bầu vào Ủy Ban Thường Trực của Bộ Chính Trị của đảng Cộng Sản Trung Hoa (the Standing Committee of the Politburo of the Communist Party of China).
Từ căn cứ Diên An (Yan’ an), Mao Trạch Đông đã chỉ huy cuộc kháng chiến của lực lượng cộng sản chống lại quân đội Nhật Bản trong cuộc chiến tranh Hoa Nhật lần thứ hai (1937-45) và trong thời gian này, đã củng cố địa vị của mình vào năm 1942 bằng cách phát động chiến dịch Chỉnh Phong (Cheng Feng) để loại ra các đối thủ của mình, trong số này có các đảng viên cộng sản như Vương Minh (Wang Ming), Vương Thế Duy (Wang Shiwei) và Đinh Ling (Ding Ling). Cũng tại Diên An, Mao đã ly dị Hà Tú Trân (He Zizhen) và kết hôn với một nữ diễn viên sân khấu tên là Lam Tần (Lan Ping), người mà sau này được biết bằng tên Giang Thanh (Jiang Qing).
Trong cuộc chiến tranh Hoa Nhật, các chiến lược của Mao là chống lại phe Quốc Dân Đảng của Tướng Tưởng Giới Thạch và chống Hoa Kỳ. Hoa Kỳ đã coi Tướng Tưởng là một đồng minh quan trọng, có thể đánh bại quân đội Nhật Bản, sớm làm kết thúc chiến tranh trong khi Tưởng Giới Thạch cũng tìm cách củng cố quân đội Quốc Dân Đảng để đối đầu với lực lượng cộng sản sau Thế Chiến Thứ Hai. Cả hai phe phái này đã bị chỉ trích là đều tìm cách đánh phá lẫn nhau hơn là chống lại quân xâm lăng Nhật. Về sau, nhà sử học Willy Lam đã xác nhận rằng trong cuộc chiến chống Nhật Bản: “Đa số các tổn thất do quân đội Quốc Dân Đảng phải chịu đựng, mà không phải là các sư đoàn cộng sản. Mao và các nhà lãnh đạo du kích khác đã quyết định vào thời gian đó rằng cần phải bảo toàn sức mạnh để dùng cho một cuộc “đấu tranh to lớn hơn” diễn ra tại khắp nơi trên miền đất Trung Hoa một khi quân đội của đế quốc Nhật Bản đã bị tiêu diệt bởi các lực lượng đồng minh do Hoa Kỳ chỉ huy”.
Sau khi Thế Chiến Thứ Hai kết thúc, Hoa Kỳ vẫn tiếp tục ủng hộ Tướng Tưởng Giới Thạch để ngăn chặn làn sóng cộng sản và từ nay bắt đầu cuộc nội chiến. Đồng thời, Liên Xô cũng tiếp tế một cách kín đáo cho Hồng Quân Trung Quốc, với tư cách là một nước lân bang mà không phải là một nước đồng minh, bởi vì Liên Xô muốn tránh đi các tranh chấp có thể xẩy ra với Hoa Kỳ.
Vào ngày 21 tháng 1 năm 1949, lực lượng quân sự Quốc Dân Đảng bị tổn thất nặng nề trước Hồng Quân của Mao Trạch Đông rồi vào sáng ngày 10 tháng 12 năm 1949, Hồng Quân đã bao vây Thành Đô (Chengdu) là căn cứ cuối cùng của lực lượng Quốc Dân Đảng. Tướng Tưởng Giới Thạch và toàn thể quân dân đi theo phải di tản qua hòn đảo Đài Loan vào cùng ngày này.
4. Lãnh đạo nước Trung Hoa
Nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa được thành lập vào ngày 01 tháng 10 năm 1949 sau 2 thập niên nội chiến và chiến tranh quốc tế. Mao Trạch Đông đã là Chủ Tịch (Chairman) của nước cộng hòa này từ năm 1954 tới năm 1959 và thường được gọi là Mao Chủ Tịch (Chairman Mao) hay Vị Lãnh Tụ Vĩ Đại Mao Chủ Tịch (the Great Leader Chairman Mao). Kể từ ngày thành lập kể trên, đảng Cộng Sản Trung Hoa đã kiểm soát toàn thể các phương tiện truyền thông và dùng các phương tiện này vào việc quảng cáo hình ảnh của Mao Chủ Tịch và của Đảng trong khi đó cũng bôi nhọ Tướng Tưởng Giới Thạch và các quốc gia khác như Hoa Kỳ và Nhật Bản.
Đảng Cộng Sản cũng hô hào người dân Trung Hoa phải dốc toàn lực để xây dựng và củng cố đất nước. Mỗi người dân đều được cấp phát một cuốn sách nhỏ gọi là “Mao Tuyển” (the Quotations from Chairman Mao Tse-Tung) để học thuộc lòng các lời dạy của Mao Chủ Tịch và để thảo luận tại trường học cũng như tại nơi làm việc, bởi vì đảng Cộng Sản Trung Hoa cho rằng cuốn sách nhỏ này chứa đựng sự thật không thể sai lầm.
Từ năm 1949, Mao Chủ Tịch cư ngụ trong khu vực Trung Nam Hải (Zhongnanhai), bên cạnh Cấm Thành (the Forbidden City) trong thành phố Bắc Kinh. Mao thường làm việc trên giường hay bên cạnh một hồ bơi xây bên trong nhà. Sau khi đã nắm quyền lực, Mao đã phát động chiến dịch tập thể hóa ruộng đất (collectivization) cho đến năm 1958, đất đai của các địa chủ và nông dân giàu có đều bị tịch thu và đảng Cộng Sản Trung Hoa bắt đầu kiểm soát giá cả, ấn định cách viết chữ “giản thể” (character simplification) để làm giảm đi nạn mù chữ. Các dự án kỹ nghệ hóa cũng được bắt đầu.
Ngoài các chương trình xóa bỏ tư hữu, thay đổi các kiến trúc hạ tầng, còn có Chiến Dịch Trăm Hoa Đua Nở (the Hundred Flowers Campaign) qua đó Mao đã cho người dân biết rằng họ có thể đóng góp các ý kiến khác nhau về cách quản trị đất nước Trung Hoa. Vì được tự do bày tỏ quan điểm, các nhà trí thức hay các đảng viên cấp tiến bắt đầu phản đối đảng Cộng Sản và đặt nhiều vấn đề với giai cấp lãnh đạo. Vào lúc đầu, công việc đóng góp ý kiến còn được dung thứ và ngay cả khuyến khích nhưng vài tháng sau, chính quyền cộng sản liền trở mặt và đã hành hạ 500,000 người, đây là các người dám chỉ trích hay dự tính phê bình Đảng. Nhiều nhà sử học cho rằng chiến dịch Chống Cánh Hữu (the Anti-Rightist Movement) này là một quỷ kế để nhổ tận gốc các tư tưởng “nguy hiểm”. Các học giả khác như Bác Sĩ Lý Chí Tuy (Dr. Li Zhisui) lại tin rằng vào lúc đầu, Mao muốn dùng cách này để làm lộ ra các đảng viên chống đối mình rồi khi phong trào chỉ trích lan rộng thêm, thì đây là phương pháp để nhận diện và rồi hành hạ các kẻ dám chống đối chính quyền.
5. Phong Trào “Bước Đại Nhẩy Vọt”
Vào tháng 1 năm 1958, Mao Trạch Đông phát động một kế hoạch 5 năm, được gọi là phong trào Bước Đại Nhẩy Vọt (the Great Leap Foward) . Đây là một kiểu mẫu phát triển kinh tế khác biệt với kiểu mẫu của Liên Xô chú trọng vào kỹ nghệ nặng mà một số đồng chí trong Đảng đã ủng hộ. Theo chương trình kinh tế này, các tập thể nông nghiệp nhỏ sẽ được tập hợp thành các công xã nhân dân (people’s communes) to lớn hơn nhiều, tại nơi đây các nông dân được lệnh phải làm việc trong các dự án hạ tầng cơ sở lớn lao và trong các nơi sản xuất sắt thép nhỏ. Tất cả sản xuất thực phẩm tư nhân đều bị cấm đoán, gia súc và dụng cụ nông nghiệp được tập trung và sở hữu tập thể.
Trong phong trào Bước Đại Nhẩy Vọt này, Mao và một số lãnh tụ đảng đã ra nhiều mệnh lệnh bổ túc về các kỹ thuật nông nghiệp mới, cho các công xã mới, nhưng các kỹ thuật kể trên chưa từng được thí nghiệm và không đủ tính khoa học, thêm vào, cách phân bố lao động cho sản xuất thép và các dự án hạ tầng cơ sở, cùng với hệ thống công xã mới mẻ, đã làm cho sản lượng thực phẩm giảm đi 15% vào năm 1959 và giảm 10% vào năm 1960. Để lấy lòng các cấp trên và để tránh bị thanh trừng vì không hoàn thành chỉ tiêu, các cán bộ cấp dưới đã ngụy tạo các thành quả tốt đẹp, thổi phồng sản lượng lúa gạo. Kết quả của cách báo cáo sai, sự ưu tiên dành nông phẩm cho xuất cảng hay khu vực thành thị, cộng với các vụ hạn hán tại một số địa phương, các trận ngập lụt tại các nơi khác, đã khiến cho nông dân của nhiều tỉnh đã không có đủ ăn, hàng chục triệu (tens of millions) người dân đã bị chết đói trong các năm từ 1959 tới năm 1962 và đây là nạn chết đói lớn nhất của nhân loại. Trong khi đó, dù cho định số thép sản xuất có gia tăng, nhưng loại sắt thép này đã trở thành vô dụng vì được nấu ra từ mọi loại sắt vụn tại các lò đúc trong sân sau nhà mà không theo kỹ thuật chế tạo đúng cách. Theo anh Trương Nhung Mỹ (Zhang Rongmei), một giáo viên thuộc miền quê Thượng Hải cho biết trong thời kỳ này: “chúng tôi gom tất cả các nồi niêu soong chảo hiện có trong nhà, và các người láng giềng cũng làm như vậy, chúng tôi bỏ tất cả vào ngọn lửa lớn để làm chảy ra thành kim loại”.
Phong trào Bước Đại Nhẩy Vọt đã là một “thảm họa” cho nước Trung Hoa, ngay cả với các đập nước, các kênh đào hay các dự án hạ tầng cơ sở mà hàng triệu nông dân và tù nhân đã phải làm việc cực khổ và một số đã phải bỏ mạng, tất cả đã trở thành vô dụng vì không được xây dựng theo đúng kỹ thuật do các kỹ sư có khả năng, bởi vì những người này đã bị Mao loại bỏ vì thiếu niềm tin ý thức hệ. Vào thời kỳ đó, một số nhà báo phương tây chỉ được tới thăm các công xã kiểu mẫu và đã bị lường gạt về thành tích của các vụ thu hoạch. Cho tới năm 1984, nhà nhân chủng học người Mỹ là Giáo Sư Judith Banister tin rằng số người Trung Hoa chết đói sau năm 1959 là 30 triệu, trong khi các nguồn tin khác lại cho các con số tử vong từ 20 tới 43 triệu.
Trong kỳ Đại Hội Đảng họp tại Lư Sơn (Lushan) trong các tháng 7 và 8 năm 1959, nhiều lãnh tụ đảng cho biết Bước Đại Nhẩy Vọt đã không thành công như dự trù. Mao đã đổ lỗi sự thất bại này là do Bộ Trưởng Quốc Phòng Bành Đức Hoài (Peng Dehuai) và các người dưới quyền của ông ta.
Về phương diện quốc tế, sau khi Stalin qua đời vào năm 1953 và Krushchev lên thay thế, nước Trung Hoa bị cô lập nhiều hơn vì sự dạn nứt Trung Xô (the Sino-Soviet split) với kết quả là Krushchev đã ra lệnh rút tất cả các chuyên viên kỹ thuật và các trợ giúp của Liên Xô ra khỏi Trung Quốc.
Sự dạn nứt này do các tranh chấp biên giới, do các tranh cãi về ai có quyền kiểm soát và đặt hướng đi cho tổ chức Cộng Sản Quốc Tế và các tranh chấp liên quan tới chính sách ngoại giao.
Từ lâu trước khi Mao Trạch Đông kiểm soát được đảng Cộng Sản Trung Hoa, Stalin đã tự coi mình là người kế thừa xứng đáng của Lenin với các tư tưởng Mác Xít chính thống và đúng đắn, và trong khi Stalin còn sống, Mao Trạch Đông không hề dám thách đố về chủ nghĩa với Stalin. Nhưng sau khi Stalin đã qua đời, Mao tin tưởng rằng quyền lãnh đạo đường lối Cộng Sản Quốc Tế sẽ truyền tới tay Mao, một phần vì thâm niên trong hệ thống đảng, một phần cũng do Mao tin rằng mình hiểu rõ hơn về ý thức hệ Mác Xít. Trong khi đó Krushchev đang đứng đầu một chính quyền có ưu thế hơn cả về chính trị lẫn quân sự, vì vậy đã có sự căng thẳng giữa hai nhân vật cấp cao này và sự liên lạc giữa Liên Xô và Trung Cộng bị suy giảm và tới lúc này, Trung Quốc phải đối đầu với các đe dọa mới từ Liên Xô tại phía bắc và phía tây. Trung Quốc còn bị bao vây một phần do các căn cứ quân sự của Hoa Kỳ đặt tại Nam Triều Tiên, Nhật Bản, Okinawa và Đài Loan.
Sau các thất bại của chương trình Bước Đại Nhẩy Vọt, Bộ Chính Trị của Trung Quốc họp vào tháng 1 năm 1961 và đã quyết định đặt Mao Trạch Đông vào vị trí phía sau, và các nhà lãnh đạo ôn hòa hơn như Lưu Thiếu Kỳ (Liu Shaoqi) và Đặng Tiểu Bình (Deng Xiaoping), sẽ cứu vãn nền kinh tế bằng cách giải tán các công xã nhân dân (people’s communes), cho phép nông dân có quyền kiểm soát một mảnh đất nhỏ, và nhà nước Trung Hoa đã nhập cảng ngũ cốc từ nước Canada và châu Úc để giảm bớt các ảnh hưởng xấu của nạn đói.
6. Cuộc Cách Mạng Văn Hóa
Sau các thất bại của phong trào Bước Đại Nhẩy Vọt khiến cho 30 triệu người dân chết đói và đây là nạn đói lớn lao nhất trong lịch sử của nhân loại, các nhân viên cao cấp của đảng Cộng Sản Trung Hoa, kể cả Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình, đã quyết định rằng Mao không được nắm thực quyền mà chỉ giữ vai trò tượng trưng và nghi lễ. Vào năm 1959, Lưu Thiếu Kỳ trở nên Chủ Tịch Nước còn Mao vẫn là Chủ Tịch (Chairman). Lưu Thiếu Kỳ và một số cộng sự viên bắt đầu cứu xét các hoàn cảnh của đất nước Trung Hoa một cách thực tế hơn và như vậy, đã loại bớt các lý tưởng mà Mao đã từng mong đợi.
Đứng trước viễn ảnh bị mất đi địa vị chính trị, Mao Trạch Đông đã phản ứng lại các công tác của Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình bằng cách phát động cuộc Cách Mạng Văn Hóa (the Cultural Revolution) vào năm 1966. Bằng cách này, Mao đã không dùng tới hệ thống đẳng cấp của đảng Cộng Sản, mà điều khiển trực tiếp các thanh niên trẻ dưới 20 tuổi, gọi là Hồng Vệ Binh (the Red Guards), để họ lập nên các tòa án xét xử riêng. Cuộc cách mạng này đã đưa tới hậu quả là Hồng Vệ Binh đã tàn phá phần lớn các di sản văn hóa của Trung Hoa, đã hành hạ và nhốt tù một số rất lớn các cựu đảng viên và các nhà trí thức, đồng thời tạo nên các tình trạng hỗn loạn về kinh tế và xã hội tại tất cả các thành phố và miền quê. Hàng triệu người đã bỏ mạng trong giai đoạn này.
Cũng vào giai đoạn Cách Mạng Văn Hóa, Mao đã chọn Lâm Bưu (Lin Biao) là người kế vị của mình. Người ta không biết rõ có phải Lâm Bưu dự trù một cuộc đảo chánh hay một kế hoạch ám sát Mao hay không, nhưng kết quả là Lâm Bưu bị chết trong một tai nạn máy bay rớt trên miền xa mạc của Mông Cổ. Tại Trung Hoa, người ta đã công bố rằng Lâm Bưu dự tính hạ bệ Mao, vì vậy sau khi chết, ông ta đã bị khai trừ khỏi đảng Cộng Sản Trung Hoa. Vào lúc này, Mao Trạch Đông không còn tin tưởng các nhân vật hàng đầu của đảng Cộng Sản.
Cuộc Cách Mạng Văn Hóa được Mao công bố chấm dứt vào năm 1969, nhưng các nhà sử học của Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa lại cho rằng cuộc cách mạng này kết thúc vào năm 1976 khi Mao qua đời.
Trong các năm cuối của cuộc đời, Mao gặp cảnh sức khỏe suy kém một phần do bệnh Parkinson, một phần do bệnh dây thần kinh (motor neurone disease) (theo như lời của Bác Sĩ riêng Lý Chí Tuy), cộng với bệnh tim và bệnh phổi do hút nhiều thuốc lá. Vào thời gian này, Mao đành thụ động, khiến cho các phe nhóm trong đảng Cộng Sản Trung Quốc tranh giành quyền lực.
7. Mao qua đời
Trong nhiều tháng trường trước khi chết, sức khỏe của Mao đã suy giảm và ông ta không thể xuất hiện trước công chúng. Mao qua đời, thọ 82 tuổi, vào ngày 9 tháng 9 năm 1976, lúc 10 phút quá nửa đêm, tại Bắc Kinh. Thi hài của Mao được quàn tại Đại Sảnh Đường Nhân Dân (the Great Hall of the People) và một buổi lễ Tưởng Niệm được tổ chức tại Quảng Trường Thiên An Môn vào ngày 18/ 9/1976. Về sau, xác của Mao được đặt trong “Lăng Mao Trạch Đông” (the Mausoleum of Mao Zedong) mặc dù trước kia, ông ta đã từng ước mong được hỏa táng theo như đề nghị vào tháng 11 năm 1956, là các nhà lãnh đạo trung ương sẽ được hỏa táng sau khi chết (the Proposal that all Central Leaders be Cremated after death).
Sau khi Mao qua đời và theo như nhiều người tiên đoán, đã có một cuộc tranh giành quyền lực giữa các phe nhóm để kiểm soát nước Trung Hoa. Một bên, được gọi là các kẻ khuynh tả (the leftists) do nhóm Tứ Nhân Bang (the Gang of Four = Bè Lũ Bốn Tên) đứng đầu là Giang Thanh, những người này muốn tiếp tục chính sách quần chúng cách mạng đấu tranh. Phía bên kia là các kẻ khuynh hữu (the rightists) gồm hai nhóm: nhóm thứ nhất do Hoa Quốc Phong (Hua Guofeng) chủ trương trở về phương pháp hoạch định trung ương (central planning) cùng với kiểu mẫu Liên Xô, nhóm thứ hai là các người cải tổ (reformers) do Đặng Tiểu Bình dẫn đầu, muốn canh tân nền kinh tế của Trung Hoa căn cứ vào các chính sách hướng về thị trường (market-oriented policies) và không đề cao các “ý thức hệ Mao-ít” khi quyết định các chính sách kinh tế và chính trị.
Cuối cùng, nhóm ôn hòa và Đặng Tiểu Bình đã thắng nhóm Tứ Nhân Bang và nhóm Hoa Quốc Phong trong một cuộc tranh quyền không đổ máu.
8. Tôn thờ Lãnh Tụ Mao
Nhiều người Trung Hoa cho rằng Mao Trạch Đông là một đại lãnh tụ trong phần trước nhưng hư hỏng vào phần sau của cuộc đời. Khi còn sống, Mao đã khiến cho mọi người dân phải tôn thờ mình. Mao đã tạo nên các hình ảnh chứng tỏ rằng mình là kẻ thù của các địa chủ, của các thương gia, kẻ thù của các đế quốc Hoa Kỳ và phương tây, đồng thời là bạn của các nông dân và công nhân nghèo khó. Khi sự tôn thờ lên tới điểm cao nhất, Mao được người dân ca tụng là Bậc Thầy vĩ đại, Vị Lãnh Tụ vĩ đại, Vị Chỉ Huy Tối Cao vĩ đại và Nhà Dìu Dắt vĩ đại (the Four Greats: Great Teacher, Great Leader, Great Supreme Commander, Great Helmsman).
Có người cho rằng sự tôn thờ cá nhân đi ngược với các ý tưởng căn bản của chủ nghĩa Mác Xít. Tuy thế, Stalin đã bắt đầu các công việc ca tụng chính mình và Lenin, mặc dù Lenin đã nói không muốn hậu thế dựng nên các đài kỷ niệm sau khi ông ta qua đời.
Nhân cuộc Đại Hội Đảng năm 1958 họp tại Thành Đô (Chengdu), Mao đã nói: “Có hai loại tôn thờ cá nhân. Một loại tôn thờ tốt, đó là đề cao các nhân vật như Marx, Engels, Lenin và Stalin, bởi vì họ đã cầm được chân lý trong tay (they hold the truth in their hands). Loại kia là tôn thờ xấu nghĩa là tôn thờ không phân tích và mù quáng”.
Vào năm 1962, Mao đề nghị Phong Trào Giáo Dục Xã Hội Chủ Nghĩa (the Socialist Education Movement) để bảo vệ giới nông dân khỏi bị chế độ phong kiến cám dỗ và tránh khỏi mầm mống của chế độ tư bản mà ông ta đã nhìn thấy hiện đang nhú lên tại các miền quê.
9. Đời tư của Mao Trạch Đông
Các đảng viên Cộng Sản cao cấp là những kẻ được hưởng rất nhiều đặc quyền, đặc lợi một cách rất kín đáo, nên đời tư của họ không được người dân biết đến. Họ thường là những con người “tàn bạo”, nhiều thủ đoạn, phạm nhiều tội lỗi, tham nhũng, dâm đãng và hư hỏng nhưng khéo léo che dấu bên ngoài và thường được mô tả sai sự thực. Mao Trạch Đông cũng không ra ngoài thông lệ này và các bí ẩn về đời sống của Mao đã được mô tả một phần do vị y sĩ riêng là Bác Sĩ Lý Chí Tuy.
Mao Trạch Đông đã bị mất anh em, vợ và các con vì chiến tranh và cách mạng, nên trở thành con người không xúc động trước các đau khổ của người khác. Hàng triệu người dân Trung Hoa chết đói sau phong trào Bước Đại Nhẩy Vọt, các thảm cảnh xẩy ra cho người yêu cũ, cho các đồng chí cũ như các trường hợp bi thương của Lưu Thiếu Kỳ, Bành Đức Hoài, Hạ Long… đã không hề làm Mao bận tâm, và các người phục vụ cho Mao đều bị quản chế, không cho tiếp xúc với bên ngoài để có thể tiết lộ đời tư của nhà độc tài dâm đãng này. Các cựu đồng chí hay nhân viên dưới quyền đã từng cộng tác hay phục vụ Mao khi không tuân hành mệnh lệnh, thường bị loại bỏ, nhốt tù, nhiều khi bị tiêu diệt do các chỉ thị gián tiếp của Mao và trong hoàn cảnh Mao cần đến tài năng của họ, vài người nếu còn sống sót có thể được gọi trở lại để phục vụ một cách lạnh lùng như đối với những người chưa hề quen biết. Mao đã từng đọc nhiều sách viết về các hoàng đế Trung Hoa khi trước, nên hiểu biết rõ các cách tàn bạo của cổ nhân.
Đối với quần chúng bên ngoài, Mao cho thấy mình sống rất giản dị nhưng thực ra, đã hưởng thụ rất nhiều xa hoa. Mao sống trong một tòa nhà có hồ bơi bên trong, trong khu vực Trung Nam Hải và không tiếp xúc với dân chúng đói khổ bên ngoài, những hiểu biết về dân tình là do các nhân viên tin cậy của Mao cung cấp sau khi họ đi điều tra sự việc. Sau khi nắm chức vụ tối cao, Mao chỉ ra ngoài bằng xe lửa riêng, chế tạo đặc biệt với các tiện nghi xa hoa tại Đông Đức. Trong thời kỳ nạn đói khủng khiếp, các cán bộ địa phương đã trồng gấp các ruộng lúa tươi tốt dọc theo hai bên đường xe lửa mà Mao sắp đi qua để xác nhận các thành quả rực rỡ do chính sách nông nghiệp khôn ngoan của vị Đại Lãnh Tụ. Cũng thế, nhiều tỉnh ủy địa phương cạnh tranh nhau trong việc xây dựng các tòa nhà riêng đầy đủ tiện nghi dành cho Mao Chủ Tịch, nhiều tòa nhà này chưa từng được Mao đến thăm.
Mao chỉ ngủ trên một chiếc giường gỗ to lớn, chế tạo đặc biệt, được chở đi bằng xe lửa khi Mao đi du hành, kê vào trong tòa nhà khi Mao nghỉ qua đêm và chuyên chở bằng máy bay tới Moscow khi Mao thăm viếng Liên Xô. Đồ ăn đăc biệt trồng trọt trong một nông trại gần Bắc Kinh cũng được chở tới nơi Mao đang đi công tác và các món ăn đều được nếm thử trước. Mao ưa thích ăn bánh bao (bao zi) và một loại cơm hấp, với nước tương (soy sauce).
Nhiều người tin rằng Mao sống một cuộc đời không có bạn bè, vì vậy đảng và các cơ quan chính trị thường hay cạnh tranh với nhau trong việc tuyển lựa các thiếu nữ trẻ đẹp, có nguồn gốc nông dân vô sản, có cơ thể khỏe mạnh để mua vui cho vị Đại Lãnh Tụ. Hàng tuần vào chiều ngày Thứ Tư, một buổi dạ vũ được tổ chức để Mao thoải mái và trong khung cảnh vui tươi này, Mao sẽ chọn một thiếu nữ để ngủ qua đêm bởi vì Mao là một con người “rất dâm đãng”. Ngoài ra còn có các cuộc tranh tài bóng bàn tổ chức bên trong tòa lâu đài để Mao giải trí.
Sức khỏe của Mao là một bí mật tuyệt đối nhưng cũng là điều mà mọi người muốn biết khi vị đại lãnh tụ này còn sống. Mao mắc bệnh lo lắng, trầm cảm, mất ngủ, thường xuyên phải dùng thuốc an thần với liều lượng cao và không hề quan tâm tới thời gian trong ngày, bởi thế các nhân viên thân cận của Mao phải túc trực vì có thể bị gọi trình diện bất cứ lúc nào khi cần, không cần biết ngày hay đêm. Mao hiếm khi tiếp đón các chính khách nước ngoài.
Mao không bao giờ tắm, thường lau mình bằng khăn tẩm nước nóng vì vậy, theo cuốn sách “Đời Tư của Mao Chủ Tịch” (the Private Life of Chairman Mao) của Bác Sĩ Lý Chí Tuy, Mao đã truyền bệnh “hoa liễu” cho hàng ngàn thiếu nữ, khiến cho các bác sĩ luôn luôn bận việc chữa trị cho họ. Trong cả đời, Mao không bao giờ chải răng mà ưa thích xúc miệng bằng nước trà xanh, khiến cho răng lợi bị nhiễm trùng. Sức khỏe suy yếu của Mao đã được dấu kín tối đa, lại được quảng cáo bằng các hình ảnh Mao bơi lội trên giòng sông Dương Tử.
10. Di Sản của Mao Trạch Đông
Nhiều người đã tranh luận về di sản của Mao Trạch Đông kể từ khi Mao qua đời vào năm 1976. Các người Hoa hiện đang sinh sống trên lục địa tiếp tục coi Mao là vị kiến trúc sư chính đã xây dựng lại nước Trung Hoa mới. Họ tin rằng Mao là một lãnh tu vĩ đại lúc ban đầu nhưng bị hư hỏng (corrupt) và đã phạm phải các lỗi lầm to lớn khi đã nắm quyền lực và nhất là về phần cuối đời. Theo ông Đặng Tiểu Bình, Mao đúng 70% và sai 30%, và phần đóng góp được coi là chính, phần lỗi lầm bị coi là phụ. Một số đảng viên cộng sản lại coi Mao chịu trách nhiệm về việc kéo nước Trung Hoa ra xa nước đồng minh cộng sản là Liên Xô trong khi các người chủ trương tách khỏi Liên Xô bị coi là theo con đường tư bản chủ nghĩa.
Có người chỉ trích Mao đã không khuyến khích việc kiểm soát sinh đẻ vì trong khoảng thời gian từ cuộc Chiến Tranh Nha Phiến tới cuộc Nội Chiến, dân số Trung Hoa là 400 triệu đã tăng lên 57% thành 700 triệu, và về sau dân số lên tới trên 1 tỉ 300 triệu người và các nhà lãnh đạo kế tiếp đã phải đưa ra chính sách “mỗi gia đình một con”. Nói chung, mọi người đều công nhận rằng phong trào “Bước Đại Nhẩy Vọt” và cuộc “Cách Mạng Văn Hóa” đã là các “thảm họa” chính do các chính sách của Mao.
Những người ủng hộ Mao cho rằng nhờ có Mao, nước Trung Hoa chấm dứt được “100 Năm Tủi Nhục” (a Century of Humiliation) khỏi các đế quốc tây phương và trở nên một cường quốc, và nền kinh tế và xã hội của nước Trung Hoa được phát triển. Họ cho rằng trước năm 1949, tỉ lệ mù chữ ở lục địa Trung Hoa là 80% và tuổi thọ ở mức 35 tuổi, nhưng sau khi Mao qua đời, tỉ lệ mù chữ còn 7% và người dân sống lâu trên 70 tuổi. Mao cũng được coi là có công trong việc cải tiến các quyền lợi của phụ nữ, bằng cách tiêu hủy nạn mãi dâm và nạn này đã quay trở lại khi ông Đặng Tiểu Binh và các nhà lãnh đạo Trung Quốc sau Mao, đã cho phép nền kinh tế được hưởng tự do. Thực ra, nạn mù chữ và tuổi thọ đều được cải tiến tại các quốc gia gần với Trung Hoa như Đài Loan, Ấn Độ, nhưng Trung Hoa tiến bộ hơn về nền y tế nông thôn và công việc phân phối thực phẩm công cộng.
Mao còn được coi là nhà chiến thuật và chính trị xuất sắc trong cuộc Nội Chiến và chiến tranh Triều Tiên, với các bài viết về quân sự đã ảnh hưởng lớn tới những người muốn tạo ra các cuộc nổi loạn cũng như tìm hiểu cách dẹp nổi loạn, và trái lại, ý thức hệ của Mao thì không thể áp dụng được vì thường gây ra “kinh hoàng”. Loại ý thức hệ này đã ảnh hưởng tới vài quốc gia cộng sản kể cả các phong trào nổi dậy của các quốc gia thuộc thế giới thứ ba, như miền Bắc Việt Nam, Căm Bốt (Khmer Đỏ), Peru (Con Đường Sáng = Shinning Path), Nepal với phong trào cách mạng, với kết quả là “cảnh tàn sát hàng triệu sinh mạng” như tại Căm Bốt, “cảnh giết hàng trăm ngàn nạn nhân vô tội” trong cuộc “đấu tố địa chủ” tại miền Bắc Việt Nam, và đặc biệt trong trận chiến tranh Triều Tiên (1950-1953), do sự chấp thuận của Mao, Bắc Hàn đã xâm lăng Nam Hàn gây ra cảnh đổ máu, với một triệu binh lính Trung Cộng chết vì chiến đấu cho Bắc Hàn, trong số này có cả người con trai của Mao là Mao Ngạn Anh (Mao Anying).
Từ khi Mao qua đời, nước Trung Hoa đã đi lệch khỏi “chủ nghĩa Mao Ít” (Maoism) và nhiều người cho rằng các cải tiến do ông Đặng Tiểu Bình là cách phản bội những di sản (legacies) của Mao Trạch Đông.
Một cuốn sách đã chỉ trích Mao Trạch Đông nặng nề, đó là cuốn “Mao: Câu Chuyện Chưa Biết” (Mao: the Unknown Story) do Jung Chang và Jon Halliday. Các tác giả này tin rằng Mao đã “chế tạo” ra các huyền thoại về quá khứ và tuổi trẻ của mình, làm tốt đẹp hình ảnh mình biến thành một “anh hùng của nhân dân” (people’s hero) trong khi thực sự, Mao là một con người “rất tàn ác”, và các biến cố của cuộc Vạn Lý Trường Chinh đều sai sự thực.
Qua thế kỷ 21, người dân Trung Hoa không còn phải học hỏi các lý thuyết cộng sản của Mao nữa. Trong lần kỷ niệm ngày Giỗ thứ 25 của Mao, chính quyền Trung Cộng chỉ nhắc nhở sơ sài đến “Mao Chủ Tịch”, trái hẳn với các cuộc mít tinh và hội thảo được tổ chức rầm rộ vào năm 1993 nhân 100 ngày Sinh của Mao.
Không giống như Nikita Khrushchev đã từng lên án “chế độ bạo tàn” của Joseph Stalin, chính quyền Trung Cộng không chính thức phủ nhận các chiến thuật của Mao.
Vào giữa thập niên 1990, hình chân dung của Mao Trạch Đông đã được in trên loại tiền “nhân dân tệ” (renminbi) nhưng vào ngày 13 tháng 3 năm 2006, tờ Nhân Dân Nhật Báo (the People’s Daily) tường thuật rằng đã có đề nghị thay thế chân dung của Mao trên loại tiền nhân dân tệ kể trên, bằng các chân dung của hai ông Tôn Dật Tiên và Đặng Tiểu Bình.

  ------------------------------------------------------

Giới thiệu tài liệu: Jonathan Spence, “Mao”, nhà xuất bản Claasen: tiểu sử được thuật lại một cách dễ hiểu và chứa đựng nhiều thông tin từ ngòi bút của một trong những nhà Hán học nổi tiếng nhất thời chúng ta. Hung Chang & Jon Halliday, “Mao”, Panteon: một trong những mô tả mới nhất, nhưng cũng bị tranh cãi nhiều nhất về con người của ông chủ tịch vĩ đại. Các tranh luận mà quyển sách này đã gây ra trên khắp thế giới được Gregor Benton & Lin Chun tập trung lại trong quyển “Was Mao Really a Monster? The academic response to Chang and Halliyday’s Mao: The Unknown Story”, Routledge. 
Phan Ba dịch từ chuyên san lịch sử “Trung Quốc của Mao Trạch Đông” do GEO Epoche xuất bản.Quyển sách bao gồm các chương sau đây:

  • Tên cướp đỏ: 1921 – 1931: lần thăng tiến của Mao
  • Con người chuyên quyền kia: Tưởng Giới Thạch
  • Cuộc chạy trốn qua núi: 1934 – 1935: “Vạn lý Trường chinh”
  • Địa ngục Nam Kinh: Cuộc thảm sát tại Nam Kinh
  • Trận đấu tay đôi vì Trung Quốc: 1946 – 1949: nội chiến
  • Khởi hành vào một kỷ nguyên mới: 1940 – 1954: cải tạo Xã hội Chủ nghĩa
  • Cuộc chiến chống Mỹ: 1950 – 1953: Chiến tranh Triều Tiên
  • Sự điên khùng của một bạo chúa: 1958 – 1961: “Đại nhảy vọt”
  • Cuộc chiến của những đứa trẻ con: 1966 – 1976: Cách mạng Văn hóa
  • Chuyến viếng thăm của kẻ thù giai cấp: Chuyến đi thăm Trung Quốc của Nixon
  • Cái chết của ông Hoàng đế Đỏ: 1976 Mao qua đời
  • Kế hoạch cho lần trỗi dậy: Trung Quốc mở cửa
  • Cơn bão trên Thiên An Môn: Thảm sát Thiên An Môn
--------------------------------------------------------------
(Tiếp theo)

Sự điên khùng của một bạo chúa

1958 – 1961: “Đại nhảy vọt”


Áp phích tuyên truyền luôn luôn nhắc nhở người dân về các mục tiêu của Đảng Cộng sản: cần phải xây dựng nhhững cơ xưởng, nhà máy lọc dầu và nhà máy hóa chất khổng lồ - để Trung Quốc tiến lên trở thành cường quốc công nghiệp. Ảnh: GEO Epoche.
Cộng sản: cần phải xây dựng nhhững cơ xưởng, nhà máy lọc dầu và nhà máy hóa chất khổng lồ – để Trung Quốc tiến lên trở thành cường quốc công nghiệp. Ảnh: GEO Epoche.
Gesa GottschalkPhan Ba dịch từ chuyên san lịch sử “Trung Quốc của Mao Trạch Đông” do GEO EPOCHE xuất bảnNăm 1957, Mao ra lệnh thực hiện thêm một cuộc cách mạng nữa: với một cuộc “Đại Nhảy Vọt”, nền nông nghiệp Trung Quốc cần phải được hiện đại hóa và xuất khẩu những lượng ngũ cốc khổng lồ trong thời gian ngắn nhất, nhà máy điện cần phải sản xuất điện và lò luyện kim cần phải nấu chảy thép ở khắp nơi để đất nước qua đó mà trở thành một quốc gia công nghiệp. Thế nhưng kết quả của sự hiện đại hóa bị cưỡng bức này thật là khủng khiếp. Thép được sản xuất ra thường là vô dụng, hồ nước thủy điện bị nghẽn bùn – và hàng triệu người đã trở thành nạn nhân của nạn đói hẳn là lớn nhất trong lịch sử.
Khi Xuân về ở Judong, những người đàn ông trẻ tuổi bỏ đi. Họ bỏ lại đồng ruộng mà trên đó không còn gì mọc nữa, vợ họ, những người không còn mang thai được nữa, con họ, những đứa bé sưng húp lên vì đói, cha mẹ họ, những người quá yếu ớt để mà có thể bỏ trốn. Nhà của họ bị phá tan, nồi nấu của họ bị tịch thu. Dân quân trong vùng săn lùng bất cứ người nào bỏ làng trốn đi, đánh chết hàng ngàn người.

Thế nhưng những người đàn ông từ Judong [Để ngăn ngừa sự đàn áp – ngay cả đến ngày nay – tên làng và tên những người dân của nó đã được thay đổi.] thoát được, họ chạy đến một tuyến đường sắt mà không bị phát hiện, leo lên một con tàu hỏa, bí mật đến được với những con tàu hỏa khác, đi cho đến tận rìa của Cao nguyên Tây Tạng, nơi vẫn còn có thức ăn.
Ở làng quê của họ, những người phụ nữ, trẻ em, người già và người bệnh đã chết trong vòng hai năm sau đó. Họ là nạn nhân của một nạn đói ngay cho Trung Quốc cũng là không tiền khoáng hậu – được gây ra bởi đảng đấy, cái đã nhận lấy quyền lực mười năm trước đó với lời hứa hẹn rằng không bao giờ sẽ có một người Trung Quốc nào chết đói nữa. Được gây ra trước hết là bởi người đứng đầu đảng này, người 16 tháng trước đó đã quyết định phóng đất nước này với một nổ lực vĩ đại vào thời Hiện đại công nghiệp – và đồng thời vào Chủ nghĩa Cộng sản.
Phân nửa người dân của Judong và có lẽ thêm 30 triệu người Trung Quốc nữa đã trả giá bằng mạng sống của mình cho giấc mơ “Đại Nhảy Vọt” này. [Con số nạn nhân dựa trên ước lượng. Nó dao động giữa 15 và 55 triệu. Ý kiến thống trị cho rằng đã có 30 triệu người chết.]

Cơ khí hóa nông nghiệp để tăng sản lượng lên gấp nhiều lần, ví dụ như qua tưới nước nhân tạo, mà nền tảng của nó cần phải được kiến tạo trong cuộc Đại Nhảy Vọt.
Cơ khí hóa nông nghiệp để tăng sản lượng lên gấp nhiều lần, ví dụ như qua tưới nước nhân tạo, mà nền tảng của nó cần phải được kiến tạo trong cuộc Đại Nhảy Vọt. Vì tám năm sau khi lên cầm quyền, Đảng Cộng sản vẫn còn chưa thể cung cấp lương thực thực phẩn một cách chắc chắn cho người dân Trung Quốc. Mao Trạch Đông lo sợ một cuộc khủng hoảng lớn, cái mà ông ấy cố ngăn chận bằng một trận đánh giải phóng. Ảnh: GEO Epoche.
JUDONG TRONG TỈNH HÀ NAM ở giữa Trung Quốc là một ngôi làng nghèo. Nó nằm giữa những cánh đồng trồng khoai lang và lúa mì trong vùng Tín Dương. Hồ nước lóng lánh giữa đồng ruộng.Người dân thường phải chịu đựng, họ quen với chiến tranh và thiên tai. Trong cuộc nội chiến, người nông dân đã đi xin ăn khắp nơi để mà sống qua ngày. Sau khi nắm lấy quyền lực năm 1949, Đảng đã gán cho họ một thể chế giai cấp tùy theo sở hữu của họ cho tới nay, cái đảo ngược trật tự của ngôi làng: “nông dân nghèo” được ưu đãi so với “đại địa chủ”. Ruộng đất của những người giàu nhất được chia lại, để cho tất cả nông dân có thể làm ruộng trên đất có giá trị khoảng như nhau.Thế nhưng năm 1957, tám năm sau khi thành lập nước Cộng hòa Nhân dân, ĐCS vẫn còn chưa thể lo được cái ăn cho tất cả mọi người Trung Quốc một cách đáng tin cậy. Cho tới năm 1952, tuy sản lượng thu hoạch có tăng lên – nhưng hầu như không đạt được đến mức của những năm 1930. Sau đấy, Đảng tập trung xây dựng công nghiệp.Thêm vào đó, từ năm 1955, người nông dân phải làm việc trong các hợp tác xã, những cái thường bao gồm nhiều làng và có cho tới 300 hộ dân. Bây giờ họ không còn được phép bán đất đai, trâu bò và dụng cụ nữa, họ không còn được phép quyết định gieo trồng những thứ gì. Họ là một phần của nền kinh tế kế hoạch.
Vẫn còn có lỗ hổng: tuy là người nông dân phải bán mọi ngũ cốc lại cho nhà nước, cái còn lại sau khi trừ đi một phần làm lương thực nhỏ, thức ăn cho gia súc và hạt giống như là “phần dư ra”. Vì giá mua của nhà nước thấp nên phần lớn họ đều giữ lại thu hoạch của họ hay mang chúng ra chợ ở địa phương, nơi có thể bán với giá cao hơn.
Nhưng khẩu phần lương thực, tiền ốm đau, tiền hưu thì chỉ có người dân thành phố là mới nhận được. Nông dân Trung Quốc, người đã đấu tranh cho ĐCS và đã hy sinh nhiều trong cuộc nội chiến, cảm thấy mình bị bỏ rơi. Báo chí tường thuật về sự bất bình ngày một tăng của con người ở nông thôn. Nông dân liên kết lại để ly khai ra khỏi hợp tác xã – về mặt chính thức, sự tham gia là tình nguyện.
Những người khác khinh bỉ các cán bộ trong làng của họ, còn tấn công cả gia đình của những người đó. Cả ở gần Judong, chỉ qua đêm là có những khẩu hiệu chống Cộng sản đã xuất hiện trên tường của một hợp tác xã. Nhiều người biểu quyết chống Cộng sản bằng chân: họ rời bỏ những nhóm sản xuất của họ và tìm những công việc được trả công tốt hơn ở nơi khác. Sản xuất nông nghiệp đình trệ: như sản lượng thu hoạch năm 1957 chỉ tăng có một phần trăm so với năm trước đó. Thêm vào đó, một cuộc điều tra dân số năm 1953 đã cho thấy rằng không phải tròn 475 triệu người như dự đoán mà là 582,6 triệu người dân sống ở nông thôn.
Trung Quốc hướng đến một cuộc khủng hoảng xã hội và kinh tế. Do vậy nên Mao cố thử nghiệm một bước đột phá và thề thốt với các đồng chí về một dự án mới: cuộc “Đại Nhảy Vọt”. Chỉ trong vòng ít năm, đất nước đang phát triển này cần phải trở thành một quốc gia công nghiệp; đồng thời, ông ấy muốn cải tạo triệt để nền nông nghiệp.
Người Trung Quốc cần phải tăng sản lượng trên đồng ruộng, sản xuất năng lượng với những đập nước, sản xuất thép, làm việc trong nhà máy, xây đường lộ và đường sắt.
Nếu như mỗi người đều sẵn sàng từ bỏ gia đình và cộng động làng quê và mang mình vào trong một đạo quân sản xuất mới, thì sau một vài năm khó nhọc sẽ thành hình không chỉ một Trung Quốc hùng mạnh về kinh tế mà cả một xã hội mới.
Con người Cộng sản sẽ sống ở trong đó, những người đặt cái “chúng ta” lên trên cái “tôi”: sẵn sàng hy sinh, không có yêu cầu, đầy nhiệt tình cách mạng.
Người chủ tịch muốn tái đánh thức dậy tinh thần hăng hái từ thời của cuộc nội chiến và chính bản thân mình cũng đầy sự thôi thúc muốn hành động, khi ông ấy tin rằng đã cảm nhận được sự nhiệt tình cách mạng mới. Nhưng dấy cũng là niềm tự hào quốc gia và lòng khao khát muốn được công nhận của Mao, những cái đã dẫn đến việc ông ấy quất roi đẩy dân tộc của ông ấy tiến lên phía trước một cách không thương xót.
Vì trong tháng 11 năm 1957 ông ấy đã đứng trên Lăng Lênin ở Moscow như là người khách danh dự và nhìn cuộc duyệt binh kỷ niệm lần thứ 40 Cách mạng Tháng Mười. Người Xô viết vừa mới đưa chiếc Sputnik thứ hai lên quỹ đạo. Sếp Đảng Cộng sản Khrushchev khoe khoang trước những người khách của ông ấy đến mức Mao cảm thấy bị thách thức và trả lời rằng. “Đồng chí Khrushchev nói với chúng tôi rằng 15 năm nữa Liên bang Xô viết sẽ vượt qua Hoa Kỳ. Tôi có thể nói với các bạn rằng rất có thể là 15 năm nữa chúng tôi sẽ đuổi kịp hay vượt qua Liên hiệp Anh.”

Chiến dịch công nghiệp hóa của Đảng Cộng sản cần hàng triệu sức lao động, những cái phải được thay thế. Vì thế mà bây giờ phụ nữ phải tiếp nhận công việc đồng áng và chẳng bao lâu sau đó cả những công việc mới như thợ cơ khí hay nhân viên đường sắt. Ảnh: GEO Epoche.
Chiến dịch công nghiệp hóa của Đảng Cộng sản cần hàng triệu sức lao động, những cái phải được thay thế. Vì thế mà bây giờ phụ nữ phải tiếp nhận công việc đồng áng và chẳng bao lâu sau đó cả những công việc mới như thợ cơ khí hay nhân viên đường sắt. Ảnh: GEO Epoche.
NHỮNG NGƯỜI NÔNG DÂN ở Judong biết về dự định to lớn của Mao vài tuần sau đó. Vài người đàn ông được cử đi tham gia xây dựng một con đập nước. Khắp nơi trong Trung Quốc, các dự án xây dựng khổng lồ bắt đầu, những cái cần phải cải thiện việc tưới nước cho đồng ruộng hay cung cấp điện cho công nghiệp. Và Hà Nam đi đầu: chỉ riêng trong vùng giáp ranh với tỉnh An Huy láng giềng đã có hơn 100 con đập và hồ nước được xây cho tới năm 1959.Người ta làm việc gần như chỉ với đôi bàn tay không. Chính phủ bù đắp sự thiếu thốn máy ủi đất và máy đào với lượng người khổng lồ. Ngay trong tháng 1, cứ sáu người Trung Quốc là có một người đào kênh bằng mai và xẻng, đổ đất xây đập, gánh đất trong giỏ đi nơi khác, với đòn gánh bằng tre, nhiều giờ liền, ngày này qua ngày khác.Đạo quân lao động này đã dịch chuyển hơn 580 triệu mét khối đất trong hai tháng đầu tiên của chiến dịch tưới nước. Các cán bộ ở địa phương chú tâm đến trước hết là những con số hoành tráng: các chính quyền tỉnh cố vượt qua nhau với các báo cáo thành công về Bắc Kinh – vì một tỉnh có thể dịch chuyển càng nhiều tấn đất thì ảnh hưởng chính trị của họ càng lớn.
Rằng các con số đó không hề có tương quan nào đến lợi ích thật sự, việc này có thể nhìn thấy tại một dự án ở Cam Túc trong miền Tây Bắc Trung Quốc: 160.000 người làm việc ở đó, để chỉnh dòng cho con sông Tao chảy qua núi cao và mang nước uống lại cho các ngôi làng ở cách xa lòng sông của nó. Thế nhưng luôn xảy ra đất lở, lòng sông bị nghẽn bùn. Năm 1962 người ta đã phải hủy bỏ dự án, không có đến một hecta duy nhất được tưới nước.
Trong sự hấp tấp của họ, khởi động càng nhiều dự án càng tốt, càng nhiều dự án lớn càng tốt, các quan chức đã cho xây đập ở những nơi sai lầm, không chú ý đến các kế hoạch của kỹ sư, làm ngơ trước những sự tùy tiện.
Một con đập cao hơn 100 mét, được hàng chục ngàn người nông dân xây dựng ở Hoàng Hà, cái có nhiệm vụ làm sạch trầm tích khỏi nước, thay vì vậy đã dẫn đến việc nó càng bị bùn lầy nhiều hơn nữa. Thêm vào đó, bây giờ nạn lụt đe dọa thành phố Tây An: chỉ khi mực nước của hồ được hạ thấp xuống thì mới có thể ngăn chận được điều đó, thế nhưng qua đấy thì các tuốc bin lại trở nên vô dụng; người ta lại tháo gỡ chúng ra.
Trong khi những người đàn ông phải làm việc ở các công trường xây dựng cách xa làng quê của họ thì những người phụ nữ phải làm đồng. Các cán bộ của ĐCS tìm cách giải phóng phụ nữ nông dân ra khỏi những nhiệm vụ của họ, nấu ăn và chăm sóc người già cũng như nuôi dưỡng trẻ con. Và họ tìm thấy nó: ở tỉnh Hà Nam
Cách Judong không xa lắm, trong tháng 4 năm 1958 quan chức Đảng đã lập từ 27 hợp tác xã và bốn thành phố nhỏ thành một nhóm được biết đến dưới tên Công xã Nhân dân “Sputnik”. Tròn 10.000 hộ dân được gộp lại thành một đơn vị ở đó. Chẳng bao lâu sao đó, cái vào lúc ban đầu không khác một hợp tác xã khổng lồ là bao đã trở thành một dự án cực đoan hơn rất nhiều: sở hữu và tiền lương bị bãi bỏ, lương thực và quần áo được phân phát không mất tiền, những người trong công xã cùng nhau làm việc và ăn uống.

Lò luyện thép đơn giản trong làng ở khắp nơi có nhiệm vụ cung cấp thép, ví dụ như để đóng tàu. Để đạt được các chỉ tiêu hoàn toàn quá mức của chính phủ, ngay đến dụng cụ nông nghiệp đang hết sức cần thiết cũng bị mang đi nấu chảy. Ảnh: GEO Epoche
Lò luyện thép đơn giản trong làng ở khắp nơi có nhiệm vụ cung cấp thép, ví dụ như để đóng tàu. Để đạt được các chỉ tiêu hoàn toàn quá mức của chính phủ, ngay đến dụng cụ nông nghiệp đang hết sức cần thiết cũng bị mang đi nấu chảy. Ảnh: GEO Epoche
Giới lãnh đạo ở Bắc Kinh hân hoan vui mừng và mở rộng hợp tác xã trên toàn Trung Quốc. 740.000 hợp tác xã trong nước được liên kết thành 26.000 công xã. Một vài người trong số họ đảm nhận việc chăm sóc cho người già và trẻ con. Người nông dân phải giao ra trâu bò của họ và nồi nấu ăn của họ. Người trưởng nhóm sản xuất của họ quy định thời gian của họ, phân công việc làm cho họ. Họ nhận được điểm cho việc làm, được tính toán theo một hệ thống phức tạp: loại công việc, giới tính và tuổi của người lao động, năng suất trung bình của nhóm sản xuất của họ.Trên lý thuyết, người nông dân có thể mua ngũ cốc từ nhà nước với những điểm đấy. Nhưng trong thực tế, giá trị của những điểm lao động này chẳng bao lâu sau đó đã giảm đi nhanh chóng, và ngũ cốc không còn được chào bán ở nông thôn nữa.Và vào lúc ban đầu thì cũng không có lý do để mua thực phẩm. Làng nào cũng có một cái bếp nhân dân mà người nông dân nhận được thức ăn không mất tiền ở đó. Các quan chức dường như muốn hiện thực thật sự viễn tưởng huyền thoại của Karl Marx “Làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu”. Cả ở Judong cũng bắt đầu “thời của những cái tô to”, như người dân làng gọi.
Wu Tiancheng 23 tuổi tiếp nhận quyền lãnh đạo bếp nấu nhân dân trong làng. Các gia đình vào nhà ăn để ăn, lúc nào cũng tám người ngồi quanh một bàn; ngay sau khi những cái tô to được đặt vào giữa. Những người nông dân được phép chọn từ nhiều món ăn, ai cũng có thể ăn nhiều như người đó muốn.
Đó là thời gian của sự dư thừa, như họ chưa từng trải qua trong làng. Ai đi qua đất nước đều có thể ăn no trong nhà ăn ở tại bất cứ một nơi nào.
Vào khoảng cùng thời gian đó, nhà cửa ở Judong bị phá hủy – có thể là vì những bức tường bằng đất sét trộn với rơm cần phải được rải lên đồng ruộng để làm phân. Ở khắp nơi trong Trung Quốc, các gia dình nông dân bị bắt buộc phải dọn vào ở nhà người khác hay ở trong những ngôi nhà đơn giản nhất, bị nhà của họ bị nghiền nát ra. Cả những đống đổ nát của chuồng nuôi súc vật cũng được ưa thích, vì chúng thấm đầy nước tiểu.
Bất cứ vật liệu hữu cơ nào mà các cán bộ tìm thấy được, họ đều cho mang đến: ở một vài làng, phụ nữ phải cạo trọc đầu nếu như họ muốn tiếp tục được phép ăn ở torng nhà bếp nhân dân – cả tóc cũng được đổ ra đồng. Tất cả là chỉ để làm tăng sản lượng thu hoạch.
Cũng như ở các dự án xây dựng, bắt đầu có một cuộc chạy đua vì các dự đoán thành tích. Đảng tổ chức họp trong mọi làng mạc, và Wu Tiancheng, người lãnh đạo một tổ sản xuất ở Judong, nhanh chóng học được những gì các bộ muốn nghe. Vì thế mà ông ấy trả lời cho câu hỏi, tổ của ông ấy sẽ thu hoạch bao nhiêu: rất nhiều.
Người lãnh đạo công xã nhân dân là cấp trên của Wu tô hồng cho dự đoán đó thêm một ít, trước khi ông ấy báo cáo lên huyện – và cho tới khi các con số cuối cùng đến được với chính phủ tỉnh thì chúng đã được chỉnh sửa thêm nhiều lần cho tới mức mà các con số thu hoạch cho Hà Nam được báo lên đến Chủ tịch Ủy ban Kế hoạch chẳng còn có liên quan gì đến thực tế nữa cả.
Ở Bắc Kinh, các mục đích thu hoạch được đưa ra với những con số đó – và trong lúc đó, dự đoán còn được nâng cao lên thêm một lần nữa.
Dưới ấn tượng của các báo cáo tuyệt vời từ các công xã, huyện, tỉnh khác, trong thời gian sau đấy, các cán bộ Trung Quốc ngày càng thổi phồng các dự đoán của họ: trước khi công xã mô hình Sputnik được thành lập, người ta dự tính ở đấy trong tháng 2 năm 1958 với hơn bốn tấn lúa mì trên một hecta, cho tới mùa Đông, con số đấy được bơm lên đến 37,5 tấn (50 năm sau đấy, một nông dân người Đức sẽ thu hoạch trung bình tám tấn lúa mì mùa Đông.)
Vì thế mà những người nông dân quẳng mọi thứ lên đồng ruộng, để có thể đạt được những dự đoán điên khùng đó. Nghĩa địa bị cải tạo thành đồng ruộng và ở một số nơi, những phần xác chết còn lại cũng được nấu thành phân bón.
THÊM VÀO ĐÓ, người dân phải thực hiện nhiều ý tưởng mới từ Bắc Kinh, những cái thường trái ngược với kiến thức của họ. “Cày sâu” là một trong những yêu cầu đó, vì rễ mạnh, trên lý thuyết, sẽ cho cây sung túc hơn.
Và bây giờ người nông dân phải trồng sát lại với nhau, vì người ta cho rằng cả cây cỏ cũng chia nhau chất dinh dưỡng, ánh sáng và nước một cách chan hòa. “Trong tập thể, chúng dễ tăng trưởng hơn”, Mao quả quyết, “với tập thể chúng sống dễ dàng hơn.”
Và cũng như người Cộng Sản phải đề phòng các thế lực khuynh hữu và phản cách mạng, cây cỏ cũng có một kẻ thù tự nhiên: chim sẻ.
Vì người ta cho rằng những con chim đó ăn hết hạt giống nên Đảng đã đưa ra một chiến dịch chống chim sẻ. Trẻ em cầm quay gỗ đi vòng quanh, hay đập vào xoong nồi, để liên tục xua chim bay đi, cho đến khi chúng rơi xuống đất vì kiệt sức.

Để thực hiện Chủ nghĩa Cộng sản ở nông thôn, nhà nước quy gộp tất cả nông dân vào trong những công xả khổng lồ. Sỡ hữu đất đai và trâu bò tư nhân bị bãi bỏ, ngay đến xoong nồi nấu ăn cũng bị tịch thu. Người trưởng nhòm sản xuất quyết định về công việc làm của những người nông dân thuộc trong tổ của mình. Ảnh: GEO Epoche.
Để thực hiện Chủ nghĩa Cộng sản ở nông thôn, nhà nước quy gộp tất cả nông dân vào trong những công xả khổng lồ. Sỡ hữu đất đai và trâu bò tư nhân bị bãi bỏ, ngay đến xoong nồi nấu ăn cũng bị tịch thu. Người trưởng nhòm sản xuất quyết định về công việc làm của những người nông dân thuộc trong tổ của mình. Ảnh: GEO Epoche.
KHÔNG CHỈ TRÊN ĐỒNG RUỘNG là xảy ra cuộc đấu tranh vì tương lai của Trung Quốc. Ai muốn so mình với các quốc gia công nghiệp đều phải cần đến thép. Trong vòng 15 năm, sản xuất cần phải tăng lên gấp tám lần; trong đó, trước hết là giới nông dân phải làm sao cho ý muốn của Mao được thỏa mãn.Những ai trong số đàn ông của Judong mà không làm việc ở đập nước thì phải đi lên núi để thu nhặt đá cho một lò thô sơ dùng luyện thép, những cái bây giờ thành hình ở khắp nơi trong Trung Quốc. Ở những nơi không có mỏ sắt, nông dân quẳng tất cả những gì mà họ tìm được vào trong lò như là nguyên liệu: xoong nồi, cày, xe đạp, sắt phế liệu. Năm 1958, tổng cộng có 140.000 tấn dụng cụ nông nghiệp đã bị nấu chảy ra trong tỉnh Hà Nam. Để giữ được ngọn lửa, người nông dân đốt cả bàn ghế và kèo nhà. Rừng rậm cũng trở thành nạn nhân của chiến dịch thép, từ đấy đất không còn gì để bảo vệ trước mưa gió nữa.Nhưng trong nhiều tỉnh, hơn hai phần ba lượng thép được sản xuất như thế lại có chất lượng thấp: không thể sản xuất cả xe máy cày lẫn máy bơm hay cái cày từ đó.

Trong mùa Thu năm 1958, một năm của những chiến dịch không ngừng nghỉ mới chấm dứt. Bây giờ, các dự đoán phải được thực hiện. Thế nhưng nhiều thiết bị đã bị nấu chảy, nhiều người đàn ông vẫn còn ở trên các công trình xây dựng. Cây trồng đã chết vì chúng được trồng quá sâu hay quá gần nhau. Côn trùng tấn công đồng ruộng, vì những kẻ thù tự nhiên của chúng, chim sẻ, đã bị xua đuổi cho tới chết.
Thế nhưng Đảng cứ cương quyết buộc phải thực hiện những con số trong kế hoạch đã báo cáo. Và chính người nông dân Hà Nam thì lại hầu như không thể hy vọng được nhân nhượng.
Cả mùa Hè qua, họ đã nghe tuyên truyền chống lại người cựu lãnh đạo tỉnh Pan Fusheng. Người này ngay từ năm 1957 đã phê bình việc tập thể hóa là quá vội vã và yêu cầu trừng phạt những cán bộ nào đánh chết nông dân. Ông ấy cũng chỉ thực hiện có giới hạn một “Chiến dịch chống khuynh hữu”, vì ông ấy lo ngại cho mùa màng.
Giờ đây, Pan đã bị cho thôi chức vụ – và người kế nghiệp ông ấy Wu Zhipu muốn chứng tỏ lòng trung thành của mình, bằng cách thực hiện cuộc Đại Nhảy Vọt một cách hết sức cực đoan tại Hà Nam. Ông ấy hăm hở theo dõi những người được cho là “hữu khuynh” trong tỉnh của mình, qua đó dấy lên một bầu không khí của sự sợ hãi. Không ai còn dám nói đến việc cung cấp không tốt hay về các dự đoán quá mức. Trong lúc đó, không ai dối trá các thành tích sản xuất táo tợn như Wu Zhipu.
Qua đó, Hà Nam trở thành tỉnh gương mẫu, được báo chí ca ngợi, và chính quyền của nó được Mao ưa thích. Wu gắn kết số phận của mình với cuộc Đại Nhảy Vọt – với những hậu quả chết người cho nông dân tỉnh Hà Nam.
Vào cuối mùa Hè 1958, Mao dự định rằng Trung Quốc sẽ có được một vụ thu hoạch kỷ lục. Trong những chuyến đi xuyên qua đất nước, ông ấy đã nhìn thấy những đống ngũ cốc ở cạnh đường, những cánh đồng lúa xanh tươi, xa ngút tầm mắt. Có lẽ ông ấy đã không nhận ra, rằng nông dân đã tuân theo mệnh lệnh của cán bộ mà trồng lại cây dọc theo tuyến đường đi của ông ấy, rằng vì ông mà họ đã đổ đống lúa mì ở ven đường – chứ không phải vì kho chứa đã đầy. Ông chủ tịch dường như hạnh phúc. Ông ấy phấn khởi khuyên nông dân nên ăn năm lần trong ngày và trong tương lai nên trồng trọt ít đi. Giới lãnh đạo Đảng đã thật sự bỏ hoang đồng ruộng trong những năm sau đó ở khắp nơi, để giảm tải cho các kho dự trữ.
Thế nhưng vụ thu hoạch kỷ lục đã không đến.
Người nông dân phải đưa cho nhà nước phần ngũ cốc thừa. Nhưng Đảng đã tính toán phần thừa này dựa trên những con số sai lầm. Và không nơi nào khác trong Trung Quốc mà chúng lại không đúng nhiều như ở Hà Nam, thay vì 35 triệu tấn ngũ cốc theo dự đoán chỉ thu hoạch được có 12,5 triệu tấn.

Các công xã nông nghiệp của Trung Quốc phải đạt được những chỉ tiêu sản xuất ngày càng cao hơn. Vì sợ bị trừng phạt nên các trưởng nhóm thường báo cáo vượt chỉ tiêu, trong khi người dân thực ra là đói ăn. Ảnh: GEO Epoche.
Các công xã nông nghiệp của Trung Quốc phải đạt được những chỉ tiêu sản xuất ngày càng cao hơn. Vì sợ bị trừng phạt nên các trưởng nhóm thường báo cáo vượt chỉ tiêu, trong khi người dân thực ra là đói ăn. Ảnh: GEO Epoche.
Judong không thể hoàn thành kế hoạch. Hầu như không còn ngũ cốc trong làng nữa. Người nông dân phải tự bào chữa hàng giờ liền trước các cán bộ trong những buổi “họp kiểm điểm”, ngày này qua ngày khác. Họ bị trói lại và bị đe dọa. Có lần Wu Tiancheng đã phải đứng bảy ngày liên tục, cho tới khi ông ấy nhận rằng có ngũ cốc được dấu ở trong làng của ông ấy. Thế nhưng những cái bây giờ được giao đi từ Judong như là “phần thừa” lại là hạt giống cũng như lương thực cho người dân làng.Người nông dân học cách thuật lại cho các cán bộ những lời nói dối mà họ muốn nghe: chúng tôi sống tốt, chúng tôi có đủ ăn và đủ uống. Thật sự thì Wu Tiancheng phải hạn chế phần ăn trong căn bếp nhân dân. Những ngày dư thừa đã qua rồi. Chẳng bao lâu sau đó, nhà ăn chỉ còn phát cháo – nếu như nói chung là còn chia cái gì đấy – với một cục bột hấp bé tí ở trong đấy.Để nuôi dưỡng gia đình mình, Wu lấy cắp từ kho dự trữ hay lén ra đồng, đào khoai lang, đốt lửa trong một cái lỗ, nướng những thứ có được và ăn chúng ngay tại chỗ. Những người khác lấy đậu chưa chín từ đồng ruộng, giã nát chúng ra và nấu chúng thành một món xúp bột.
Họ chỉ bí mật nấu những bữa ăn đó: vì khi cán bộ phát hiện ra khói ở đâu đó thì họ sẽ xông vào ngôi nhà đó và tịch thu tất cả những thứ có thể ăn được.
Trong khi nạn đói lan ra trong các làng mạc, giới lãnh đạo Đảng nhìn các con số thu hoạch không đạt được như là một vấn đề về ý thức hệ: người nông dân dấu ngũ cốc vì họ sợ nhận được quá ít lương thực. Sau đấy, tuy Mao đã phê bình những cán bộ quá sốt sắng và ca ngợi tính tinh khôn của nông dân. Nhưng đồng thời ông ấy cũng yêu cầu các cán bộ phải trưng thu cho đến một phần ba vụ mùa. Lại chính là bây giờ, lúc họ ít khi có ít như thế này thì những người nông dân phải giao ra nhiều như chưa từng có. Mao muốn nuôi dưỡng con người trong thành phố và làm tròn các hợp đồng quốc tế của Trung Quốc.

Tấm áp phích năm 1958 này yêu cầu hãy học tập tấm gương Liên bang Xô viết. Trong năm trước đó, Liên bang Xô viết đã phóng thành công vệ tinh đầu tiên vào vũ trụ, và sếp ĐCS Krrushchev khoe khoang rằng không bao lâu nữa sẽ vượt qua mặt Hoa Kỳ. Sau đấy Mao tuyên bố một cuộc chạy đua để bắt kịp của nước Trung Quốc lạc hậu. Ảnh: GEO Epoche.
Tấm áp phích năm 1958 này yêu cầu hãy học tập tấm gương Liên bang Xô viết. Trong năm trước đó, Liên bang Xô viết đã phóng thành công vệ tinh đầu tiên vào vũ trụ, và sếp ĐCS Krrushchev khoe khoang rằng không bao lâu nữa sẽ vượt qua mặt Hoa Kỳ. Sau đấy Mao tuyên bố một cuộc chạy đua để bắt kịp của nước Trung Quốc lạc hậu. Ảnh: GEO Epoche.
Vì nước Cộng hòa Nhân dân đã mua, trước hết là từ nước ngoài xã hội chủ nghĩa: cần cẩu, xe tải, động cơ, máy bơm, máy gặt đập, cả toàn bộ nhà máy thép, nhà máy xi măng, nhà máy lọc dầu, nhà máy điện,Thế nhưng những người Cộng sản hầu như không có ngoại tệ để trả tiền cho hàng hóa. Thay vào đó, họ tiến hành kinh doanh trao đổi – trước hết là với lương thực thực phẩm: như thịt cho Liên bang Xô viết, gạo và dầu ăn cho Đông Đức.Giới lãnh đạo quanh Mao cương quyết thực hiện các cam kết của họ, ngay cả khi người dân của chính họ phải trả giá. Nhận định tình hình hoàn toàn sai lầm, các quan chức cao cấp trong Đảng đề nghị giải quyết vấn đề xuất khẩu bằng cách mỗi một người Trung Quốc từ bỏ một vài quả trứng, nửa cân thịt và một ít ngũ cốc.
Bây giờ, có hàng triệu người từ các ngôi làng của những người đang đói ăn ở khắp nơi trong nước bỏ vào thành phố bất chấp lệnh cấm, nhiều người cố gắng bỏ trốn qua biên giới với Miến Điện hay Việt Nam hay chạy đến những tỉnh hẻo lánh. Nông dân vùng Tín Dương nhận được thư từ của họ hàng và bạn bè từ Thanh Hải và Cam Túc. Họ nhận được tiền và những chỉ dẫn cụ thể cho một chuyến bỏ trốn.
Có lẽ là một lá thư như thế đã khiến cho Wu Tiancheng quyết định bỏ Judong ra đi.
Bằng mưu mẹo và trộm cắp, người nông dân trẻ tuổi đó đã mang gia đình của anh ấy qua được mùa Đông. Nhưng anh ấy nhìn thấy sự khốn khó xung quanh mình ngày càng lớn hơn. Anh ấy cần phải làm gì?
Anh ấy có quen biết ở trong tỉnh Thanh Hải tương đối thưa thớt dân cư. Ai làm việc ở đấy sẽ nhận được phần ăn đều đặn. Tin tức đấy chắc hẳn phải giống như những tín hiệu cứu thoát cho Wu. Anh ấy bàn bạc với bạn bè của anh ấy. Thế rồi, trong mùa Xuân 1959, anh ấy dẫn những người đàn ông trẻ thuộc nhóm sản xuất của mình đến tuyến đường sắt.

Cán bộ Đảng Cộng sản yêu cầu tiến hành những dự án xây dựng ở khắp nơi trong Trung Quốc, để xây đập nước, cung cấp điện hay cải thiện việc tưới nước. Nhưng kế hoạch cho những dự án này thường hay sai lầm, hay chúng tự chứng tỏ mình là vô dụng: đập vỡ, hồ chứa nước ngẽn bùn, tuốc bin bị ngẹt vì bùn. Ảnh: GEO Epoche.
Cán bộ Đảng Cộng sản yêu cầu tiến hành những dự án xây dựng ở khắp nơi trong Trung Quốc, để xây đập nước, cung cấp điện hay cải thiện việc tưới nước. Nhưng kế hoạch cho những dự án này thường hay sai lầm, hay chúng tự chứng tỏ mình là vô dụng: đập vỡ, hồ chứa nước ngẽn bùn, tuốc bin bị ngẹt vì bùn. Ảnh: GEO Epoche.
 
(Còn tiếp)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét