Thứ Sáu, 25 tháng 8, 2017

BÍ ẢN ĐƯỜNG ĐỜI 111/8 (Mao Trạch Đông)


(ĐC sưu tầm trên NET)

                                                  Bác sĩ riêng của Mao - Lý Chí Thỏa

Mao Trạch Đô

 {{{caption}}} 

Đồ tể của nhân loại - Đứa con Quái thai của sự hôn phối giữa CM Vô sản và ĐT giai cấp

Câu nói để đời:  “Tần Thuỷ Hoàng là cái thá gì? Ông ta chỉ chặt đầu 460 nho sĩ. Chúng ta đã chặt đầu 460.000 trí thức.”. Và “Mọi người cộng sản phải nắm cho rõ chân lý này: ‘Quyền lực chính trị lớn mạnh được là bắt đầu từ họng súng".

-------------------------------------------

Dụng ý đánh giá lại Tào Tháo của Mao Trạch Đông

06 Tháng Mười 2016 12:15 CH
HÌNH KIM LƯỢNG*

Bookmark and Share

Hình ảnh của HV106 - Dụng ý đánh giá lại Tào Tháo của Mao Trạch Đông
Tào Tháo là nhân vật lịch sử được học giả các đời trao đổi nhiều nhất. Mao Trạch Đông cũng nhiều lần đánh giá lại Tào Tháo nhưng không lần nào hé lộ cho biết vì sao. Trong bài này tôi điểm lại những lần Mao Trạch Đông nói về Tào Tháo và phân tích dụng ý thực sự của ông.
Những lần Mao Trạch Đông nói về Tào Tháo
Mùa hè năm 1954, Mao Trạch Đông đến Bắc Đới Hà, sau khi ngâm bài thơ Quan thương hải của Tào Tháo, nói với nhân viên đi theo: “Tào Tháo là nhà chính trị, nhà quân sự không tầm thường, cũng còn là nhà thơ không tầm thường”; “Tào Tháo thống nhất miền bắc Trung Quốc, sáng lập nước Ngụy. Khi ấy lưu vực sông Hoàng Hà là trung tâm của Trung Quốc, ông đã cải cách chính trị tồi tệ của Đông Hán, ức chế cường hào, phát triển sản xuất, thực hành chế độ đồn điền, lại còn đốc thúc khai hoang, xúc tiến pháp trị, đề xướng tiết kiệm, khiến xã hội bị phá hoại lớn bắt đầu ổn định, khôi phục, phát triển. Những việc làm đó lẽ nào không nên khẳng định? Lẽ nào không phải là khác thường? Bảo Tào Tháo là gian thần, sách viết như thế, kịch diễn như thế, dân chúng nói như thế, đấy là một án oan do quan niệm chính thống phong kiến gây nên. Lại còn một số nhân sĩ phản động, họ là người lũng đoạn văn hóa phong kiến, những gì họ viết ra đều nhằm duy trì chính thống phong kiến. Vụ án này cần lật lại”. Ngày 10-4-1957, khi nói chuyện với người phụ trách Nhân dân nhật báo, Mao Trạch Đông nói: “Tiểu thuyết bảo Tào Tháo là gian hùng, không nên tin những điều diễn nghĩa đó. Thật ra Tào Tháo không tồi tệ, khi ấy Tào Tháo đại biểu cho một bên chính nghĩa, nhà Hán đã suy bại rồi”.
Ngày 2-11-1957, Mao Trạch Đông đang ở thăm Mátxcơva. Tối hôm ấy, ông mời Hồ Kiều Mộc, Quách Mạt Nhược đến nơi ở cùng ăn cơm, vừa ăn vừa trò chuyện. Ông nhắc đến Tam quốc diễn nghĩa trước tiên, ba người vừa nói vừa bàn rất sôi nổi. Ông bỗng ngoảnh sang hỏi người phiên dịch Lý Việt Nhiên: “Chú nói xem, trong hai người là Tào Tháo và Gia Cát Lượng, ai lợi hại hơn?”. Lý Việt Nhiên nhất thời không biết trả lời thế nào thì ông nói: “Gia Cát Lượng dùng binh cố nhiên túc trí đa mưu, nhưng Tào Tháo cũng là người không đơn giản. Diễn viên nào cũng diễn ông ta thành đại gian thần, kỳ thật là oan uổng. Người này rất không tầm thường”.
Tháng 11-1958, trong buổi tiếp Bí thư Huyện ủy huyện An Dương, tỉnh Hà Nam, Mao Trạch Đông cũng nhắc đến Tào Tháo. Ông nói: “Tào Tháo hiểu đạo dùng người, chiêu hiền nạp sĩ, chủ trương ‘ngũ hồ tứ hải’ chứ không bè phái. Ông ta còn chú ý khơi mở đường sông, dẫn thủy nhập điền, phát triển sản xuất nông nghiệp”.
Ngày 20 tháng trên, trong buổi tọa đàm được triệu tập ở Vũ Hán, Mao Trạch Đông lại nói đến Tào Tháo. Ông nói: “Tam quốc diễn nghĩa và Tam quốc chí đánh giá khác nhau về Tào Tháo. Tam quốc diễn nghĩa miêu tả Tào Tháo thành gian thần, Tam quốc chí thuật kể Tào Tháo là nhân vật chính diện trong lịch sử”. Ông còn nói, Tào Tháo là “con người phi thường”, “kiệt xuất hơn đời” xuất hiện trong thời kỳ thiên hạ đại loạn, nhưng vì Tam quốc diễn nghĩa viết vừa dễ hiểu vừa sinh động cho nên rất nhiều người đọc, lại thêm hý kịch Tam quốc diễn trên sân khấu đều biên soạn dựa trên Tam quốc diễn nghĩa, bởi thế Tào Tháo trên sân khấu hý kịch cổ đều là gian thần mặt trắng(1). Có thể nói điều này thì đàn bà con trẻ nước ta đều biết. “Cho Tào Tháo là gian thần, đó là một án oan do quan niệm chính thống phong kiến gây nên”. “Bây giờ chúng ta phải lật lại bản án cho Tào Tháo. Đảng chúng ta là đảng trọng chân lý. Phàm là án sai, án oan thì dùmười năm, hai mươi năm, cho đến một nghìn năm, hai nghìn năm cũng phải lật lại”.
Tháng 12-1958, khi đọc chú thích của Lư Bật cho Nhượng huyện tự minh bản chí lệnh trong sách Tam quốc chí tập giải, Mao Trạch Đông đã viết đoạn lời phê như sau đối với lời chỉ trích Tào Tháo của Lư Bật: “Đoạn chú thích này đã dán không ít báo chữ to(2) cho Ngụy Vũ. Muốn thêm tội cho ông ấy, lo gì không có lời! Lý Thái Bạch nói: Ngụy đế doanh bát cực, Nghi quan nhất Nễ Hoành(3). Câu thơ này sát với Lư Bật”.
Tháng 2-1959, sau khi đọc bài Nên khôi phục danh dcho Tào Tháo của học giả Tiễn Bá Tán đăng trên Quang minh nhật báo, Mao Trạch Đông nói: “Tào Tháo kết thúc cục diện các gia tộc lớn hỗn chiến cuối đời Hán, khôi phục bình nguyên lớn hai bên bờ sông Hoàng Hà, trải con đường bằng phẳng cho việc hai triều Tấn thống nhất đất nước sau này. La Quán Trung, tác giả Tam quốc diễn nghĩa, không kế thừa truyền thống của Tư Mã Thiên mà kế thừa truyền thống của Chu Hy”.
Ngày 23-4-1959, Bắc Kinh vãn báo đăng phần III bài Về Tam quốc diễn nghĩa của Ngô Tổ Tương, giáo sư trường Đại học Bắc Kinh, Mao Trạch Đông đọc xong, ngay ngày hôm sau bảo Lâm Khắc, thư ký văn phòng Mao Trạch Đông tìm phần I và II của bài viết nói trên để đọc tiếp. Ông rất chú ý tới quan điểm của giáo sư Ngô cho rằng không thể vì quan điểm lịch sử chính thống “ủng hộ Lưu, phản đối Tào” trong Tam quốc diễn nghĩa mà phủ định quan điểm của tư tưởng dân chủ trong sách ấy. Lần ấy tuy ông không nói gì, nhưng liên hệ với những lần ông đánh giá Tào Tháo thì cũng có thể xếp lần đọc này vào phạm vi ông bàn lại về Tào Tháo.
Năm 1975, khi nhắc đến lịch sử thời Tam quốc, Mao Trạch Đông nói: “Cống hiến cho việc thống nhất đất nước của mấy nhà chính trị, quân sự thời Tam quốc thì cống hiến của Tào Tháo là lớn nhất”.
Năm 1976, để làm rõ lý lẽ tài cán chỉ được tăng lên qua thực tiễn, Mao Trạch Đông lấy ví dụ Tào Tháo chưa hề học đại học để thuyết minh.
Ba loại suy đoán về ý kiến đánh giá Tào Tháo nói trên
Loại thứ nhất cho rằng ông Mao đánh giá Tào Tháo thuộc hành vi học thuật, cá nhân ông nói xưa luận nay thuộc phạm vi khen chê nhân vật sau khi đọc sách sử. Tác giả sách Mao Trạch Đông đàm cổ luận kim xuất bản tháng 6-1998 đã dẫn hai đoạn ông Mao nói như sau:
- Văn thơ của Tào Tháo có sắc thái riêng, trực tiếp bày tỏ tấm lòng, phóng khoáng, thông thoáng, nên học tập.
- Tôi thích thơ của Tào Tháo, khí phách hùng vĩ, khẳng khái bi thương, đúng là chân nam tử, đại thủ bút.
Một sách khác có đềMao Trạch Đông đọc sử, tác giả đưa những đoạn ông bình luận Tào Tháo vào mục “Mao Trạch Đông phê bình, chú thích nhân vật lịch sử”, cho rằng khi đọc và nghiên cứu lịch sử, ông Mao phát biểu một số ý kiến nhằm uốn nắn hiện tượng “nghìn năm nay, ý kiến sai lệch che lấp chân thực lịch sử”. Như thế, tác giả sách thật ra cũng coi việc Mao Trạch Đông đánh giá lại Tào Tháo thuộc phạm vi cảm xúc khi đọc sử.
Loại thứ hai cho Mao Trạch Đông đánh giá Tào Tháo do cảm xúc về anh hùng mà có. Tác giả bài Mao Trạch Đông và việc lật lại bản án cho Tào Tháo đăng năm 1999 cho rằng: “Mao Trạch Đông sở dĩ khẳng định Tào Tháo e rằng vì hai người chẳng những ‘hình tự’ (hình tượng tương tự) mà còn ‘thần tự’ (thần thái, tinh thần tương tự) về nhiều mặt, ví như tài năng quân sự xoay chuyển thế cuộc, trước hiểm nguy không kinh sợ, hoài bão chính trị thay đổi sơn hà, không ai thay thế được cùng thơ văn bày tỏ thẳng thắn tâm tình, khí phách hùng vĩ v.v… Có thể nói ở thời đại mà hai người sinh sống, họ xứng đáng với tên gọi nhà chính trị, nhà quân sự, nhà thơ bậc nhất không chút hổ thẹn; thậm chí về cá tính, về khí chất, hai người cũng có phần giống nhau, cho nên tuy họ sống cách nhau hơn nghìn năm, nhưng đối với Tào Tháo, quả thật Mao Trạch Đông thừa nhận bằng tình cảm tự đáy lòng”. Tác giả bài viết còn cho rằng: “Mao Trạch Đông lật lại bản án cho Tào Tháo là quan sát lịch sử bằng ánh mắt khoa học theo quan điểm duy vật lịch sử mà rút ra kết luận tất nhiên, gợi mở cho phê bình văn nghệ ngày nay”.
Loại thứ ba cho Mao Trạch Đông đánh giá Tào Tháo nhằm lật lại bản án cho một nhân vật lịch sử. Năm 1959, Quách Mạt Nhược trong bài Đọc Hồ già thập bát phách của Thái Văn Cơ viết: “Cống hiến của Tào Tháo cho dân tộc cần đánh giá cao. Ông đáng được coi là anh hùng dân tộc”. Mọi người coi Tào Tháo là kẻ xấu, là gian thần “quả thật là điều xuyên tạc lịch sử rất lớn”. Cũng năm 1959, Tiễn Bá Tán trong bài Nên khôi phục danh dự cho Tào Tháo cũng nói: “Tào Tháo chẳng những là nhà chính trị, nhà quân sự, nhà thơ bậc nhất trong số những họ lớn thời Tam quốc mà còn là nhân vật kiệt xuất hiếm hoi trong giai đoạn phong kiến Trung Quốc thống trị”. Coi nhân vật kiệt xuất như thế là gian thần trong thời gian dài thật không công bằng, “chúng ta nên bỏ cái mũ gian thần cho Tào Tháo, khôi phục danh dự cho ông ta”. Bài của hai ông Quách, Tiễn đều nhằm hưởng ứng những lời ông Mao nói khá nhiều về Tào Tháo năm 1958. Do hai ông đều là nhà sử học nổi tiếng nên nhìn nhận của hai ông có ảnh hưởng rất lớn, đến nay vẫn chưa suy giảm, nhiều học giả đã tin tưởng và trích dẫn quan điểm của hai ông.
Dụng ý đích thực của Mao Trạch Đông
Muốn tìm ra dụng ý đích thực của việc Mao Trạch Đông đánh giá lại Tào Tháo ắt phải vận dụng nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác. Thời gian ông bình luận Tào Tháo tập trung ở cuối những năm 1950, đặc biệt là năm 1958 và 1959.
Khi đó Trung Quốc xảy ra không ít sự kiện chính trị quan trọng, xét xem Mao Trạch Đông đã suy nghĩ, đối xử và xử lý những sự kiện quan trọng đó cùng mối quan hệ giữa chúng ra sao là mấu chốt để nhận ra thâm ý của ông.
Sự kiện chính trị quan trọng năm 1954 là soạn ra hiến pháp, xác định đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội; năm 1957 là cuộc vận động chống phái hữu. Lý do chống tập trung ở ba điểm như sau: “Cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội có tốt không, có thành tích không, thành tích là chủ yếu hay sai lầm là chủ yếu? Phái hữu phủ nhận thành tích của sự nghiệp nhân dân, đó là điều thứ nhất. Điều thứ hai là đi theo hướng nào? Đi hướng bên này là xã hội chủ nghĩa, đi hướng bên kia là tư bản chủ nghĩa. Phái hữu muốn quay ngược hướng, đi theo đường lối tư bản chủ nghĩa. Điều thứ ba là xây dựng chủ nghĩa xã hội do ai lãnh đạo? Giai cấp vô sản hay giai cấp tư sản lãnh đạo? Do Đảng cộng sản lãnh đạo hay do phái hữu tư sản lãnh đạo?” (Mao Trạch Đông tuyển tập, quyển 5, tr.443). Mao Trạch Đông thấy rằng muốn chống phe phản đối trong ngoài nước, trong ngoài Đảng thì phải dùng phương pháp chuyên chính, tập quyền. Tào Tháo là người sử dụng quyền lực tập trung trong tay nên mới cải cách được chính trị tồi tệ, tiến hành pháp trị, đề xướng tiết kiệm, ổn định, khôi phục và phát triển được xã hội. Vì thế, Tào Tháo “là người phi thường” xuất hiện trong thời kỳ thiên hạ đại loạn, là người đại biểu cho phía chính nghĩa. Tào Tháo không ác, không xấu; nếu coi Kiệt, Trụ, Tần Thủy Hoàng, Tào Tháo là kẻ xấu thì “không chính xác”.
Nhưng dụng ý của Mao Trạch Đông không chỉ có vậy. Nội dung hạt nhân Mao Trạch Đông nhấn mạnh còn là chống đánh giá Tào Tháo theo quan điểm “chính thống”. Điều này gắn với việc ông nhấn mạnh “tính độc đáo”, “tốc độ cao” trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Trung Quốc. Năm 1957, ông nêu quan điểm về việc Trung Quốc xây dựng chủ nghĩa xã hội phải theo con đường độc đáo riêng, phải độc lập tự chủ. Đến năm 1958 và 1959, khi ông thử thông qua ba lá cờ hồng (tức đường lối chung xây dựng chủ nghĩa xã hội, đại nhảy vọt và công xã nhân dân) để tìm ra “tính độc đáo và tốc độ cao” là ông đã chủ trương không xây dựng chủ nghĩa xã hội theo quan điểm chính thống, tức theo mẫu mực Liên Xô. Vì vậy một mặt quan trọng của việc Mao Trạch Đông đánh giá lại Tào Tháo còn là gợi mở toàn Đảng giải phóng tư tưởng, không mê tín Liên Xô, phải kiên định lòng tin để tìm ra con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội độc đáo của Trung Quốc.
Tóm lại, Mao Trạch Đông đánh giá lại Tào Tháo với dụng ý chính trị; ý kiến cho ông xuất phát từ cảm xúc lịch sử, anh hùng tiếc anh hùng v.v… đều sai cả.
PHẠM TÚ CHÂU trích dch
(Theo cpc.people.com.cn)

--------------------------------------------------------------

Giới thiệu tài liệu: Jonathan Spence, “Mao”, nhà xuất bản Claasen: tiểu sử được thuật lại một cách dễ hiểu và chứa đựng nhiều thông tin từ ngòi bút của một trong những nhà Hán học nổi tiếng nhất thời chúng ta. Hung Chang & Jon Halliday, “Mao”, Panteon: một trong những mô tả mới nhất, nhưng cũng bị tranh cãi nhiều nhất về con người của ông chủ tịch vĩ đại. Các tranh luận mà quyển sách này đã gây ra trên khắp thế giới được Gregor Benton & Lin Chun tập trung lại trong quyển “Was Mao Really a Monster? The academic response to Chang and Halliyday’s Mao: The Unknown Story”, Routledge. 
Phan Ba dịch từ chuyên san lịch sử “Trung Quốc của Mao Trạch Đông” do GEO Epoche xuất bản.Quyển sách bao gồm các chương sau đây:

  • Tên cướp đỏ: 1921 – 1931: lần thăng tiến của Mao
  • Con người chuyên quyền kia: Tưởng Giới Thạch
  • Cuộc chạy trốn qua núi: 1934 – 1935: “Vạn lý Trường chinh”
  • Địa ngục Nam Kinh: Cuộc thảm sát tại Nam Kinh
  • Trận đấu tay đôi vì Trung Quốc: 1946 – 1949: nội chiến
  • Khởi hành vào một kỷ nguyên mới: 1940 – 1954: cải tạo Xã hội Chủ nghĩa
  • Cuộc chiến chống Mỹ: 1950 – 1953: Chiến tranh Triều Tiên
  • Sự điên khùng của một bạo chúa: 1958 – 1961: “Đại nhảy vọt”
  • Cuộc chiến của những đứa trẻ con: 1966 – 1976: Cách mạng Văn hóa
  • Chuyến viếng thăm của kẻ thù giai cấp: Chuyến đi thăm Trung Quốc của Nixon
  • Cái chết của ông Hoàng đế Đỏ: 1976 Mao qua đời
  • Kế hoạch cho lần trỗi dậy: Trung Quốc mở cửa
  • Cơn bão trên Thiên An Môn: Thảm sát Thiên An Môn
--------------------------------------------------------------
(Tiếp theo)

NHƯNG CÁI TRỰC TIẾP phát động cuộc nổi dậy của giới trẻ là một tờ báo tường trong một nhà ăn đại học ở Bắc Kinh, cái cỗ vũ cho “tinh thần cách mạng” và kêu gọi người đọc “phản kích lại băng nhóm đen” quanh Bành.
Mao, người trong dinh thự của mình được thông tin về tất cả các sự kiện quan trọng trong thủ đô, để cho đọc bài viết đó trên đài phát thanh vào ngày 1 tháng 6. Cùng ngày, một bài xã luận do ông yêu cầu được đăng trên tờ “Nhân dân Nhật báo” dưới tít “Quét sạch bọn trâu quỷ rắn ma”: mặc dù trật tự cũ đã bị lật đổ, tác giả ta thán, các “học giả” vẫn cố gắng tranh thủ giới trẻ cho một chính sách hướng về phía sau.
Kêu gọi lật đổ: Khẩu hiệu của sinh viên ngày càng quá khích hơn. Câu khẩu hiệu ở trên tường bên trái trong tháng 9 năm 1967 yêu cầu lật đổ chủ tịch nước Lưu Thiếu Kỳ. Ảnh: GEO Epoche
Kêu gọi lật đổ: Khẩu hiệu của sinh viên ngày càng quá khích hơn. Câu khẩu hiệu ở trên tường bên trái trong tháng 9 năm 1967 yêu cầu lật đổ chủ tịch nước Lưu Thiếu Kỳ. Ảnh: GEO Epoche
Người sếp của Đảng muốn động viên hàng triệu học sinh và sinh viên, bằng cách nâng xung đột thế hệ lên thành “mâu thuẫn giai cấp”: giới trẻ cách mạng ở một bên, người trưởng thành thường bảo thủ ở bên kia.Lời kêu gọi của “Nhân dân Nhật báo” hướng đến thế hệ đầu tiên được sinh ra trong nước Cộng hòa Nhân dân và được giáo dục hầu như hoàn toàn theo các lý tưởng của Mao: một thế hệ sống tốt hơn nhiều cho với cha mẹ của họ – và là một thế hệ mà mặc dầu vậy vẫn hết sức không tự tin. Vì so với các thành tích của thế hệ đi trước thì giới trẻ chỉ có thể thua kém. Thường họ phải nghe những câu chuyện anh hùng của giới cựu chiến binh trong những cuộc trao đổi do nhà nước tổ chức và phải chịu đựng khi những người già mắng nhiếc họ là “cây nhà kính” hèn nhát.Nhưng họ có thể chứng tỏ lòng tin Cộng sản của họ như thế nào? Thường thì họ chỉ còn những hành động trẻ con như là sự lựa chọn: như trong ký túc xá, các học sinh tranh đua nhau xem ai là người dậy đầu tiên để lau hành lang hay lén giặt quần áo của bạn đồng học. Nhiều thanh thiếu niên viết nhật ký mà trong đó họ tưởng tượng ra hàng nhiều trang về tình yêu cách mạng của họ và để chúng nằm công khai trong phòng của họ hay trong phòng ngủ.
Trong lúc đó, việc đấy đối với họ không phải chỉ là để xứng đáng với các lý tưởng cách mạng, mà là cũng để cho tương lai sự nghiệp của họ. Vì áp lực thành tích chưa từng bao giờ đè nặng như thế. Các cơ hội thăng tiến biến mất dần, vì trường trung học đào tạo ra nhiều học sinh hơn là chỗ học đại học. Có những vùng mà cứ ba học sinh tốt nghiệp phổ thông thì mới có một người đi học đại học.
Liệu một người có được phép đi học đại học hay không, điều đấy không phải phụ thuộc trước hết vào điểm của người đó; cũng quan trọng như thế là gia thế của người đó và hoạt động chính trị của người đó. “Ai ở gần sân thượng cao thì nhìn mặt trăng trước”, đó là một câu châm ngôn, và do vậy mà con cái của đảng viên và những nhà cách mạng lão thành có được những cơ hội tốt nhất; học sinh từ những gia đình “đen”, cha mẹ của họ thuộc giai cấp tiểu tư sản trước khi thành lập nước Cộng hòa Nhân dân, thì ngược lại chỉ có thể tự thể hiện mình qua thành tích xuất sắc và một cuộc sống gương mẫu. Trong các trường học của đất nước có một cuộc cạnh tranh không khoan nhượng.
Không có thời gian cho các vui thú của tuổi mới lớn: thiếu niên không được phép hẹn hò, cai trị ở nhà là cha mẹ, và đi du lịch là việc không thể trả tiển được. Họ được thầy cô của họ huấn luyện theo yêu cầu của Đảng – không hề đếm xỉa đến ý kiến lẫn ước muốn của họ. Cho tới nay, giới trẻ còn không được phép độc lập tham gia chính trị nữa.
Nhưng bây giờ thì vị Chủ tịch Vĩ đại cần đến sự giúp đỡ của họ, sự hỗ trợ của giới trẻ. Trong quyển “Mao Chủ tịch ngữ lục”, ông ấy khen ngợi và ca tụng họ, gọi họ là “lực lượng tích cực nhất, sống động nhất của xã hội” và hứa hẹn với họ: “Thế giới là của các cháu.”
Cuối cùng thì họ có thể bỏ lại những thứ bị bắt buộc, gây chán nản, lại ở phía sau, phá vỡ mọi quy định và chứng minh rằng cả họ cũng là những nhà cách mạng nữa.
Mao, một bậc thầy trong mỵ dân, rất thành thạo trong nghệ thuật biến đổi những động cơ thông tục như sự thèm khát quyền lực của mình và ước muốn báo thù các địch thủ của mình trở thành một mong muốn thiêng liêng. Ông ấy biết người ta khơi lên sự hào hứng hoang dại như thế nào.
Đối thủ: Chủ tịch nước Lưu Thiếu Kỳ bị tước quyền lực; cái giá phải trả cho lời phê bình Mao là mạng sống của ông ấy. Ảnh: GEO Epoche
Đối thủ: Chủ tịch nước Lưu Thiếu Kỳ bị tước quyền lực; cái giá phải trả cho lời phê bình Mao là mạng sống của ông ấy. Ảnh: GEO Epoche
Thông điệp thành công. Vào ngày 2 tháng 6, thanh thiếu niên tại một trường trung học Bắc Kinh cũng treo một tờ báo tường lên. Nó được ký tên bởi “Hồng Vệ Binh”. Các học sinh đe dọa đối thủ của Mao quá khích hơn các sinh viên rất nhiều. “Chúng tôi sẽ dẫm đạp lên các người!”, có thể đọc được ở đó. “Chúng tôi sẽ tàn nhẫn!” Và: “Hãy vứt bỏ các cảm xúc con người!”Chẳng bao lâu sau, Hồng Vệ Binh được thành lập ở hầu hết các thành phố lớn. Có những người nào đó mặc quân phục cũ của cha mẹ họ, những người khác nhận được quân phục chiến đấu và giày ủng từ kho quân đội. Bắt đầu là ở Bắc Kinh và rồi trên toàn nước, sinh viên và học sinh nổi dậy. Với số đông. Nhiều người bỏ học để thảo luận về cách mạng. Và họ viết báo tường.Mao mừng rỡ: “Anh sẽ tạo ra sự lộn xộn lớn nhất dưới trời này”, ông ấy viết cho vợ, “để tạo ra trật tự lớn nhất.”
Trong lúc đó, Bộ Chính trị cố gắng hướng cuộc phản đối vào trong khuôn khổ trật tự. Lưu Thiếu Kỳ cho người thành lập những nhóm làm việc – cũng như tại các chiến dịch khác – có nhiệm vụ dẫn dắt phong trào. Thêm vào đó, họ cần phải ngăn chận việc bỏ học và bạo lực.
Thế nhưng các nhóm này chỉ có ít ảnh hưởng đến giới học sinh. Các vệ binh thường xuyên khiêu khích các cán bộ: “Nổi loạn là chính đáng”, họ trích dẫn Mao trên các tờ báo tường của họ – và qua đó đã tìm được một lời biện bạch cho các hành động bạo lực.
Bầu không khí mang tính thù địch. Chẳng bao lâu sau, các thầy giáo đầu tiên đã bị phỉ nhổ. Và bị đánh.
Thân tín: Giang Thanh vợ của Mao là một động lực chính trong cuộc truy lùng những người được cho là phản cách mạng. Ảnh: GEO Epoche
Thân tín: Giang Thanh vợ của Mao là một động lực chính trong cuộc truy lùng những người được cho là phản cách mạng. Ảnh: GEO Epoche
Nhưng không phải tất cả các học sinh đều dùng bạo lực – cũng là vì họ sợ trở thành nạn nhân của những thầy giáo muốn trả thù sau cuộc nổi loạn. Nhưng Mao cũng lôi kéo cả họ về phía của ông ấy: vào ngày 13 tháng 6, ông ấy cho ra quy định, rằng bắt đầu từ bây giờ, trong lúc phân bổ chỗ học đại học cần phải chú ý nhiều hơn nữa đến “tính vô sản” của những người xin học. Nói cách khác đi: ai muốn học đại học phải tham gia vào cuộc Cách mạng Văn hóa.Đồng thời, ông ấy cho ngưng dạy học trong trướng. “Giới trẻ nhận được thức ăn”, ông ấy nói. “Với thức ăn, họ có năng lượng, và họ muốn nổi loạn. Họ còn phải làm gì nữa ngoài việc làm náo loạn?”Bạo lực tăng lên. Vào ngày 18 tháng 6, Hồng Vệ Binh làm nhục 60 giáo sư và cán bộ ở Bắc Kinh. Các “bạo chúa học giả” bị bêu trên các bục gỗ với chiếc “mũ ô nhục” – những chiếc mũ bằng giấy có hình nón có viết những lời mắng nhiếc và lên án. Mãi đến khi một nhóm làm việc can thiệp, “cuộc họp phê bình đấu tranh” mới chấm dứt. Nhưng thường thì các cán bộ của Lưu không thể ngăn chận được những cuộc tấn công. Ở Bắc Kinh, các cán bộ chỉ kiểm soát được có chín trong số 54 trường đại học – ngoài ra, ở khắp nơi họ đều bị đuổi đi.
Sự căm ghét của học sinh và sinh viên hướng đến trước hết là tới những nhà sư phạm với “lý lịch giai cấp xấu”: như chống lại con cái của các địa chủ trước đây – như Biện Trọng Vân.
“Tôi bị tra tấn, bị đánh, bị đá bốn, năm giờ đồng hồ liền”, bà ấy viết cho giới lãnh tụ Đảng. Những người khác khiếu nại ở cảnh sát. Nhưng cả Đảng lẫn cơ quan nhà nước đều không bảo vệ thầy cô. Vì Bộ trưởng Bộ An ninh Công cộng, một người thân cận của Mao, đã ra lệnh cho cảnh sát làm ngơ trước những hành động bạo lực của Hồng Vệ Binh. Vì thế mà cho tới ngày 25 tháng 6, chỉ riêng trong các trường học của Bắc Kinh đã có gần 1000 thầy cô bị đánh đập hay lâm vào trong cảnh ấu đả với học sinh.
Đồng hành: Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Lâm Bưu tham gia hỗ trợ cuộc cách mạng của Mao – và hy vọng sẽ kế tục ông ấy. Ảnh: GEO Epoche
Đồng hành: Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Lâm Bưu tham gia hỗ trợ cuộc cách mạng của Mao – và hy vọng sẽ kế tục ông ấy. Ảnh: GEO Epoche
Mao, người vẫn còn ở miền Nam của Trung Quốc, được tường thuật tỉ mỉ về chiến dịch. Trong một bài thơ, ông ấy ca ngợi cuộc Cách mạng Văn hóa như là “làn sóng chấn động của bão táp và sấm sét, khiến thế giới ngạc nhiên”. Thời khắc tái sinh của ông ấy đã đến rồi,Mặt trời đã đứng cao trên thành phố Vũ Hán khi Mao bước lên khỏi làn nước màu nâu của Trường Giang vào ngày 16 tháng 7 năm 1966. Sau này, báo chí Trung Quốc sẽ khẳng định rằng người Chủ tịch Vĩ đại đã bơi 15 kilômét trong vòng hơn một giờ đồng hồ. Sau đó, trong một chiếc áo choàng tắm màu trắng, con người 72 tuổi đấy vẫy tay chào những người đang đứng xem. Hàng ngàn người đã đến để nhìn ông ấy. “Lãnh tụ Mao kính yêu của chúng ta rất khỏe mạnh, khiến nhân dân Trung Quốc đầy vui mừng”, tờ “Nhân dân Nhật báo” ca ngợi.Lần tắm trong Trường Giang là một thông điệp gửi đến các đối thủ của Mao: người Chủ tịch Vĩ đại mạnh khỏe và nhất quyết đấu tranh.
Hai ngày sau đó, ông ấy trở về Bắc Kinh. Còn trong đêm, ông ấy đã gặp những người thân cận, chỉ Lưu Thiếu Kỳ là ông từ chối không cho diện kiến.
Ngay sau đó, Mao giải tán các nhóm làm việc – vì họ muốn dập tắt ngọn lửa nổi dậy. Bây giờ thì không còn ai giữ giới thanh thiếu niên lại cả.
Còn Lưu? Ông ấy phải tự lên án mình trước những người của cuộc Cách mạng Văn hóa, vì những cái được cho là lỗi lầm của các nhóm làm việc. Bây giờ thì ông biết rằng lần lật đổ mình chỉ còn là câu hỏi của những tuần tới đây mà thôi.
Đầu tháng 8, Mao lại triệu tập Trung ương Đảng. Lần họp này đã trở thành tòa án cho các đối thủ của ông ấy. Trong lúc họp, ông ấy lần đầu tiên viết một tờ báo tường. Đó là một cuộc tấn công chống lại “một số đồng chí nhất định”, những người đã vi phạm tinh thần của cuộc Cách mạng Văn hóa – và là một lời kêu gọi Hồng Vệ Binh hãy trừng phạt họ. Tít của tấm áp phích “Oanh tạc các trụ sở!”
Đó cuối cùng cũng là lời tuyên chiến với Lưu, với những người theo ông ấy và tất cả các cán bộ cũ. Nó được đăng vào ngày 5 tháng 8 năm 1966. Ngày cuối cùng trong cuộc đời của người cô giáo Biện Trọng Vân.
Tẩy não: Ngay đến những đứa bé trong nhà trẻ cũng đã thấm nhuần rằng các em phải chào mừng cuộc Cách mạng Văn hóa. Ảnh: GEO Epoche
Tẩy não: Ngay đến những đứa bé trong nhà trẻ cũng đã thấm nhuần rằng các em phải chào mừng cuộc Cách mạng Văn hóa. Ảnh: GEO Epoche
VÀO KHOẢNG 13 GIỜ 30 vào cái ngày 5 tháng 8 đấy, nữ Hồng Vệ Binh của trường nữ trung học trên đường Erlong đã đẩy Bian và bốn người đồng nghiệp của bà ra ngoài giữa cái nóng bức của buổi trưa. Họ lặng lẽ đi củng với các nạn nhân của họ đến sân thể thao, để tiến hành một cuộc diễu hành hạ nhục “băng nhóm đen” này. Mặt của bốn thầy cô bị vẽ đầy bằng mực, chỉ còn nhìn thấy mắt và răng. Họ đội những chiếc nón ô nhục trên đầu.Khi đoàn người tới sân, lượng người đứng xem hẳn đã lên đến một vài trăm.Bây giờ, những kẻ làm nhục bắt buộc thầy cô của họ phải hét lên: “Tôi đi trên con đường tư bản!”, “Tôi xứng đáng bị đánh!”, “Cái đầu chó của tôi đáng bị đập vỡ!” Tại mỗi một câu, Bian phải đánh vào một cái hót rác; nếu như bà ấy nói không đủ to, các nữ sinh của bà ấy sẽ đánh bà bằng những cây gậy gắn đầy đinh. Vào lúc đầu chỉ có vài chục Hồng Vệ Binh, thế nhưng trên đường đi ngày càng có nhiều cô gái nhập bọn với họ. Chẳng bao lâu sau đó, các nữ sinh chơi một trò chơi khác. Thầy cô của họ bây giờ khuân những cái thùng rác nặng. Ai quá chậm chạp, hạ thùng xuống hay đứng lại, người đấy sẽ cảm nhận được những cây đinh.
Có lẽ đó là sự nóng nực, cũng có lẽ vì kiệt sức: chẳng bao lâu sau đó, Bian không còn có thể chịu đựng gánh nặng của mình nữa. “Tôi phải làm gì bây giờ?”, bà sợ hãi hỏi một nữ đồng nghiệp.
Các nữ sinh đánh bà, cứ đánh và đánh, như trong cơn say. Khi Bian ngã quỵ xuống, một nữ Hồng Vệ Binh đá bà bằng giày ủng quân đội của mình và hét to: “Mày không thoát khỏi tay chúng tao đâu!” Rồi các cô gái ăn kem.
Trong lúc đó, Bian phải lau chùi nhà vệ sinh. Nhưng trước khi có thể cầm lấy cái bàn chải thì bà đã ngất xỉu và quỵ xuống trên sàn gạch men.
“Mày giả vờ!”, người canh gác bà hét lên. “Mày chỉ giả vờ chết thôi!”
Các nữ Hồng Vệ Binh đổ một xô nước lạnh như băng lên người cô giáo, nhưng họ không còn có thể đánh thức bà ấy dậy được nữa. Cuối cùng, các cô gái quẳng thân thể của Bian lên một chiếc xe chở rác. Mặt thủy tinh của cái đồng hồ đeo tay của bà ấy đã vỡ. Kim chỉ giờ ngừng lại vào lúc 15 giờ 42.
Máu rịn ra từ miệng của Bian, mắt trắng dã. Nhưng bà ấy vẫn còn sống.
Mặc dù bệnh viện gần nhất chỉ cách đấy vài bước chân, mãi đến tối người ta mới mang bà ấy đến. Nhiều giờ sau khi bà ấy đã chết. “Không rõ nguyên nhân”, một bác sĩ ghi chú trên tờ khai tử.
Vào buồi tối, c cùng với một vài nữ sinh đồng học đến gặp một bí thư của Đàng ủy Bắc Kinh và tường thuật lại cho ông ấy vụ việc. “Đã thế rồi”, ông ấy nói và khuyên: “Giữ kín tin này, thế thì tác động sẽ có giới hạn thôi.”
Thế nhưng Mao không hề nghĩ đến việc ngăn chận bạo lực lại. “Hãy tin vào quần chúng”, ông yêu cầu ba ngày sau đó trong một phiên họp toàn thể của Trung ương Đảng. “Trong bất cứ trường hợp nào cũng đừng sợ sự lộn xộn. Một cuộc cách mạng không phải là một buổi tiệc chiêu đãi khách, không phải là viết luận văn, không phải là vẽ tranh hay thêu khăn. Nó không thể được tiến hành một cách có chừng mực, có phép tắc, lịch sự và nhân từ. Một cuộc cách mạng là một cuộc nổi dậy, một hành động bạo lực mà qua đó một giai cấp lật đổ một giai cấp khác.”
Đó chính tờ tuyên bố cho phép toàn quyền hành động.
Trong phiên họp, Mao cũng tiếp tục cuộc chiến trả thù các đối thủ của ông: trong lần bầu cho Bộ Chính trị, Lưu Thiếu Kỳ rơi lại xa ở phía sau trong hệ thống cấp bậc của Đàng. Lâm Bưu tiến lên thành số hai mới. Bành Chân bị chính thức cách chức – và tổng bí thư Đặng ngay sau đấy cũng bị tước quyền lực.
Chậm nhất là sau lần xuất hiện này của Mao, đối thủ của ông ấy câm lặng – hay còn biến đổi trở thành những người ủng hộ cuộc cách mạng mới. Không ai còn an toàn nữa.
Bây giờ, người Chủ tịch bắt đầu giai đoạn kế tiếp của cuộc Cách mạng Văn hóa của mình. Vào ngày 18 tháng 8, Mao, Giang và Lâm xuất hiện trên “Quảng trường Thiên An Môn”. Một triệu học sinh đã tụ về để nhìn thần tượng của họ. Họ vẫy quyển Sách Đỏ nhỏ và họ gọi to “Chủ tịch muôn năm!” Và: “Phương Đông hồng!”
Trong số các Hồng Vệ Binh được phép gặp cá nhân Mao cũng có một người 18 tuổi. Tống Bân Bân.
Hạ nhục: Những dấu hiệu của sự nhục nhã lúc nào cũng giống nhau. Những người bị cho là kẻ phản bội bị trét mực và phải đứng nghe chửi mắng. Các tấm bảng công bố danh tính và tội phạm của họ. Ảnh: GEO Epoche
Hạ nhục: Những dấu hiệu của sự nhục nhã lúc nào cũng giống nhau. Những người bị cho là kẻ phản bội bị trét mực và phải đứng nghe chửi mắng. Các tấm bảng công bố danh tính và tội phạm của họ. Ảnh: GEO Epoche
Chính người dẫn đầu nhóm vệ binh đã hành hạ Biện Trọng Vân cho tới chết đó đã đeo cho Mao một cái băng tay của Hồng Vệ Binh. Và qua đó đã nhận ông ấy làm thành viên danh dự trong đội ngũ của họ.Báo chí tường thuật, rằng Mao đã yêu cầu cô con gái đó, người mà tên của cô ấy có nghĩa là “dịu dàng và lịch sự”, hãy đổi tên mình thành “muốn chiến tranh”. Chỉ qua đên, Tống Yêu Vũ, như cô ta bây giờ thường được gọi, đã trở thành một người nổi tiếng khắp thế giới. Cả trường trung học của cô ấy cũng được đổi tên – thành “Trường Quân sự Đỏ”.Ở Bắc Kinh, khủng bố đỏ bùng nổ sau lần xuất hiện của Mao, và đội Vệ Binh lên đường để lan truyền nó đi trong các thành phố của Trung Quốc. Các cuộc biểu tình cũng kéo qua trên các đường phố của những thị trấn nhỏ hơn. Với trống, đuốc và pháo. Giới thanh thiếu niên thực hiện nhiệm vụ của Mao giao, xây dựng một xã hội mới và xóa đi “bốn cái cũ”: lối suy nghĩ cũ, văn hóa cũ, thói quen cũ, phong tục cũ.
Đường phố và các tòa nhà công cộng được đổi tên, biển bị đập tan bằng búa và được thay thế bằng biển mới: như “Đường của bốn sự hài hòa”  được Hồng Vệ Binh đổi thành “Đường của bốn cái mới”. Bây giờ Mao cũng xúi giục thanh thiếu niên chống lại các nghệ sỹ, “trí thức” và người khá giả. Và ông ấy ra lệnh cho cảnh sát và quân đội phải tiếp tục để cho đội Vệ Binh hành động.
Người nước ngoài bị rượt đuổi xuyên qua thành phố, ni cô bị trục xuất, nhà ngoại giao bị đánh đập. Ai để tóc dài sẽ bị Hồng Vệ Binh cạo trọc.
Trong cuộc đấu tranh của họ chống những cái được cho là tiêu khiển “tiểu tư sản”, giới thanh thiếu niên quá khích đã thành lập một đất nước không có niềm vui. Họ cấm chơi cờ, trồng hoa và trình diễn múa ba lê, thêm vào đó là sưu tập tem, taxi, quảng cáo bằng đèn neon, ô tô xa xỉ, ảnh của các cô gái, trang sức, nước hoa, áo váy dạ hội – cũng như đi chơi trong vườn bách thú, vì “thú có hại ở đấy ăn những thịt có thể phục vụ cho nhân dân như là thức ăn.”
Họ đẩy những đôi yêu nhau ra khỏi ghế trong công viên, vì những người đấy có một ai đó khác với Mao trong con tim. Và cấm đóng dấu lên trên những tem thư có hình đầu của Mao. Họ xông vào nhà ở, đốt sách, cắt vụn tranh và dẫm nát đĩa nhạc và các loại nhạc cụ. Chỉ riêng ở Bắc Kinh trong tháng 8 và tháng 9 năm 1966 đã có 34.000 căn hộ bị phá tan hoang và 1772 người bị giết chết.
Ở Sơn Đông, các vệ binh đã làm ô uế ngôi đền tại nơi sinh của Khổng Tử, nhà triết học tượng trưng cho nền văn hóa nhiều ngàn năm của Trung Quốc.
Có nhiều thanh thiếu niên được yêu cầu đi trộm cắp để phục vụ cho nước Cộng hòa Nhân dân. Vì vàng, trang sức, tiền bạc bị cướp về sẽ được trưng thu vào công quỹ – cổ vật, sách, thảm, tranh được bán ra nước ngoài. Madame Mao lấy một chiếc đồng hồ bằng vàng 18 carat từ những thứ thu được, vị chủ tịch tự lấy tròn 1000 quyển sách cổ cho thư viện cá nhân của mình. Thường Hồng Vệ Binh nhận được các địa chỉ trực tiếp từ Đảng.
Vào ngày 23 tháng 8 năm 1966, một nhóm xông vào nhà của Hội Nhà văn và bắt giữ hai mươi tác giả – trong đó có Lão Xá, một “nghệ sĩ nhân dân” 69 tuổi. Các Hồng Vệ Binh dùng dây treo những tấm bảng xỉ nhục lên cổ nạn nhân của họ. Rồi họ đánh những người bị làm nhục cho tới một ngôi đền. Ở đấy, họ bị thanh thiếu niên, nhiều người trong số này là thiếu nữ, hành hạ và chửi mắng trước một ngọn lửa.
Những người khác bị đám côn đồ giết chết ngay trong căn hộ của họ, bị hành hạ trong các phòng tra tấn được dựng riêng lên cho việc này trong nhà hát, sân vận động và rạp chiếu bóng. Họ tổ chức những cuộc duyệt binh hạ nhục với họ và hành hạ họ bằng những phương pháp mà họ gọi là “vị trí máy bay”, “xúp ớt”, “băng ghế cọp Nhật”.
Hay họ đẩy họ đến chỗ tự vẫn: trong tháng 9, người ta cho rằng chỉ riêng trong Thượng Hải đã có 704 vụ tự tử vì lý do chính trị. Con cái tố giác cha mẹ và qua đó đẩy họ vào chỗ chết. Và ngay những người con cũng bị bắt buộc phải đến xem hành hình.
Có những tấn bi kịch tàn nhẫn đã xảy ra. Như việc nữ bác sĩ nọ đã dùng dao mổ cắt động mạch máu cổ cha của bà theo lời khẩn nài của ông ấy: để cuối cùng ông ấy cũng có thể được giải thoát khỏi cảnh bị khủng bố và hành hạ. Hia ngày liền, ông ấy đã bị thanh thiếu niên hành hạ trong nhà của ông ấy. Vì ông ấy cho thuê một căn phòng nên đối với họ, ông ấy là một “tư sản”.
Tòa án: Trong tháng 11 năm 1968, con trai của một cựu bí thư Đảng ở Cáp Nhĩ Tân bị lên án công khai là đã bảo vệ cha mình trong một bức thư nặc danh. Người ta treo tấm bảng "Tên phản cách mạng Ouyang Xiang" lên cổ anh ấy. Khi muốn tự vệ, anh ấy bị bịt miệng lại. Vài ngày sau đó anh ấy rơi xuống từ một cửa sổ – được cho là đã tự tử. Ảnh: GEO Epoche
Tòa án: Trong tháng 11 năm 1968, con trai của một cựu bí thư Đảng ở Cáp Nhĩ Tân bị lên án công khai là đã bảo vệ cha mình trong một bức thư nặc danh. Người ta treo tấm bảng “Tên phản cách mạng Ouyang Xiang” lên cổ anh ấy. Khi muốn tự vệ, anh ấy bị bịt miệng lại. Vài ngày sau đó anh ấy rơi xuống từ một cửa sổ – được cho là đã tự tử. Ảnh: GEO Epoche
Bây giờ, nhiều người Trung Quốc tự tiêu hủy toàn bộ sở hữu của họ. Vì cung cách hành xử của đội Vệ Binh ngày càng hà khắc hơn. Họ tự ý bắt giam “kẻ thù giai cấp”: người bán dạo, xin ăn, cán bộ Đảng, nhân viên nhà nước, phụ nữ nội trợ – hay bất cứ ai họ gặp.Nguyên do nhỏ nhất cũng đủ là bằng chứng cho “quan điểm phản cách mạng”: vì người ta sở hữu trò chơi mạt chược, sách, bình hoa bằng cẩm thạch hay quần áo cổ truyền; vì người ta không thuộc một lời trích dẫn của vị Đại Chủ tịch, treo một tấm ảnh Mao đã hư hỏng lên hay vô ý dẫm lên một tờ truyền đơn có lời nói của Mao.Đã từ lâu, sự tôn sùng người Chủ tịch đã có những hình thái lố bịch: chẳng bao lâu sau, mỗi một người Trung Quốc đều phải có một quyển “Mao Chủ tịch ngữ lục”. Tổng cộng có tám tỉ ảnh chân dung, huy hiệu và phù hiệu với hình của ông ấy đã được sản xuất.
Ngay cả trên đồng hồ báo thức hay chén ăn cũng có gương mặt tròn của người Chủ tịch Vĩ đại. Phim tuyên truyền ca ngợi suy nghĩ của Mao như là “quả bom nguyên tử tinh thần”, vâng, còn là phương pháp trị liệu cho bệnh điếc. Mỗi buổi sáng, hàng triệu người Trung Quốc cúi mình ba lần trước bức ảnh của người đứng đầu Đảng và xin chỉ thị của ông ấy cho ngày đấy.
Một vài học sinh thảo luận, liệu bất cứ người Trung Quốc nào cũng phải cần nhận họ của Mao hay không. Những người khác bãi bỏ giao thông bên phải trên một vài đường phố; trong tương lai người ta phải đi ở bên trái, bên của “giai cấp vô sản”. Nhưng những người theo Mao  phải từ bỏ ý tưởng đó: có quá nhiều tai nạn.
Giới thanh thiếu niên cách mạng đối xử với quá khứ của Trung Quốc bằng cuốc, xà beng và búa,  như đập vỡ đầu một bức tượng Phật trong vườn của khu dinh thự mùa Hè của các hoàng đế ngày xưa. Chỉ riêng ở Bắc Kinh, trong số 6843 di tích lịch sử tồn tại qua được cuộc cách mạng đã có 4922 cái bị phá hủy – từ cổng thành cho tới dinh thự.
Bảo tàng và thư khố cháy rụi. Đền thờ và nhà thờ cũng vậy. Nhà thờ Hồi giáo biến thành chuồng nuôi heo.
Trong tháng 12, trước hàng chục ngàn Hồng Vệ Binh đang la hét,  người thị trưởng mới của Bắc Kinh đã thóa mạ hàng trăm cán bộ Đảng như là “cặn bã của Đảng và loài người” – trong số đó có Bành Chân, người tiền nhiệm của ông ấy và Ngô Hàm, tác giả của vở kịch “Hải Thụy bãi quan” (Bành sẽ sống sót qua được cuộc Cách mạng Văn hóa, Ngô ngược lại chết trong tù năm 1969).
Vào ngày 22 tháng 1 năm 1967, Bộ trưởng Bộ Công nghiệp Than, một kẻ thù của Giang Thanh, đã bị một đám đông giận dữ truy đuổi. Với những con dao nhỏ, Hồng Vệ Binh đã cứa nát da của ông ấy, đeo lên cổ của ông ấy một cái lò than nặng, cái kéo ông ấy xuống đất, cuối cùng đánh chết ông ấy.
Bây giờ, cuộc Cách mạng Văn hóa cũng lan đến giới vô sản thành thị. Đặc biệt ở Thượng Hải đã thành hình nhiều nhóm nổi loạn trong nhà máy. Công nhân yêu cầu tăng lương, điều kiện làm việc tốt hơn – và những chuyến đi nghỉ mát được trả tiền, để thu thập kinh nghiệm cách mạng.
Chẳng bao lâu sau đó họ còn cùng với Hồng Vệ Binh chiếm lấy quyền lực trong thành phố lớn này. Trong các thành phố khác, những người nổi loạn đi theo gương mẫu đấy.
MAO HÂN HOAN VUI MỪNG. Ông ấy đã mơ ước về cuộc Cách mạng Văn hóa và cuộc đấu tranh giai cấp như thế. Nhưng rồi bạo lực bùng phát trong các tỉnh. Vì trong sự lộn xộn cách mạng, ai cũng có thể tuyên bố mình là người nổi loạn. Học sinh, công nhân, những người theo các cán bộ cũ, sinh viên từ những gia đình trung thành với chính sách và con cái của các gia đình tiểu tư sản. Và ngay Hồng Vệ Binh cũng chia rẽ. Các phân nhóm nhanh chóng rơi vào những cuộc cãi vả với nhau.
Nhục nhã: chiếc mụ nhọn bêu rếu những người bị lên án. Có những cán bộ nào đó luôn bị lôi ra giới công cộng, thống đốc Li Fanwu (ở giữa) tổng cộng là 2000 lần. Ảnh: GEO Epoche
Nhục nhã: chiếc mụ nhọn bêu rếu những người bị lên án. Có những cán bộ nào đó luôn bị lôi ra giới công cộng, thống đốc Li Fanwu (ở giữa) tổng cộng là 2000 lần. Ảnh: GEO Epoche
Bây giờ cuộc cách mạng đã thoát khỏi sự kiểm soát của Mao. Vì cả trong các thành phố, những người quá khích thường chống lại các nhóm ôn hòa, là những người bảo vệ các cán bộ được yêu mến hay có nhiều thành công. Cuối tháng 1 năm 1968, Trung Quốc đứng trước một cuộc nội chiến.Chỉ quân đội là có thể chấm dứt được cảnh lộn xộn. Vì người của Lâm luôn luôn đoàn kết trong hàng ngũ của họ, lúc nào cũng đi theo Mao.Nhưng nói chung là cuộc cách mạng cần phải đi đến đâu? Có những sĩ quan nào đó bây giờ hoài nghi về chính sách quá khích của Mao. Để ngăn chận sự sụp đổ của nhà nước và nền kinh tế, nhiều người trong giới quân đội nghiên về phía của những người ôn hòa. Và họ nắm lấy quyền chủ động.
Vẫn còn trong tháng 1, giới lãnh đạo quân đội trong tỉnh Hắc Long Giang đã thành lập một “ủy ban cách mạng” bao gồm các chuyên gia có nhiều kinh nghiệm và một vài Hồng Vệ Binh như là chính phủ địa phương.
Chậm nhất là trong mùa Xuân, Mao, người trước đó gần một năm đã gây ra sự lộn xộn này,  cũng nhận thấy chính mình bị đe dọa bởi việc này. Ông ấy lo sợ lực hút của một bạo lực vô chính phủ, cái có thể kéo phăng đi tất cả. Cả ông ấy, người Chủ tịch Vĩ đại. Vì thế mà bây giờ ông ấy đồng ý đi đến sự chừng mực.
Vào ngày 10 tháng 3 năm 1967, giới lãnh đạo quân đội với sự đồng ý của ông ấy đã tuyên bố rằng trong tương lai tất cả các tỉnh cần phải được điều hành bởi một ủy ban cách mạng. Đấy là lúc quân đội bắt đầu chiếm lấy quyền lực một cách hầu như không che đậy. Vì các ủy ban cách mạng thường do sĩ quan lãnh đạo, được hỗ trợ bởi những cán bộ Đảng có thâm niên. Phe “cánh tả” hầu như không tham gia.
Trong lúc đấy, những cuộc đấu tranh ác liệt của các phe phái với hàng trăm ngàn người tham gia vẫn tiếp tục diễn ra, như ở Thượng Hải, nơi trên 100.000 người “cánh tả” theo chỉ thị của Mao đã bao vây khoảng 25000 đối thủ đang tụ tập trong khu đất của một nhà máy và dùng cây sắt để đánh đập họ. Có hàng trăm người bị thương nặng và chết.
Mao nhận thấy rằng ông ấy không thể thành lập những nhóm cánh tả ở khắp nơi. Cũng chính vì hiện giờ trong một vài vùng không còn ai có thể nói được rằng nhóm nào trong số những nhóm đang tranh dành quyền lực thuộc “cánh tả” và nhóm nào thuộc “cánh hữu”.
Bây giờ, quân đội tái lập trật tự: họ dần dần chiếm lĩnh các tỉnh nổi loạn.
Đội hành hình: Trong tháng 4 năm 1968, những người bị cho là "phản cách mạng" bị xử bắn ở Hắc Long Giang. Cho tới năm 1976, có khoảng ba triệu người là nạn nhân của cuộc Cách mạng Văn hóa. Ảnh: Geo Epoche
Đội hành hình: Trong tháng 4 năm 1968, những người bị cho là “phản cách mạng” bị xử bắn ở Hắc Long Giang. Cho tới năm 1976, có khoảng ba triệu người là nạn nhân của cuộc Cách mạng Văn hóa. Ảnh: Geo Epoche
Trong tháng 10 năm 1967, Mao cảm ơn Hồng Vệ Binh: họ đã đập tan các cấu trúc quan liêu cũ và qua đó đã làm tròn nhiệm vụ của họ. Nhưng bây giờ ông ra lệnh cho họ tiếp tục đi học ở trường học và đại học – và là với cùng những nhà sư phạm đó, những người trước đây đã bị học sinh phê phán và tấn công.“Thầy cô phần lớn là tốt”, theo như một chỉ thị. Cả “những người đã phạm lỗi cũng được phép tiếp tục làm việc, nếu như họ sửa đổi cách đối xử của họ”.Nhưng những cuộc đấu đá lẫn nhau trong giới thanh thiếu niên không để cho người ta chấm dứt một cách đơn giản như thế. Nhiều người vẫn tiếp tục chống lẫn nhau, kịch liệt và thường cả với vũ khí.
Trong tháng 5 năm 1968, con trai cả của Đặng, Phác Phương, bị Hồng Vệ Binh bắt và bị bịt mắt dẫn đến trường Đại học Bắc Kinh. Ở đó, anh ấy phải “nhạo báng” người cha của mình trước một tòa án. Thế nhưng người con trai 24 tuổi khước từ, cuối cùng có thể trốn thoát được và rơi từ cửa sổ xuống – bị liệt nửa người, anh ấy nằm lại trên sân trường. Mãi ba năm sau đó anh ấy mới được phép về Giang Tây, nơi cha mẹ của anh ấy bị lưu đày đến đó, và là nơi mà từ đấy trở đi anh ấy được cha chăm sóc cho mình.
Để làm dịu bớt tình hình, chỉ riêng ở các trường trung học và đại học Bắc Kinh, bây giờ Mao dùng 30.000 công nhân và quân lính. Tuy vậy, những cuộc đấu tranh vẫn thường xuyên bùng nổ trở lại.
Vào ngày 28 tháng 7 năm 1968, ông ấy triệu tập những người dẫn đầu có nhiều ảnh hưởng của Hồng Vệ Binh vào Nhân dân Đại Hội đường. Ông ấy gay gắt khiển trách họ: “Tôi gọi các người đến đây là để chấm dứt bạo lực trong các trường đại học. Trong một vài cơ sở đào tạo cao cấp vẫn còn có xung đột bạo lực. Nếu như có một vài người nào đó không để cho người khác khuyên can mình, thì họ là kẻ cướp. Nếu họ cứ tiếp tục ngoan cố chống lại thì phải tiêu diệt họ.”
Lời đe dọa hết sức rõ ràng: ai bây giờ không tuân lệnh sẽ bị trừng phạt nặng nề. Người Chủ tịch Vĩ đại không còn muốn biết gì về đạo quân đi bộ của cuộc Cách mạng Văn hóa của mình nữa.
Vài tháng sau đó, Mao ra lệnh cho giới thanh thiếu niên “trí thức” của Trung Quốc rời nơi ở của họ và đi về nông thôn – để học hỏi người nông dân, người ta nói thế. Nhưng thật ra thì ông ấy muốn dứt bỏ đám tay sai làm loạn của ông ấy. Hồng Vệ Binh phân tán ra trên khắp miền đất nước Trung Quốc.
Trong khi trật tự dần dần trở lại trong Bắc Kinh, ở các tỉnh vẫn còn luôn xảy ra những cuộc chiến ác liệt giữa những người nổi loạn và quân đội cũng như lực lượng dân quân dưới quyền của họ. Ví dụ như trong vùng Quảng Tây ở miền Nam Trung Quốc, nhiều phần lớn của thành phố Nam Ninh đã bị phá hủy bởi xe tăng. Quân đội Giải phóng Nhân dân tàn phá thành phố Ngô Châu bằng pháo binh và napalm, rồi những người chiến thắng hành hình hàng ngàn người nổi loạn.
Chỉ riêng ở Quảng Tây đã có hơn 70.000 người nổi loạn và thường dân chết, cũng như 30.000 người lính và dân quân. Bằng cách này, Hồng Vệ Binh đã bị đập tan trong tất cả các vùng đất của Trung Quốc. Đó là một cuộc nội chiến đẫm máu mà trong đó không phải những người nổi loạn và Hồng Vệ Binh gây ra những cuộc thảm sát tàn nhẫn nhất, mà là quân đội của Lâm Bưu. Mãi đến mùa Xuân 1969, quân đội cũng chiến thắng trong các tỉnh.
Vào ngày 1 tháng 4, một đại hội của ĐCS tuyên bố rằng cuộc Cách mạng Văn hóa đã “giành được một chiến thắng lớn lao”. Tuy vậy, Lâm Bưu vẫn yêu cầu các đại biểu hãy cảnh giác, vì “giai cấp chiến bại sẽ tiếp tục chiến đấu”.
Mao được tuyên bố trở thành chủ tịch suốt đời, Lâm Bưu là người kế thừa ông ấy. Và Giang Thanh là người phụ nữ đầu tiên được cử vào trong Bộ Chính trị.
Sau ba năm bạo lực khủng bố, người Chủ tịch Vĩ đại lại đứng đầu nước Cộng hòa Nhân dân trong mùa Xuân 1969. Trong liên minh với những kẻ quan liêu và sĩ quan cũ.
Với “Chiến thắng lớn” của Mao, giai đoạn chiến đấu của cuộc Cách mạng Văn hóa đã chấm dứt – thời gian của những vụ hạ nhục ở nơi công cộng và của cuộc nội chiến. Nhưng thời của những cuộc truy lùng, của những lời kết tội và bắt bớ tùy tiện thì không. Ví dụ như Bộ An ninh Công cộng vẫn còn điều tra mười triệu người cho tới giữa những năm 1970, 3,5 triệu người bị bắt giam. Vì người ta cho rằng họ là những người phản cách mạng hay người thiên tả.
Hân hoan chiến thắng: Năm 1969, Mao lại đứng đầu ĐCS mà không ai dám tranh giành nữa. Ông gửi Hồng Vệ Binh về làm việc ở nông thôn, như ở đây trong vùng Mãn Châu. 16 triệu thanh thiếu niên vì thế mà đã không được đào tạo. Ảnh: GEO Epoche
Hân hoan chiến thắng: Năm 1969, Mao lại đứng đầu ĐCS mà không ai dám tranh giành nữa. Ông gửi Hồng Vệ Binh về làm việc ở nông thôn, như ở đây trong vùng Mãn Châu. 16 triệu thanh thiếu niên vì thế mà đã không được đào tạo. Ảnh: GEO Epoche
Cố gắng của Mao, tiêu diệt những người đồng hành ngày xưa và tạo một xã hội mới, đã khiến cho khoảng ba triệu người chết – thầy cô giáo, học sinh, cán bộ Đảng và Hồng Vệ Binh. Đảng của thời Vạn lý Trường Chinh không sống sót qua được thời hỗn loạn: khi cuộc Cách mạng Văn hóa được tuyên bố chấm dứt vào năm 1976, hàng trăm ngàn cán bộ Đảng đã chết, bị lưu đày hay bị tước quyền lực.Nền văn hóa cũ của đất nước cũng không còn tồn tại nữa: nhiều tượng hình và đền thờ đã mất đi vĩnh viễn. Cả một thế hệ Trung Quốc lớn lên trong bầu không khí khinh rẻ nghệ thuật, học vấn, kiến thức và lịch sử. Con người mặc áo khoác đồng phục màu xanh nước biển, họ bị cấm mang bất cứ thứ trang sức nào.Mao chuẩn bị một kết thúc tàn nhẫn cho đối thủ lớn nhất của mình, Lưu Thiếu Kỳ. Người Chủ tịch nước nhiều lần bị hạ nhục công khai. Đích thân ông Chủ tịch đã cho người viết những lời xỉ vả bằng những hàng chữ to lớn lên trên nhà của Lưu; rồi hàng ngàn thanh thiếu niên cắm trại ở nhà của ông ấy, cuối cùng bắt giữ ông ấy và bắt buộc ông ấy phải “tự phê bình”.
Bắt đầu từ năm 1967, ông ấy ốm nặng trong tù biệt lập, bị đói khát và thiếu ngủ hành hạ. “Lưu đánh răng bằng lược và xà phòng, mặc tất lên trên giày và quần lót ra ngoài quần dài”, những người canh gác ông ấy viết cho Mao, người thường xuyên để cho báo cáo về tình trạng sức khỏe của ông ấy.
Tháng 10 măm 1968, khi Lưu không còn có thể tự ăn uống được nữa, Mao để cho Trung ương Đảng khai trừ ông ấy ra khỏi Đảng và tước chức vụ chủ tịch nước. Một năm sau đó, Lưu qua đời trong tình trạng lẫn trí.
Cả Lâm Bưu cũng là nạn nhân của cuộc cách mạng đó, cái mà ông ấy luôn luôn hỗ trợ nó. Năm 1971, ông ấy qua đời trong một vụ rơi máy bay mà cho đến nay vẫn chưa được làm sáng tỏ; lâu nay ông ấy đã có quá nhiều quyền lực đối với người sếp của Đảng.
Ngược lại, một kẻ thù của Mao lại được phục hồi: Đặng Tiểu Bình, người cùng với vợ đã bị lưu đày về tỉnh Giang Tây trong tháng 10 năm 1969 và làm việc trong một nhà máy chế tạo xe máy kéo ở đó. Sau cái chết của Lâm Bưu, ông ấy xin phép được trở về Bắc Kinh.
Trong tháng 3 năm 1973, người Chủ tịch thực sự đã gọi ông ấy trở về và để cho làm phó thủ tướng. Vì Mao cần một chính trị gia có năng lực và vẫn còn được coi trọng trong Đảng.
Giới thanh thiếu niên bị đày đi nông thôn sau cơn say cách mạng trải qua sự thất vọng của một “thế hệ bị đánh mất”. Tổng cộng có tròn 16 triệu người Trung Quốc trẻ tuổi phải sống năm đến mười năm trong những vùng hẻo lánh của đất nước họ. Nhiều người trong số họ không được đào tạo tốt, hầu như không có ai trong số đó học đại học. Phần lớn sau này phải kiếm sống bằng những công việc được trả lương thấp hay hoàn toàn không có việc làm.
Nhiều cựu Hồng Vệ Binh cho tới nay vẫn không nói về những hành động của họ – cũng như Đảng. Tuy ĐCS đã lên án cuộc Cách mạng Văn hóa năm 1981, nhưng họ không muốn làm rõ các tội phạm. Cuối cùng thì cũng có nhiều con cái của các quan chức cao cấp và trung cấp đã tham gia.
Để không phải tìm nguyên nhân và những người phạm tội, nhiều người Trung Quốc cho tới ngày nay vẫn hiểu điều cấm kỵ lớn nhất trong nước Cộng hòa Nhân dân như là một dạng thảm họa thiên nhiên, như một cơn động đất chính trị đã lay động Trung Quốc dữ dội. Nhưng một trận động đất là số phận.
Trong các thập niên tới đây, họ sẽ không sợ gì bằng một lần lập lại của cuộc Cách mạng Văn hóa. Ngay đến những cuộc biểu tình vô hại đối với họ bây giờ cũng giống như những báo hiệu trước của một hỗn loạn về chính trị.
TỐNG BÂN BÂN, một trong các nữ Hồng Vệ Binh ở trường trung học nữ sinh trên đường Erlong ở Bắc Kinh – trường mà cô giáo Biện Trọng Vân đã bị giết chết ở đấy vào ngày 5 tháng 8 năm 1966 –, rời Trung Quốc năm 1980 để đi học đại học ở Phương Tây. Cô ấy là một trong những người phụ nữ đầu tiên được phép đi học ở một trường đại học Mỹ. Sau này, cô làm việc cho một cơ quan Mỹ. Trong một cuốn phim tài liệu, cô ấy giải thích rằng ngay từ lúc đầu, cô ấy đã chống lại bạo lực, đã không tham gia vào các cuộc khám xét nhà ở.
Trong thời gian từ 1978 đến 1989, Wang Jingyao, chồng góa của Biện Trọng Vân, cố gắng lôi những người có tội trong cái chết của vợ ông ấy ra chịu trách nhiệm trước tòa. Nhưng không thành công.
Trong một cái va li, người giáo sư vẫn còn giữ cho tới ngày nay bộ quần áo mà vợ của ông ấy mặc trong ngày cuối cùng: chiếc áo bị trét đầy mực, quần lốm đốm máu. Trong một cái hộp nhỏ, ông ấy giữ cái đồng hồ đeo tay đã vỡ của bà ấy.
Wang muốn bảo quản các vật đó cho tới chừng nào mà người Trung Quốc rồi cũng bắt đầu nói – về cảnh khủng khiếp đã bắt đầu vào ngày 5 tháng 8 năm 1966 đó.

(Còn tiếp)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét