Thứ Hai, 21 tháng 12, 2015
DU LỊCH QUÁ KHỨ 6/f (Nam Kỳ-Lục Tỉnh)
Mạc Cửu
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Lưu vong sang Đại Việt
Nói về Mạc Cửu, sách Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức chép:- Hà Tiên vốn là đất cũ của Chân Lạp, tục gọi là Mường Khảm, tiếng Tàu gọi là Phương Thành
- Ban đầu có người tên là Mạc Cửu gốc xã Lê Quách, huyện Hải Khang, phủ Lôi Châu, tỉnh Quảng Đông, vào thời Đại Thanh, niên hiệu Khang Hy thứ 19 (1680), nhà Minh mất hẳn (nhưng mãi đến năm Khang Hy thứ 19, vùng Quảng Đông mới bình định xong). Mạc Cửu không khuất phục chính sách buổi đầu của nhà Đại Thanh, mới chừa tóc rồi chạy qua phương Nam, trú tại phủ Nam Vang nước Cao Miên. Ông thấy ở phủ Sài Mạt của nước ấy, người Việt, người Trung Hoa, Cao Miên, Đồ Bà (Chà Và) các nước tụ tập mở trường đánh bạc để lấy xâu, gọi là thuế hoa chi, bèn thầu mua thuế ấy, lại còn đào được một hầm bạc nên bỗng trở thành giàu có. Từ đó ông chiêu mộ dân Việt Nam lưu tán ở các xứ Phú Quốc, Lũng Kỳ (hay Trũng Kè, Lũng Cả -réam), Cần Bột (Cần Vọt - Kampôt), Hương Úc (Vũng Thơm - Kompong Som), Giá Khê (Rạch Giá), Cà Mau lập thành bảy xã thôn. Tương truyền ở đây thường có tiên xuất hiện trên sông, do đó mới đặt tên là Hà Tiên (tiên trên sông)
- Khi nhà Minh bị diệt, gần như cùng lúc với Trần Thượng Xuyên ở Cù lao Phố, Dương Ngạn Địch ở Mỹ Tho, Mạc Cửu - một thương gia trẻ - cũng bỏ nước ra đi. Đến vùng Chân Lạp, ông bỏ tiền ra mua chức Ốc Nha và làm quan tại đây. Tuy nhiên do tình hình Chân Lạp hết sức rối ren, ông bỏ Nam Vang về phủ Sài Mạt...
Lập Quốc tại Hà Tiên
Cũng theo sách vừa dẫn trên, thì:- Vốn có óc tổ chức, Mạc Cửu chiêu tập dân xiêu tán người Hoa, Việt mở phố xá, xây thành lũy, đẩy mạnh khai hoang lập ra bảy thôn trải dài ven biển từ Kompongsom (Chân Lạp) về tận Cà Mau.
- Với chủ trương để cho dân khai hoang tự do, không thu tô thuế, chỉ đứng ra tổ chức mua sản phẩm để bán lại cho khách buôn. Chính điều này đã quy tụ dân cư đến Mang Khảm ngày càng đông. Ghe thuyền các nơi, kể cả nước ngoài đến mua bán tấp nập. Sự thịnh vượng khiến cho đất này gặp tai họa.
- Trong khoảng thời 1687-1688, quân Xiêm vào cướp phá Mương Khảm, bắt Mạc Cửu đưa về Xiêm ở Vạn Tuế Sơn (tác giả sách Nghiên cứu Hà Tiên có ý kiến khác, xem bên dưới). Sau đó, ông trốn về Lũng Kỳ (Lũng Cả), dân xiêu tán tụ về với ông ngày một đông, nhưng do địa thế chật hẹp, khoảng năm 1700, ông trở về Phương Thành (Hà Tiên)
- Năm 1680, Mạc Cửu đã lập ấp rải rác từ Vũng Thơm, Trủng Kè, Cần Vọt, Rạch Giá, Cà Mau. Hà Tiên trở thành thương cảng quan trọng, thôn ấp định cư nằm sát mé biển, thuận tiện cho ghe thuyền tới lui, hoặc ở đất cao theo Giang thành, sông Cái Lớn, sông Gành Hào, Ông Đốc để canh tác. Ông lập ra 7 sòng bạc dọc bờ biển: Mán Khảm, Long Kỳ, Cần Bột, Hương Úc, Sài Mạt, Lình Quỳnh và Phú Quốc (đảo Koh Tral). Thủ phủ đặt tại Cảng Khẩu (còn gọi là Mán Khảm, Kan Kao, Căn Khẩu, Căn Kháo, Căn Cáo) .Tiếng đồn vang xa, lưu dân gốc Hoa từ khắp nơi trong vịnh Thái Lan xin vào đây lập nghiệp, dần dần vùng đất này trở thành một lãnh địa phồn vinh với tên gọi mới: Căn Khẩu Quốc. Đảo Koh Tral cũng đổi tên thành Phú Quốc (vùng đất giàu có).
Thần phục chúa Nguyễn
Sách Gia Định thành thông chí chép:
- Mạc Cửu sai thuộc hạ là Trương Cầu, Lý Xá dâng biểu trần trình lên kinh đô Phú Xuân khẩn cầu xin được đứng đầu trông coi đất ấy.
- Tháng 8 mùa thu năm thứ 18 Mậu Tý (1708), chúa Nguyễn Phúc Chu, chuẩn ban cho Mạc Cửu làm Tổng binh trấn Hà Tiên và phong tước là Cửu Ngọc hầu. Mạc Cửu lo xây dựng dinh ngũ và đóng binh tại Phương Thành (Hà Tiên), từ đó dân càng qui tụ đông đúc.
- Tháng 4 mùa hạ năm thứ 21, Tân Mão (1711), Tổng binh trấn Hà Tiên Cửu Ngọc hầu Mạc Cửu đến cửa khuyết tạ ơn.
- Tháng 5 mùa hạ năm thứ 11, Ất Mão (1735) đời chúa Nguyễn Phúc Chú Tổng binh Hà Tiên Cửu Ngọc hầu Mạc Cửu mất, thọ 80 tuổi, con trưởng dòng chánh là Mạc Tông tự là Thiên Tứ (hiệu Sĩ Lân Thị, Thụ Đức Hiên) dâng cáo tang
Nghiên cứu mới
Tác giả (Trương Minh Đạt) căn cứ vào lời tựa của Hà Tiên thập vịnh, do Mạc Thiên Tứ viết năm 1737: Trấn Hà Tiên ở An Nam xưa thuộc về đất hoang vu xa xôi. Từ khi đất Tiên quân (chỉ Mạc Cửu) khai sáng đến nay hơn ba mươi năm, người dân mới được an cư, biết đo lường trồng trọt, để suy ra rằng Mạc Cửu không thể ở và mở mang xứ Hà Tiên sớm hơn năm 1700.
Việc Mạc Cửu "cũng không ở Nam Vang xuyên suốt", ông Đạt giải thích:
Bởi năm 1687, Phó tướng Hoàng Tiến nổi loạn giết chết chủ tướng Dương Ngạn Địch, rổi chiếm lĩnh dòng sông Tiền, phong tỏa đường đi Nam Vang và cướp bóc người Cao Miên, khiến họ căm ghét. Thêm nữa, năm 1688, tại Nam Vang xảy ra một sự kiện: "Với sự giúp đỡ của Việt Nam và một đơn vị lính đánh thuê người Hoa, Ang Non (Nặc Nộn) đã có một cố gắng nữa để chiếm ngôi vua. Mặc dù chiếm được Nam Vang, Ang Non không thể giành được thắng lợi quyết định" .
Do đó, ông Đạt cho biết, người Miên ở trong thành nổi giận, họ truy lùng người Hoa để tàn sát. Biến cố này quá ác liệt đến nỗi Mạc Cửu phải tìm đường thoát thân. Vì sông Cửu Long bị phong tỏa nên Mạc Cửu phải trốn chạy qua Xiêm. Ông được vua Xiêm cho ra bãi Vạn Tuế Sơn ở khoảng mười năm, đến năm 1699, Mạc Cửu mới về Lũng Kỳ, mở ra 7 xã thôn.
Và theo ông thì sách Hà Tiên Mạc thị sử của thi sĩ Đông Hồ đã nhầm lẫn khi cho rằng quân Xiêm tấn công Mang Khảm (Hà Tiên) vào năm 1674, bắt ông Cửu và gia quyến sang Xiêm, bởi khi đó Mạc Cửu còn ở Nam Vang, và năm 1674, ở Hà Tiên không xảy ra biến cố quan trọng. Mãi đến năm 1718, theo Gia Định thành thông chí (mục Lũng Kỳ Giang), thì mới xảy ra biến loạn. Sách này chép: Tháng 2 năm Mậu Tuất (1718), Phi nhã Cù Sa đem 5.000 thủy binh hợp đồng với quân Thâm cướp đường kéo xuống Hà Tiên cướp phá. Mạc Thống binh không địch nổi phải tạm xuống Lũng Kỳ...Người vợ của Mạc Cửu là Bùi Thị Lẫm (người xã Đồng Môn hay Đồng Mun, thuộc trấn Biên Hòa) đương có thai, đêm mồng 7 tháng 3 sinh ra Mạc Tông (Mạc Thiên Tứ)..
Mạc Cửu không bị Xiêm bắt, điều đó cũng đã được Mạc thị gia phả của Vũ Thế Dinh xác nhận:
- Tướng nước Tiêm (Xiêm La) thấy ông Thái Công (Mạc Cửu) người có vẻ hùng nghị, nên rất yêu mến, rồi dụ khéo ông đem về nước, ông bất đắc dĩ phải theo về Tiêm La. Vua thấy dung mạo ông, rất vui mừng và giữ ông ở đấy. Sau ông phải nói khéo với những bầy tôi thân cận của vua nước Tiêm, xin cho ông ra ở nơi bãi bể núi Vạn Tuế, thuộc địa của nước Tiêm. Chợt gặp lúc nước Tiêm có nội biến, ông mới ngầm đem những người dân theo ông cùng về đất Long Cả (Lũng Kỳ)
Gia quyến
Không biết Mạc Cửu có bao nhiêu vợ, chỉ biết theo Gia định thành thông chí, thì ông có người vợ tên Bùi Thị Lẫm, người huyện Đồng Môn (Biên Hòa) và sinh được con trai đầu lòng tên Mạc Sĩ Lân tức Mạc Thiên Tứ. Căn cứ bia mộ của bà ở khu mộ dòng họ Mạc ở núi Bình San (Hà Tiên), do chính Mạc Thiên Tứ lập, thì bà được chúa Nguyễn cho phép mang họ Nguyễn.Ghi công
- Nghĩ vịnh Mạc Cửu và Mạc Thiên Tích
- Trích:
- Chẳng đội trời Thanh Mãn
- Lần qua đất Việt bang
- Triều đình riêng một góc
- Trung hiếu vẹn đôi đường
- Trúc thành xây vũ lược
- Anh Các cao văn chương
- Tuy chưa là cô quả
- Mà cũng đã bá vương
- Bắc phương khi vỡ lở
- Nam hải lúc kinh hoàng
- Giang hồ giữa lang miếu
- Hàn mạc trong chiến trường
- Đất trời đương gió bụi
- Sự nghiệp đã tang thương..
- Trang này được sửa đổi lần cuối lúc 06:55 ngày 16 tháng 12 năm 2015.
Mạc Thiên Tứ
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Khi cha ông qua đời (1735), lúc ấy ông đã 29 tuổi, ông nối nghiệp cha mở mang đất Hà Tiên, được chúa Nguyễn Phúc Trú phong chức Tổng binh Đại đô đốc. Ông tiếp tục sự nghiệp khai khẩn miền Tây Nam Bộ, biến vùng đất Hà Tiên trở thành đất văn hiến, phồn vinh, nhiều lần chống trả lại các cuộc tấn công của các lân bang Xiêm La và Chân Lạp.
Tranh chấp với Xiêm La
Năm 1767, quân Miến Điện tiến chiếm Xiêm La bắt được vua Xiêm là Phong vương (Boromoraja V) và con là Chiêu Đốc, thiêu hủy thành Ayutthaya, nhưng sau đó phải rút về vì Miến Điện bị Trung Quốc tấn công. Hai người con của Phong vương là Chiêu Xỉ Khang chạy thoát sang Chân Lạp và Chiêu Thúy sang Hà Tiên lánh nạn. Sau đó, Trình Quốc Anh (vốn là người Hoa gốc Triều Châu), là Phi Nhã (xã trưởng) đất Mang Tát thuộc Xiêm La, khởi binh chống lại quân Miến rồi tự xưng vương năm 1768. Trình Quốc Anh (Taksin) tổ chức lại lực lượng, chiêu mộ rất nhiều hải tặc gốc Hoa đang hoạt động trong Vịnh Thái Lan để tăng cường lực lượng. Trình Quốc Anh muốn triệt hạ uy lực của gia đình Mạc Thiên Tứ tại Hà Tiên vì đó là một đe dọa và là địch thủ lợi hại cho uy quyền của ông.Năm 1768, lấy cớ truy lùng một Hoàng tử Xiêm La, Trình Quốc Anh mang quân tiến chiếm Hòn Đất, bắt giam và tra tấn nhiều giáo sĩ Công giáo để tìm nơi trú ẩn của Chiêu Thúy, đồng thời sai tướng Chất Tri (sau này là vua Rama Chakri tức là Rama I của Thái Lan) mang quân bảo hộ Chân Lạp và đưa Nặc Ông Nộn (Ang Non II) lên làm vua. Nặc Tôn (Outey II) chạy về Gia Định lánh nạn. Quân của Trình Quốc Anh đã ở lại Hòn Đất ba tháng để truy lùng vị Hoàng tử Xiêm lưu vong nhưng không tìm ra. Trước khi rút về nước, Trình Quốc Anh cho thành lập trên đảo một căn cứ hải quân và để lại một toán cướp biển nghe ngóng tình hình, tìm cơ hội đánh chiếm Phú Quốc và Hà Tiên.
Năm 1765, giáo sĩ Bá Đa Lộc (Béhaine de Pigneau) đã thành lập tại Hòn Đất một chủng viện nhỏ với khoảng 40 giáo dân Việt, Xiêm và Hoa sống trong mấy ngôi nhà bằng tre. Năm 1767, Bá Đa Lộc cho vị hoàng tử Xiêm trú ẩn trong chủng viện.
Năm 1769, quân Khmer dưới sự chỉ đạo của một cướp biển người Triều Châu tên Trần Liên đổ bộ lên cướp phá Hòn Đất, rồi kết hợp với hai gia nhân của Mạc Thiên Tứ (Mạc Sung và Mạc Khoán), tiến đánh Hà Tiên. Hai gia nhân làm phản và một số lớn cướp biển Khmer bị Thiên Tứ giết chết, Trần Liên thoát được chạy sang Xiêm La tị nạn. Lợi dụng cơ hội này Mạc Thiên Tứ chuẩn bị đưa hoàng tử Chiêu Thúy về Xiêm La đoạt lại ngôi báu. Ông cho luyện tập binh mã rồi mang quân ra chiếm lại Hòn Đất (1770) và chuẩn bị tiến công Xiêm La.
Công việc đang tiến hành thì vào đầu năm 1771, một cận thần của Mạc Thiên Tứ tên Phạm Lam nổi lên làm phản. Phạm Lam kết hợp với hai cướp biển Trần Thái (Vinhly Malu, người Mã Lai) và Hoắc Nhiên (Hoc Nha Ku, người Khmer) lập đảng gồm 800 người và 15 tàu thuyền tiến vào Hà Tiên nhưng bị Mạc Thiên Tứ đánh bại.
Giữa năm 1771, nhận thấy những đám cướp biển không đánh lại Mạc Thiên Tứ, Trình Quốc Anh dùng Trần Liêm làm hướng đạo, đích thân chỉ huy đạo quân 20.000 người tiến chiếm Hà Tiên. Trình Quốc Anh thiêu rụi thành phố, chiếm tất cả các đảo lớn nhỏ quanh Hà Tiên, mang về rất nhiều vàng bạc. Con cháu, hầu thiếp và người con gái út của Mạc Thiên Tứ bị Trình Quốc Anh bắt sống đem về Bangkok. Mạc Thiên Tứ cùng các con trai phải rút về Rạch Giá, cho người về Gia Định cầu cứu chúa Nguyễn.
Năm 1772, chúa Nguyễn đem khoảng 10.000 quân cùng 300 chiến thuyền sang Chân Lạp đánh quân Xiêm và đưa Nặc Ông Tôn lên ngôi. Trình Quốc Anh làm áp lực tại Hà Tiên buộc quân Việt phải dừng chân tại Nam Vang không được tiến xa hơn. Sau cùng hai bên đi đến một thỏa thuận: chúa Nguyễn rút quân khỏi Chân Lạp và chấp nhận để Nặc Ông Nôn (Ang Non II), người được vua Xiêm chỉ định, lên ngôi vua, còn quân Xiêm rút khỏi Hà Tiên. Năm 1773, Trình Quốc Anh rút quân khỏi Hà Tiên, Phú Quốc và Hòn Đất, trả lại người con gái bị bắt làm tù binh cho Mạc Thiên Tứ, nhưng buộc Mạc Thiên Tứ phải giao hoàng tử Chiêu Thúy cho quân Xiêm. Chiêu Thúy bị Trình Quốc Anh mang về Bangkok hành quyết.
Năm 1774, Giám mục Bá Đa Lộc trở về Hòn Đất thành lập họ đạo, năm sau ông được Mạc Thiên Tứ tiếp đãi trọng hậu và cho phép đi giảng đạo khắp Hà Tiên.
Lưu vong và mất tại Xiêm La
Vào khoảng năm 1776, khi quân Tây Sơn tiến công vào Gia Định, truy kích tàn quân của chúa Nguyễn, Mạc Thiên Tứ cùng Tôn Thất Xuân chạy sang Xiêm. Nhưng tháng 4 năm 1780, vua Xiêm là Taksin (Trịnh Quốc Anh) nghi ngờ ông làm gián điệp cho Gia Định, bắt giết các con lớn của ông là Mạc Tử Hoàng, Mạc Tử Dung cùng các phó tướng Tôn Thất Xuân, Tham, Tịnh và 50 người tùy tùng, chỉ để lại con nhỏ là Mạc Tử Sanh và một cháu nhỏ bắt phải đi đày. . Quá phẫn uất, ông tự tử tại Băng Cốc. Về sau Mạc Tử Sanh được thả, trở về Gia Định phò giúp Nguyễn Ánh, được phong chức Tham tướng trấn thủ vùng Trấn Giang, có tiếng là tướng giỏi dù chỉ mới 19 tuổi, nhưng mất sớm. .Công lao
Mở cõi
Năm 1739, quốc vương Chân Lạp là Nặc Bồn (hay Nặc Bôn) mang tới đánh Hà Tiên. Mạc Thiên Tứ điều động binh sĩ chiến đấu suốt ngày đêm. Vợ chánh Mạc Thiên Tứ là Nguyễn Thị Hiếu Túc đốc sức vợ binh lính chuyển khí cụ và lương thực cho binh sĩ...Quân xâm lấn tan, họ Mạc được chúa Nguyễn khen ngợi, đặc cách cử ông làm Đô đốc tướng quân và ban cho áo bào đỏ cùng mũ, đai. Bà vợ ông cũng được phong làm phu nhân (Hiếu Túc Thái Phu Nhân).Năm 1747, giặc biển Đức Bụng vào cướp phá vùng ven biển đạo Long Xuyên (Cà Mau) cũng bị đội quân của Mạc Thiên Tứ đánh đuổi.
Năm 1756, quốc vương Chân Lạp là Nặc Nguyên uy hiếp người Côn Man (người Chiêm Thành di cư sang Chân Lạp), nhưng bị tướng Nguyễn Cư Trinh đánh bại, phải chạy sang Hà Tiên nương nhờ họ Mạc. Mạc Thiên Tứ dâng thư lên chúa Nguyễn, nói Nặc Nguyên có ý muốn dâng đất Tầm Bôn, Lôi Lạp để chuộc tội. Chúa Nguyễn đồng ý và cho người hộ tống Nặc Nguyên về nước. Hai vùng đất đó trở thành hai phủ Gò Công và Tân An.
Năm 1757, Nặc Nguyên mất, chú họ là Nặc Nhuận làm giám quốc, từ lâu có ý muốn làm vua Chân Lạp, liền dâng hai xứ Preah Trapeang và Basac (tức vùng Trà Vinh, Ba Thắc). Nhưng lúc đó, Nặc Nhuận bị con rể giết chết cướp ngôi. Con trai là Nặc Tôn chạy sang cầu cứu Hà Tiên. Mạc Thiên Tứ đứng ra sắp xếp, xin chúa Nguyễn cho Nặc Tôn làm vua Chân Lạp. Chúa Nguyễn thuận và sai Mạc Thiên Tứ cùng tướng sĩ năm dinh hộ tống đưa Nặc Tôn về nước. Để tạ ơn, Nặc Tôn dâng Tầm Phong Long (vùng đất giữa Sông Tiền và Sông Hậu) cho chúa Nguyễn. Riêng họ Mạc, Nặc Tôn dâng năm phủ Hương Úc, Cần Bột, Trực Sâm, Sài Mạt và Lình Quỳnh để đền ơn giúp đỡ. Mạc Thiên Tứ đem hết đất ấy dâng cho Chúa Nguyễn. Chúa Nguyễn cho sảt nhập vào Hà Tiên trấn, giao cho họ Mạc cai quản. Mạc Thiên Tứ chia đất đó thành hai đạo: xứ Rạch Giá là Kiên Giang đạo, xứ Cà Mau là Long Xuyên đạo, đặt quan cai trị, chiêu lập dân ấp.
Ngoài ra, từ 1775 đến 1777, Mạc Thiên Tứ đã cùng các con là Mạc Tử Dung, Mạc Tử Hoàng, Mạc Tử Thảng (hoặc Thượng) phò tá chúa Nguyễn Phúc Thuần, đóng giữ ở Trấn Giang (nay là Cần Thơ) và dốc sức phát triển vùng đất này.
Phát triển kinh tế
Sách Đại Nam liệt truyện tiền biên ghi:- Bính Thìn năm thứ 11 (1736). Mùa xuân chúa cho Thiên Tứ làm Hà Tiên trấn Đô đốc, ban cho ba thuyền Long Bài, được miễn thuế, lại sai mở lò đúc tiền để việc mua bán được thông thương. Thiên Tứ mở rộng phố chợ, thương nhân và lữ khách các nước tụ họp rất đông.
Đóng góp cho văn học
Cùng với Trần Trí Khải tự Hoài Thủy, một danh sĩ người Việt Đông (Trung Quốc), Mạc Thiên Tứ đã tổ chức thành công Tao đàn Chiêu Anh Các vào năm 1736 ở Hà Tiên. Kể từ đó cho tới năm 1771, tao đàn trên đã đóng góp cho nền văn học Việt nhiều tác phẩm có giá trị, như: 'Hà Tiên thập cảnh, Thụ Đức Hiên tứ cảnh, Hà Tiên thập cảnh khúc vịnh, Minh bột di ngư...Về năm sinh...
Mạc Thiên Tứ sinh năm Mậu Tuất (1718). Điều này được biên chép trong các sách sau:- Sách Hà Tiên trấn Hiệp trấn Mạc thị gia phả của Vũ Thế Dinh , soạn vào năm 1818, ghi:
- Sách Gia Định thành thông chí do Trịnh Hoài Đức soạn khoảng 1820, chép:
Trong một đoạn khác, tác giả ghi rõ ngày tháng diễn ra trận giặc trên như sau: “Tháng 2 mùa xuân năm Mậu Tuất (1718), Phi nhã Cù Sa đem 5000 thủy binh cùng Nặc Ông Thâm tiến về Hà Tiên nhân thế mà cướp bóc, Mạc Tổng binh không địch nổi, chạy về Lũng Kỳ...
Ngoài ra, còn hai quyển nữa, là:
- Gia phả Hà Tiên bằng chữ Nôm của Trần Đình Quang, hoàn thành cuối thế kỷ 19, hiện đang được bảo quản tại Đông Hồ Thi Nhân Kỷ Niệm Đường ở Hà Tiên. Nơi tờ 4a của sách, có chi tiết liên quan.
- Một người Trung Quốc ở vùng Nam Hải, người sáng lập xứ Hà Tiên của GS Émile. Gaspardone, Quản đốc Thư viện Trường Viễn Đông Bác Cổ ở Hà Nội (nay là Thư viện của Viện Hán Nôm Việt Nam). Trong sách có câu: "Sinh năm 1718, Mạc Thiên Tứ chết năm 1780, thì ông chỉ có 62 tuổi" (xuất bản 1952, tr. 354, phụ chú 5)
- Trang này được sửa đổi lần cuối lúc 06:59 ngày 16 tháng 12 năm 2015.
Truyền thuyết dân gian trên đảo Phú Quốc
Truyền thuyết dân gian trên đảo Phú Quốc
Truyền thuyết dân gian của một vùng đất được hình thành từ thiên nhiên, con người, những sự kiện diễn ra trong đời sống, sinh hoạt hàng ngày và những sự kiện lịch sử. Truyền thuyết có thể để giải thích một hiện tượng thiên nhiên, về tên gọi, địa danh dân gian, để ca ngợi truyền thống của một sự kiện lịch sử, các nhân vật để lại dấu ấn đối với địa phương, về tập tục sinh hoạt của địa phương; đồng thời cũng có những truyền thuyết nhằm đề cao cái thiện, lên án cái ác thông qua những vị thần, các loài ma quỉ… Truyền thuyết dân gian có thể gắn với sự thật lịch sử, nhưng cũng có những cái hoàn toàn hư cấu.
Trên đảo Phú Quốc, chúng ta cũng gặp những truyền thuyết theo dạng trên mà một phần lớn gắn với địa danh dân gian. Đặc biệt là Phú Quốc là nơi chứng kiến những sự kiện bi hùng của Tây Sơn và chúa Nguyễn, là nơi dung thân của Nguyễn Ánh trên bước đường bôn ba phục quốc và cũng là nơi chứng kiến những sự kiện bi hùng của nghĩa quân Nguyễn Trung Trực. Do đó trong hệ thống truyền thuyết của Phú Quốc có một tỷ lệ khá lớn về các nhân vật lịch sử của các thời kỳ ấy.
Về Phú Quốc, đi vào trong dân gian, chúng ta có thể nghe kể về các truyền thuyết sau:
– Truyền thuyết về thời mở đất
Truyền thuyết về thời mở đất ở Phú Quốc, chúng ta thấy tương đối sớm là truyền thuyết về đá chữ, truyền thuyết về Bà Kim Giao, Đồng Bà và những con trâu rừng. Truyền thuyết về việc khai thác huyền và trầm hương. Thời mở đất của Phú Quốc tương đối dài nên việc xác định truyền thuyết thời mở đất chấm dứt khi nào cũng khá khó khăn. Ở đây, chúng ta có thể kể về việc khai phá, xây dựng xóm ấp và cả một thời kỳ dài khai thác đảo để có diện mạo như hôm nay.
Truyền thuyết về Bà Kim Giao, Đồng Bà và các cọc trâu, những con trâu rừng, truyền thuyết về đá chữ đã được nhắc đến trong phần địa danh dân gian. Một phần khá lớn truyền thuyết gắn với sự kiện mở đất đều khá trùng với truyền thuyết về địa danh dân gian, bởi khi đặt tên một địa điểm nào đó, người ta thường dựa trên một đặc điểm hay một sự kiện nào đó, mà những sự kiện ấy lưu truyền từ đời này qua đời khác bị biến dạng đi thành những truyền thuyết. Đồng thời cũng có không ít trường hợp người sau sáng tác ra một sự kiện nào đó để giải thích cho địa danh, một sự vật, hiện tượng.
Trong việc khai thác huyền và trầm hương còn để lại một số câu chuyện rất gần với sự thật đã trở thành truyền thuyết. Chúng ta biết rằng vùng Rạch Tràm Phú Quốc có mỏ huyền, mà chất huyền ở đây được thế giới đánh giá là rất tốt, từ đó có một số người nước ngoài về đây khai thác huyền, chủ yếu là người Hà Lan, Trung Quốc. Vào lúc đó, huyền là một loại nguyên liệu hiếm và quý, mà việc vào Rạch Tràm với nhiều loài thú dữ, rừng thiêng, nước độc để khai thác huyền không phải là chuyện dễ dàng. Từ đó có những cuộc tranh cướp nhau giữa những người khai thác. Người dân Phú Quốc và Hà Tiên còn truyền khẩu về một cuộc cướp huyền trên biển làm cho nhiều người Tây Dương chết, thuyền chìm trôi dạt về các đảo.
Về nghề khai thác trầm hương cũng không kém phần gian khổ, có những chuyện kể về người đi tìm trầm ở trong rừng Bắc đảo Phú Quốc bị chết vì rừng thiêng, thú dữ. Hiện nay, loài cây có thể sinh ra trầm hương vẫn còn khá nhiều trên đảo Phú Quốc, có những người Campuchia sang lén lút khai thác trầm, nhưng chỉ là gỗ chứ không phải trầm lõi, trầm chính phẩm. Hầu hết số người khai thác này đều bị lực lượng Biên phòng, Kiểm lâm bắt giữ, tịch thu. Người ta còn kể về những người đi tìm trầm ngày xưa bị trăn quấn, bị cọp vồ, bị ma làm cho lạc lối… Nhìn chung, những câu chuyện truyền thuyết này thường có một mô týp chung với những vùng rừng thiêng ở các nơi khác.
– Truyền thuyết gắn với Gia Long:
Trên bước đường bôn ba phục quốc của mình, Nguyễn Ánh không ít lần ghé và trú ngụ tại đảo Phú Quốc. Nếu Nguyễn Ánh không trở thành một vị vua đầu tiên của triều Nguyễn thì sự kiện ông ở Phú Quốc sẽ ít người nhắc đến. Nhưng vì sau đó, Nguyễn Ánh đã trở thành vua Gia Long và triều Nguyễn đã dành cho Phú Quốc những chính sách khá ưu đãi nên dấu ấn của Nguyễn Ánh khá đậm đà trên đảo và có những truyền thuyết về vị “Chân mệnh thiên tử’ này. Có những truyền thuyết gắn với sự thật lịch sứ, cũng có những câu chuyện thêu dệt, gán ghép để tôn vinh vị vua này mà chúng ta có thể thấy ở rất nhiều nơi trên vùng đất Nam bộ, đó là: Câu chuyện về Giếng Ngự hay giếng Gia Long, chuyện về chiếc ngai vua, về sự tích mũi ông Đội, chuyện về bầy cá hộ tống, bảo vệ vua, chuyện về một cơn bão cứu vua thoát nạn… Hầu hết các câu chuyện đó đều nói lên rằng Gia Long được trời phù hộ phục quốc. Nhưng có câu chuyện về bà thứ phi Phi Yến thì lại có màu sắc khác: “Tương truyền khi Nguyên Ánh về đến Phú Quốc, ông cho người cầu viện quân Pháp giúp mình đánh lại Tây Sơn, bà thứ phi Phi Yến tên thật là Lê Thị Răm đã can ngăn nên Nguyễn Ánh không hài lòng và bạc đãi bà. Phi Yến có người con tên Cải (Hoàng tử Cải), không may, Hoàng tử Cải bệnh chết, Nguyễn Ánh càng ghét bỏ bà. Khi Nguyễn Ánh dời quân đi đã bỏ bà lại, coi như là đày bà vì tội cãi lại lệnh vua. Từ đó, người ta cho rằng câu ca dao: “Gió đưa cây cải về trời, Rau răm ở lại chịu lời (đời) đắng cay” có xuất xứ từ Phú Quốc và để nói về việc bà thứ phi tên Răm này. Hiện nay, tại chùa Sùng Hưng có một ngôi miếu đặt bài vị thờ bà Phi Yến, nhân dân coi bà là người yêu nước, sáng suốt, không muốn có việc nhờ thế lực ngoại bang tạo cảnh tang thương cho nước nhà. Thực ra câu ca dao trên không thể nói một cách chắc chắn là để nhắc sự kiện hoàng tứ Cải và bà Phi Yến, chẳng qua có sự trùng hợp về một loài cải hoang mà ta gọi là cải “trời” giống như kim thất nấu canh ăn rất ngon và cây rau răm mà thôi. Câu ca dao này có xuất xứ từ trước của Việt Nam, rất phổ biến ở các tỉnh phía Bắc. Có lẽ ai đó đọc câu ca dao trên rồi gắn với sự kiện Gia Long ở Phú Quốc.
– Truyền thuyết gắn với Nguyễn Trung Trực
Sau chiến thắng vang dội tiêu diệt đồn Kiên Giang năm 1868, thực dân Pháp đánh chiếm lại đồn, nghĩa quân Nguyễn Trung Trực phải lui về Hòn Chông rồi ra Phú Quốc xây dựng căn cứ kháng chiến. Sau đó, thực dân Pháp đưa quân ra Phú Quốc bao vây, đánh chiếm, Nguyễn Trung Trực đã phải nạp mình để cứu dân. Sự kiện vị anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực xây dựng căn cứ kháng chiến ở Phú Quốc đã để lại một dấu ấn khá sâu đậm trong lòng nhân dân Phú Quốc, từ đó, nhiều chuyện kể, truyền thuyết về nghĩa quân Nguyễn Trung Trực đã được lưu truyền. Nhưng cũng có một số người do quá yêu mà thêu dệt thêm, hoặc gán ghép một số địa danh với cuộc kháng chiến của nghĩa quân Nguyễn Trung Trực.
Cho đến hôm nay, khi ra đến Phú Quốc, chúng ta còn nghe kể về câu chuyện Nguyễn Trung Trực đặt con ở bọng cây sao với nải chuối vàng để nếu có ai đó gặp mang về nuôi giúp. Truyền thuyết này gắn với truyền thuyết về Bà lớn – tướng Lê Kim Định – sanh con thiếu sữa rồi chết. Thậm chí cách đây không lâu có người còn muốn tìm lại nải chuối vàng của ông Nguyễn. Về sự kiện Nguyễn Trung Trực rơi vào tay giặc cũng có nhiều truyền thuyết khác nhau. Có người cho rằng do Huỳnh Công Tấn bắt mẹ của ông, rồi vì chữ hiếu, ông phải ra nộp mình. Cũng có truyền thuyết cho rằng Huỳnh Công Tấn bắt giết dân, mỗi ngày giết 10 người, do đó, vì thương dân, không muốn dân phải chết oan uổng nên ông phải ra. Cũng có truyền thuyết cho rằng ông đã bị bắt sau một trận ác chiến với quân thù. Về việc tự ra nộp mình, truyền thuyết cho rằng ông tự trói mình bằng dây rau muống biển… Sau khi Nguyễn Trung Trực bị hành hình, các truyền thuyết về cái chết của ông, về sự hiển linh của Nguyễn Trung Trực cùng nghĩa quân làm cho quân Pháp mất ăn, mất ngủ, về việc nghĩa quân cướp xá cũng được truyền tụng trong nhân dân Phú Quốc.
– Truyền thuyết về những nhân vật có tiếng khác
Ngoài truyền thuyết về một nhà sư vân du để lại một bài kệ trên vách đá mà ta biết chắc chắn đó là sự hư cấu của người dân, ở Phú Quốc có sự kiện đốc phủ sứ Ngô Minh Chiêu, quận trưởng Phú Quốc được Cao Đài Tiên ông khai thông huệ nhãn để khai sáng đạo Cao Đài mà ông được gọi là anh cả trong 12 phái tiên thiên. Sự kiện chỉ diễn ra vào thập niên 20 của thế kỷ 20, chưa đủ độ dày về thời gian để ông thành một nhân vật huyền thoại, nhưng Ngô Minh Chiêu cùng với những truyền thuyết về sự khai sáng một tôn giáo mới ở miền Nam quả đáng cho chúng ta tìm hiểu. Phú Quốc cũng có một nhân vật rất đáng cho chúng ta nhắc đến như là một hiện tượng về tính cách hài hước trong dân gian. Đó là ông Xã Dóc mà những người lớn tuổi của Phú Quốc vẫn còn nhắc đến. Xã Dóc tên thật là gì thì chúng tôi chưa tra ra được, nhưng vào thập niên 30 của thế kỷ 20, ở Phú Quốc có một viên xã trưởng tính tình rất vui nhộn, ông hay cường điệu những việc làm của mình cũng như hay kể chuyện cường điệu về quê hương, sản vật địa phương… Từ đó, người dân địa phương gọi ông là ông Xã Dóc, có nghĩa là ông xã nói dóc. Ông cũng tự hào về biệt danh được nhân dân đặt cho mình. Mô týp truyện kể của ông XÃ/DÓC rất gần với một số nhân vật ở Nam bộ như ông Ó ở Bến Tre, Bác Ba Phi ở Cà Mau. Điển hình như việc ông vượt biển từ Phú Quốc về Hà Tiên bằng mai con vít, về các mẻ cá trúng, về các con vật ìớn quá kích cỡ, về sự thâm nghiêm của núi rừng Phú Quốc, về các loài cây to, về sự giàu có của Phú Quốc và vùng biển Hà Tiên, Phú Quốc… Nhìn chung, chúng ta có thể thấy các truyện kể của Xã Dóc mang tính lạc quan và sự tự hào về quê hương giàu đẹp của mình. Tiếc rằng chuyện ông Xã Dóc kể và chuyện kể về ông Xã Dóc không được ghi chép lại một cách có hệ thống và đầy đủ để lưu truyền lại cho hậu thế.
Miễu Cô Sáu:
Cách An Thới độ vài cây số có một ngôi miếu trên một triền dốc, nhân dân địa phương gọi là miễu Cô Sáu, dốc ấy gọi là dốc Cô Sáu. Ngời ta đồn rằng Cô Sáu rất linh thiêng, có những đêm trăng, người ta thấy Cô Sáu hiện về dạo chơi trên dốc. Cô còn phù hộ cho những ai thành tâm, tin tưởng Cô. Cho đến nay, không ai còn biết sự tích về Miêu Cô Sáu, nhưng nhân dân cứ cúng bái và coi đó như là một vị nữ thần gần giống như tục thờ bà ở các nơi khác.
Sự thật là vào khoảng năm 1950, Cô Sáu là một giáo viên tại Rạch Giá, Cô là con nhà giàu có, cha cô là một công chức trên đảo Phú Quốc. Trong một lần đáp máy bay ra thăm cha, máy bay bị tai nạn rơi tại dốc ấy, nhiều ngời bị chết. Sau đó, nhân dân địa phương thường thấy một cô gái mặc áo dài trắng hiện về trong những đêm khuya nên cất miếu thờ cô.
Ông Dạo Đụng:
Vào khoảng đầu thế kỷ 20, vùng đất Tây Nam bộ xuất hiện những “ông đạo”, đó là những ngời tu hành theo một kiểu gì đó, không hẳn theo một tôn giáo nào, nhưng hầu hết là rất hiền lành, sống đạm bạc hoặc vân du đây dó. Tại Hàm Ninh cũng xuất hiện một ông đạo như thế, ông cất am sống trên núi, rất ít quan hệ với nhân dân địa phương. Thỉnh thoảng ông mang xuống núi một mớ củi, vài loại hoa quả để đổi lấy gạo muối mang về. Đặc biệt là ông không đòi tiền, ra giá những thứ mình mang xuống mà để người sử dụng tự mang gạo muối hay thức ăn gì đó đổi lấy cho ông, người ta cho thứ gì ông cũng lấy, bao nhiêu cũng được nên nhân dân gọi ông là “đạo Đụng”, tức là đụng gì dùng nấy, không dòi hỏi. Người dân Hàm Ninh cũng rất quí ông nên ông cũng không đến nỗi thiếu thốn. Một thời gian sau, người ta không thấy ông xuống núi nên lên tìm thì thấy ông đã chết tự lúc nào.
Tác giả bài viết: Trương Thanh Hùng (Hội VHNT Kiên Giang)
HÌNH ẢNH CHÓ PHÚ QUỐC BẠCH HỔ
SƯ ĐA DẠNG CỦA CHÓ PHÚ QUỐC ,
MÀU SẮC ĐỘC ĐÁO .
CHIẾC ÁO CHOÀNG SỌC TRẮNG , NHÌN NHƯ CON CỌP TRẮNG .
SỰ ĐA DẠNG NÀY MANG TỚI PHONG CÁCH KHÁC NHAU CHO TỪNG NGƯỜI CHƠI VÀ NUÔI CHÓ PHÚ QUỐC
PHƯƠNG PHÁP TUYỂN CHỌN CHÓ PHÚ QUỐC 1
I/ Những lời khuyên để lựa chọn chó phú quốc nuôi đúng mục đích.
Có được con chó phú quốc tốt? đó là cả 1 vấn đề không dễ dàng đối với những người yêu thích chó PHÚ QUỐC ở cả các nước.Điều này phần nào giải thích cho sự nổi tiếng và nhu cầu rất lớn của mọi người về giống chó phú quốc này của việt nam (cho đến lúc này).
Mặt khác, việc chọn được 1 con chó phú quốc tốt lúc nó còn nhỏ đòi hỏi người mua phải rất tinh tế trong quan sát, có kiến thức cần thiết về tiêu chuẩn của chó phú quốc , có kinh nghiệm hoặc có sự giúp đỡ của những chuyên gia, thậm chí còn phải thêm 1 chút may mắn. ….
Do có khó khăn như vậy mà trong thực tế không chỉ những con chó được đánh giá loại “tốt” mà ngay cả những con chó phú quốc được đánh giá loại “khá” cũng được người ta chấp nhận.
Vì vậy, trước khi mua, chọn 1 con chó phú quốc nhỏ, điều quan trọng đầu tiên là bạn cần phải biết rõ mục đích bạn chọn, mua nó để làm gì:
- Tìm 1 người bạn ( một thành viên) cho bản thân hay gia đình?
- Một đấu thủ để tham gia các hội thi?
- Một vệ sỹ tuyệt đối trung thành và có năng lực?
- Một phương tiện để làm kinh tế (chăn nuôi sinh sản)?
- Hoặc định sử dụng trong công tác chuyên môn nào khác ?
Nếu điều ! bạn đang quan tâm chỉ là muốn được tiếp xúc với anh bạn 4 chân chứ không phải là vấn đề giành được giải trong các cuộc thi hay trong vấn đề sinh sản của chó.
Trong trường hợp này, nhiệm vụ của bạn sẽ nhẹ nhàng đi rất nhiều, bởi vì bạn có thể mua con chó PHÚ QUỐC từ bố mẹ của chúng có chất lượng trung bình, điểm về ngoại hình đạt loại “rất tốt”, một con chó được phép sinh sản, ngoài các chỉ tiêu về ngoại hình thì phải được đánh
giá tốt qua công tác huấn luyện vì 1 con chó PHÚ QUỐC mặc dù sinh ra từ bố mẹ đạt tiêu chuẩn nhưng cũng có thể đột biến gien thay đổi về thần kinh mà chỉ qua thực tế công tác huấn luyện mới phát hiện ra khiếm khuyết này), dòng dõi không nổi tiếng lắm. Một con chó phú quốc như vậy giá thông thường rẻ gấp 2 – 3 lần so với chó để làm giống.
Khi mua, cần lưu ý rằng trong tương lai điểm đánh giá về nó sẽ không cao hơn cha mẹ chúng. Nếu là con CHÓ PHÚ QUỐC ĐỰC thì nó không được tham gia vào công tác sinh sản. Nếu là con cái thì hy vọng chọn làm giống là 50%. (Ứng dụng ở Việt Nam, người mua nên chọn con chó có bố mẹ đã được huấn luyện và được đánh giá tốt của các Trung tâm huấn luyện chó có uy tín).
Nếu điều bạn muốn là con chó phú quốc của bạn sẽ tham gia các hội thi. Trong trường hợp này nhiệm vụ của bạn sẽ phức tạp hơn nhiều bởi vì tốt hơn hết bạn phải chọn con chó PHÚ QUỐC có xuất thân từ “gia đình” đã đạt được nhiều phần thưởng về huấn luyện, mà còn cho ra được những con chó PHÚ QUỐC tốt, đã có bằng chứng nhận về phẩm chất tuyệt vời của chúng.
Nếu bạn muốn tham gia hội thi? Lúc này bạn cần phải giải quyết nhiệm vụ với 3 vấn đề hoàn toàn chưa xác định rõ ràng:
1. Mẹ của con chó PHÚ QUỐC mà bạn muốn mua cần phải xuất thân từ “gia đình có tiếng tăm (nghĩa là đứng đầu “gia đình” đó phải là con chó cái mà từ nó đã cho ra đời nhiều thế hệ tốt).
2. Mẹ tốt không những về bản thân nó mà còn phải đạt yêu cầu cho ra đời nhiều thế hệ tốt. Nếu mẹ của chú chó mà bạn chọn mua mới lần đầu sinh nở thì những phẩm chất tốt của đàn con cần phải tương xứng với mẹ của chó mẹ (tức là “bà ngoại” của chú chó mà bạn mua).
3. Bố mẹ của chó PHÚ QUỐC con phải xuất thân từ dòng dõi nổi tiếng và hiện đại. Thực sự là lý tưởng nếu bố của con chó con là giống kiệt xuất hoặc là con của con giống kiệt xuất.
Để chọn được chó PHÚ QUỐC mẹ, bố xứng đáng mà từ đó có chó con cần mua, chúng tôi khuyên bạn nên tiếp xúc với chuyên gia ngành chó phú quốc của các câu lạc bộ để có thể nhận được những thông tin cần thiết.
Sẽ là rất tốt nếu như bạn có điều kiện đi thăm các cuộc thi chó, bạn sẽ làm quen được các chủ chó đoạt giải. Tìm hiểu những chuyên gia về ngành chó xem hậu thế của con chó nào đã đoạt giải cao và bạn nhất định phải kết bạn với những người chủ của con chó đó.
( CHÚ CHÓ PHÚ QUỐC TẠI TRẦN MẠNH )
Người “chủ xưởng” (người ta gọi như vậy đối với những người nuôi chó có thứ hạng cao) sẽ hỏi bạn rất tỉ mỉ rằng bạn có dự định nuôi chó con này như thế nào khi bạn mua nó. Bạn đừng phật ý vì chuyện này bởi vì đơn giản vì anh ta lo lắng cho số phận của những con chó con, đó là thành quả lao động của anh ta và anh ta không muốn mình phí công khi tạo ra được con chó có chất lượng cao.
Bạn không nên buồn phiền mà phải vui mừng ngay cả khi anh ta hứa sẽ bán con chó con cho bạn sau 1 – 2 năm – điều này phần nào thể hiện đức tính cẩn thận của anh ta. Sự không vội vàng này cũng có lợi cho bạn vì sau 1 năm bạn sẽ có những kiến thức cũng như sự chuẩn bị những điều cần thiết có ích cho bạn khi nuôi chó con.
Hãy đánh giá cao những nơi nào bán chó cho bạn quan tâm đến việc tìm hiểu, tư vấn và sẵn sàng giúp đỡ bạn thật sự sau khi bạn mang con chó của họ về nhà, trong suốt quá trình bạn gắn bó với chú chó phú quốc
Chúc các bạn sở hữu được những chú chó phú quốc thuần chủng thông minh và nhanh nhẹn !!
TRẦN VĂN MẠNH
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét